Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tiền lương có một ý nghĩa vô cùng to lớn cả về mặt kinh tế cũng như mặt xã hội.
Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì tiền lương là sự cụ thể hoá của quá trình phân phối của cải do người lao động làm ra. Do đó, phải xây dựng một hệ thống trả lương phù hợp để tiền lương thực sự phát huy được vai trò khuyến khích vật chất và tinh thần cho người lao động.
Với doanh nghiệp nó là công cụ quản lý hữu hiệu để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng t
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích thống kê tình hình tiền lương - Thu nhập tại Xí nghiệp Vật liệu Hoá chất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời tiền lương là động lực kinh tế mạnh mẽ thúc đẩy người lao động làm việc với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Đó là một việc hết sức cần thiết và quan trọng đối với mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Mặt khác, đối với doanh nghiệp tiền lương còn là một phần chi phí cấu thành chi phí sản xuất- kinh doanh luôn được tính toán và quản lý chặt chẽ. Do đó, khi trả lương cho người lao động phải thu được hiệu quả cao nhất, thông qua chính sách tiền lương của mình mà doanh nghiệp có thể thúc đẩy người lao động làm việc hay triệt tiêu động lực đó.
Đối với người lao động, tiền lương là thu nhập từ qúa trình lao động của họ, phần thu nhập chủ yếu đối với đại đa số lao động trong xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của họ. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích của mọi người lao động. Mục đích này tạo động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng của mình.
Xuất phát từ những lý do trên, đồng thời qua thời gian ngắn tìm hiểu thực tế tại Xí nghiệp Vật liệu Hoá chất, em lựa chọn nghiên cứu đề tài" Phân tích thống kê tình hình tiền lương - thu nhập tại Xí nghiệp Vật liệu Hoá chất"
Nội dung chính của luận văn:
Phần I: Lý luận chung về tiền lương - thu nhập
Phần II: Hệ thống chỉ tiêu và phương pháp thống kê phân tích tình hình tiền lương - thu nhập của lao động
Phần III: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiền lương - thu nhập tại Xí nghiệp Vật liệu Hoá chất
Vì khả năng và thời gian có hạn luận văn này không tránh khỏi những sai sót. Em mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ phòng kế hoạch của xí nghiệp để bản luận văn này được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn thầy giáo – GS.TS Phạm Ngọc Kiểm và các anh chị phòng kế hoạch của Xí nghiệp Vật liệu Hoá chất đã giúp em hoàn thiện đề tài này.
Hà Nội tháng 4 năm 2002
Sinh viên : Lê Thị Liên
Phần I
lý luận chung về tiền lương - thu nhập
lý luận về tiền lương
Khái niệm, bản chất của tiền lương
Từ khi sức lao động trở thành hàng hoá, xuất hiện thị trường sức lao động (hay còn gọi là thị trường lao động) thì khái niệm tiền lương xuất hiện.Tiền lương là một phạm trù kinh tế xã hội, thể hiện kết quả của sự trao đổi trên thị trường lao động.
Để có thể tiến hành sản xuất, cần có sự kết hợp của hai yếu tố cơ bản là lao động và vốn. Vốn thuộc sở hữu của một bộ phận dân cư trong xã hội, còn một bộ phận dân cư khác do không có vốn chỉ có sức lao động họ phải đi làm thuê cho những người có vốn, đổi lại họ nhận được một khoản tiền gọi là" tiền lương" (hay tiền công). Như vậy khái niệm tiền lương xuất hiện khi có sự sử dụng sức lao động của một bộ phận dân cư trong xã hội một cách có tổ chức và đều đặn bởi một bộ phận dân cư khác.Tiền lương, tiền công được hiểu là giá cả sức lao động, nó là biểu hiện bằng tiền của sức lao động.
Xét trong mối quan hệ lao động thì tiền lương là giá cả sức lao động, được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người sử dụng sức lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu lao động trên thị trường. Vậy giá cả sức lao động do cái gì quyết định, do lượng hao phí lao động xã hội cần thiết hay do cung cầu trên thị trường quyết định. Chúng ta phải phải hiểu cơ sở của giá cả sức lao động là do lượng hao phí lao động xã hội cần thiết quyết định (còn gọi là giá trị sức lao động), còn sự biến động trên thị trường giá cả sức lao động xoay quanh giá trị sức lao động là do quan hệ cung cầu quyết định.
Ta có thể đi đến một khái niệm đầy đủ: Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả yếu tố sức lao động mà người sử dụng sức lao động phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của nhà nước.
Để có khái niệm mang tính pháp lý về tiền lương, Điều 55 Bộ Luật lao động có ghi" tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định".
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như nước ta hiện nay, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành phần và khu vực kinh tế.
Trong thành phần kinh tế nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp, tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức của nhà nước trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách của nhà nước và được thể hiện trong hệ thống thang, bảng lương do nhà nước quy định.
Trong các thành phần và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương chịu sự tác động và chi phối rất lớn của thị trường. Tiền lương trong khu vực này dù vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo những chính sách của chính phủ, nhưng được quyết định theo sự thoả thuận trực tiếp giữa chủ và thợ, những mặc cả cụ thể giữa một bên là làm thuê và một bên đi thuê thông qua hợp đồng lao động.
Cùng với phạm trù tiền lương, chúng ta còn có các phạm trù khác như: tiền công, thu nhập, chúng cùng mang bản chất của tiền lương tức là đều biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
Nhưng giữa tiền lương và tiền công có sự phân biệt nhất định. Trước đây hai khái niệm này khác nhau cả về nội dung và đối tượng chi trả. Khái niệm tiền lương được sử dụng trong khu vực quốc doanh, nó là phần trả trực tiếp cho người lao động, ngoài tiền lương được trả bằng tiền người lao động còn nhận được phần phân phối gián tiếp bằng hiện vật thông qua tem phiếu và một số chính sách phúc lợi như: chính sách nhà ở, BHXH, khám chữa bệnh...Tiền công được dùng cho các đối tượng còn lại ngoài kinh tế quốc doanh, nó bao gồm cả phần trả trực tiếp và gián tiếp cho người lao động. Nói khác đi tiền công chính là tiền lương đã tiền tệ hoá.
Hiện nay tiền lương và tiền công dường như không còn sự tách biệt, đều là giá cả sức lao động nhưng vẫn còn thói quen quan niệm tiền lương gắn với khu vực kinh tế quốc doanh và tiền công gắn với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Nhưng dù tiền lương hay tiền công cũng đều phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất sức lao động mở rộng
- Thúc đẩy tăng năng suất
- Phù hợp với cung cầu lao động
Phân loại tiền lương
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao động và hiệu qủa làm việc của người lao động, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm làm việc...ngay trong quá trình lao động.
Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế được thể hiện qua công thức sau:
Tiền lương thực tế
=
Tiền lương danh nghĩa
Chỉ số giá tiêu dùng
Yêu cầu của tiền lương
- Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
- Tiền lương phải đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu, công bằng, thực hiện triệt để nguyên tắc phân phối theo lao động, chống chủ nghĩa phân phối bình quân.
- Tiền lương phải được tổ chức thoả đáng, kích thích người lao động tích cực sáng tạo hơn trong lao động nhằm tăng năng suất lao động.
Vai trò của tiền lương
Tiền lương là một trong những hình thức kích thích lợi ích vật chất đối với người lao động.Vì vậy để sử dụng đòn bẩy tiền lương nhằm đảm bảo sản xuất phát triển, duy trì một đội ngũ có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao với ý thức kỷ luật vững, đòi hỏi công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp phải đặc biệt coi trọng. Tổ chức tiền lương được công bằng và hợp lý sẽ tạo ra hoà khí cởi mở giữa người lao động, hình thành khối đoàn kết thống nhất, trên dưới một lòng, một ý trí vì sự nghiệp phát triển doanh nghiệp và vò lợi ích của bản thân họ. Chính vì vậy, mà người lao động tích cực làm việc bằng cả nhiệt tình hăng say và họ có quyền tự hào về mức lương họ đạt được. Ngược lại khi công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp thiếu tính công bằng và hợp lý nó sẽ làm nảy sinh mâu thuẫn không chỉ ở những người lao động mà còn nảy sinh giữa những người lãnh đạo với người lao động.Vì vậy đối với nhà lãnh đạo doanh nghiệp một trong những công việc được quan tâm hàng đầu là phải theo dõi đầy đủ công tác tiền lương, thường xuyên lắng nghe và phát hiện kịp thời những mâu thuẫn có khả năng xuất hiện trong phân phối tiền lương hoặc tiền thưởng, qua đó có sự điều chỉnh thoả đáng
Các chức năng cơ bản của tiền lương
Thước đo giá trị của tiền lương
Do lao động là hoạt động chính của con người và là đầu vào của mọi quá trình sản xuất trong xã hội, tiền lương là hình thái cơ bản của thù lao lao động thể hiện giá trị của khối lượng sản phẩm và dịch mà người lao động nhận được trên cơ sở trao đổi sức lao động. Hiểu theo cách này, thì tiền lương bị chi phối bởi quy luật giá trị và phân phối theo lao động.
