Phần I : Lời mở đầu
Trong những thập kỷ gần đây nền kinh tế thế giới phát triển với tốc độ chóng mặt. Ước tính tính nguồn của cải vật chất nhân loại làm ra trong thế kỉ qua bằng tất cả nguồn của cải đã làm ra trước đó, kể từ khi con người xuất hiện trên trái đất. Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới chưa bao giờ lại có sự hợp tác để phát triển rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều tầng nấc như hiện nay. Điều này đã tạo ra một xu thế nổi bật trong quan hệ quốc tế hiện đại như Nghi quyết Đại
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phân tích thực trạng & các giải pháp cơ bản để mở rộng & nâng cao hiệu quả của kinh tế đôi ngoại trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội lần thứ 8 của Đảng ta nhận định:“Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại, mở rộng kinh tế đối ngoại”
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay khoa học và công nghệ đã có những bước tiến nhảy vọt thì kinh tế đối ngoại đang trở thành một bộ phận ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, giúp cho nền kinh tế các nước có thể hỗ trợ cho nhau để cùng phát triển. Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng minh rằng không có nền kinh tế quốc gia nào có thể tỗn tại và phát triển nếu thực hiện chính sách kinh tế biệt lập, bế quan toả cảng, tự cấp tự túc, đứng ngoài dòng chảy chung của nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam là một đất nước đang trên đà phát triển với nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít những khó khăn, vai trò của kinh tế đối ngoại là hết sức quan trọng nó không những giúp chúng ta tranh thủ được vốn, khoa học công nghệ để nhanh chóng phát triển hoà mình vào dòng chảy chung của nền kinh tế thế giới mà còn giúp chúng ta sớm đạt được mục tiêu”Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”
Chính bởi vai trò to lớn của Kinh tế đối ngoại mà em xin lấy đó làm đề tài nghiên cứu. Nhưng do thời gian và khả năng của bản thân có hạn em xin được nghiên cứu vấn đề dưới giác độ của Kinh tế chính trị học và trong phạm vi đề án môn học. Đề án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá, phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử.
Phần II: Nội dung
I. Một số vấn đề về mặt lí luận cơ bản của kinh tế đối ngoại
1. Một số khái niệm
1.1. Thế nào là kinh tế đối ngoại?
Kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Vai trò đó thể hiện rõ nét thông qua định nghĩa Kinh tế đối ngoại.
“Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học kĩ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
1.2 . Thế nào là kinh tế quốc tế ?
“Kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế lẫn nhau giữa hai hoặc nhiều nước, là tổng thể các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước ”
Như vậy, kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế là hai khái niệm có mối liên hệ với nhau song không đồng nhất với nhau. Kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế mà chủ thể của nó là một quốc gia với bên ngoài với nước khác hoặc với tổ chức kinh tế khác. Còn kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước, là tổng thể các quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế.
1.3. Thế nào là toàn cầu hoá?
Tuỳ theo cách hiểu nội dung toàn cầu hoá như thế nào mà người ta xác định thời điểm toàn cầu hoá bắt đầu và cái đích mà nó đi tới cùng với những hình thức đa dạng của nó.
Nhưng nếu hiểu toàn cầu hoá là một quá trình quốc tế kinh tế đã phát triển trên quy mô toàn cầu thì “Toàn cầu hoá bao gồm trong nó hai quá trình phát triển song song –tự do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế”
Như vậy, toàn cầu hoá là các quan hệ kinh tế không những được tự do phát triển trên phạm vi toàn cầu mà còn phải tuân theo những cam kết toàn cầu đa dạng. Cái đích cuối cùng mà toàn cầu hoá vươn tới là một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế.
1.4 Quốc tế hoá đời sống kinh tế
Do sự phát triển của khoa học kĩ thuật, sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá, sản xuất trên phạm vi quốc tế nên lao động không còn mang sắc thái biệt lập mà mang màu sắc toàn cầu. Không còn gianh giới giữa các nước trong lĩnh vực sản xuất.
2. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
2.1 Vai trò của kinh tế đối ngoại.
Trong những thập kỉ gần đây nền kinh tế thế giới phát triển với tốc độ chóng mặt. Nhân loại đã làm ra một lượng của cải vật chất khổng lồ. Cung với sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật, thế giới trong xu thế phát triển hợp tác hữu nghị do đó kinh tế đối ngoại có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Vai trò của kinh tế đối ngoại thể hiện ở một số mặt :
Thứ nhất nó góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nướcvới sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực
Thứ hai hoạt động kinh tế đối ngoại giúp thu hút vốn đầu tư và vốn viện trợ từ bên ngoài, thu hút khoa học công nghệ, khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lí nền kinh tế hiện đại vào trong nước.
Thứ ba góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tạo ra nhiều công ăn việc làm. giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
2.2. Cơ sở khách quan của việc hình thành kinh tế đối ngoại.
2.2.1. Phân công lao động quốc tế
Phân công lao động quốc tế xuất hiện như là hệ quả tất yếu của phân công lao động xã hội phát triển vượt khuôn khổ mỗi quốc gia. Nó diễn ra giữa các ngành, giữa những người sản xuất của những nước khác nhau và thể hiện như là một hình thức đặc biệt của sự phân công lao động theo lãnh thổ diễn ra trên phạm vi thế giới.
Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên những cơ sở lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên và xã hội.
Ngày nay phân công lao động vận động theo những xu hướng mới :phân công lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi ngày càng rộng, trên nhiều lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật làm phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu, chiều cao và từ đó nó ảnh hưởng nhanh chóng đến cơ cấu ngành và cơ cấu lao động trong từng nước và trên phạm vi thế giới
2.2.2. Lý thuyết về lợi thế - cơ sở lựa chọn của thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là một hình thức của quan hệ khinh tế đối ngoại xuất hiện từ rất lâu đời. Lý thuyết về lợi thế giải đáp cho câu hỏi trong trao đổi ai là người đợc lợi, giữa các quốc gia phát triển cao với các quốc gia phát triển thấp có nên trao đổi thương mại hay không ?
Trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học đưa ra lí thuyết về lợi thếnhư A.Smith với lí thuyết về lợi thế tuyệt đối. C.Mac với quan điểm nói về năng suất lao động dân tộc và năng suất lao động quốc tế. H.Habeerleer lí giải theo lí thuyết về chi phí cơ hội, và sau này còn nhiều lí thuyết có cách lí giải khác nhau và cách xem xét riêng song mọi cách lí giải đều đi đến một chân lí chung là lợi thế so sánh tồn tại là khách quan mà mỗi quốc gia phải lợi dụng để góp phần vào sư phân công lao động và thương mại quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế đối ngoại.
2.2.3. Xu thế thị trường thế giới.
Từ những thập kỉ 70 của thế kỉ 20 lại đây toàn cầu hoá và khu vực hoá trở thành xu thế tất yếu của thời đại dẫn tới”mở cửa “và “hội nhập “ở mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế trong đó có xu thế phát triển của thị trường thế giới. Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau.
Những biểu hiện của xu hướng phát triển thị trường thế giới :Thương mại giữa các ngành tăng lên rõ rệt. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ phân công lao động quốc tế cũng có sự thay đổi lớn về hình thức. Thể hiện ở việc từ phân công lao động giữa các ngành chuyển sang phân công lao động giữa nội bộ ngành do đó thương mại trong các ngành phát triển rất mạnh, đặc biệt là công ty xuyên quốc gia. Khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng, thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng, cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay gắt.
