Phân tích thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh (2003-2007)

Tài liệu Phân tích thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh (2003-2007): LỜI MỞ ĐẦU Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm, phát triển theo quá trình phát triển của xã hội và đến này đối với bất cứ một quốc gia nào thì BHXH cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với người lao động. BHXH có vai trò thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất việc làm. BHXH tiến hành phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH và góp phần kích thích người lao động h... Ebook Phân tích thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh (2003-2007)

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1657 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh (2003-2007), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng hái tham gia sản xuất kinh doanh từ đó góp phần đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế, xã hội. Ở nước ta BHXH được đảng và nhà nước ta rất coi trọng, BHXH trở thành một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất cùng với cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội để đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Cũng chính vì vậy công tác chi trả các chế độ BHXH có vai trò vô cùng quan trọng, nó là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ BHXH và liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Bởi vậy, thực hiện tốt công tác chi trả mới có thể đảm bảo được đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, đảm bảo được quyền lợi của họ từ đó mới phát huy được hết vai trò của chính sách BHXH. Công tác chi trả các chế độ BHXH phản ánh chất lượng của dịch vụ BHXH và trong một chừng mực nào đó nó còn thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội. Hơn nữa tỉnh Hà Tĩnh là địa bàn có số đố tượng tham gia và thụ hưởng trợ cấp BHXH rất lớn, với số tiền chi trả hàng năm lên tới hàng trăm tỷ đồng, bởi vậy công tác chi trả các chế độ BHXH đang ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của hàng nghìn người lao động trên địa bàn, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác chi trả các chế độ BHXH nên trong thời gian thực tập ở BHXH tỉnh Hà Tĩnh, em đã tìm hiểu và chọn đề tài: “Phân tích thực trạng chi trả các chế độ BHXH tại cơ quan BHXH tỉnh Hà Tĩnh (2003-2007)” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nội dung đề tài bao gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về BHXH và công tác chi trả các chế độ BHXH Chương 2: Thực trạng chi trả các chế độ BHXH ở BHXH tỉnh Hà Tĩnh Chương 3: Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ BHXH ở BHXH tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú tại cơ quan BHXH tỉnh Hà Tĩnh, và đặc biệt là thầy giáo Nguyễn Văn Định đã chỉ bảo tận tình và giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Chương I: Những vấn đề cơ bản về BHXH và công tác chi trả các chế độ BHXH I. Tổng quan về BHXH 1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH Trong lịch sử phát triển của loài người, con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, con người phải lao động để tạo ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm đó được tạo ra ngày càng nhiều đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc và chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v.. . khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v ... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như:san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà nước v.v... Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản v.v... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ – thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động và những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Sự ra đời và phát triển của BHXH có vai trò rất lớn đối với người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, cụ thể: Đối với người lao động: Nhờ có BHXH mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Từ đó, làm cho người lao động an tâm trong lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Đối với người sử dụng lao động: BHXH phục vụ lợi ích của người sử dụng lao động vì góp phần duy trì quan hệ lao động ổn định. Người lao động được bảo hiểm sẽ yên tâm phấn khởi làm việc, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, góp phần giữ vững, thậm chí làm tăng lợi nhuận cho người sử dụng lao động. Đối với Nhà nước: BHXH có tác dụng to lớn trên cả hai bình diện. Trên bình diện xã hội, BHXH giúp duy trì ổn định quan hệ lao động, quan hệ xã hội, thực hiện công bằng xã hội, góp phần bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ, đảm bảo an toàn quốc gia. Trên bình diện kinh tế, quỹ BHXH là một kênh tài chính quan trọng góp phần phát triển đất nước; đặc biệt là đối với những quốc gia đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ như Việt Nam chúng ta. Như vậy, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. 2. Sự ra đời và phát triển của BHXH 2.1 Trên thế giới BHXH đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỷ XIII ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau (ở Anh năm 1973 đã thành lập hội “bằng hữu” để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp). Năm 1883, nước Phổ (Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc (10/12/1948) đã ghi: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội” Ngày 4/6/1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ký công ước Giơnevơ (102) về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành bảo hiểm xã hội cho người lao động và gia đình họ. Theo Công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng) Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng nguồn hình thành quỹ giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp. Trên thế giới có 33 nước thực hiện được 9 chế độ, trên 84 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 9 nước chưa thực hiện được chế độ thứ sáu ( trợ cấp gia đình). 