Duy trì và phát triển sức lao động
Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của lao động nhằm thoả mãn phần lớn các nhu cầu văn hoá và vật chất của người lao động. Mức độ thoả mãn các nhu cầu của người lao động phần lớn được căn cứ vào độ lớn của các mức tiền lương. Độ lớn của tiền lương phải tạo ra các điều kiện cần thiết để đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho người lao động và gia đình họ.Hiểu theo cách này tiền lương bị chi phối bởi quy luật tái sản xuất sức lao động. Có nghĩa là trong chừng mực nhất định, cần thiết phải đảm mức lương tối thiểu cho người lao động không phụ thuộc vào hiệu quả lao động của họ.Bên cạnh đó các mức tiền lương tăng sẽ có tác động nâng cao khả năng tái sản xuất sức lao động, tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao động và các giá trị khác của người lao động.
Kích thích lao động
Các mức tiền lương và cơ cấu tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan trọng và là động cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của tiền lương phụ thuộc vào hiệu qủa sản xuất kinh doanh, khi khối lượng các tư liệu sinh hoạt của người lao động phụ thuộc trực tiếp vào độ lớn của các mức lương thì người lao động sẽ quan tâm đến kết quả hoạt động của họ. Hiểu theo cách này, tiền lương bị chi phối bởi quy luật không ngừng thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt và không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Kích thích kinh tế phát triển và thúc đẩy sự phân công lao động trên toàn bộ nền kinh tế
Trên lĩnh vực vĩ mô, tổng mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ cần thiết sản xuất. Do vậy, việc tăng các mức lương có tác dụng kích thích tăng năng suất, qua đó tăng nhu cầu về lao động. Bên cạnh đó, sự chênh lệch tiền lương giữa các ngành, các nghề thúc đẩy sự phân công và bố trí lao động cũng như các biện pháp nâng cao năng suất cho người lao động
Chức năng xã hội của lao động
Cùng với việc không ngừng nâng cao sức lao động, tiền lương là yếu tố kích thích các mối quan hệ lao động. Việc gắn tiền lương với kết quả lao động và địa vị kinh tế sẽ thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để đạt được các mức tiền lương cao nhất. Bên cạnh đó tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển.
Các yếu tố chi phối tiền lương
Khi tổ chức tiền lương cần phải nghiên cứu kỹ các yếu tố xác định và ảnh hưởng đến tiền lương nếu không tiền lương sẽ mang tính chất chủ quan và thiên lệch. Các yếu tố chi phối tiền lương đó là:
- Giá trị công việc
- Trình độ phát triển kinh tế chung của đất nước và của từng vùng
- Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Mô hình phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp
-Thâm niên làm việc trong doanh nghiệp
- Các khoản chi phí khác về tiền lương
Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương
Công việc
- Kỹ năng
- Nỗ lực
- Trách nhiệm
- Điều kiện làm việc
Người lao động
- Kinh nghiệm
- Khả năng phát triển
- Thâm niên làm việc
- Thái độ tinh thần
Công ty
- Định mức lao động kỹ thuật
- Khả năng chi trả
- Chính sách chiến lược
- Đặc điểm hoạt động
Xã hội
- Cung cầu lao động
- Điều kiện kinh tế quốc gia
- Giá cả sinh hoạt
- Luật pháp
- Quan niệm thành kiến
Thu nhập, tiền lương
Thu nhập của người lao động
Thu nhập có cùng bản chất với tiền lương nhưng được hiểu với nghĩa rộng hơn, thu nhập của một người lao động là tất cả những khoản thu mà người lao động đó nhận được từ việc cung ứng lao động của mình, bao gồm cả tiền lương (tiền công, tiền thưởng, tiền ăn ca...)
Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp nước ta được phân thành nhiều nguồn, song các nguồn chủ yếu nhất bao gồm:
- Thu nhập từ tiền lương và các khoản có tính chất lương
- Thu nhập nhận từ quỹ BHXH trả thay lương do ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch
- Thu nhập nhận được từ các quỹ của doanh nghiệp
-Thu nhập khác
Hiện nay, nguồn thu từ tiền lương và thu nhập nhận từ các quỹ của doanh nghiệp của lao động ở nước ta chưa giữ vai trò chủ yếu trong việc đảm bảo mức sống của người lao động. Họ phải tìm kiếm nhiều việc làm khác để kiếm sống và vì thế tính chất không bình đẳng (hay không công bằng) trong thu nhập của người lao động nước ta đang xu hướng gia tăng.
Để đánh giá tình hình thu nhập của lao động từ doanh nghiệp ta có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
Thu nhập thực tế của người lao động
=
Thu nhập danh nghĩa
-
Thuế thu nhập đã nộp
x
1
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số thu nhập bình quân của lao động
=
Thu nhập thực tế bình quân kỳ báo cáo
Thu nhập thực tế bình quân kỳ gốc
Tốc độ phát triển thu nhập thực tế của lao động
=
Chỉ số thu nhập danh nghĩa
Chỉ số giá tiêu dùng
Khi thu nhập của người lao động tăng nhanh hơn mức tăng giá hàng tiêu dùng thì đời sống của người lao động sẽ được cải thiện.
Tiền lương trong nền kinh tế thị trường
Các đặc điểm cơ bản của tiền lương
- Trong nền kinh tế thị trường việc đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ là một mục tiêu quan trọng. Do vậy tiền lương không bị hạ thấp một cách quá đáng hoặc quá linh hoạt, trái lại nó dừng ở một mức vừa phải và có tính ổn định.Tuy nhiên, thất nghiệp vì thế cũng có nguy cơ gia tăng nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời của chính phủ thông qua các giải pháp kích cầu.
- Trong nền kinh tế thị trường có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức tăng lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề để tăng tiền lương, thu nhập, nâng cao mức sống của người làm công ăn lương và do vậy lợi nhuận phải được thực hiện trên cơ sở tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, không dựa trên việc khai thác bóc lột sức lao động.
- Trong nền kinh tế thị trường việc tăng tiền lương cần thiết phải đạt được trên cơ sở tăng cường mối liên kết giữa lao động và quản lý, tiến tới sự kết hợp hài hoà của các lợi ích, trên cơ sở các bên cùng có lợi, cùng chia sẻ lợi ích.
- Phân phối tiền lương và thu nhập trong nền kinh tế thị trường phản ánh chênh lệch về số lượng và chất lượng lao động thực hiện. Tiền lương không đơn thuần là chi phí đầu vào mà còn thể hiện cả kết quả của đầu ra. Bài toán phân chia tiền lương trong nền kinh tế thị trường là bài toán phân chia lợi ích được thực hiện thông qua việc phát huy vai trò của thoả ước lao động cũng như sự can thiệp của chính phủ.
- Trong nền kinh tế thị trường nhà nước tham gia một cách tích cực và chủ động vào quá trình phân phối (bao gồm cả phân phối lần đầu và phân lại). Tuy nhiên, nhà nước thực sự phân chia tiền lương thông qua hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế, xã hội để đảm bảo hạn chế sự bóc lột và tiêu cực trong kinh doanh của người chủ đồng thời khuyến khích lợi lợi ích chính đáng, tính tích cực sáng tạo của họ.
- Việc làm, an toàn việc làm và an ninh xã hội là mối quan tâm của người lao động, do đó mức tiền lương cần phải đủ lớn để duy trì cuộc sống của họ ngày hôm nay và cho cả khi họ không có sức lao động. Nói cách khác, tiền lương cần bao gồm cả tiền lương cơ bản và một phần cho an ninh xã hội. phòng khi thất nghiệp. Về thực chất tiền lương này cao hơn so với tiền lương của nền kinh tế TBCN
Các nguyên tắc cơ bản của tiền lương
- Tiền lương bị chi phối không những bởi quy luật giá trị, quy luật cung cầu lao động mà còn bị chi phối bởi các quy luật kinh tế khác, trong đó có quy luật về mức sống tối thiểu.
- Cách biệt về tiền lương giữa những người lao động thấp nhất và cao nhất như tiền lương trong nền kinh tế TBCN.
- Tiền lương có tính đảm bảo cao, không những đảm bảo mức sống cho người lao động trong quá trình làm việc mà còn đảm bảo cho họ có mức sống khi suy giảm sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn.
- Tiền lương dựa trên điều kiện lao động tốt, các tiêu chuẩn lao động và chế độ làm việc ngày càng được hoàn thiện.
