Lời nói đầu
N
ền kinh tế thế giới đang phát triển ở giai đoạn thứ ba, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Giai đoạn này được mệnh danh là giai đoạn của toàn cầu hoá, khu vực hoá với đặc trưng nổi bật là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct Investment). FDI đang là làn sóng mở đường cho xu hướng phát triển kinh tế của thế giới, nhiều nền kinh tế trước đây đã từng đóng cửa thì nay thực sự đã mở rộng để đón chào các chủ đầu tư.
Đối với nước ta, FDI là một thành tố
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả FDI tại Việt Nam thời kỳ 1988-2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời nó cũng góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới của nước ta diễn ra một cách nhanh chóng thuận lợi hơn. Trong tình trạng đói vốn khát công nghệ hiện nay của nước ta, công tác bức xúc là phải kêu gọi càng nhiều càng nhanh FDI (Nguồn tài chính không phải nợ vay - Non debt resorce of finance) càng tốt.
Hơn 13 năm qua, kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời tại Việt Nam (29/12/1987) tới nay, việc thực hiện chủ trương thu hút FDI đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, hơn 3 năm trở lại đây, do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ở một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, cộng mức độ cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thu hút FDI của các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia...FDI tại Việt Nam có phần chững lại, giảm thiểu cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Tình hình này, đòi hỏi chúng ta phải có những tổng kết và đánh giá đúng đắn về FDI trong những năm qua, phân tích được những lợi thế và bất lợi của đất nước để nhanh chóng có những giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Hơn nữa, một khi đã thu hút được FDI thì vấn đề là làm sao sử dụng FDI một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo kết hợp một cách hài hoà hiệu quả tài chính (góc độ chủ đầu tư) và hiệu quả kinh tế xã hội (góc độ nền kinh tế xã hội). Có như vậy, Việt Nam mới ngày càng hấp dẫn các chủ đầu tư, đồng thời giảm thiểu chi phí mà xã hội phải gánh chịu, nâng cao lợi ích kinh tế xã hội khi đầu tư.
Với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc giải quyết các vấn đề trên, em đã chọn đề tài "Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ 1988 - 2000".
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp đuợc chia làm ba phần chính :
Chương I : Những vấn đề cơ bản về FDI và hiệu quả FDI
Chương II: Hệ thống chỉ tiêu thống kê FDI và hiệu quả FDI
Chương III: Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả FDI
Trong quá trình làm Chuyên đề thực tập, do hạn chế về trình độ, thời gian và vật chất nên Chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý và bổ sung của các thầy cô giáo.
Hoàn thành Chuyên đề, ngoài sự nỗ lực của bản thân em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của TS. Tăng Văn Khiên - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Thống kê; TS. Nguyễn Quán - Chủ nhiệm Trung tâm Tư liệu Thống kê cùng các chuyên viên Vụ Tổng hợp và Thông tin Tổng cục Thống kê. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quí báu đó!
Mục lục
Chương I
Những vấn đề cơ bản về FDI và hiệu quả FDI
I. Khái niệm và vai trò của FDI:
1. Khái niệm:
Đầu tư (Investment) nói chung là sự bỏ ra các nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Có rất nhiều tiêu thức dùng để phân loại đầu tư, ở đây chúng ta chỉ xem xét phân loại đầu tư theo nguồn vốn thì đầu tư gồm hai loại:
Đầu tư trong nước
Đầu tư nước ngoài
Trong đó, đầu tư nước ngoài là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá.
Đầu tư nước ngoài gồm hai dòng chính:
Đầu tư tư nhân
Trợ giúp phát triển chính thức của các Chính phủ các và tổ chức quốc tế
Đầu tư tư nhân đây là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc dịch vụ thương mại. Đầu tư của tư nhân được thực hiện dưới ba hình thức đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng thương mại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ là một trong ba hình thức đầu tư tư nhân. Nhìn chung ở các nước, FDI được hiểu là một hoạt động kinh doanh, một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản bắt buộc phải vượt ra ngoài tầm kiểm soát quốc gia. Khái niệm về FDI được sử dụng nhiều hơn cả là khái niệm do Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra vào năm 1977 như sau:"Đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của chủ đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, chủ đầu tư còn mong muốn dành được chỗ đứng trong quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”.
Còn theo điều 2 Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 11 năm 1996 thì :”Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc chủ đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
Là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
Chủ đầu tư tiến hành mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tùy theo tỷ lệ vốn góp của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho phép rộng rãi hơn với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
Thông qua Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý...là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác khó có thể giải quyết được.
Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như nguồn vốn đầu tư từ lợi nhuận.
Chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA - Official Development Assistance). Khác với FDI, ODA thường dùng để đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở như giao thông vận tải, giáo dục, y tế... Đó là những công trình mặc dù có lợi nhuận thấp, thậm chí không có lợi nhuận trực tiếp, thời gian thu hồi vốn chậm nhưng lại hết sức cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư, tuy có ưu điểm hơn FDI về lãi suất, thời gian ân hạn dài nhưng ODA cũng có những bất lợi cho nước nhận đầu tư như: Chịu ràng buộc về kinh tế và chính trị (nước chủ nhà phải có cổ phần đóng góp vào IMF...); sử dụng vốn vay tràn lan, kém hiệu quả gây nợ chồng chất; là nguyên nhân gián tiếp gây ra tình trạng tham nhũng; chi phí tiếp nhận vốn cao... Trong điều kiện này thì FDI có lợi thế hơn hẳn bởi FDI không đưa đến gánh nặng nợ nần, không bị ràng buộc về kinh tế hay chính trị, việc sử dụng vốn trực tiếp đụng chạm đến lợi ích của các chủ đầu tư nên sẽ có hiệu quả hơn. Chính vì thế, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng 3/1996 đã đề cập:"Bên cạnh những thuận lợi to lớn ở trong nước và quốc tế đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA, chúng ta còn nhiều khó khăn và thách thức. ODA trên thế giới là nguồn vốn có hạn lại có sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển. ODA và chính trị đi liền với nhau, các nước cung cấp ODA thường hay gắn các điều kiện để mưu tìm lợi ích kinh tế hoặc chính trị. Phần lớn ODA là vốn vay, tuy có phần ưu đãi, song phải trả nợ, nếu không tính toán đúng đắn sẽ có nguy cơ mắc phải nợ nần".
FDI cũng khác xa các quan hệ thương mại thông thường như quan hệ xuất nhập khẩu, vay thương mại, gia công hàng hoá. Bởi lẽ, bản chất của FDI là việc di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác để kinh doanh và chủ đầu tư không bị tách rời khỏi vốn đầu tư (quản lý và sử dụng vốn đầu tư, hưởng lợi nhuận thu được và phải chịu sự rủi ro trực tiếp nếu có). Còn các quan hệ thương mại thông thường là các quan hệ trao đổi hàng tiền giữa các chủ thể trong từng việc cụ thể, dù có sự chuyển dịch hàng tiền qua biên giới nhưng không kéo theo sự quản lý của chủ sở hữu, sự chuyển giao quyền quản lý và trách nhiệm gánh chịu rủi ro với đối tượng chuyển giao.
2.Vai trò của FDI:
2.1 Đối với nước đi đầu tư:
FDI cho phép chủ đầu tư bành chướng sức mạnh về nền kinh tế, tăng cường ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh được hàng rào bảo vệ mậu dịch của các nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản phẩm là máy móc, thiết bị sang nước nhận đầu tư (để góp vốn) và xuất khẩu sản phẩm sản xuất tại đây sang các nước khác (do chính sách xuất nhập khẩu ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài chuyển giao công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có vốn FDI) nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng nhập của các nước khác. Phần lớn doanh nghiệp có vốn FDI ở các nước, về thực chất hoạt động như là chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài. Đặc biệt, thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của những nước lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia...có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nguồn vốn FDI.
FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu hồi vốn và thu lợi nhuận cao. Những công ty này phần lớn là thuộc những nước công nghiệp phát triển, mà tỷ suất lợi nhuận ở trong nước có xu hướng giảm, kéo theo hiện tượng thừa tương đối tư bản. Mặt khác, có sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển và sản xuất và mức sống thu nhập giữa các nước nên đã tạo ra chênh lệch về giá cả và các yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó, đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng các chênh lệch này để giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận... Trước hết, đó là chi phí về lao động. Tiền lương của người lao động ở Nhật gấp hơn 10 lần lương bình quân lao động trong khối ASEAN, lương bình quân trong các nước NICs Đông á cũng gấp 12 lần lương của lao động Việt Nam. Do đó, trong thời gian qua các nước tư bản phát triển và những nước công nghiệp mới đã chuyển những ngành sử dụng nhiều lao động sang các nước đang phát triển để giảm chi phí sản xuất. Việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tại các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyển hàng hoá tiết kiệm chi phí vận chuyển, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị... Do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao, các chủ đầu tư sẵn sàng bỏ mặc nạn thất nghiệp ở các nước phát triển để đầu tư sang những nước có chi phí rẻ, lợi nhuận cao và như vậy tạo ra công ăn việc làm cho các nước nhận đầu tư. Ngoài ra, mục tiêu của nhiều dự án nước ngoài là tạo nguồn nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển để sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư, chẳng hạn thăm dò khai thác khí, khoáng sản, tài nguyên biển rừng, sản phẩm cây công nghiệp. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện chế biến vì thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào cả lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao nhất.