Thương mại phát triển theo hướng tập đoàn hoá kinh tế khu vực :nền kinh tế thế giới đang phát triển theo hướng tập đoàn hoá khu vực và bị chi phối bởi những nhân tố : cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt cục diện thế giới chuyển từ hai cực sang đa cực. Khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu ngành trên quy mô thế giới. Xu thế tập đoàn hoá kinh tế khu vực ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh tế thương mại.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại mà cơ sở khoa học của nó chủ yếu được quyết định bởi sự phân công và hợp tác lao động trên phạm vi quốc tế được các quốc gia vận dụng thông qua lợi thế so sánh để ra quyết định lựa chọn các hình thức kinh tế đối ngoại diễn ra trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá và được biểu hiện rõ nhất ở xu thế phát triển của thị trường thế giới trong thời gian gần đây.
2.3. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại.
Cho đến nay không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển kinh tế có hiệu quả mà không chủ động gắn sự phát triển của đất nước mình với sự phát triển của các nước khác cùng khu vực cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới sản xuất ngày càng được chuyên môn hoá sâu hơn, sự phân công lao động ngày càng sâu sắc trên quy mô toàn cầu làm cho mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển ngày càng tăng lên. Kinh tế đối ngoại đang trở thành bộ phận ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia giúp cho các nền kinh tế các nước có thể hỗ trợ nhau một cách cùng có lợi và mỗi nước đều phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước mình.
Lịch sử kinh tế thé giớo đã chứng minh rằng không có nền kinh tế quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu thực hiện chính sách kinh tế biệt lập bế quan toả cảng, tư cấp tự túc, đứng ngoài dòng chảy chung của nền kinh tế toàn cầu
II. Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại.
1. Ngoại thương.
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi quốc gia nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế. là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất kà trong các ngành xuất khẩu.
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là sự trao đổi hang hoá hoặc dịch vụ (bao gồm cả hàng hoá vô hình và hàng hoá hữu hình ) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu.
Nội dung của ngoại thương bao gồm :xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại.
Hoạt động kinh tế đối ngoại mấy thập kỉ gần đây do chịu tác động của khoa học công nghệ nên mang những đặc điểm mới :tốc độ tăng trưởng của ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân. Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương hàng hoá vô hình tăng nhanh hơn hàng hoá hữu hình. Cơ cấu mặt hàng cngx có sự biến đổi. Phạm vi, phương thức và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế fiễn ra rất đa dạng và phong phú.
Muốn biến ngoai thương thành đòn bẩy có sức mạnh phát triển nền kinh tế quốc dân cần phải nắm bắt được lợi thế so sánh. nhưng lợi thế so sánh không ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn thay đổi. Các nước thuộc thế giới thứ ba khi sử dụng lợi thế so sánh phải không ngừng học tập đẻ vươn len khắc phục thế yếu kém của mình.
2.Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất.
Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công xây dựng xí nghiệp chung chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ các nước công nghiệp đã tiến hành cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tập trung ưu tiên những ngành có hàm lượng khoa học cao chuyển những ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao sang các nước đang phát triển
Bên cạnh hình thức gia công một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài. Hiện nay các xí nghiệp loại này đang tồn tại phổ biến ở nhiều nước.Về mặt pháp lí xí nghiệp chung thường được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường đựơc ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu.
Hợp tác sản xuất trên cơ sở chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành. Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
3. Hợp tác khoa học kĩ thuật.
Hợp tác khoa học kĩ thuật đựoc thực hiện dưới nhiều hình thức như trao đổi những tài liệu kĩ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép trao đổi kinh nghiệm chuyển giao công nghệ. Đối với những nước lạc hậu về kĩ thuật vốn chi cho nghiên cứu khoa học và công nghệ còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học chưa nhiều, phương tiện vật chất còn thiếu thốn thì việc tham gia hợp tác khoa học với nước ngoài là vô cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
Việc đưa lao động và chuyên gia đi lao động ở nước ngoàitheo hợp đồng là một hình thức hợp tác đaò tạo cán bộ và công nhân. Vì vậy cùng với việc nhận gia công từ nước ngoài cần tổ chức tốt việc đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở mỗi nước. Tổ chức quản lí người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đến việc sử dụng số người này sau khi họ về nước.
4. Đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.
Đầu tư quốc tế có tác động hai mặt đối với các nước nhận đầu tư. Nó làm tăng nguồn vốn, tăng công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lí tiên tiến, tạo thêm việc làm đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế thị trường hiện đại của thế giới. Mặt khác đầu tư quốc tế cũng có khả năng làm gia tăng sự phân hoá giữa các giai tầng trong xã hội, giữa các vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng tỉ lệ phụ thuộc vào bên ngoài. Vì quá trình đầu tư còn nhiều mặt hạn chế nên mỗi quốc gia cần phải tính toán cân nhắc kĩ trong qúa trình xây dựng, thẩm định kí kết.
Có hai loại hình đầu tư là trực tiếp và gián tiếp :
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữuvà quyền sử dụng quản lí vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn dầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lí và điều hành dự án đầu tư tự chỉutách nhiệm về kết quả rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp như :người đầu tư tự lập xí nghiệp mới, mua hoặc liên kết với xí nghiệp ở nước đầu tư, mua cổ phiếu…
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thứ lợi tức cho vay hoặc lợi tức cổ phần, hoăc không thu lợi. Sự khác biệt lớn giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp là người đầu tư trực tiếp có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư còn người đầu tư gián tiếp thì không có quyền khống chế xí nghiệp đàu tư. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức, trong đầu tư gián tiếp chủ đầu tư về thực chất là tìm đường thoát cho tư bản thừa, phân tán đầu tư nhằm giảm bớt rủi ro.
5. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ khác.
Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỉ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với các hàng hoá khác trên thị trường thế giới. Mỗi nước sẽ căn cứ vào tiềm năng và tình hình cụ thể của quốc gia mình sẽ có hướng thu hút ngoại tệ riêng :du lịch quốc tế xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ, các hoạt động thu ngoại tệ khác.
Việt Nam cần chú trọng hai hình thức dịch vụ cơ bản là du lịch và xuất khẩu lao động do Việt Nam có vị trí địa lí thuận lợi, nhiều cảnh quan đẹp thuận lợi cho phát triển du lịch hơn nữa dân số Việt Nam, số người ở độ tuổi lao động lớn, con người Việt Nam cần cù sáng tạo
III. Mục tiêu phương hướng và nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại ở nước ta.
1. Vai trò tác dụng của kinh tế đối ngoại với việc phát triển kinh tế xã hội nước ta.
Cho đến nay nền kinh tế Việt Nam vẫn bị sếp vào loại thấp kém nhất thế giới. Chúng ta vẫn đang đứng trươc những khó khăn thử thách, những mối quan hệ có tính chất truyền thống trong buôn bán bị đảo lộn. Trong bối cảnh quốc tế hoá toàn cầu hoá đang trở thành xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới mỗi nứơc đều cố gắng và chủ động tham gia vào quá trình này để có được một vị trí thuận lợi trong phân công lao động và trao đổi thương mại quốc tế. Việt Nam đi lên từ một điểm xuất phát thấp và kém phát triển so với nhiều nước trong khu vực. Nền kinh tế nước ta với mục tiêu vào năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp có lực lượng sản xuất phát triển ở mức trung bình trong khu vực càng cần thiết phải tăng cường và mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại để tạo nguồn vốn, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư trực tiếp và công nghệ của nước ngoài. Vai trò này càng trở nên quan trọng khi nước ta bước vào CNH-HĐH trong điều kiện các nước trên thế giới đều đang tích cực bước vao thế kỉ XXI với nhiều cơ hội và thách thức to lớn.