- Tiền lương linh hoạt tương đối, không những thể hiện giá trị lao động mà cả hiệu suất lao động do sự tham gia của người lao động vào quá trình phân phối lần đầu và lần hai trong nội bộ doanh nghiệp.
- Mức tiền lương tăng dựa trên sự khai thác các yếu tố tiềm năng trong sản xuất tiền lương là kết quả của mối liên kết quản lý lao động, không dựa vào sự chiếm đoạt của người sử dụng lao động đối với người lao động
Các nguyên tắc cơ bản của tổ chức tiền lương
Yêu cầu của tổ chức tiền lương
- Đảm bảo tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện đúng chức năng và vai trò của tiền lương trong đời sống xã hội. Yêu cầu này cũng đặt ra những đòi hỏi cần thiết khi xây dựng các chính sách tiền lương.
- Làm cho năng suất không ngừng nâng cao.Tiền lương là một đòn bẩy quan trọng để nâng cao năng suất lao động, tạo cơ sở quan trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do vậy, tổ chức tiền lương phải đạt yêu cầu làm tăng năng suất lao động. Mặt khác đây cũng là yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển, nâng cao trình độ và kỹ thuật của người lao động.
- Đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu
- Tiền lương luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi người lao động. Một chế độ tiền lương đơn giản rõ ràng, dễ hiểu có tác động trực tiếp tới động cơ và thái độ làm việc của họ, đồng thời làm tăng hiệu quả của hoạt động quản lý, nhất là quản lý về tiền lương
Nguyên tắc cơ bản của tổ chức tiền lương
Nguyên tắc cơ bản của tổ chức tiền lương là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng một cơ chế trả lương, quản lý tiền lương và chính sách thu nhập thích hợp trong một thể chế kinh tế nhất định ở nước ta, khi xây dựng chế độ tiền lương và tổ chức trả lương theo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau
Trả công ngang nhau cho lao động như nhau xuất phát từ nguyên tắc phân phối theo lao động. Nguyên tắc này dùng thước đo lao động khác nhau về tuổi tác, giới tính, ttrình độ ...nhưng có mức hao phí lao động như nhau thì được trả lương như nhau.
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng và nó đảm bảo được tính công bằng và bình đẳng trong trả lương. Điều này sẽ có sức khuyến khích rất lớn đối với người lao động.
Nguyên tắc2: Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn thu nhập bình quân
Năng suất lao động không ngừng tăng lên, đó là một quy luật.Tiền lương của công nhân cũng tăng lên không ngừng do tác động của nhiều yếu tố khách quan. Giữa tiền lương và tăng năng suất lao động có liên quan chặt chẽ với nhau. Trong từng doanh nghiệp thì thấy rằng,tăng tiền lương dẫn đến tăng chi phí sản xuất kinh doanh:tăng năng suất lao động lại làm giảm chi phí cho từng đơn vị sản phẩm. Một doanh nghiệp chỉ thực sự kinh doanh có hiệu quả khi chi phí nói chung cũng như chi phí cho một đơn vị sản phẩm giảm đi, tức là mức giảm chi phí do tăng năng suất lao động phải lớn hơn mức tăng chi phí do tăng thu nhập bình quân.
Nguyên tắc 3: Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa người lao động làm các nghề khác nhau trong nề kinh tế quốc dân
Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm việc trong các nghề khác nhau nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong trả lương cho người lao động.Thực sự nguyên tắc này là cần thiết, dựa trên những cơ sở sau đây:
- Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành
- Điều kiện lao động
- ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân
- Sự phân bố theo khu vực sản xuất
Các chế độ tiền lương
Chế độ tiền lương cấp bậc
1.1 Khái niệm
Chế độ tiền lương cấp bậc là toàn bộ những quy định của nhà nước mà các xí nghiệp, doanh nghiệp áp dụng, vận dụng để trả lương cho người lao động. Căn cứ vào chất lượng và điều kiện công việc khi họ hoàn thành một công việc nhất định. Chế độ tiền lương cấp bậc áp dụng cho công nhân, những người lao động trực tiếp và trả lương theo kết quả lao động của họ, thể hiện qua chất lượng và số lượng.
1.2 Nội dung của chế độ tiền lương cấp bậc
1.2.1 Thang lương
Thang lương là bảng xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa những người công nhân trong cùng một nghề hoặc một nhóm nghề giống nhau, theo trình độ lành nghề (xác định theo bậc) của họ. Những nghề khác nhau sẽ có những thang lương tương ứng với nhau.
Một thang lương bao gồm một số bậc lương và hệ số phù hợp với các bậc lương đó. Số bậc và các hệ số của thang lương khác nhau không giống nhau
- Bậc lương là bậc phân biệt về trình độ lành nghề của công nhân và được xếp từ thấp đến cao (bậc cao nhất có thể là bậc 3, bậc 6, bậc 7...)
- Hệ số lương chỉ rõ lao động của công nhân ở một bậc nào đó (lao động có trình độ tay nghề cao), được trả lương cao hơn công nhân bậc 1 (bậc có độ lành nghề thấp nhất hay còn gọi là lao động giản đơn) trong nghề bao nhiêu lần.
Sự tăng lên của hệ số lương giữa các bậc lương được xem xét ở hệ số tăng tuyệt đối và hệ số tăng tương đối.
Trong khi xây dựng thang lương, các hệ tăng tương đối của hệ số lương có thể là hệ số tăng tương đối luỹ tiến (tăng đổi), hệ số tăng tương đối đều đặn (không đổi) và hệ tăng lương luỹ thoái (giảm dần)
- Thang lương có hệ số tăng tương đối luỹ tiến là thang lương trong đó hệ số tăng tương đối của các bậc sau cao hơn hệ số tăng tương đối của các bấc đứng trước nó.
- Thang lương có hệ số tăng tương đối đều đặn là thang lương mà hệ số tăng tương đối của các bậc khác nhau là như nhau.
- Thang lương có hệ tăng tương đối luỹ thoái là thang lương có các hệ số tăng tương đối của các bậc sau nhỏ hơn hệ số tăng tương đối của các bậc đứng trước
ã Trình tự khi xây dựng một thang lương
- Xây dựng chức danh nghề của các nhóm công nhân
- Xác định số bậc của thang lương
- Xác định hệ số lương của các bậc
1.2.1 Mức tiền lương
Mức tiền lương là số tiền dùng để trả công lao động trong một đơn vị thời gian (giờ, ngày, tháng) phù hợp với các bậc trong thang lương.
Trong một thang lương, mức tuyệt đối của mức lương được quyết định cho bậc một hoặc mức lương tối thiểu, các bậc còn lại thì được tính vào suất lương bậc một và hệ số lương tương ứng với bậc đó, theo công thức sau:
Si = S1 x ki
Trong đó:
Si : suất lương (mức lương) bậc i
S1 : suất lương (mức lương) bậc 1 hay mức lương tối thiểu
ki :hệ số bậc lương
Mức lương bậc 1 là mức lương ở bậc thấp nhất trong nghề. Mức lương này ở từng nghề khác nhau cũng khác nhau, phụ thuộc vào mức độ phức tạp về kỹ thuật và điều kiện lao động, và phụ thuộc vào hình thức trả lương.Trong nền kinh tế, mức lương bậc 1 của một nghề nào đó luôn luôn lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu.
Mức lương tối thiểu là mức tiền lương trả cho người lao động làm những công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường, bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tái sản xuất mở rộng. Tiền lương tối thiểu thường được xác định qua phân tích chi phí về ăn, mặc, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi phí về học tập, bảo hiểm sức khoẻ...
1.2.3 Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật
Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật là văn bản quy định về mức độ phức tạp của công việc và yêu cầu về trình độ lành nghề của công nhân ở một bậc nào đó phải có sự hiểu biết nhất định về mặt kiến thức lý thuyết và phải làm được những công việc nhất định trong thực hành. Trong bảng tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật thì cấp bậc công nhân có liên quan chặt chẽ với nhau.
Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật có ý nghĩa rất quan trọng trong tổ chức lao động và trả lương. Trên tiêu chuẩn kỹ thuật mà người lao động có thể được bố trí làm việc theo đúng yêu cầu công việc, phù hợp với khả năng lao động. Qua đó có thể thực hiện trả lương theo đúng chất lượng của người lao động khi họ làm việc trong cùng một nghề hay giữa các nghề khác nhau.
Có hai loại tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật
- Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật chung, thống nhất của các nghề chung, đó là các nghề có trong nhiều ngành kinh tế kỹ thuật trong nền kinh tế. Chẳng hạn công nhân cơ khí, dù họ làm việc ở các ngành khác nhau, nhưng cùng nằm trong bảng tiêu chuẩn kỹ thuật của công nhân cơ khí nói chung.
- Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật theo ngành. Đó là, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật riêng, áp dụng trong một ngành nghề, mang tính đặc thù mà không thể áp dụng được cho các ngành khác. Ví dụ, công nhân tàu biển.
Chế độ tiền lương chức vụ
2.1 Khái niệm
Chế độ tiền lương chức vụ là toàn bộ những quy định của nhà nước mà các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội và các doanh nghiệp áp dụng để trả lương cho lao động quản lý
2.2 Xây dựng chế độ tiền lương chức vụ
Tiền lương trong chế độ tiền lương chức vụ trả theo thời gian, trả theo tháng và dựa vào những bảng lương chức vụ.
Việc xây dựng chế độ tiền lương chức vụ được thực hiện theo trình tự sau:
- Xây dựng chức danh của người quản lý. Thông thường trong quản lý có ba nhóm chức danh sau.
+ Chức danh lãnh đạo quản lý
+ Chức danh chuyên môn kỹ thuật
+ Chức danh thực hành, phục vụ, dịch vụ
- Đánh giá sự phức tạp của lao động trong từng chức danh
- Xác định bội số và số bậc trong một bảng lương hoặc ngạch lương
- Xác định mức lương bậc1 và các mức lương khác trong bảng lương
Công tác quản lý tiền lương
Tiền lương dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là một bộ phận của thu nhập quốc dân, biểu hiện bằng tiền mà nhà nước phân phối cho công nhân, viên chức theo kế hoạch, tuỳ theo số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã cống hiến cho xã hội. Nó khác hẳn về bản chất với tiền lương dưới chủ nghĩa tư sản.
Quản lý quỹ tiền lương tốt, trước hết giúp cho doanh nghiệp giữ vững được các chỉ tiêu như: chỉ tiêu lao động, chỉ tiêu giá thành, lợi nhuận...Tốc độ tăng tiền lương chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động thì sẽ hạ được giá thành, tăng lợi nhuận, hoàn thành vượt mức kế hoạch thu, nộp đối với nhà nước. Ngược lại, nếu tốc độ tăng tiền lương nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao động thì giá thành sẽ tăng, lợi nhuận sẽ giảm...Sử dụng hợp lý và tiết kiệm quỹ tiền lương, quản lý tốt quỹ tiền lương sẽ tránh được tình trạngvượt kế hoạch tiền lương mà kế hoạch sản lượng không vượt...Do đó sẽ góp phần vào việc thực hiện tỷ lệ cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng trong xã hội, và việc ổn định vật giá chung...không những thế còn làm cho tình hình tài vụ của doanh nghiệp được ổn định, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, thúc đẩy doanh nghiệp hoàn thành sản xuất, đạt và vượt kế hoạch hạ giá thành, kế hoạch lợi nhuận, đồng thời cũng giúp doanh nghiệp có điều kiện được trích quỹ doanh nghiệp.
Mọi lệch lạc, thiếu sót hoặc sai lầm trong công tác tiền lương không những gây khó khăn cho bản thân doanh nghiệp, mà còn gây tác hại cho nền kinh tế, tài chính chung của cả nước...
Muốn quản lý tốt quỹ tiền lương, kinh nghiệm cho biết là phải làm tốt ba khâu công tác sau:
Công tác lập kế hoạch tiền lương
Kế hoạch tiền lương có liên quan khăng khít với kế hoạch lao động và quản lý tiền lương có tác động qua lại đối với quản lý lao động ở doanh nghiệp. Thông qua việc lập tốt kế hoạch tiền lương và quản lý tốt tiền lương có thể phát hiện những bất hợp lý hoặc mất cân đối trong việc bố trí và sử dụng lao động, những hiện tượng ngừng việc, nghỉ việc không có lý do chính đáng.
Tiền lương là phần thu nhập chủ yếu trong thu nhập gia đình công nhân, viên chức. Giải quyết và quản lý tốt quỹ tiền lương góp phần vào việc quan trọng vào việc cải thiện đời sống của người lao động, là động lực thúc đẩy mạnh mẽ việc tăng năng suất lao động và củng cố kỹ luật lao động.
Lập kế hoạch tiền lương phải suất phát từ trình độ phát triển sản xuất và căn cứ vào các thể lệ, chế độ, chính sách của đảng và nhà nước mà quy định mức nâng cao đời sống thích hợp.
Có hai phương pháp lập kế hoạch tiền lương
- Phương pháp tính theo số lượng sản phẩm và đơn giá từng loại sản phẩm
- Phương pháp dựa vào chỉ tiêu lương bình quân, chỉ tiêu lao động và số ngày công thực tế trả lương để tính
Phương pháp thứ nhất là phương pháp tốt hơn, vì không những nó giúp cho việc lập kế hoạch được chính xác mà còn giúp cho việc quản lý và hoạch toán tiền lương được chặt chẽ, cụ thể, nhưng muốn áp dụng phương pháp này phải làm tốt công tác định mức và chi phí đơn giá
Công tác quản lý quỹ tiền lương
Muốn quản lý quỹ tiền lương được tốt, ngoài việc lập kế hoạch tiền lương cho chính xác còn phải tổ chức chỉ đạo thực hiện chu đáo kế hoạch đó và chú ý mấy khâu công tác sau đây:
- Giữ vững chỉ tiêu kế hoạch lao động, chống xu hướng cốt làm được việc bằng bất cứ giá nào, tuyển bừa, sử dụng ẩu.
- Phân chia quỹ tiền lương cho từng tháng, từng quý với khối lượng sản xuất
- Tổ chức theo dõi, thống kê, hoạch toán cho tốt và tiến hành phân tích định kỳ hàng tháng, hàng quý để kịp thời phát hiện các hiện tượng lệch lạc hoặc mất cân đối cần giải quyết.
- Phân phối tốt và công tác chặt chẽ với cơ quan tài chính, ngân hàng nhà nước và ngân hàng kiến thiết là những cơ quan tổng hợp, theo dõi việc quản lý tiền lương
- Làm tốt và tích cực mở rộng diện trả lương theo sản phẩm ở những nơi có điều kiện thực hiện đúng đắn chế độ thưởng phạt.
- Hết sức chú ý làm tốt công tác quản lý lao động mà khâu trung tâm là công tác tổ chức lao động và định mức lao động. Đó là cơ sở tốt nhất để đảm bảo thực hiện tốt lế hoạch tiền lương
Công tác trả lương theo sản phẩm
Biện pháp quan trọng để quản lý tốt quỹ tiền lương là mở rộng diện trả lương theo sản phẩm và nâng cao chất lượng công tác trả lương theo sản phẩm.Vì vậy muốn thực hiện tốt công tác trả lương theo sản phẩm phải tiến hành từng bước chuẩn bị về mặt tư tưởng, tổ chức và chế độ
- Về tư tưởng, đối với cán bộ và công nhân nói chung, phải được giáo dục sâu sắc giác ngộ chủ nghĩa xã hộ._.i, về nguyên tắc tiền lương trả theo số lượng và chất lượng lao động. Đặc biệt chú ý phân tích rõ sự khác nhau về bản chất của tiền lương dưới chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa
- Về tổ chức, chuẩn bị một lực lượng cán bộ chuyên trách công tác trả lương theo sản phẩm và kiện toàn, bổ sung các bộ phận nghiệp vụ có liên quan như: tổ chức lao động, định mức, thống kê, kế toán, kỹ thuật, cung ứng...
- Về chế độ, quy định các định mức lao động cho chính xác, xác định cấp bậc công việc và tính đơn giá trả lương theo sản phẩm, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật cần thiết khác như: định mức sử dụng nguyên vật liệu, tỷ lệ hàng hỏng...
Phần II
hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích tiền lương - thu nhập
I. Yêu cầu và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu
Để xây dựng hệ thống chỉ tiêu trước hết ta phải định nghĩa hệ thống chỉ tiêu thống kê. Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp các chỉ tiêu có thể phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của tổng thể và giữa tổng thể nghiên cứu với các hiện tượng có liên quan.
1.Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê
Phải đáp ứng mục đích, yêu cầu công tác quản lý
Phải đảm bảo đủ các thông tin cần thiết, dẽ hiểu, tính toán và thu thập thông tin đơn giản
Phù hợp với yêu cầu quản lý
Thể hiện tương đối toàn diện công tác quản lý lao động - tiền lương
2.Yêu cầu khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu
- Phải đảm bảo tính hướng đích
Yêu cầu đòi hỏi đầu tiên đó là phải đảm bảo tính hướng đích, tức là phải căn cứ vào nhiệm vụ phân tích để lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp. Không thể phân tích theo các phương pháp mà thực tế không đòi hỏi, không phù hợp với yêu cầu đặt ra. Thực tế đặt ra yêu cầu gì thì phải lựa chọn phương pháp theo đúng yêu cầu đó và phải biết khéo léo kết hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm phát huy tổng hợp tác dụng của chúng.