Như vậy, đối với việc đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh của các nước nhận đầu tư, các chủ đầu tư trực tiếp sản xuất được sản phẩm với giá thành hạ hơn so với sản xuất trong nước, nhờ đó mà các chủ đầu tư này có được ưu thế trong việc tiêu thụ sản phẩm này trên thị trường thế giới. Nếu các sản phẩm này được nhập trở lại các nước chủ đầu tư với giá hạ hơn giá sản phẩm này trong nước hoặc nhập của một số nước khác thì khả năng tiêu thụ sản phẩm này ở chính quốc sẽ mạnh hơn. Cùng với việc đem tiền để đi đầu tư đi nước khác và nhập khẩu sản phẩm vói nhu cầu cao hơn tự sản xuất trên đây làm cho nhu cầu đồng nội tệ tăng so với đồng ngoại tệ theo chiều hướng giảm dần. Sự giảm tỷ giá hối đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản xuất tăng cường xuất khẩu nhờ đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
FDI cho phép các công ty nước ngoài kéo dài chu kì sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước, đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đổi mới công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh, do đó các chủ đầu tư nước ngoài thường chuyển những máy móc công nghệ đã lạc hậu so với trình độ chung của thế giới để đầu tư sang nước khác. Điều đó, một mặt giúp các chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ; kéo dài được chu kì sản phẩm của hãng ở các thị trường mới; di chuyển máy móc gây ô nhiễm môi trường ra nước ngoài và trong nhiều trường hợp còn thu được đặc lợi do chuyển giao công nghệ đã lạc hậu đối với nước chủ đầu tư nước ngoài.
2.2 Đối với nước nhận đầu tư:
a.Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng:
Vốn cho đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển, sản xuất còn ở trình độ thấp nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì vốn FDI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ở các nước này, có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ sản xuát thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Các nước này chỉ có thể thoát ra khỏi sự nghèo đói bằng cách tăng trưởng đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực hiện được việc này các nước đang phát triển cần có nhiều vốn để đầu tư.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên thế giới có nhiều nước đang nắm trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đó là cơ hội để các nước đang phát triển có thể tranh thủ nguồn vốn nước ngoài để phát triển kinh tế. Mặt khác, trái với nguồn vốn ngắn hạn huy động từ các ngân hàng hoặc thông qua các khoản đầu tư tài chính khác, FDI có tính ổn định hơn rất nhiều. Có thể thấy rõ điều này qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 - 1998. Trong 18 tháng trước khi cuộc khủng hoảng nổ ra, dòng vốn chảy vào 4 nước bị tác động nặng nề nhất sau này là Inđônêxia, Hàn Quốc, Philipin và Thái Lan lên tới 86,8 tỷ USD chỉ 18 tháng sau đã có 77,9 tỷ USD thoát lui khỏi các nước này. Ngược lại, dòng vốn đi vào các nước Châu á vẫn liên tục tăng từ 71,1 tỷ USD năm 1996 lên 86,9 tỷ USD năm 1999.
ở nhiều nước đang phát triển, vốn FDI chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng nguồn vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, trong đó có một số nước hoàn toàn dựa vào vốn FDI, đặc biệt ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. ở Inđonêxia sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1967, FDI đã cung cấp một lượng vốn bình quân trong 27 năm (1967 - 1994) là 1,15 tỷ USD/năm. ở Trung Quốc, FDI đã cung cấp cho đất nước này 87 tỷ USD/năm trong 15 năm (1979 - 1994).
ở các nước này, FDI đã thực sự đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế và nếu chỉ căn cứ vào thực tại vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế thì có thể đánh giá FDI có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng kinh tế của các nước này.
Tỷ lệ FDI/Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở Việt Nam năm 1995 là 32,33 %; năm 1997 là 31,23 %; đến năm 1999 giảm xuống còn 18,19%. Con số này thể hiện chúng ta đã khá thành công trong việc thu hút FDI trong thời gian qua nhưng tỷ lệ này đang có xu hướng ngày càng giảm.
b. Chuyển giao công nghệ :
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường...(hay còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt đọng đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư. Thực tế cho thấy rằng, kỹ thuật và công nghệ nước ngoài đã giúp cho Malaysia từ chỗ là một nước cơ cấu kinh tế lạc hậu, kỹ thuật thủ công, phân tán, lực lượng sản xuất kém phát triển đến giữa những năm 1980 đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất về găng tay cao su, thứ hai thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ tích phân và thứ ba thế giới về máy điều hoà nhiệt độ.