2.2. Tại Việt Nam Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và trải qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi đặc biệt trong các năm 1961, 1985, 1995. Năm 1961, một Nghị định của chính phủ được ban hành để cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội cho tất cả các cán bộ viên chức làm việc trong ngành nội chính, giáo dục, y tế, các doanh nghiệp Nhà nước, nội vụ. Hệ thống này chỉ chịu trách nhiệm bảo hiểm cho khoảng 600.000 đến 700.000 người trên tổng số dân là 17 triệu người của miền Bắc Việt Nam ( theo số liệu của năm 1962). Năm 1964 Nghị định 218 thực hiện BHXH cho quân nhân. Từ năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Chế độ BHXH bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động và tử tuất, cùng các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đóng góp. Trước năm 1995, BHXH do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn ( hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người nghỉ việc ), Tổng Liên đoàn Lao động chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các khoản chi trả trợ cấp ngắn hạn (trợ cấp ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người đang làm việc). Từ tháng 1 năm 1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó chương XII về BHXH để hướng dẫn thực hiện Bộ luật Lao động. Ngày 16-2-1995 Chính phủ ban hành Nghị định 19/CP thành lập hệ thống BHXH Việt Nam để quản lý thực hiện chính sách BHXH và quản lý quỹ BHXH. Ngày 26-1-1995 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ BHXH đối với dân sự với 5 chế độ BHXH: chế độ trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và trợ cấp tử tuất; và ngày 15-7-1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 45 quy định về BHXH đối với quân sự ( quân đội, công an). Trong 2 nghị định của Chính phủ có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao động đóng 15% quỹ lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. Quỹ này sử dụng để chi trả cho 5 chế độ trên. Quỹ BHXH được bảo tồn, tăng trưởng và được Nhà nước bảo hộ. Ngày 24-1- 2002 Chính phủ có Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg chuyển hệ thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam và ngày 6-12-2002 Chính phủ ra Nghị định 100/NĐ-CP quyết định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của BHXH ( bao gồm cả bảo hiểm y tế ). Để phù hợp với quá trình phát triển và hội nhập, từ năm 1998 đến nay Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản nhằm sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH. Sự thay đổi về chính sách BHXH đã được cụ thể hoá tại Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ và đặc biệt là tại Luật BHXH. Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/07 là một sự kiện vô cùng quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH ở nước ta. Nhiều nội dung mới, thể hiện những bước cải cách cần thiết trong lĩnh vực BHXH đã được đưa vào luật BHXH. Đó là việc quy định lại đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, số lượng, nội dung của các chế độ BHXH bắt buộc như mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng…cũng có nhiều thay đổi. Ngoài ra, luật BHXH còn mở ra loại hình BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp với những quy định về đối tượng tham gia, mức đóng, điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng rất rõ ràng cụ thể. Hiện nay, luật BHXH là văn bản có tính pháp lý cao nhất về BHXH ở Việt Nam. Trong thời chiến cũng như thời bình, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến chính sách BHXH cho người lao động. Do đó, chế độ BHXH đã trải qua nhiều giai đoạn, nhiều lần được sửa đổi, bổ sung và cải tiến, từng bước phát triển thành một hệ thống các chế độ BHXH tương đối hoàn chỉnh. 3. Bản chất, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH 3.1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội Có thể nói, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên, trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản... Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau: + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. + Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật. + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. 3.2. Đối tượng của Bảo hiểm xã hội Đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. 3.3. Chức năng của Bảo hiểm xã hội - Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động được bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất việc làm do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm theo những điều kiện xác định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Chức năng này thể hiện như một đòn bẩy kinh tể kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc...Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động...Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. BHXH đã phát huy tiềm năng của số đông và ưu điểm của nhiều phương thức hoạt động trong kinh tế thị trường để đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động cũng như cho xã hội. Đồng thời BHXH cũng tạo ra sự gắn bó chặt chẽ về lợi ích, cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của các bên tham gia BHXH, cũng như của các bên đó đối với Nhà nước. 3.4. Tính chất của BHXH BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau: - Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội: Trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: Sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế...Sản xuất càng phát triển những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ - thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH. Và như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế - xã hội của mỗi nước. - BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ. BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm an sinh xã hội, vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH, và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển tính chất xã hội hoá của BHXH cũng đòi hỏi ngày càng cao hơn. Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của BHXH. Thực chất, phần đóng góp của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động, việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nước, BHXH góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. - BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động... 4. Hệ thống các chế độ BHXH 4.1 Theo Công ước 102 Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động thế giới (ILO) đã nêu trong Công ước Giơnevơ số 102 (1952), hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: (1). Chăm sóc y tế: Chế độ này được thiết kế nhằm mục đích trợ cấp cho người lao động chi phí khám chữa bệnh trong trường hợp người lao động bị ốm đau bệnh tật. Ngày nay, chế độ chăm sóc y tế đã trở thành một chế độ lớn được gọi là Bảo hiểm y tế, và không chỉ được thực hiện đối với người lao động mà là chính sách xã hội chung cho tất cả mọi người dân. Ở các nước phát triển, chế độ BHYT trở thành chính sách BHYT toàn dân. (2). Trợ cấp ốm đau: Mục đích của chế độ này là nhằm bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi bị ốm đau bệnh tật, không đi làm được và không được người sử dụng lao động trả lương. (3). Trợ cấp thất nghiệp: nhằm bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao động khi bị thất nghiệp, không có việc làm. (4). Trợ cấp tuổi già: Đây là một chế độ BHXH lớn, được xây dựng với mục đích trợ cấp thu nhập cho người lao động khi về già, không còn làm việc nữa. (5). Trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp: là chế độ BHXH nhằm trợ cấp phần thu nhập bị giảm hoặc mất của người lao động do bị giảm hoặc mất sức lao động từ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. (6). Trợ cấp gia đình: Đây là một chế độ BHXH lớn và thường chỉ được thực hiện ở các nước phát triển, với mục đích cung cấp cho người lao động thêm một nguồn tài chính để trang trải chi phí nuôi con ăn học, khám chữa bệnh. (7). Trợ cấp sinh đẻ: Chế độ này được thiết kế nhằm bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ khi sinh con, trên cơ sở thay thế phần thu nhập không được người sử dụng lao động trả trong thời gian nghỉ sinh con. (8). Trợ cấp khi tàn phế: Chế độ này nhằm mục đích trợ cấp thu nhập cho người lao động để họ ổn định cuộc sống khi không may gặp rủi ro dẫn đến tàn phế. Ở các nước phát triển, chế độ này không chỉ áp dụng riêng đối với người lao động mà đối với tất cả các thành viên trong xã hội. (9). Trợ cấp mất người nuôi dưỡng: là chế độ BHXH được thiết kế nhằm trợ cấp một phần thu nhập cho thân nhân người lao động đang sống phụ thuộc vào họ, nếu chẳng may người lao động bị chết. Thân nhân người lao động có thể là vợ, chồng, bố ruột, mẹ ruột, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, con ruột, con nuôi… Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). 4.2. Ở Việt Nam Thực hiện khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), thời gian vừa qua (2003 – 2006), Việt Nam đã tổ chức thực hiện cho người lao động các chế độ BHXH sau: Chế độ ốm đau; chế độ nghĩ dưỡng sức; thai sản; tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất; BHYT. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2007 khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành, ngoài chế độ BHYT, BHXH Việt Nam đã đưa vào áp dụng: - Các chế độ BHXH bắt buộc bao gồm: trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. - Các chế độ BHXH tự nguyện bao gồm: trợ cấp hưu trí, tử tuất. Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2008. - Chế độ bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm. Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. 5. Quỹ BHXH 5.1. Khái niệm Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Mục đích tạo lập quỹ là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. 5.2. Nguồn hình thành quỹ Bảo hiểm xã hội Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng góp - Người lao động đóng góp - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm - Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi). Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định. Ở nước ta, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/06/1993, Điều lệ BHXH Việt nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 và mới nhất ngày 29/06/2006 Quốc hội khoá XI, kì họp thứ 9 đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội. Trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: - Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động như sau: + 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội + 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; + 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%. - Hằng tháng, người lao động đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%. - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. - Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ - Các nguồn thu hợp pháp khác. 5.3. Sử dụng quỹ Bảo hiểm xã hội Theo Điều 90 Luật Bảo hiểm xã hội, quỹ BHXH được sử dụng để chi trả cho các mục đích sau: - Trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động - Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng. - Chi khen thưởng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội hoặc phát hiện vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội; khen thưởng cho người sử dụng lao động thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... - Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH Trong các nội dung chi nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu. Thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó. Tuy nhiên, quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất là chi trả cho các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo phương thức nào? + Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả cũng phải đảm bảo tính thống nhất theo các nội dung chi. Điều đó có nghĩa là, tất cả các nguồn thu BHXH đều tập trung để hình thành một quỹ, sau đó quỹ được sử dụng để chi trả theo các chế độ, chi quản lý và đầu tư + Nếu quỹ BHXH được hình thành theo 2 loại: Quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và quản lý chi sẽ cụ thể hơn. Quỹ BHXH ngắn hạn được chi cho các chế độ ngắn hạn như: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nguồn quỹ này sẽ được cân đối từng năm, thậm chí có thể được hình thành ngay trong từng doanh nghiệp để chi trả trực tiếp. Quỹ BHXH dài hạn được sử dụng để chi trả cho các chế độ dài hạn như: Hưu trí, tử tuất. Nguồn quỹ này phải được cân đối trong nhiều năm và dùng tài khoản cá nhân trong quá trình chi