- Đảm bảo tính khả thi
Đảm bảo tính khả thi cũng là nguyên tắc để chọn phương pháp phân tích thống kê. Để giải quyết một vấn đề nào đó phải căn cứ vào số liệu hiện có, xem số liệu đó có cho phép phân tích không và phân tích theo phương pháp nào, đối với phương pháp dãy số thời gian, phương pháp hồi quy tương quan thì cần phải có nguồn số liệu nhiều năm đủ để đánh giá bản chất, xu hướng qui luật của hiện tượng.
- Đảm bảo tính hệ thống
Căn cứ vào đặc điểm của từng hiện tượng và đặc điềm vận dụng của từng phương pháp tiến hành cho phù hợp. Mỗi hiện tượng đều có tính chất và hình thức khác nhau, áp dụng phương pháp nào đều có ưu, nhược điểm, vai trò, tác dụng khác nhau, áp dụng trong những điều kiện hoàn cảnh không giống nhau. Do vậy phải kết hợp nhiều phương pháp phân tích khác nhau tạo thành một hệ thống các phương pháp phân tích cho phép phản ánh đúng bản chất của vấn đề nghiên cứu.
Đặc điểm của phân tích thống kê tình hình tiền lương- thu nhập của xí nghiệp là lấy con số thống kê làm tư liệu, lấy phương pháp thống kê làm công cụ, phải dựa trên cơ sở phân tích lý luận toàn bộ sự kiện.
Nhiệm vụ của phân tích thống kê tình hình tiền lương –thu nhập là nêu lên xu hướng, mức độ biến động trong thời gian, không gian, so với mục tiêu, các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố.
II. Hệ thống chỉ tiêu
Quỹ tiền lương
1.1 Khái niệm
Quỹ tiền lương là tổng số tiền dùng để trả cho người lao động do cơ quan (doanh nghiệp) quản lý
1.2 Phân loại
w Nếu căn cứ vào mức độ ổn định các bộ phận chia ra
- Quỹ lương cố định (quỹ lương cấp bậc, cơ bản, bộ phận lương cứng): là quỹ tiền lương được tính dựa vào hệ thống thang lương bảng lương
- Quỹ tiền lương biến đổi: gồm các khoản phụ cấp, tiền thưởng
w Nếu căn cứ vào sự hình thành và sử dụng quỹ lương chia ra
- Quỹ lương kế hoạch: là tính quỹ lương dự tính tại thời kỳ nào đó
- Quỹ lương báo cáo (thực hiện): là số tiền thực tế đã chi, trong đó bao gồm cả các khoản không được lập trong kế hoạch
w Nếu căn cứ vào hình thức trả lương chia ra
- Quỹ tiền lương sản phẩm: là tổng số tiền lương trả cho lao động căn cứ vào số lượng sản phẩm mà họ tạo ra
- Quỹ tiền lương theo thời gian: là tổng số tiền trả theo chức vụ, theo hệ số
- Quỹ tiền lương bổ sung: là tổng số tiền lương cho thời gian mà lao động không tham gia như nghỉ phép năm, nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ theo chế độ của lao động nữ, hội họp, học tập và làm công tác xã hội
wNếu căn cứ vào mức độ tham gia của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quỹ tiền lương gồm:
Quỹ tiền lương của công nhân sản xuất: là quỹ tiền lương của người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Quỹ tiền lương của công nhân không trực tiếp sản xuất: gồm quỹ tiền lương của cán bộ lãnh đạo, giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng và quỹ lương của nhân viên hành chính sự nghiệp.
w Nếu căn cứ vào thời gian làm việc thực tế của người lao động để trả lương quỹ tiền lương gồm:
- Quỹ tiền lương trực tiếp ( Ftt): là tổng số tiền trả cho người lao động căn cứ vào số giờ làm việc thực tế trong kỳ
- Quỹ tiền lương giờ ( Fg ): bao gồm quỹ tiền lương trực tiếp và các khoản phụ cấp lương giờ
- Quỹ tiền lương ngày ( Fn ): là toàn bộ số tiền trả cho người lao động căn cứ vào số ngày làm việc thực tế trong kỳ
Trong quỹ lương ngày ngoài tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào số giờ công làm việc thực tế còn bao gồm cả tiền lương cho những công không làm việc nhưng được hưởng theo quy định (thời gian ngừng việc trong nội bộ ca, thời gian hội họp, học tập...)
- Quỹ tiền lương tháng (quý, năm) (FT ): là toàn bộ số tiền trả cho người lao động trong từng quý, tháng, năm.
Trong quỹ tiền lương tháng (quý, năm) ngoài số tiền lương trả cho ngày mà người lao động đã thực tế làm việc còn bao gồm cả số tiền lương trả cho thời gian không làm việc nhưng vẫn được hưởng lương (thời gian nghỉ phép năm, thời gian hội họp, học tập...)
Cơ cấu của quỹ tiền lương bao gồm: lương chính (lương cơ bản) và lương phụ. Lương chính lại bao gồm lương trực tiếp và lương phụ cấp. Cơ cấu quỹ tiền lương có thể được mô tả bằng sơ đồ sau:
Lương trực tiếp
Phu cấp lương
Lương chính cơ bản
Lương phụ
Quỹ tiền lương
Trong đó:
+ Lương trực tiếp: là khoản tiền lương trả trực tiếp cho người lao động theo chức vụ, theo sản phẩm, theo mức khoán hoặc theo thời gian
+ Phụ cấp lương: gồm các khoản phụ cấp làm đêm, thêm giờ, tiền thưởng năng suất, trách nhiệm...
+ Lương phụ: là khoản tiền lương được từ công tác phí, nhuận bút, nghỉ phép, đi học...
Mối quan hệ giữa các loại quỹ tiền lương giờ, ngày, tháng (quý, năm) được mô tả bằng sơ đồ sau:
Quỹ tiền lương trực tiếp
Phụ cấp lương giờ
Quỹ tiền lương giờ
Phụ cấp lương ngày
Quỹ tiền lương ngày
Phụ cấp lương tháng (quý, năm)
Quỹ tiền lương tháng (quý, năm)
Trong đó:
+ Phụ cấp lương giờ: là khoản phụ cấp và tiền thưởng gắn với giờ làm việc
+ Phụ cấp lương ngày: là khoản phụ cấp và tiền thưởng gắn liền với ngày lao động. Gồm tiền trả cho giờ làm việc không thực tế (giờ ngừng việc nội bộ ca, giờ nghỉ trong nội bộ ca...)
+ Phụ cấp lương tháng: là khoản phụ cấp và tiền thưởng gắn gắn với kỳ công tác. Gồm tiền trả cho ngày không làm việc thực tế (nghỉ phép, trợ cấp thâm niên...)
Chỉ tiêu quỹ tiền lương có thể được tính cho từng doanh nghiệp, từng ngành hoặc toàn bộ nền kinh tế
Hệ số phụ cấp lương
Hệ số phụ cấp lương là quan hệ tỷ lệ giữa các loại quỹ lương (hoặc giữa các mức lương bình quân) theo thời gian với nhau. Hệ số phụ cấp lương cho phép nghiên cứu sự bình đẳng theo chiều dọc trong phân phối thu nhập
Các loại hệ số phụ cấp
Hệ số phụ cấp lương giờ (Hfg)
=
Quỹ tiền lương giờ
Quỹ tiền lương trực tiếp
Hệ số phụ cấp lương ngày (Hfn)
=
Quỹ tiền lương ngày
Quỹ tiền lương giờ
Hệ số phụ cấp lương tháng (quý, năm) (Hftq,n)
=
Quỹ tiền lương tháng (quý, năm)
Quỹ tiền lương trực tiếp
Mối quan hệ giữa các loại quỹ tiền lương và hệ số phụ cấp lương
Fg = Ftt x Hfg
Fn = Fg x Hfn
= Ftt x Hfg x Hfn
Ft = Fnx Hft(q,n)
= Fg x Hfn x Hft(q,n)
= Ftt x Hfg x Hfn x Hft(q,n)
Các phương trình trên được sử dụng để nghiên các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương
Mức lương
Mức lương phản ánh số tiền người lao động nhận được trong kỳ. Chỉ tiêu này được thể hiện qua hai chỉ tiêu: mức lương cá biệt và mức lương bình quân
- Mức lương các biệt phản ánh mức lương của từng lao động
- Mức lương bình quân phản ánh mức độ điển hình về tiền lương của người lao động trong một thời kỳ nào đó
Công thức xác định:
Trong đó: F: quỹ tiền lương
X : tiền lương bình quân
T : số lao động, thời gian lao động
III. Một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiền lương- thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp
1. Dãy số thời gian
1.1. Khái niệm
Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian.