Một trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển là trình độ kỹ thuật - công nghệ còn lạc hậu. Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay, thì việc các nước đang phát triển tự phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với tốc độ phát triển kỹ thuật hiện nay là phải biết tận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận FDI là một phương thức cho phép các nước đang phát triển tiếp nhận khoa học kỹ thuật - công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức độ hiện đại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng dù thế nào thì đây cũng là lợi ích căn bản của các nước tiếp nhận FDI. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và chuyển giao công nghệ cho nước nhận đầu tư, thì đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp thu được kỹ thuật công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải ccác nước đang phát triển được "đi xe miễn phí" mà họ phải trả một khoản học phí không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. So với việc nhập khẩu thiết bị và mua bản quyền những cách được áp dụng trước kia để nâng cao trình độ công nghệ, thì FDI có lợi hơn hẳn bởi "đó là một kênh chuyển giao trình độ quản lý và kỹ thuật, đi kèm với các nhà máy, thiết bị nước ngoài cũng như mạng lưới tiếp thị và phân phối". Hơn nữa, trong mọi trường hợp các nước đang phát triển cũng ít có sự lựa chọn nào khác ngoài việc mở cửa thu hút FDI, bởi cách mua bản quyền để thay thế cho FDI hiện đã khó khăn hơn rất nhiều so với trước. Theo các chuyên gia, thách thức mà các nước đang phát triển phải đối mặt là "các nước đang phát triển vẫn phải liên tục xoá đi khoảng cách với những nước dẫn đầu công nghiệp, song họ sẽ phải chuyển dần từ mẫu hình phát triển dựa vào tích luỹ lên theo mẫu hình dựa trên sự đổi mới".
c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Tranh thủ vốn và công nghệ của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy quốc gia nào thực hiện chiến lược mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ các nhân tố bên ngoài biến nó trở thành nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ tạo được sự tăng trưởng kinh tế cao.
Xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Có mức tăng tỷ lệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế với khối lượng vốn FDI được huy động và sử dụng. ở Việt Nam năm 1995, khối lượng FDI là 6.607 tr USD, thì tăng trưởng GDP là 9,5%, tương ứng năm 1996 là 8.640 tr USD và 9,3%, năm 1997 là 4.654 tr USD và 8,2%, năm 1998 là 4.059 tr USD và 5,8 %, năm 1999 là 1.568 tr USD và 4,8%.
Sự tăng trưởng gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu, mức tăng trưởng kinh tế chủ yếu ở các nước đang phát triển thường do nhân tố đầu tư chủ yếu, nhờ đó mà các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng và năng suất lao động cũng tăng theo. Vì vậy, có thể thông qua tỷ lệ đóng góp của FDI trong GDP để đánh giá vai trò của FDI với tăng trưởng kinh tế.
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tổng sản phẩm
trong nước (GDP) của một số nước đang phát triển năm 1999
Tên nước
Chỉ tiêu
Singapore
Argentina
Brazin
Philippin
Venezuela
Viet Nam
1.FDI (Tr USD)
2.GDP (Tr USD)
3.FDI/GDP (USD/USD)
6.984
84.945
8,12
23.579
283.011
8,33
32.659
529.398
6,17
2.287
65.493
3,49
3.187
102.222
3,12
1.548
18.305
8,47
Nguồn: International Financial Statistics - International Moneytary Fund Volume LIV Number 1 January 2001
d. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại của nền kinh tế, mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại, chính đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì:
Thông qua FDI đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề mới ở nước nhận đầu tư.
FDI góp phần vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này làm tăng tỷ phần của chúng trong nền kinh tế.
Một số ngành được kích thích phát triển bởi FDI nhưng cũng có nhiều ngành bị mai một rồi đi đến bị xoá sổ.
e. Trong quan hệ kinh tế quốc tế:
Quan hệ kinh tế quốc tế xuất hiện từ khi con người bắt đầu thực hiện hành vi trao đổi mua bán hàng hoá giữa các quốc gia. Quy mô và phạm vi trao đổi ngày càng mở rộng, hình thành nên các quan hệ kinh tế quốc tế gắn bó và phụ thuộc vào nhau giữa các nước trên thế giới.
FDI là một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỉ. Nhưng ngay từ khi xuất hiện, vào khoảng cuối thế kỉ 19, FDI đã có vị trí đáng kể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động FDI không ngừng được mở rộng và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay, FDI đã trở thành xu hướng của thời đại và là nhân tố cơ bản quy định bản chất các quan hệ kinh tế.
Thập kỉ 80 vừa qua đã chứng kiến những bước phát triển mới của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, khối lượng vốn tăng lên với tốc độ nhanh hơn so với sự gia tăng của sản xuất và buôn bán quốc tế. Những năm 70, lượng vốn FDI trên toàn thế giới bình quân hàng năm là 25 tỷ USD, con số này đã tăng lên gấp hai lần trong thời kỳ 1980 - 1985. Năm 1986, lượng vốn FDI trên toàn thế giới là 78 tỷ USD, năm 1987 là 133 tỷ USD, năm 1988 là 195 tỷ USD, đến năm 1990 giảm xuống còn chút ít 184 tỷ USD. Tính bình quân hàng năm trong thời kỳ 1985 - 1990, FDI tăng khoảng 24%, tốc độ này lớn hơn gần bốn lần so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu trong thời kỳ này là 6,1%. Bước sang thập kỷ 90 này, FDI đã tăng lên nhanh chóng và là một nhân tố gây ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia. Trái ngược với tình hình năm 1997, mặc dù tăng trưởng thương mại thế giới giảm hơn một nửa chỉ còn 3,7% so với 9,4% năm 1997 và 6,3% năm 1996 song FDI trên toàn thế giới vẫn gia tăng và đạt mức kỉ lục, bất chấp tình trạng suy giảm kinh tế trên thế giới. Theo đánh giá của tổ chức thương mại và phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD), năm 1998 FDI trên toàn thế giới đạt khoảng 410 tỷ tăng 10% so với mức 400 tỷ năm 1997. Năm 1999, tăng trưởng khoảng 20%, đạt gần 800 tỷ USD, năm 2000 đạt mức kỷ lục 1.140 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 1997. Bốn quốc gia đứng đầu thế giới về thu hút FDI là Mỹ, Anh, Đức, Trung Quốc, FDI vào Châu á vẫn chiếm khoảng 1/3 tổng vốn FDI trên toàn thế giới. Tình hình trên đây, cho phép khẳng định rằng FDI đang trở thành xu hướng phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế.