2. Mục tiêu của kinh tế đối ngoại.
Đối với nước ta việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh “theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian trước mắt việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước –nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ Mục tiêu đó phải được quán triệt tới mọi ngành mọi cầp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực của kinh tế đối ngoại. Hoạt động kinh tế đối ngoại theo quan điểm hai tầng một mặt đảm bảo một số cơ sở đạt trình độ tiên tiến của thế giớ mặt khác vẫn duy trì những doanh nghiệp có trình độ công nghệ chưa cao song thu hút nhiều lao động.
3. Phương hướng cơ bản.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng “Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi”. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ dưới mọi hình thức.
Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ động tạo những điều kiện để hội nhập có hiệu quả vào nèn kinh tế thế giới, phát huy ý chí tự lực tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
4. Những nguyên tắc cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại.
4.1. Bình đẳng.
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước.
Nguyên tắc bình đẳng này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. nó cũng bắt đầu từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. nói cách khác là đảm bảo tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước pháp luật và cộng đồng quốc tế.
4.2 Cùng có lợi.
Bình đẳng là nguyên tắc giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ đối ngoại thì nguyên tắc cùng có lợi lại giữ vai trò làm nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tể dân tộc khác nhau. Nguyên tắc cùng có lợi còn là động kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giưã các quốc gia với nhau. Cùng có lợi ích kinh tế là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối và luật đầu tư nước ngoài. Nguyên tắc này được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để kí kết trong các nghị định thư giữa các chính phủ và trong hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế các nước với nhau.
4.3. Tôn trọng độc lập chủ quyền không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.
Trong quan hệ quốc tế mỗi quốc gia với tư cách là quồc gia độc lập có chủ quyền về mặt chính trị kinh tế xã hội và địa lí
Cơ sơ khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ đối ngoại giưã các quốc gia với nhau. nó cũng bắt nguồn từ nguyên tắc cùng có lợi, mà xét cho cùng chỉ khi cùng có lợi về mặt kinh tế mới tạo cơ sở để cùng có các lợi ích khác nhau về chính trị xã hội và quân sự.
Một số yêu cầu mà hai bên phải thực hiện trong nguyên tắc này :
- Tôn trọng các điều khoản đã được kí kết trong các nghị định giữa các chính
Phủ Và trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau
- Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích kinh tế của nhau
- Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có quan hệ nhất là dùng các thủ đoạn kinh tế để can thiệp vao chính trị.
4.4. Giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần phải xử lí tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế mà còn phải xử lí tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích cính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện từng bước những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Do vậy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều nguồn lực bên ngoài vừa phát huy được nguồn lực bên trong, không lệ thuộc vào nước ngoài và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, bốn nguyên tắc nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đố có nước ta. Vì vậy không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập duy trì và mở rộng kinh tế đối ngoại.
IV. Kinh tế đối ngoại Việt Nam.
1. Những hướng phát triển chiến lược của kinh tế đối ngoại Việt Nam
1.1. Đa dạng hoá các loại hình kinh tế đối ngoại.
“Đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế đối ngoại “là một trong những điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cơ sở của đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại là quá trình quốc tế hoá đời sống và sản xuất, quá trình giao lưu kinh tế giữa các nước với quy mô trao đổi lớn, cường độ cao và chủng loại trao đổi rất đa dạng và phức tạp. Cách mạng khoa học và công nghệ thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất và làm tăng thêm tính phức tạp của các quan hệ kinh tế đối ngoaị. Đồng thời tính phụ thuộc về mặt kĩ thuật công nghệ trong quá trình sản xuất đã dẫn tới sự phát triển những hình thức mới của kinh tế đối ngoại. Đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại là quá trình hình thành và phát triển nhiều hình thức quan hệ khác nhau giữa các nước. Mỗi nước trên thế giới dù là giàu có cũng không thể đảm bảo đủ tất cả những yếu tố của quá trình sản xuất.