trả là có hiệu quả nhất. + Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ: Quỹ ốm đau, quỹ thai sản, quỹ hưu trí… (hay còn gọi là quỹ BHXH thành phần), thì việc chi trả sẽ càng trở nên đơn giản và đảm bảo đúng mục đích. 6. Các loại hình BHXH 6.1 BHXH bắt buộc BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. Bao gồm các chế độ sau: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. BHXH bắt buộc áp dụng cho các loại đối tượng sau: - Nguời lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước; - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 1 lao động trở lên; - Người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất hoặc khu công nghiệp, trong các tổ chức, cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế tại Việt Nam; - Người lao động trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng, Đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện; - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang; - Sĩ quan, hạ sĩ quan Quân đội nhân dân và Công an; - Cán bộ xã, phường, thị trấn; - Xã viên hợp tác làm việc và hưởng tiền lương công theo hợp đồng lao động. 6.2 BHXH tự nguyện BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH. BHXH tự nguyện bao gồm các chế đ._.ộ : hưu trí, tử tuất. BHXH tự nguyện được áp dụng đối với Người lao động làm việc trong các hợp tác xã không thuê mướn hoặc người lao động làm việc theo thời vụ với thời gian dưới 3 tháng. II. Lý luận chung về chi trả các chế độ BHXH 1. Khái niệm, đặc điểm các chế độ BHXH Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung, rất khái quát về cả đối tượng, phạm vi, các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu chung đã đề ra đối với BHXH. Việc ban hành các chính sách BHXH phải dựa vào điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và xu hướng vận động khách quan của toàn bộ nền kinh tế-xã hội. Chính sách này có thể biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật, hiến pháp…song lại rất khó thực hiện nếu không được cụ thể hoá và không thông qua các chế độ BHXH. Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ…Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Theo kiến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơr, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp sinh đẻ, trợ cấp tàn phế, trợ cấp cho người còn sống. Hệ thống các chế độ BHXH trên có những đặc điểm chủ yếu sau: - Các chế độ BHXH đều được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước; - Các chế độ BHXH mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính; - Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu qũy dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định; - Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH; - Các chế độ thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế-xã hội. - Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở kinh tế-xã hội như: Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao động, hệ thống tài chính quốc gia…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: tuổi thọ bình quân của người lao động, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh đẻ của lao động nữ, môi trường lao động… - Để được hưởng các chế độ BHXH thì người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng phí. - Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp các chế độ BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm của từng người lao động, trên cơ sở tương ứng giữa mức đóng và hưởng. Ngoài những đặc điểm chung trên thì mỗi loại chế độ BHXH còn mang những đặc điểm riêng: - Đối với các chế độ ngắn hạn (ốm đau, thai sản, nghĩ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ): việc đóng và hưởng trợ cấp BHXH thường diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định nhưng lại mang tính trực tiếp và ngắn hạn. Chính vì vậy, mỗi chế độ có thể hình thành một quỹ và mỗi loại quỹ sẽ được hạch toán độc lập, bảo tồn và tăng trưởng. Đặc trưng của quỹ BHXH ngắn hạn thường là thu của quỹ phải chi trả ngay cho các chế độ, thu đến đâu chi đến đó, không có số dư hoặc có một phần kết dư nhưng rất nhỏ để gối đầu cho thời kỳ kế tiếp. Hạch toán và cân đối thu chi của quỹ ngắn hạn thường được tiến hành trong 1 năm, theo niên độ kế toán từ ngày 1/1 đến 31/12. Số thu trong năm chủ yếu dùng để chi trả ngay trong năm đó. - Các chế độ BHXH dài hạn (hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp): Qúa trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, sự cân bằng giữa đóng và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Để được hưởng các chế độ BHXH dài hạn, bản thân người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia đóng góp BHXH trong một thời gian dài theo quy định (thường là 15 năm). Khi đủ các điều kiện theo quy định, người lao động và gia đình họ thường được hưởng trợ cấp BHXH trong một thời kỳ dài. Số thu trong năm thường không chi hết trong năm đó, quỹ BHXH dài hạn luôn có số dư và số tiền tạm thời nhàn rỗi đó thường được dùng để đầu tư tăng trưởng quỹ. 2. Vấn đề chi trả các chế độ BHXH 2.1 Vai trò của công tác chi trả các chế độ BHXH Chi trả BHXH là việc cơ quan BHXH trích ra một khoản tiền theo quy định từ quỹ BHXH để chi trả cho người lao động và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm và có đủ các điều kiện quy định. Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, chi trả các chế độ BHXH luôn được coi là trọng tâm của công tác chi trả BHXH. Bởi lẽ việc chi trả các chế độ BHXH này liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhóm đối tượng nhạy cảm nhất trong xã hội. Đa số họ đều là những người đã cống hiến rất nhiều cho đất nước trong khi đang công tác. Và sau cả cuộc đời làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào khoản tiền trợ cấp BHXH. Vì vậy, công tác chi trả các chế độ BHXH có một vai trò rất quan trọng; ngoài việc nó chính là hoạt động cụ thể, thiết thực nhất nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, nó còn thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sự cống hiến của họ cho xã hội. Ngoài ra công tác chi trả các chế độ BHXH còn có các vai trò khác, cụ thể như: - Chi trả BHXH là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ BHXH. Vì vậy, tổ chức chi trả BHXH chính là thực hiện các chế độ BHXH, đảm bảo cho chính sách BHXH của quốc gia được thực thi; đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của người lao động và mục đích của chính sách BHXH, của Nhà nước. Bởi suy cho cùng, mục đích cuối cùng của bất kỳ một Nhà nước nào khi thực hiện chính sách BHXH cũng là chi trả, trợ cấp cho người lao động khi họ gặp phải những sự kiện bảo hiểm, góp phần đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ. - Công tác chi trả các chế độ BHXH không những có ý nghĩa về mặt vật chất mà nó còn có ý nghĩa về mặt tinh thần. Vì việc chi trả các chế độ BHXH là chi trả cho những rủi ro, những sự kiện bảo hiểm xảy ra với người lao động và gây ra khó khăn nhất định đối với người lao động từ đó giúp họ vượt qua được khó khăn và an tâm trong cuộc sống. - Chi trả các chế độ BHXH có thể được chi trả một lần hoặc được tiến hành thường xuyên vì vậy nó góp phần đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp khó khăn. Đồng thời quá trình thụ hưởng thường liên quan chặt chẽ với quá trình đóng góp trước đó. Vì vậy việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH có tác dụng rất lớn đối với cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động được hưởng trợ cấp BHXH sẽ an tâm hơn trong cuộc sống từ đó tích cực lao động sáng tạo nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo thêm nhiều sản phẩm cho người sử dụng lao động, làm tăng của cải cho xã hội, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Còn người lao động khi được hưởng trợ cấp BHXH sẽ có được cuộc sống ấm no, ổn định, càng thêm tin tưởng vào chính sách BHXH của Nhà nước. - Chi trả các chế độ BHXH chính là nội dung và cũng là mục đích hoạt động của quỹ BHXH. Nó còn đảm bảo cho quỹ BHXH được cân đối, có thu thì phải có chi. Với những vai trò quan trọng như vậy, công tác chi trả các chế độ BHXH cần phải được tiến hành một cách cẩn trọng, chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật. Nhưng đồng thời cũng cần phải đảm bảo cho quỹ BHXH không bị thâm hụt, muốn vậy việc chi trả trợ cấp cũng cần phải dựa trên những cơ sở khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng địa phương, từng quốc gia. 2.2 Cơ sở xác định mức chi trả các chế độ BHXH Thứ nhất: những nhu cầu tối thiểu cần thiết. Bởi vì mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Vì vậy để xác định mức trợ cấp BHXH hợp lý thì đầu tiên cần dựa vào các nhu cầu tối thiểu cần thiết để làm căn cứ. Mức trợ cấp phải đảm bảo được các nhu cầu: nhu cầu về ăn, ở, đi lại, nhu cầu khám chữa bệnh...Đối với mỗi chế độ khác nhau thì phải chú trọng những nhu cầu khác nhau. Ví dụ như chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thì cần quan tâm đến những nhu cầu: chăm sóc y tế, dinh dưỡng và những nhu cầu cơ bản khác. Đối với chế độ hưu trí cần quan tâm đến những nhu cầu: ăn ở, đi lại, khám chữa bệnh, giải trí.... Đối với chế độ tử tuất thì phải để ý đến những nhu cầu: mai táng phí cho người qua đời, hỗ trợ cho thân nhân người lao động. Thứ hai: tính chất công việc và đặc điểm nơi làm việc. Đây là hai yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ cũng như mức độ suy giảm khả năng lao động của người lao động. Vì vậy, khi xác định mức chi trả căn cứ vào tính chất công việc (bình thường, nặng nhọc, độc hại...); đặc điểm và môi trường nơi làm việc ( thành thị hay vùng sâu vùng xa, không khí bình thường hay ô nhiễm độc hại...) để có thể đưa ra mức trợ cấp hợp lý. Thứ ba: Mức đóng và thời gian đóng BHXH. Đây là một trong những cơ sở quan trọng nhất để xác định mức trợ cấp BHXH. Nó thể hiện trách nhiệm của người lao động trong việc tham gia BHXH và từ đó có thể xác định mức trợ cấp hợp lý theo nguyên tắc “có đóng – có hưởng, đóng ít - hưởng ít, đóng nhiều - hưởng nhiều” của BHXH. Đồng thời cũng nhằm đảm bảo cân đối thu – chi cho quỹ BHXH, cơ chế tài chính BHXH được bảo đảm. Thứ tư: Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi vì khi kinh tế xã hội càng phát triển thì đời sống vật chất và tinh thần của người dân càng cao, vì vậy mức trợ cấp BHXH phải được điều chỉnh sao cho phù hợp với mức thu nhập chung của nền kinh tế quốc dân và các trợ cấp xã hội khác. 2.3 Nguyên tắc chi trả các chế độ BHXH Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi tham gia BHXH và để công tác chi trả đạt hiệu quả cao thì trong quá trình thực hiện cần phải tuân theo một số nguyên tắc sau: - Đảm bảo chi trả đúng đối tượng, đúng chế độ chính sách của Nhà nước. Đây là nguyên tắc có thể được coi là quan trọng nhất trong công tác chi trả chế độ BHXH, bởi vì nếu chi trả sai đối tượng thì mục đích của việc chi trả sẽ không được đảm bảo, không thực hiện được chính sách của Nhà nước về BHXH đồng thời việc chi trả sai dẫn đến nguồn quỹ BHXH không được đảm bảo. Thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ tạo nên sự công bằng tin tưởng từ phía người tham gia vào Nhà nước vào chính sách BHXH. Từ đó góp phần làm cho đất nước ổn định, người dân phấn khởi hăng hái sản xuất, tích cực tham gia BHXH. Để đảm bảo chi trả đúng phải xem xét các công tác từ khâu xét duyệt đến chi trả, quản lý biến động đối tượng hưởng BHXH. - Đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời. Có nghĩa là chi đúng số tiền đối tượng được hưởng, chi đúng lịch trình kế hoạch đề ra, không gây phiền hà cho đối tượng. Nguyên tắc này đảm bảo khoản tiền chi trả đến tay đối tượng hưởng kịp thời và đầy đủ nhằm giúp người lao động có thể nhanh chóng ổn định cuộc sống, trách xảy ra các hiện tượng tiêu cực. Để thực hiện nguyên tắc này, trong công tác chi trả các chế độ BHXH cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan BHXH các cấp và các ngành có liên quan. Đồng thời công tác chi trả cũng cần được kiểm tra, kiểm soát thường xuyên. - Đảm bảo an toàn tiền mặt, công tác chi trả các chế độ BHXH thường liên quan tới tiền mặt nên thường xảy ra hiện tượng mất mát, thất thoát...Vì vậy công tác chi trả cần đảm bảo an toàn tiền mặt. Mức độ an toàn tiền mặt nó phụ thuộc vào quy định phương thức chi trả của nhà nước. - Tuân thủ các nguyên tắc kế toán và nguyên tắc thống kê theo quy định của Nhà nước. Trên đây là những nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH, nó