Cấu tạo của dãy số thời gian: gồm hai thành phần
+ Thời gian: sử dụng đơn vị thời gian khác nhau có thể là ngày, tuần, tháng, quý, năm … Độ dài giữa hai thời gian liền nhau được gọi là khoảng cách thời gian .
+ Chỉ tiêu về hiện tượng nghiên cứu: được thể hiện là số tương đối, số tuyệt đối, số trung bình. Trị số của chỉ tiêu được gọi là mức độ của dãy số.
Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai.
Dựa vào đặc điểm về quy mô của hiện tượng qua thời gian có thể phân biệt dãy số thời kỳ và dãy số thời điểm.
+ Dãy số thời kỳ: là một dãy số mà các mức độ của dãy số là số tuyệt đối thời kỳ, nó phản ánh quy mô của hiện tượng trong một khoảng thời gian hoặc một độ dài thời gian nhất định. Trong dãy số thời kỳ các mức độ là những số tuyệt đối thời kỳ, do đó độ dài của khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài hơn .
+ Dãy số thời điểm: biểu hiện quy mô của hiện tượng tại những thời điểm nhất định.Việc cộng các trị số của chỉ tiêu không phản ánh quy mô của hiện tượng.
Yêu cầu khi xây dựng dãy số thời gian: để phản ánh sự phát triển khách quan của hiện tượng qua thời gian thì yêu cầu cơ bản khi xây dựng dãy số thời gian là phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong một dãy số. Cụ thể, phương pháp tính chỉ tiêu nghiên cứu qua thời gian phải thống nhất, phạm vi nghiên cứu của hiện tượng qua thời gian phải nhất trí, khoảng cách thời gian trong một dãy số nên bằng nhau đặc biệt là đối với dãy số thời kỳ.
1.2.Các chỉ tiêu phân tích
Để phản ánh đặc điểm biến động qua thời gian của hiện tượng được nghiên cứu, người ta thường tính các chi tiêu sau:
Mức độ trung bình theo thời gian:
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu các các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian. Tuỳ theo dãy số thời kỳ hoặc dãy số thời điểm mà có các công thức tính khác nhau.
+ Đối với dãy số thời kỳ, mức độ trung bình theo thời gian được tính theo công thức sau đây.
Trong đó: yi (i = ) là các mức độ của dãy số thời kỳ
+ Đối với dãy số thời điểm
- Dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau
Trong đó: yi (i =) là các mức độ của dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau.
- Dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian không bằng nhau
Mức độ trung bình theo thời gian được tính bằng công thức sau đây:
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối:
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức độ tuyệt đối giữa hai thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu (+) và ngược lại mang dấu âm (-). Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, ta có các chỉ tiêu về lượng tăng (hoặc giảm) sau đây:
+ Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn: là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu (y0) và mức độ kỳ đứng liền trước đó (yi –1). Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng (hoặc giảm) tuyệt đối giữa hai thời gian liền nhau. Công thức tính như sau:
(i = )
Trong đó: là lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn
+ Lượng tăng (giảm) tuyệt đối định gốc: là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu (yi) và mức độ của một kỳ nào đó được chọn làm gốc, thường là mức độ đầu tiên trong dãy số (y1). Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng (giảm) tuyệt đối trong những khoảng thời gian dài. Nếu kí hiệu Di là các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc ta có.
(i = )
+ Lượng tăng (giảm) tuyệt đối trung bình: là mức trung bình của các lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn. Nếu kí hiệu là lượng tăng (giảm) tuyệt đối trung bình, ta có:
Tốc độ phát triển
Tốc độ phát triển là một số tương đối (thường được biểu hiện bằng lần hoặc %) phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng qua thời gian. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, ta có các loại tốc độ phát triển sau đây
+Tốc độ phát triển liên hoàn: phản ánh sự biến động của hiện tượng hai thời gian liền nhau. Công thức tính như sau:
ti = (i = )
Trong đó: ti: tốc độ phát triển liên hoàn của thời gian i so với thời gian i-1
yi-1: mức độ của hiện tượng ở thời gian i-1
yi: mức độ của hiện tượng thời gian i
+Tốc độ phát triển định gốc: phản ánh sự biến động của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài. Công thức tính như sau
Ti = (i - )
Trong đó: Ti: tốc độ phát triển định gốc
yi: mức độ của hiện tượng ở thời gian i
y1: mức độ đầu tiên của dãy số.
Giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc tộ phát triển định gốc có các mối liên hệ sau đây.
- Tích các tốc độ phát triển liên hoàn bằng tốc độ phát triển định gốc
t2. t3...tn= Tn
Hay (i = )
+Tốc độ phát triển trung bình: là trị số đại biểu của các tốc độ phát triển liên hoàn. Công thức số trung bình nhân. Nếu kí hiệu là tốc độ phát triển trung bình, thì công thức tính như sau:
Từ công thức trên cho thấy: chỉ nên tính tốc độ phát triển trung bình đối với những hiện tượng biến động theo một xu hướng nhất định
Tốc độ tăng (hoặc giảm)
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ của hiện tượng giữa hai thời gian đã tăng (+) hoặc giảm (-) bao nhiêu lần (hoặc bao nhiêu phần trăm). Tương ứng với các tốc độ phát triển, ta có các tốc độ tăng (hoặc giảm) sau đây.
+Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn: là tỷ số giữa lượng tăng (giảm) liên hoàn với mức độ kỳ gốc liên hoàn. Nếu kí hiệu ai (i =) là tốc độ tăng (giảm) liên hoàn thì:
ai= (i =)
hay
ai =
ai =ti – 1
Nếu tính ti bằng % thì: ai(%) = ti(%) – 100
+Tốc độ tăng (giảm) định gốc: là tỷ số giữa lượng tăng (giảm) định gốc với mức độ kỳ gốc cố định. Nếu kí hiệu Ai (i =) là các tốc độ tăng (giảm) định gốc thì:
Ai = (i =)
Hay Ai =
Ai = Ti – 1
Hoặc Ai (%) = Ti(%) – 100
+Tốc độ tăng (giảm) trung bình: là chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng (giảm) đại biểu trong suốt thời gian nghiên cứu. Nếu kí hiệu là tốc độ tăng hoặc giảm trung bình thì:
Hoặc (%) = (%) – 100
Giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm)
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1% tăng (giảm) của tốc độ tăng (giảm) liên hoàn thì tương ứng với một trị số tuyệt đối là bao nhiêu. Nếu kí hiệu gi (i=) là giá trị tuyệt đối của 1% tăng (giảm) thì:
g.=i (i =)
gi ==
Chú ý: Chỉ tiêu này chỉ tính cho tốc độ tăng (giảm) liên hoàn, đối với tốc độ tăng (giảm) định gốc thì không tính vì luôn là một số không đổi và bằng
Phương pháp này cho phép nêu xu hướng cơ bản biến động, mức độ biến động và dự báo ngắn hạn của các chỉ tiêu.
2. Hồi quy tương quan
2.1 Khái niệm
Các hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến nhiều vẻ, cho nên một trong những nhiệm vụ của thống kê là nghiên cứu mối liên hệ đó. Để nghiên cứu mối liên hệ này có nhiều phương pháp khác nhau. Phương pháp thường sử dụng là phương pháp hồi quy tương quan
2.2 Đặc điểm vận dụng
Phương pháp hồi quy tương quan vân dụng để tìm quy luật liên hệ phụ thuộc giữa các nhân tố. Đồng thời xác định vai trò của các nhân tố thông qua tham số hồi quy, hệ số tương quan, tỷ số tương quan.
ã Phương pháp hồi quy.