1.1.1. Xuất nhập khẩu hàng hoá.
Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam khá đa dạng và phong phú. Nhiều mặt hàng quan trọng có ý nghĩa với nhiều nước trên thế giới. Để có giải pháp đúng về vấn đề hàng xuất khẩu cần tiếp cận một số khía cạnh chủ yếu :số lượng chất lượng chủng loại, khả năng của từng mặt hàng và xu thế vận động của nó.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai cách thức xuất khẩu hàng hoá chủ yếu ;Một là có cái gì bán cái đó hai là tập trung vào những mặt hàng mũi nhọn. mỗi cách thức sẽ đem lại một ưu thế riêng cho nền kinh tế. Nhập khẩu là hoạt động nhằm mục đích bù đắp những hàng hoá vật tư nguyên liệu mà trong nước không có hoặc sản xuất chưa đủ và kém hiệu quả. Về phương diện lí luận nhập khẩu là đưa vào trong nước những thế mạnh của thế giới do đó việc nhâọ khẩu rất quan trọng và cấp bách cần giải quyết một cách chặt chẽ.
Trước hết phải đánh giá một cách xác thực tình hình xuất nhập khẩu của nước ta hiện nay. Về mặt xuất khẩu : những năm trước đây do ảnh hưởng của cơ chế quan liêu bao cấp dẫn tới tình hình xuất khẩu rất thấp so với tiềm năng. Hơn nữa số lượng hàng xuất khẩu không lớn làm cho hiệu quả không cao. Yêu cầu của thương trường quốc tế đòi hỏi quy mô hàng hoá phải có khối lượng đáng kể. Việc mua bán quốc tế phức tạp và khó khăn hơn trong nước rất nhiều, chi phí vận chuyển tốn kém.
ở ta do thiếu quy hoạch tổng thể, thiếu chiến lược xuất khẩu, chất lương mẫu mã hàng hoá còn thấp và xấu chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Điều đặc biệt quan trọng là chúng ta thiếu hệ thống đo lường chất lượng nên không đánh giá đươc chất lượng hàng, dãn tới bị thua thiệt trong việc mặc cả và định giá.
Với xuất khẩu chúng ta đã đưa ra được những giải pháp cụ thể.
Phải có quy hoạch tổng thể, chuyên môn hoá sản xuất hàng xuất khẩu, từng bước lựa chọn hàng chủ lực tiến tới hàng mũi nhọn. Từng bước nâng cao chất lượng hàng xuất, không để tâm lí coi thường hàng Việt Nam trở thành phổ biến, coi trọng chữ tín đối với khách hàng, sáng tạo học tập cách thức quảng cáo, đóng gói và bảo quản hàng hoá.
Với việc nhập khẩu : nguyên tắc nhập khẩu chỉ nhập hàng hoá có hàm lượng chất xám cao, chủ yếu là tư liệu sản xuất với công nghệ hiện đại.
Một số giải pháp then chốt với việc nhập khẩu : nhập đúng số lượng chủng loại kịp thời và liên tục, hạn chế tối đa việc nhập hàng tiêu dùng đặc bạêt là xa xỉ phẩm, nhập khẩu phải trên cơ sở bảo hộ sản xuất trong nước. Đây là một giải pháp có ý nghĩa nhiều mặt vừa tiết kiệm được ngoại tệ vừa bảo vệ được sản xuất trong nước.
1.1.2. Hợp tác đầu tư liên doanh liên kết.
Đây là hình thức kinh tế đối ngoại rất quan trọng và ngày càng quan trọng. Tuy ra đời sau hình thức ngoại thương nhưng tốc độ và quy mô phát triển ngày càng lớn chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tất cả các hình thức của kinh tế đối ngoại. Hình thức đâu tư ra nước ngoài nhằm khai thác các tiềm năng đã được CNTB sử dụng từ rất lâu, đặc biệt là từ khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cuối thế kỷ XVIII nổ ra dẫn tới cơ khí hoá ngành vận tải quốc tế.