đảm bảo cho công tác chi trả được thực hiện đúng theo chủ trương, chỉ đạo của nhà nước đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên để công tác chi trả được thực hiện có hiệu quả thì công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH cần phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương. 2.4 Phân cấp quản lý chi trả và quy trình chi trả các chế độ BHXH 2.4.1 Phân cấp quản lý chi trả các chế độ BHXH Công tác chi trả BHXH được quản lý theo phân cấp. Theo đó cơ quan BHXH cấp trên có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc chi trả BHXH của cơ quan BHXH cấp dưới, của đại diện chi trả và của chủ sử dụng lao động theo quy định. Ngược lại cơ quan BHXH cấp dưới có trách nhiệm chi trả trợ cấp, báo cáo lên cơ quan BHXH cấp trên theo quy định. Công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH được phân thành 3 cấp quản lý: - Cấp trung ương: Đây là tổ chức quản lý BHXH cấp cao nhất và có bộ máy hoàn chỉnh nhất. Nhiệm vụ ở cấp này là phải bao quát toàn bộ hoạt động chi trả trong toàn hệ thống, đồng thời giải quyết các tranh chấp và vi phạm lớn xảy ra trong công tác chi trả. Để quản lý hoạt động chi trả, cấp trung ương thường hình thành ban quản lý chi trả. - Cấp khu vực: Tại bất kỳ một nước nào khi triển khai thực hiện chính sách BHXH cho người lao động cũng phải có cơ quan BHXH cấp khu vực hay còn gọi là cấp tỉnh. Ở cấp này thường có phòng quản lý chi trả để quản lý hoạt động chi trả trong toàn khu vực. Đối với công tác chi trả, nhiệm vụ của cơ quan BHXH cấp khu vực là: Đối với các khu vực có cơ quan BHXH cấp địa phương: cơ quan BHXH cấp khu vực có nhiệm vụ bao quát chung, quản lý, điều hành, kiểm tra, kiểm soát việc chi trả ở các cơ quan BHXH cấp địa phương; trực tiếp tham gia chi trả trong những trường hợp không thuộc thẩm quyền của cơ quan BHXH cấp địa phương; tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ các cơ quan BHXH cấp địa phương trong công tác chi trả. Đối với các khu vực không có cơ quan BHXH cấp địa phương (Mô hình 2 cấp): ngoài chức năng và nhiệm vụ của mình, cơ quan BHXH cấp khu vực còn phải hoạt động như một cơ quan BHXH cấp địa phương. Nó phải thực hiện quản lý nghiệp vụ đối với tất cả các đối tượng trong khu vực, tổ chức công tác chi trả trợ cấp cho đối tượng hưởng. - Cấp địa phương: Đây là cấp cuối cùng trong bộ máy quản lý chi trả BHXH từ trung ương tới địa phương. Nhiệm vụ của cấp này là thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng hưởng; có trách nhiệm đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc chi trả, quản lý chặt chẽ tình hình tăng giảm đối tượng hưởng BHXH và số tiền chi trả theo đúng quy định của Nhà nước và hệ thống BHXH. BHXH cấp địa phương thường tổ chức bộ phận chi trả để thực hiện công tác chi trả cho các đối tượng trên địa bàn. 2.4.2 Quy trình chi trả các chế độ BHXH Với việc phân cấp chi trả như trên thì quy trình chi trả các chế độ BHXH thường được tiến hành như sau: - Ở cấp Trung ương: Căn cứ vào các quy định của Nhà nước, hàng năm cơ quan BHXH cấp Trunh ương hướng dẫn, tổ chức xét duyệt và thông báo dự toán kinh phí chi các chế độ BHXH dài hạn cho BHXH cấp khu vực. Tiến hành lập dự toán chi các chế độ BHXH cho toàn bộ hệ thống trên cơ sở tổng hợp dự toán chi của các cơ quan BHXH cấp khu vực.Sau khi dự toán kinh phí chi được cơ quan Nhà nước cấp trên phê duyệt, BHXH cấp Trung ương tổ chức cấp kinh phí cho các cơ quan BHXH cáp khu vực, tiến hành hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chi trả của BHXH cấp khu vực và báo cáo tình hình cho cơ quan Nhà nước cấp trên. - Ở cấp khu vực: Hàng năm, cơ quan BHXH cấp khu vực tiến hành lập dự toán kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng trên địa bàn mình quản lý. Đồng thời hướng dẫn BHXH địa phương lập dự toán, xét duyệt và thông báo dự toán chi các chế độ BHXH cho BHXH địa phương. Tổ chức nhận quản lý và cấp kinh phí cho BHXH địa phương để tiến hành chi trả cho đối tượng. Đồng thời trực tiếp chi trả cho đối tượng thuộc điạ bàn mình quản lý. - Ở cấp điạ phương: Theo hướng dẫn của BHXH cấp khu vực, hàng năm BHXH địa phương lập dự toán kinh phí chi các chế độ BHXH cho cả năm gửi lên BHXH cấp khu vực. Tiếp nhận kinh phí cùng danh sách các đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH và tiến hành chi trả cho các đối tượng theo danh sách trên. 2.5 Phương thức và phương tiện chi trả các chế độ BHXH 2.5.1 Phương thức chi trả các chế độ BHXH Việc chi trả các chế độ BHXH thường do cơ quan BHXH cấp địa phương thực hiện và có nhiều phương thức chi trả khác nhau : Chi trả trực tiếp qua cán bộ BHXH chuyên trách: Cơ quan BHXH sẽ trực tiếp chi trả cho đối tượng hưởng ngay tại văn phòng cơ quan BHXH hoặc cơ quan BHXH cử cán bộ xuống địa bàn quản lý để tiến hành chi trả trợ cấp. Phương thức này thường được áp dụng đối với chi trả trợ cấp định kỳ. Nó có ưu điểm cơ quan BHXH có thể nắm bắt nhanh các thông tin về đối tượng hưởng, về những yêu cầu hoặc là những vướng mắc của người được hưởng để kịp thời giải quyết. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là mức độ an toàn về tiền mặt không cao và đòi hỏi lượng cán bộ BHXH lớn làm tăng chi phí về nhân sự Chi trả trực tiếp qua tài khoản ngân hàng: thường được áp dụng đối với chi trả trợ cấp định kỳ. Nó có ưu điểm là an toàn, nhanh chóng và tiết kiệm chi phí nên đem lại hiệu quả chi trả cao. Nhưng nó đòi hỏi cơ sở hạ tầng cũng như hệ thống ngân hàng tài chính phát triển và khả năng quản lý của cơ quan quản lý BHXH phải theo mô hình hiện đại. Chi trả gián tiếp qua các đại lý hoặc đại diện chi trả: Đây là phương thức chi trả truyền thống, theo đó cơ quan BHXH uỷ quyền cho đại lý, đại diện chi trả trên cơ sở các hợp đồng đã ký kết với các điều kiện ràng buộc trách nhiệm của mỗi bên. Nó có ưu điểm là tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao trong việc chi trả nhưng nhựơc điểm là cơ quan BHXH sẽ khó nắm bắt tình hình thực tế của quá trình chi trả, không nắm bắt được biến động của đối tượng một cách kịp thời dẫn đến một số tình trạng trục lợi và làm thất thoát nguồn quỹ BHXH... Mỗi một hệ thống BHXH có thể áp dụng các phương thức chi trả khác nhau phụ thuộc vào các điều kiện thuận lợi có được