Ngoài những vai trò trên FDI còn có một số vai trò sau:
Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế, phí tiền thuê đất...của các đơn vị đầu tư nước ngoài. Bởi vì, hầu hết các dự án FDI là sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu.
Cùng với việc tăng khả năng sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, FDI còn giúp mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án FDI đều có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây là hiện tượng đa chiều đang trở thành khá phổ biến ở các nước đang phát triển hiện nay.
Về mặt xã hội, FDI đã tạo ra nhiều công ăn việc làm mới, thu hút được một khối lượng đáng kể người lao động ở các nhận đầu tư vào các đơn vị đầu tư nước ngoài, nâng cao thu nhập cho người lao động, đồng thời góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật cao.
Điều này góp phần vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là tình trạng nan giải ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được, thì FDI được coi là chiếc chìa khoá quan trọng để giải quyết vấn đề này. Bởi vì, FDI tạo nên điều kiện vốn và kỹ thuật cho phép khai thác và sử dụng tiềm năng của nền kinh tế trong đó có tiềm năng về lao động.
II. Hiệu quả của FDI:
1. Khái niệm:
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế quan trọng biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó.
Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài thì hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả đầu tư mà cá nhân hay xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó.
Kết quả được đem ra so sánh có thể là kết quả ban đầu, trung gian hoặc kết quả cuối cùng. Tương ứng, có các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau, có tác dụng khác nhau. Kết quả được nói ở đây có thể là kết quả gián tiếp, kết quả trực tiếp với các mức độ khác nhau.
Chi phí được chọn để so sánh cũng bao gồm nhiều loại khác nhau: chi phí thường xuyên, chi phí một lần (nguồn lực của nền sản xuất xã hội).
Tùy thuộc vào cấp độ quản lý, mục đích sử dụng các kết quả tính toán trong công tác quản lý và kế hoạch hóa cần phân biệt các loại hiệu quả kinh tế tài chính (hiệu quả hạch toán kinh tế) và hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư.
Hiệu quả tài chính (hiệu quả kinh tế theo quan điểm doanh nghiệp) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà đơn vị đó đã sử dụng so với các kì khác hoặc so với định mức chung.
Các kết quả đem lại cho chủ đầu tư rất đa dạng và là quá trình tất yếu của quá trình thực hiện đầu tư. Các kết quả đó có thể là lợi nhuận thuần, doanh thu thuần, mức tăng năng suất lao động, số lao động có việc làm do hoạt động đầu tư tạo ra, mức tăng thu nhập cho người lao động của đơn vị thực hiện đầu tư.
Hiệu quả kinh tế xã hội (hiệu quả kinh tế theo quan điểm kinh tế xã hội) của hoạt động đầu tư là chênh giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế xã hội phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư.
Những lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng hoạt động đầu tư với việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này có thể được xem xét mang tính chất định tính như: đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế; phục vụ việc thực hiện các chủ trương, chính sách nhà nước; góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh; tận dụng khai thác tài nguyên chưa được quan tâm; phát triển vùng kinh tế yếu kém; phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo, kéo theo sự phát triển các ngành nghề khác; phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương nghèo, các vùng dân cư xa xôi thưa thớt nhưng có tiềm năng về tài nguyên...hoặc được đo lường bằng các tính toán định lượng như mức tăng thu ngân sách, tăng số người có việc làm, tăng thu ngoại tệ, tăng tích lũy vốn, tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng đầu tư, tăng tốc độ phát triển, tốc độ tăng trưởng, tăng xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho dân cư.
Chi phí mà xã hội phải gánh chịu khi một công cuộc đầu tư thực hiện bao gồm toàn bộ tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động mà xã hội phải dành cho đầu tư thay vì sử dụng vào các công việc khác trong tương lai không xa.
Như vậy, hiệu quả kinh tế xã hội chính là kết quả so sánh có mục đích giữa các giá mà xã hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình và lợi ích do đầu tư tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế.