Để biểu thị xu thế biến động của một chỉ tiêu theo một quy luật nhất định người ta áp dụng phương pháp hồi quy. Trên cơ sở dãy số thời gian, người ta tìm một hàm số (gọi là phương tình hồi quy) phản ánh sự biến động của hiện tượng qua thời gian có dạng tổng quát như sau:
= f (t, a0, a1,.. an)
Trong đó: : mức độ lý thuyết
a0, a1,..., an: các tham số
t: thứ tự thời gian
Để chọn lựa đúng đắn dạng của phương tình hồi quy đòi hỏi phải dựa vào sự phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian, đồng thời kết hợp với một số phương pháp đơn giản khác (như dựa vào đồ thị, dựa vào độ tăng (giảm) tuyệt đối dựa vào tốc độ phát triển…)
Các tham số ai (i = ) thường được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất. Tức là:
Sau đây là một số dạng phương trình hồi quy đơn giản thường được sử dụng:
- Phương trình đường thẳng
= a0 + a1.t
Phương trình đường thẳng được sử dụng khi các lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn (còn gọi là sai phân bậc 1) xấp xỉ nhau
áp dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất sẽ có hệ phương trình sau đây để xác định giá trị của các tham số a0 và a1
- Phương trình parabol bậc 2
= a0+a1.t + a2. t2
Phương trình parabol bậc 2 được sử dụng khi các sai phân bậc 2 (tức sai phân của sai phân bậc 1) xấp xỉ bằng nhau
Các tham số a0,a1,a2 được xác định bởi hệ phương trình sau đây:
- Phương trình hàm mũ:
= a0. a1t
Phương trình hàm mũ được sử dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ bằng nhau
Các tham số a0 và a1 được xác định bởi hệ thống phương trình sau đây:
Phương pháp này cho phép xác định các nhân tố ảnh hưởng đến biến động mức tiền lương, mức độ ảnh hưởng và vai trò từng nhân tố
3. Chỉ số
3.1 Khái niệm
Chỉ số là một số tương đối được biểu hiện bằng lần hoặc phần trăm tính được bằng cách so sánh hai mức độ của hiện tượng nghiên cứu.
Tuỳ theo nhiệm vụ nghiên cứu, các chỉ số trong thống kê được chia thành nhiều loại.
- Căn cứ theo phạm vi tính có thể phân chia thành hai loại chỉ số :
+ Chỉ số đơn - chỉ số cá thể: phản ánh sự biến động của từng hiện tượng, từng đơn vị cá thể
+ Chỉ số chung - tổng hợp: phản ánh sự biến động chung của nhiều đơn vị hoặc của nhiều hiện tượng cá biệt
- Xét theo tính chất của chỉ tiêu nghiên cứu, thường phân biệt hai loại chỉ số :
+ Chỉ số chỉ tiêu chất lượng: phản ánh sự biến động của các chỉ tiêu như giá cả, giá thành, năng suất lao động, tiền lương
+ Chỉ số chỉ tiêu khối lượng: phản ánh sự biến động của các chỉ tiêu như khối lượng công tác xây lắp thực hiện, lượng vật liệu sử dụng trong kỳ, số lượng công nhân xây lắp.
Chỉ số bình quân chỉ tiêu chất lượng là: chỉ số chung chỉ tiêu chất lượng được tính thông qua chỉ số cá thể chỉ tiêu chất lượng.
Chỉ số bình quân chỉ tiêu khối lượng là: chỉ số chung chỉ tiêu khối lượng được tính thông qua chỉ số cá thể chỉ tiêu khối lương.
Các chỉ số chung chỉ tiêu chất lượng và chỉ số chung chỉ tiêu khối lượng được sử dụng để nghiên cứu sự biến động về mức độ của hiện tượng kinh tế theo thời gian hoặc không gian. Những chỉ số này có thể được dùng độc lập hoặc có thể dùng kết hợp giữa chúng với nhau. Việc sử dụng kết hợp giữa chỉ số chung chỉ tiêu chất lượng và chỉ tiêu khối lượng về một hiện tượng kinh tế nhất định nào đó đã tạo nên một hệ thống chỉ số
Có các hệ thống chỉ số :
- Hệ thống chỉ số của các chỉ số phát triển
- Hệ thống chỉ số của các chỉ số phát triển và kế hoạch
- Hệ thống chỉ số của các chỉ số có liên hệ với nhau.
3.2 Đặc điểm vận dụng
Trong công tác thực tế, đối tượng chủ yếu của phương pháp chỉ số thường là các hiện tượng kinh tế phức tạp, bao gồm nhiều đơn vị, nhiều phần tử có tính chất khác nhau ( về tên gọi, về giá trị sử dụng, về đơn vị tính). Muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp này, thường phải trước hết tìm cách biến đổi các đơn vị, các phần tử có tính chất khác nhau đó trở thành một dạng đồng nhất.
Xuất phát từ yêu cầu so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế phức tạp, phương pháp chỉ số có đặc điểm là :
+ Khi muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp trước hết phải chuyển các đơn vị, phần tử có tính chất khác nhau thành dạng giống nhau để có thể cộng trực tiếp chúng với nhau.
+ Khi có nhiều nhân tố cùng tham gia vào việc tính toán chỉ số, phải giả định chỉ có một nhân tố, còn các nhân tố khác không thay đổi.
Trong thống kê, chỉ số có tác dụng:
+ Dùng chỉ số để nghiên cứu sự biến động của hiện tượng qua thời gian - gọi là chỉ số phát triển
+ Dùng chỉ số để nghiên cứu sự biến động của hiện tượng qua không gian - gọi là chỉ số không gian
+ Dùng chỉ số để nêu lên nhiệm vụ kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch gọi là chỉ số kế hoạch
+ Dùng chỉ số để phân tích ảnh hưởng biến động của các nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng
Phương pháp chỉ số dùng để nghiên cứu sự biến động theo thời gian của bất kỳ chỉ tiêu tổng hợp nào như: tổng quỹ lương, tổng thu nhập… Sự biến động xu thế được đánh giá theo số liệu và biến động thời vụ được nghiên cứu qua số liệu các quý hay các tháng.
Phần III
vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiền lương - thu nhập tại xí nghiệp vật liệu hoá chất
Đặc điểm chung của xí nghiệp vật liệu hoá chất
Quá trình hình thành và phát triển
Xí nghiệp Vật liệu Hoá chất thuộc Công ty Điện tử Hoá chất là một doanh nghiệp Quân đội, thành lập theo quyết định số 515/QD-QP ngày 18/4/1996 của Bộ Quốc Phòng trên cơ sở Xí nghiệp Vật liệu Hoá chất thuộc Công ty Điện tử Hoá chất được bộ xây dựng cấp giấy phép hành nghề xây dựng số 96 ngày 14 tháng 4 năm1997
Là một xí nghiệp hoá chất có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu các vật liệu hoá chất sử dụng trong bộ quốc phòng và dùng trong các công trình dân sự. Hoá chất đang được coi là một ngành có tầm quan trọng hàng đầu của nền công nghiệp trên thế giới. Vì vậy xí nghiệp coi mục tiêu chính của mình là phát triển những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực hoá chất.
Với đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ sư có chuyên môn giỏi, dưới sự chỉ đạo của đồng chí giám đốc, xí nghiệp đã và đang chứng tỏ năng lực của mình trong việc nghiên cứu và áp dụng thành công vật liệu- vật liệu COMPOSITE phục vụ trong và ngoài quân đội
2. Các lĩnh vực hoạt động chính của xí nghiệp
Kể từ khi thành lập đến nay, xí nghiệp đã trải qua nhiều thử thách khó khăn, từ khi còn là một tổ hợp nhỏ phát triển thành một xí nghiệp vững mạnh, có uy tín trong và ngoài quân đội với các lĩnh vực hoạt động chính như:
- Nghiên cứu và chế tạo vật liệu Composite sử dụng trong Bộ Quốc Phòng và các công trình dân sự. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tìm tòi học hỏi và sáng tạo của cán bộ và công nhân trong xí nghiệp. Ngoài những công trình phục vụ cho quân đội, từ vật liệu Composite xí nghiệp đã sản xuất ra nhiều mặt hàng, phục vụ cho đời sống như: sản xuất công tơ điện, bể nước, bồn tắm... với những mẫu mã màu sắc đa dạng
- áp dụng thành công màng sơn chống nóng Insultec của úc vào các công trình chống nóng cho nhà ở và các công trình xây dựng, các bể chứa xăng dầu
-áp dụng các loại hoá chất đặc biệt để chống thấm, chống rỉ cho các công trình xây dựng đạt hiệu quả rất cao. Những công trình chống thấm của xí nghiệp là những công trình có tầm cỡ quốc gia như: chống thấm đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Bắc Sơn, chống thấm hầm đèn Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, khách sạn Thắng Lợi Hà Nội...