khi áp dụng phương thức thanh toán đó, miễn là phương thức đó sẽ mang lại hiệu quả cao nhất. Nhìn chung khi lựa chọn phương thức thanh toán phải cân nhắc một số nhân tố: Điều kiện cơ sở hạ tầng của khu vực, sự thuận tiện đối với cơ quan BHXH và người nhận trợ cấp, chi phí sử dụng phương thức đó và độ an toàn khi sử dụng phương thức đó... 2.5.2 Phương tiện chi trả các chế độ BHXH Việc chi trả trợ cấp BHXH có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau: tiền mặt, séc, chuyển khoản, hiện vật hay dịch vụ...Trong đó các phương tiện như tiền mặt, hiện vật và dịch vụ là những phương tiện được sử dụng chủ yếu đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, còn đối với các chế độ BHXH dài hạn thì thường sử dụng các phương tiện như tiền mặt và chuyển khoản. Việc sử dụng phương tiện nào còn phụ thuộc vào việc sử dụng phương thức chi trả nào. Chương II: Thực trạng chi trả các chế độ BHXH ở BHXH tỉnh Hà Tĩnh (2003-2007) I. Tổng quan về BHXH tỉnh Hà Tĩnh 1. Lịch sử hình thành và phát triển của BHXH tỉnh Hà Tĩnh Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh được thành lập theo Quyết định số 14aQĐ/TC, ngày 15 tháng 6 năm 1995 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01-08-1995. Thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/01/2002 của Thủ tướng Chính Phủ về việc sát nhập BHYT Việt Nam vào BHXH Việt Nam, ngày 06/12/2002 Chính Phủ ban hành Nghị định số 100/2002/NĐ-CP về Quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam với việc thực hiện Điều lệ BHXH đồng thời với thực hiện Điều lệ BHYT. Như vậy BHXH Hà Tĩnh đã tiếp nhận thêm nhiệm vụ mới từ BHYT Hà Tĩnh chuyển sang. Những ngày đầu thành lập, cơ quan gặp rất nhiều khó khăn: trụ sở làm việc từ cấp tỉnh đến cấp huyện đều tạm bợ, phải thuê, mượn nhiều nơi. Nhiệm vụ chuyên môn lại hoàn toàn mới mẻ trong cơ chế quản lý mới. Song đội ngũ cán bộ quản lý thuộc Bảo Hiểm Xã Hội tỉnh và Bảo Hiểm Xã Hội các huyện, thị xã đã có kế hoạch sắp xếp để thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đồng thời đề xuất Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam, chính quyền địa phương các dự án xây dựng trụ sở. Đến nay, các huyện, thị xã và BHXH tỉnh đều đã có trụ sở làm việc khang trang, các trang thiết bị tại phòng làm việc cơ bản đáp ứng yêu cầu hiện nay. Với mục đích bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi họ gặp những biến cố, khó khăn như ốm đau, bệnh tật, tai nạn, bệnh nghề nghiệp...BHXH Hà Tĩnh đã góp phần tích cực thực hiện công bằng xã hội, ổn định tình hình chính trị, kinh tế-xã hội, cùng nhân dân Hà Tĩnh chung sức, đồng lòng xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. 2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu bộ máy tổ chức của BHXH tỉnh Hà Tĩnh 2.1 Chức năng: BHXH tỉnh Hà Tĩnh là đơn vị trực thuộc, nằm trong hệ thống tổ chức của BHXH VN, có chức năng giúp Tổng giám đốc quản lý quỹ BHXH và tổ chức thực hiện các chế độ chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, chịu sự quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn lãnh thổ UBND tỉnh Hà Tĩnh và sự quản lý Nhà nước về BHXH và của các ngành chức năng trong tỉnh. BHXH tỉnh có tư cách pháp nhân, có trụ sở chính đặt tại số nhà 5 đường Trần Phú, có con dấu và tài khoản riêng. 2.2 Nhiệm vụ và quyền hạn: BHXH tỉnh Hà Tĩnh có các nhiệm vụ và quyền hạn: - Xây dựng chương trình, kế hoạch của năm trình lên Tổng giám đốc phê duyệt và tổ chức thực hiện. - Tổ chức xét duyệt hồ sơ, giải quyết các chính sách, chế độ BHXH, cấp các loại hồ sơ, giải quyết các chính sách, chế độ BHXH, BHYT; cấp các loại sổ, thẻ BHXH, BHYT. - Tổ chức thực hiện thu các khoản đóng BHXH, BHYT bắt buộc và tự nguyện - Tổ chức quản lý và phát triển đối tượng tham gia BHXH; - Tổ chức quản lý lưu trữ hồ sơ các đối tượng BHXH, BHYT; - Tổ chức hợp đồng với cơ sở khám, chữa bệnh hợp pháp để phục vụ người có sổ, thẻ BHXH theo quy định; - Tổ chức thực hiện công tác giám định chi khám chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh, đảm bảo khám chữa bệnh cho người có sổ, thẻ BHXH, BHYT chống lạm dụng quỹ khám chữa bệnh và hướng dẫn nghiệp vụ giám định đối với BHXH cấp huyện; - Tổ chức thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng đúng theo quy định; - Thực hiện quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí; chế độ kế toán; thống kê theo đúng quy định của Nhà Nước, của BHXH VN và hướng dẫn BHXH cấp huyện thực hiện; - Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu, chi BHXH đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh; kiến nghị với cơ quan pháp luật, cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan cấp trên của đơn vị sử dụng lao động hoặc cơ sở khám chữa bệnh để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về các chế độ BHXH; - Giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức cá nhân theo thẩm quyền; - Tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ BHXH trên địa bàn tỉnh; - Tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chính sách, chế độ BHXH; - Tổ chức ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động BHXH tỉnh Hà Tĩnh; - Quản lý tổ chức, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức, tài chính và tài sản thuộc BHXH tỉnh theo phân cấp của BHXH VN; - Thực hiện chế độ báo cáo với BHXH VN và UBND tỉnh theo quy định. 2.