2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả FDI:
Nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội loài người nói chung. Nâng cao hiệu quả kinh tế của FDI là cơ sở vật chất để không ngừng nâng cao mức sống dân cư. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được xem xét từ hai góc độ chủ đầu tư và nền kinh tế.
Trên góc độ chủ đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể có nhiều, nhưng quy tụ lại là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của các dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của chủ đầu tư. Khả năng sinh lời càng cao thì càng hấp dẫn các chủ đầu tư. Việc nâng cao hiệu quả đầu tư (hiệu quả tài chính) của các đơn vị đầu tư nước ngoài có vai trò quyết định trực tiếp đối với bản thân chủ đầu tư, từ đó tạo lòng tin đối với các chủ đầu tư khác sắp có ý định bỏ vốn đầu tư. Đây là yếu tố gián tiếp làm tăng thêm sức cạnh tranh, cho phép giành lợi thế trong quan hệ kinh tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế xã hội. Không ít trường hợp có hiệu quả tài chính cao nhưng có hiệu quả kinh tế xã hội thấp, thậm chí gây tổn hại đến lợi ích kinh tế xã hội, có lợi trước mắt nhưng có h._.ại lâu dài. Bởi vì, các chủ đầu tư nước ngoài và đôi khi cả bên Việt Nam chỉ quan tâm nhiều đến hiệu quả tài chính. Đứng về lợi ích riêng của chủ đầu tư thì hiệu quả cao nhất là lợi nhuận thu được. Cho nên, họ chỉ chú ý đến những vấn đề thiết thực như doanh thu chi phí, thuế, tiền thuê đất... Trong khi đó nhà nước khuyến khích nhiều hay ít một dự án FDI không chỉ căn cứ vào hiệu quả tài chính, mặc dù đó là một nhân tố làm tăng nguồn thu ngân sách của nhà nước góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô chúng ta phải xem xét mặt lợi ích xã hội do thực hiện đầu tư đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, tức là trong khi thẩm định xem xét một dự án FDI cần phải đặt hiệu quả kinh tế xã hội lên trên và coi đó là những biện pháp cơ bản để khuyến khích đầu tư.
chương II
Hệ thống chỉ tiêu thống kê thực trạng và đánh giá hiệu quả FDI
I. Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê thực trạng và đánh giá hiệu quả FDI:
Để có thể xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê FDI và hiệu quả FDI một cách khoa học và hợp lý, cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
Xác định đúng bản chất, tiêu chuẩn đánh giá FDI và hiệu quả FDI, nắm chắc các phạm trù kinh tế về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thực tế, do chưa giải quyết đúng đắn và đầy đủ yêu cầu này nên tồn tại hiện tượng đồng nhất hiệu quả FDI một phạm trù tổng hợp với các chỉ tiêu bộ phận biểu hiện từng mặt của nó (như năng suất lao động) hay đồng nhất hiệu quả FDI với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Như vậy là lẫn lộn giữa phát triển theo chiều sâu và phát triển nói chung (gồm cả phát triển theo chiều rộng lẫn chiều rộng) hoặc lẫn lộn giữa kết quả trung gian và kết quả cuối cùng khi xác định hiệu quả FDI.
Đảm bảo phản ánh đầy đủ, chính xác và hệ thống tức là các chỉ tiêu được chọn phải đủ lớn để bao quát hết các mặt cơ bản có liên quan tới FDI; các chỉ tiêu được chọn phải là các chỉ tiêu đặc trưng nhất; các chỉ tiêu phải đảm bảo có nội dung phạm vi và đơn vị tính phù hợp với yêu cầu đánh giá thực trạng và hiệu quả FDI; các chỉ tiêu trong hệ thống phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau, trong hệ thống phải thể hiện rõ các chỉ tiêu chủ yếu và thứ yếu, các chỉ tiêu tổng hợp và từng mặt của hiệu quả.
Các chỉ tiêu phải được quy định và hướng dẫn đầy đủ cách thu thập số liệu và phương pháp tính toán, áp dụng thống nhất cho các ngành cũng như các cấp từ Trung Ương đến địa phương và cơ sở.
Trong vấn đề xác định hiệu quả FDI phải đảm bảo được yêu cầu so sánh về độ dài của thời kì nghiên cứu tức là hai chỉ tiêu kết quả và chi phí có thời kì tính toán giống nhau; tính đến độ trễ của vốn, vì đầu tư chỉ mang lại kết quả sau một thời gian nhất định trong đó có kết quả gián tiếp và kết quả trực tiếp.
Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính kế thừa, song cũng phải chú ý thường xuyên cải tiến, hoàn thiện và bổ sung cho phù hợp với nhu cầu quản lý mới và so sánh quốc tế.
Các chỉ tiêu phải được phân loại một cách khoa học và tùy theo cấp độ khác nhau (doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân) mà áp dụng các chỉ tiêu khác nhau cho phù hợp.