3. Đặc điểm tổ chức sản xuất
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật Xí nghiệp Vật liệu Hoá chất cũng không ngừng lớn mạnh. Hiện tại xí nghiệp có đội ngũ công nhân lành nghề được đào tạo cơ bản để có thể thi công được các công trình với tầm cỡ lớn và trên mọi miền đất nước. Đội ngũ công nhân công trình được chia thành bốn đội: thi công lưu động và ba xưởng sản xuất
+ Xưởng mạ điện phân đặt tại trụ sở chính của xí nghiệp với 50 công nhân làm việc liên tục 3 ca/ngày
+ Xưởng mạ nhúng tại công ty cơ khí xây dựng Đại Mỗ với đội ngũ 50 cán bộ công nhân
+ Xưởng sản xuất vật liệu Composite đặt tại Tân Lập- Đan Phượng-Hà Tây với 50 công nhân làm việc 2 ca/ngày
Các xưởng sản xuất gồm một quản đốc phân xưởng, một phó quản đốc phân xưởng, từ 1-2 nhân viên kỹ thuật, 1 thủ kho và khoảng 40 công nhân
+ Các đội công trình gồm 1 đội trưởng, 1 đội phó và từ 20 đến 25 công nhân( tuỳ theo quy mô và tính chất của từng công trình)
Đội trưởng: phụ trách chung toàn đội, chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về chất lượng công trình, tiến độ thi công và an toàn lao động trong toàn đội
Đội phó: trợ giúp đội trưởng trong việc cung ứng, quản lý vật tư, theo dõi quá trình thi công, đồng thời quản lý các thành viên trong đội
4. Đặc điểm quy trình công nghệ
4.1 Quy trình mạ
- Ngâm sản phẩm cần mạ vào bể axit HCL có nồng độ 7-8%
- Đánh rỉ trên sản phẩm bằng cát vàng và bàn chải
- Làm sạch hết hoá chất, cát bẩn và rỉ sắt qua 3 bể nước
- Nhúng sản phẩm mạ vào bể trợ dung từ 2-3 phút
- Cho sản phẩm vào lò để sấy khô
- Nhúng sản phẩm(đã khô) vào bể mạ kẽm nóng chảy ở nhiệt độ 450-4550C
- Nâng sản phẩm khỏi bể mạ rồi nhúng sản phẩm vào bể làm mát
- Thụ động hoá bề mặt sản phẩm bằng dung dịch Cr2 nồng độ 1%
Lớp kẽm bám trên bề mặt sản phẩm sau khi mạm đạt chiều dày từ 80- 120Mm, màu trắng ánh xanh, có tác dụng bảo vệ sản phẩm lâu dài trong mọi điều kiện thời tiết.
4.2 Quy trình sản xuất vật liệu Coposite
- Tạo khuôn: căn cứ vào yêu cầu của khách hàng, phòng kỹ thuật thiết kế sản phẩm mẫu và giao cho xưởng CPs để làm khuôn theo đúng thiết kế.
- Chống dính khuôn: dùng Wat 8 lau lên bề mặt khuôn.
- Tạo bóng: Dùng gelcoat phun lên bề mặt khuôn (trên bề mặt Wat 8). Lớp gelcoat này còn có tác dụng chống tia tử ngoại và tạo màu sắc cho sản phẩm
- Tạo hình sản phẩm: Vải mát thuỷ tinh được đặt vào khuôn (từ 2 đến 3 lớp tuỳ theo độ dày cần phải đạt được của sản phẩm), dùng keo (đã hoà lẫn với đóng rắn) đắp lê lớp vải mát. Dùng con lăn miết kỹ trên bề mặt sản phẩm để tránh tạo bọt và tách lớp.
- Để sản phẩm khô, lấy ra khỏi khuôn rồi cắt bỏ lớp ba via, dùng giấy ráp đánh nhẵn bề mặt cắt.
- Lắp đặt thử tại xưởng để kiểm tra.
Sản phẩm sản xuất bằng vật liệu Coposite có ưu điểm bền đẹp, chịu được sự va đập mạnh, trọng lượng nhẹ, không bị phai màu trong quá trình sử dụng...
5. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý
Do đặc điểm tổ chức sản xuất của xí nghiệp là các công trình, các sản phảm của xí nghiệp phục vụ cả hai miền Bắc và Nam, xí nghiệp cũng thi công nhiều công trình ở phía Nam vì vậy ngoài trụ sở chính ở Hà Nội gồm ban giám đốc và 4 phòng chức năng xí nghiệp còn có một văn phòng đại diện đặt tại TP Hồ Chí Minh.
Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận:
- Ban giám đốc
+Giám đốc: phụ trách điều hành chung các công việc của xí nghiệp
+ Phó giám đốc: giúp giám đốc theo dõi tình hình cụ thể của từng bộ phận
- Các phòng ban chức năng
+ Phòng kế hoạch: lập kế hoạch, điều độ sản xuất và theo dõi tình hình thực hiện các hợp đồng đã ký kết
+ Phòng kỹ thuật: quản lý kỹ thuật, lập dự toán
Ban giám đốc
Phòng
kế toán
Văn phòng đại diện
Phòng
kỹ thuật
Phòng
kế hoạch
Xưởng mạ nhúng
Các đội công trình
Xưởng mạ điện phân
Xưởng Coposite
+ Phòng kế toán: hạch toán kế toán, kiểm tra và phân tích các hoạt động kinh tế Sơ đồ mô hình tổ chức bộ máy quản lý
6.Thực trạng kinh doanh của xí nghiệp
Bảng 1: Tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
1. Tổng giá trị sản xuất (Tr.đ)
10.746
12.752
13.978
17.206
2.Tổng doạnh thu (Tr.đ)
9.107
11.579
12.973
15.073
3.Tổng chi phí (Tr.đ)
8.809
11.225
12.569
14.504
4.Lợi nhuận (Tr.đ)
298
354
404
569
5. Lao động (người)
137
159
167
198
6. Năng suất lao động (Tr.đ/ng)
78,44
80,2
83,7
86,9
7.Thu nhập bq một lao động/tháng (Tr.đ/ng)
0,572
0,580
0,598
0,610
Mặc dù mới thành lập nhưng bằng khả năng và nỗ lực của chính mình xí nghiệp đã và đang phát triển không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, từng bước khẳng định uy tín của mình trên thị trường. Điều đó thể hiện ở tổng gía trị sản xuất, doanh thu, lợi nhuận của công ty tăng lên qua các năm, kéo theo sự tăng lên của lao động. Qua đó, góp phần vào việc giải quyết việc làm cho người lao động. Thu nhập bình quân đầu người ở mức cao và liên tục tăng góp phần cải thiện cuộc sống cho người lao động, nâng cao mức thu nhập trung bình trong xã hội
Để thể hiện điều này ta lấy hai năm 2000-2001 để phân tích:
Nhìn vào bảng ta thấy tổng giá trị sản xuất tăng lên qua hai năm. Năm 2001 tổng giá trị sản xuất đạt 17.206 triệu đồng tăng so với năm 2000 là 3.228 triệu đồng hay 23,09%
Tổng doanh thu của xí nghiệp cũng tăng lên qua hai năm 2000- 2001. Năm 2001 tổng doanh thu đạt 15.073 triệu đồng tăng so với năm 2000 là 2.064 triệu đồng hay 16,19%. Mặc dù mới chỉ thành lập nhưng qua kết quả trên ta thấy được sự phát triển trong sản xuất của xí nghiệp. Mặt khác, xí nghiệp trực thuộc Bộ Quốc Phòng cho nên có một số sản phẩm xí nghiệp sản xuất ra thuộc vào loại mới của Việt Nam và là sản phẩm độc quyền không có sự cạnh tranh trên thị trường nên sản phẩm của xí nghiệp ít được thay đổi mẫu mã, kiểu dáng do đó có phần nào hạn chế hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thời gian tới xí nghiệp cần có chính sách và biện pháp để khắc phục những khó khăn để nâng cao hiệu quả sản xuất hơn nữa.
Tổng chi phí sản xuất năm 2001 là 14.504 triệu đồng tăng so với năm 2000 là 1.935 triệu đồng hay 15,4%. Như trên ta thấy doanh thu năm 2001 tăng 16,19% so với năm 2000 như vậy tốc độ tăng của chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu. Điều đó tốt cho xí nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.Nhưng do xí nghiệp chuyên sản xuất các sản phẩm có hoá chất độc hại ảnh hưởng đến môi trường và cuộc sống xung quanh, vì vậy xí nghiệp cần phải tăng nhiều chi phí cho việc cải tiến máy móc, trang thiết bị và cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Do đó chi phí của xí nghiệp có phần tăng lên, điều này sẽ không tốt cho xí nghiệp vì vậy trong thời gian tới xí nghiệp cần phải hạn chế mức độ ô nhiễm khi sản xuất sản phẩm.
Lợi nhuận của xí nghiệp chính là kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh mà xí nghiệp đạt được.Năm 2001 lợi nhuận đạt 569 triệu đồng tăng so với năm 2000 là 165 triệu đồng hay 40,84%. Từ những con số này ta thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp tương đối tốt, lợi nhuận thường xuyên tăng lên so với kế hoạch. Điều đó tạo điều kiện cho xí nghiệp mở rộng sản xuất, đầu tư nâng cao cơ sở sản xuất, tăng vốn sản xuất kinh doanh. Để tăng lợi nhuận, xí nghiệp đã không ngừng tăng hết khả năng của lao động thông qua việc sử dụng lao động và nâng cao tay nghề._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33903.doc