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH tỉnh Hà Tĩnh Ngày đầu mới thành lập BHXH hà tĩnh có 4 phòng nghiệp vụ và 10 phòng BHXH huyện thị trực thuộc với số cán bộ, công chức bàn giao từ ngành LĐTBXH, Liên đoàn lao động là 70 người, đơn vị nhận thêm 13 người. Tổng số có 83 người, trong đó có 29 người làm việc tại văn phòng, 54 người làm việc tại BHXH 10 huyện, thị xã. Trình độ chuyên môn: đại học 20 người chiếm 24% , trung cấp 58 người chiếm 69%, đảng viên 39 người chiếm 46%. Đến nay, toàn ngành có 222 người, với 10 phòng nghiệp vụ và 12 BHXH huyện, thị xã trực thuộc. Trong đó số có trình độ đại học, cao đẳng: 134 người chiếm 60%, trình độ trung cấp : 78 người chiếm tỷ lệ 35%, số còn lại là bộ đội chuyển ngành và nhân viên phục vụ 5%. Số cán bộ, công chức, viên chức là đảng viên 126 người chiếm 56%; số cán bộ, công chức, viên chức nữ 109 người chiếm tỷ lệ 49%. Sơ đồ cơ cấu tổ chức BHXH tỉnh Hà Tĩnh: SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC BHXH HÀ TĨNH Giám đốc BHXH tỉnh Phó giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Phòng thu Phòng KH-TC Phòng chế độ chính sách Phòng giám định Phòng HC-TH Phòng quản lý sổ thẻ Phòng CNTT Phòng kiểm tra Phòng BH tự nguyện Bhxh huyện Thạch Hà Bhxh huyện Can lộc bhxh huyện Đức thọ bhxh huyện Hồng Lĩnh bhxh huyện Lộc Hà Bhxh huyện Vũ Quang Bhxh huyện Nghi Xuân Bhxh huyện Hương Sơn Bhxh huyện Hương Khê Phòng tổ chức cán bộ Bhxh huyện cẩm xuyên Bhxh thành phố Hà tĩnh Bhxh huyện Kỳ Anh 3. Một số kết quả đạt được của BHXH tỉnh Hà Tĩnh trong những năm gần đây 3.1 Thu Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế bắt buộc: Qua 12 năm thực hiện nhiệm vụ, số đối tượng tham gia ngày càng tăng rõ rệt, số tiền thu được nộp về quỹ BHXH ngày càng nhiều. Người lao động được cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, phiếu khám chữa bệnh kịp thời, đầy đủ. Để hoàn thành và vượt mức kế hoạch thu, ngay từ quý đầu năm BHXH Hà tĩnh đã giao kế hoạch cụ thể cho từng đơn vị trực thuộc, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và phối hợp các ban ngành chức năng đưa ra biện pháp tối ưu nhằm thực hiện tốt công tác thu BHXH, BHYT trên địa bàn toàn tỉnh. Bên cạnh đó BHXH Hà Tĩnh đã thực hiện thành công Chương Trình quản lý Quỹ BHXH nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi trong công việc nghiệp vụ. Đến ngày 31/12/2007, thu được 234,6 tỷ đồng đạt 103,8% kế hoạch năm, tăng 20% so với năm 2006. 3.2 Công tác BHYT tự nguyện: Được sự chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp và đặc biệt sau khi có Thông tư liên tịch số 77/TTLT-BYT-BTC, ngày 07/8/2003 của Liên bộ tài chính- y tế và công văn hướng dẫn số 3631/BHXH-TN, ngày 31/10/2003 của BHXH VN, BHYT học sinh đã được triển khai sâu rộng trên toàn tỉnh. Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã có văn bản chỉ đạo công tác BHYT học đường, BHXH Hà Tĩnh đã ký các văn bản liên ngành với sở Giáo dục- đào tạo, tỉnh đoàn, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Hội nông dân hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện học sinh, hộ gia đình, hội đoàn thể. Công tác tuyên truyền được chú trọng, đài phát thanh truyền hình, trung tâm truyền thông sức khoẻ của Sở Y tế đã xây dựng phóng sự về BHYT học sinh. Cơ quan BHXH đã phát hành các tờ rơi, thông báo đến tận các trường học, đơn vị sử dụng lao động. Năm học 2003-2004 có 353 trường với 51.448 em tham gia, tổng thu 1,37 tỷ đồng đạt 123,59 % so với kế hoạch năm (kế hoạch 1,111tỷ đồng ) và đạt 157 % so với kế hoạch năm trước. Năm học 2004-2005, toàn tỉnh có 66.061 em tham gia với tổng số tiền thu được 1,742 tỷ đồng. Đối với BHYT tự nguyện hộ gia đình, hội đoàn thể, thân nhân người lao động:năm 2005 là năm đầu tiên triển khai và toàn tỉnh đã có 4.012 người tham gia, với tổng só tiền thu được 0,24 tỷ đồng. Năm 2007 BHXH đã đạt và vượt mức kế hoạch thu BHYT tự nguyện, thu được 7,2 tỷ đồng. Trong đó, BHYT học sinh, sinh viên: 100,701 em tham gia đạt 118,32 % kế hoạch năm, có 467/577 trường tham gia, đạt 80,9 % tổng số trường toàn tỉnh; Hộ gia đình và cán bộ, dân số kế hoạch gia đình các xã, phường , thị trấn: 2.699 người đạt 248,70 % kế hoạch được giao. 3.3 Công tác kế hoạch tài chính và chi trả các chế độ BHXH: - Công tác chi trả các chế độ BHXH: Sau khi tiếp nhận chi trả lương hưu và trợ cấp từ Sở Lao động- Thương binh và xã hội, Liên đoàn lao động tỉnh chuyển sang, BHXH Hà Tĩnh đề ra mục tiêu chi trả: “đúng kỳ, đủ số, tận tay và an toàn”. Để thực hiện tốt được điều đó trong công tác chi trả phải cải tiến từ việc quản lý đối tượng đến tổ chức chi trả. Trước đây việc lập danh sách hàng tháng do ban chi trả xã lập, huyện duyệt và tỉnh cấp tiền. Nhưng trong những năm qua BHXH tỉnh đã lập danh sách trên cơ sở hồ sơ đang quản lý và có sự phối hợp đồng bộ giữa BHXH huyện, thị xã, phòng chế độ chính sách, Kế hoạch tài chính, Công nghệ thông tin nên giữa danh sách nguồn chi trả luôn khớp đúng. Việc tổ chức chi trả được áp dụng bằng hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp thông qua đại lý. Trong đó chi trả trực tiếp 60 % số tiền chi trả hàng tháng với 34 % số xã trong toàn tỉnh. Từ 56.012 người hưởng chế độ thường xuyên từ ngành Lao động- thương binh và xã hội nay BHXH Hà Tĩnh đang quản lý hơn 61.984 đối tượng. Tổng số tiền đã chi trả: 821,3 triệu đồng, tăng 23 % so với năm 2006. Với lượng tiền chi trả lớn nhưng toàn ngành đã khắc phục khó khăn đảm bảo thực hiện chi trả kịp thời, chính xác và an toàn tiền mặt. - Công tác Kế hoạch tài chính: Trong công tác quyết toán tài chính hàng quý, hàng năm, BHXH tỉnh luôn thực hiện tốt quy chế tài chính và chế độ kế toán thống kê. Việc thực hiện quy định chuyển tiền thu thuận lợi, kịp thời và hợp lý. Sử dụng kinh phí quản lý bộ máy đúng mục đích. Tăng cường tiết kiệm để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức viên chức, tạo điều kiện cho công chức viên chức ổn định trong công tác. 3.4 Công tác chế độ chính sách: Tại thời điểm nhận bàn giao BHXH Hà Tĩnh tiếp nhận 56.911 hồ sơ các loại đối tượng hưởng chế độ BHXH từ hai ngành Lao động- Thương binh và xã hội Hà Tĩnh, Liên đoàn lao động tỉnh để quản lý và thực hiện chi trả, số đối tượng đó đều hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước. Hiện nay, BHXH Hà Tĩnh đang quản lý 62015 đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp hàng tháng, trong đó có 47.520 đối tượng thuộc ngân sách nhà nước và 14.495 đối tượng thuộc nguồn quỹ BHXH. Năm 2007 đã xét duyệt 3.753 hồ sơ các loại. BHXH Hà Tĩnh đã ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết chế độ chính sách nên việc xét duyệt chính xác, đảm bảo quyền lợi cho đối tượng 3.5 Công tác khám chữa bệnh: Sau khi tiếp nhận nhiệm vụ khám chữa bệnh cho đối tượng tham gia BHYT, BHXH tỉnh Hà Tĩnh đã thực hiện ký kết lại hợp đồng khám chữa bệnh với các cơ sở y tế. Hàng quý thực hiện thanh quyết toán và ký kết hợp đồng tiếp theo đúng quy định. Mở rộng công tác khám chữa bệnh ban đầu tại các xã, thi trấn trong tỉnh. Năm 2007 BHXH tỉnh đã ký kết._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11638.doc