Hệ thống được hình thành phải là hệ thống cho phép giải quyết tốt nhất mâu thuẫn giữa nhu cầu thông tin với khả năng về mọi mặt để thu thập, xử lý và phân tích các chỉ tiêu nêu ra. Điều đó cũng có nghĩa là cần sự kết hợp giữa tính lý thuyết với tính khả thi và thực tiễn của hệ thống.
II. Hệ thống chỉ tiêu thống kê thực trạng FDI:
Hệ thống chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu: Số lượng dự án, tổng vốn đầu tư của dự án, vốn pháp định, vốn đăng ký, vốn thực hiện, vốn cấp mới, vốn tăng thêm, vốn giải thể, vốn hết hạn... Các chỉ tiêu này được cập nhật thường xuyên thông qua các báo cáo của Tổng cục Thống kê và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
1. Nhóm chỉ tiêu tuyệt đối:
1.1 Số lượng dự án: Là toàn bộ số dự án FDI đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư.
Số dự án được chia theo thời gian (tháng, quí, năm); vùng; địa phương; ngành; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.2 Vốn pháp định: Là vốn ban đầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được ghi trong điều lệ doanh nghiệp hay là mức vốn phải có để thành lập doanh nghiệp được ghi trong điều lệ thành lập doanh nghiệp (Điều 19 - Luật đầu tư nước ngoài).
Vốn pháp định được chia theo thời gian; ngành; doanh nghiệp.
1.3 Vốn đăng ký: Là số vốn chủ đầu tư cam kết trong hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư.
Vốn đăng ký được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.4 Vốn thực hiện: Là số vốn chủ đầu tư dã thực sự bỏ ra để đầu tư trong suốt dự án.
Vốn thực hiện được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.5 Vốn đầu tư: Là số vốn thực hiện dự án đầu tư, bao gồm vốn pháp định và vốn vay.
Vốn đầu tư được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.6 Vốn cấp mới: Là số vốn mà chủ đầu tư xin cấp giấy phép đầu tư thêm trong năm.
Vốn cấp mới được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.7 Vốn tăng thêm: Là số vốn mà chủ đầu tư xin ghi thêm trong giấy phép đầu tư của một dự án.
Vốn tăng thêm được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.8 Vốn hết hạn: Là số vốn còn lại chưa thực hiện được tại thời điểm dự án hết hạn đầu tư.
Vốn hết hạn được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.9 Vốn giải thể: Là số vốn cộng dồn còn lại chưa thực hiện tại thời điểm doanh nghiệp tuyên bố giải thể.
Vốn giải thể được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.10 Vốn còn hiệu lực:
Vốn còn hiệu lực = Vốn cấp mới + Vốn tăng - (Vốn hết hạn + Vốn giải thể)
Vốn còn hiệu lực được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
2. Nhóm chỉ tiêu tương đối và bình quân:
2.1 Vốn đăng ký bình quân một dự án (): Chỉ tiêu này là quan hệ so sánh giữa số vốn đăng ký () và số lượng dự án (n).
Đơn vị tính: Tr USD/1 dự án
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
2.2 Vốn thực hiện bình quân một dự án (): Chỉ tiêu này là quan hệ so sánh giữa số vốn thực hiện () với số lượng dự án (n).
Đơn vị tính: Tr USD/1 dự án
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
2.3 Tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký (R): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số vốn thực hiện () cho số vốn đăng ký ().
Đơn vị tính: USD/USD
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 đơn vị giá trị vốn đăng ký thì có bao nhiêu đơn vị giá trị vốn được thực hiện.
III. Hệ thống chỉ tiêu thống kê hiệu quả FDI:
Bao gồm hai nhóm chỉ tiêu:
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính (góc độ doanh nghiệp)
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội (góc độ nền kinh tế)
1. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính của doanh nghiệp có FDI:
1.1 Công thức tổng quát xác định các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính:
Hiệu quả tài chính được đo lường bằng các chỉ tiêu tương đối thời kỳ, nó có hai loại chỉ tiêu:
1.1.1 Kết quả thu được do thực hiện vốn đầu tư (Htc): Chỉ tiêu được xác định bằng cách chia kết quả sản xuất mà đơn vị có vốn FDI thu được (Q) cho số vốn mà đơn vị bỏ ra để tạo ra kết quả đó (C).
được coi là có hiệu quả khi >
Với là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kì khác mà cơ sở đã được chọn làm cơ sở so sánh hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn hiệu quả.
Đơn vị tính: USD/USD
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 đơn vị giá trị vốn bỏ ra thì thu được bao nhiêu đơn vị giá trị kết quả.
1.1.2 Vốn thực hiện để tạo ra một đơn vị kết quả sản xuất (Etc): Chỉ tiêu được xác định bằng cách chia số vốn mà đơn vị có vốn FDI bỏ ra(C) cho kết quả sản xuất mà đơn vị đó thu được (Q).