Hợp tác đâu tư là quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất của các chủ thể khác nhau. Khái niệm đó trong phạm vi của kinh tế đối ngoại là sự hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp của nhiều nước.
Mục đích của tất cả các quá trình hợp tác đều là ở chỗ tìm kiếm môi trường thuận lợi cho vốn hoạt động và sinh lời. Mỗi bên tham gia hợp tác đều có mục đích riêng. Nguyên tắc xuyên suốt đồng thời là chất kết dính giữa các chủ thể hợp tác là: tất cả các bên đều có lợi, bình đẳng và sòng phẳng trong phân chia lợi nhuận.
ở nước ta hình thức hợp tác liên doanh liên kết mới được hình thành vài năm gần đây. Hiện nay đã có hàng trăm dự án đâu tư đã được ký kết, hoặc đang thăm dò hoặc đã thực thi.
Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hợp tác đâu tư liên doanh liên kết của nước ta.
Về thuận lợi : đất nước ta giàu tài nguyên khoáng sản có nhiều kim loại quý khan hiếm, quan trọng, là một thị trường mới đang trong quá trình hình thành do đó nhiều tiềm năng chưa được biết đến và khai thác, đất nước lại có bề dầy lịch sử hàng ngàn năm với một nền văn hoá đậm đà bản sắc đân tộc. Hơn nữa lực lượng lao động ở Việt Nam lại rất dồi dào và rẻ so với nhiều nơi khác trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, với quan điểm và chính sách mở cửa của Đảng ta đã tạo tiền đề cơ bản để hình thành các tổ chức hợp tác liên doanh trong một bầu không khí chính trị ổn định tôn trọng các công ước quốc tế.
Về khó khăn : đất nước thiếu vốn nghiêm trọng đang trong thời kỳ khủng hoảng, kỹ thuật công nghệ còn thấp kém. Các thủ tục trong quan hệ, ký kết thực thi rất phiền hà và quá nhiều tầng nắc trung gian. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế còn lạc hậu.
Trong bối cảnh thế giới vừa có thuận lợi và khó khăn phải biết lựa chọn để khai thác sức mạnh bên ngoài, hạn chế những tác động tiêu cực ảnh hưởng vào nội địa để thu hút vốn và công nghệ của thế giới được nhanh hơn và có hiệu quả hơn.
Con người Việt Nam vốn thông minh hiếu học nhưng nếu không co chiến lược lâu dài nhân tài sẽ bị thui chột và lãng phí. Để tiếp thu được chi tiết công nghệ tiên tiến phải có trình độ chuyên môn. Liên kết công nghệ là công việc của các nhà khoa học. Rõ ràng muốn trao đổi học tập với các nhà khoa học thế giới phải có trình độ tương ứng hoặc kém hơn một chút. Không thể thực hiện liên kết với nhau khi có sự chênh lệch quá lớn về trình độ.
Tóm lại, chúng ta cần và bắt buộc phải có một đội ngũ những nhà khoa học công nghệ đạt tầm cỡ quốc tế. Cần phải thoả mãn một cách tốt nhất những yêu cầu của đội ngũ này để sử dụng họ. Phải hoà nhập vào thế giới bởi vì khoa học công nghệ không có tính quốc gia, nhà khoa học Việt Nam phải là nhà khoa học của thế giới.
1.1.3. Tín dụng quốc tế.
Tín dụng là hình thức vận động của vốn. Trong kinh tế hàng hoá, vốn là vấn đề cốt lõi hàng đầu. Vốn là công cụ, là phương tiện để tập trung tư liệu sản xuất, sức lao động và tiến hành sản xuất. Thiếu vốn quá trình tái sản xuất sẽ ngừng trệ hoặc tiến triển không bình thường. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá vốn cũng nảy sinh nhiều con đường vận động. Tín dụng là khái niệm để chỉ toàn bộ các quá trình vận động của vốn. Phân công lao dộng quốc tế phát triển sự giao lưu hàng hoá ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0153.doc