Đơn vị tính: USD/USD
được coi là có hiệu quả khi <
là chỉ tiêu nghịch của chỉ tiêu
Đơn vị tính: USD/USD
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết để thu được 1 đơn vị giá trị kết quả thì cần có bao nhiêu đơn vị giá trị vốn.
1.2 Một số chỉ tiêu thống kê hiệu quả tài chính:
1.2.1 Tỷ suất sinh lời (hệ số thu hồi vốn đầu tư - RR): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia tổng mức lợi nhuận thuần () cho số vốn đầu tư của dự án (K).
Đơn vị tính: USD/USD
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ mỗi đơn vị vốn bỏ ra thì thu được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận thuần. Nó dùng để so sánh giữa các dự án với nhau, từ đó chọn ra dự án tối ưu.
1.2.2 Thời hạn thu hồi vốn đầu tư (T): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số vốn đầu tư của dự án (K) cho tổng mức lợi nhuận thuần ().
Đơn vị tính: USD/USD
Chỉ tiêu càng nhỏ càng tốt
Chú ý: Lợi nhuận được tính bằng tiền thu ở những thời điểm khác nhau của quá trình thực hiện dự án nên cần chú ý đến giá trị thời gian của các khoản lợi thu được.
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết thời gian để chủ đầu tư thu hồi vốn ban đầu. Nó dùng để so sánh hiệu quả sử dụng vốn giữa các dự án khác nhau hoặc giữa các năm của đời dự án.
1.2.3 Số vòng quay vốn lưu động (N): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia doanh thu (D) cho số vốn lưu động bình quân ().
Đơn vị tính: Vòng quay
Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt nhưng giá trị của nó phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, do đó cần phải so sánh với mức trung bình ngành.
1.2.4 Hệ số tự chủ vốn (Htco): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số vốn tự có (Ktco) cho số đầu tư của doanh nghiệp (K) nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, vốn tự có tối thiểu (vốn pháp định) ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư nên hệ số này phải ít nhất lớn hơn 0,3. Nhìn chung hệ số tự chủ vốn càng lớn thì mức độ tin cậy của doanh nghiệp trong hoạt động càng cao.
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 đơn vị giá trị vốn đầu tư thì có bao nhiêu đơn vị giá trị vốn tự có của doanh nghiệp FDI.
1.2.5 Tỷ số cân đối nợ:
Tổng số nợ
Tỷ số cân đối nợ =----------------------
Tổng số tài sản có
Tài sản có + Nợ phải đòi
Khả năng thanh toán =---------------------------------
ngắn hạn Nợ ngắn hạn
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết khả năng của doanh nghiệp về mặt tài chính và khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
2. Nhóm chỉ tiêu thống kê hiệu quả kinh tế xã hội:
2.1 Tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (R'): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số vốn FDI (K) chia cho số vốn đầu tư toàn xã hội () nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 100 đơn vị giá trị vốn toàn xã hội thì có bao nhiêu đơn vị giá trị vốn FDI.
2.2 Hiệu quả sử dụng vốn FDI (H): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia giả trị tăng thêm của VA hay GDP (DVA, DGDP)cho vốn FDI bình quân ()
Đơn vị tính: USD/USD
Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ mỗi đơn vị giá trị vốn FDI thì sẽ làm tăng bao nhiêu đơn vị giá trị gia tăng hay GDP.
2.3 Tỷ lệ số lao động được sử dụng trong doanh nghiệp FDI(RL): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số lao động bình quân của doanh nghiệp FDI () cho số lao động được sử dụng trong xã hội () nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ mỗi một lao động được sử dụng trong xã hội thì có bao nhiêu lao động được sử dụng trong doanh nghiệp FDI.
2.4 Mức trang bị vốn cho lao động (TBld): Chỉ tiêu này là quan hệ so sánh giữa số vốn đầu tư ()với số lao động bình quân của doanh nghiệp có vốn FDI ()
Đơn vị tính: USD/1 lao động
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết một lao động được trang bị bao nhiêu đơn vị giá trị vốn đầu tư.
2.5 Đóng góp cho ngân sách (Hdg): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia mức đóng góp vào ngân sách của doanh nghiệp FDI (DG) cho số vốn FDI ().
Đơn vị tính: USD/USD
Hdg càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ mỗi đơn vị giá trị vốn FDI thì có bao nhiêu đơn vị giá trị được đóng góp vào ngân sách nhà nước.
2.6 Mức thu nhập bình quân lao động (): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia tổng quĩ lương phân phối cho lao động (Q) cho số lao động hiện có bình quân ().
Đơn vị tính: USD/1 tháng/1 người
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt, nó được so sánh với các mức thu nhập bình quân ở các khu vực khác.
2.7 Tỷ lệ đóng góp vào GDP (t): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia giá trị GDP do khu vực có vốn FDI tạo ra (GDPFDI) cho giá trị GDP của toàn bộ nền kinh tế (GDP) nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 100 đơn vị giá trị GDP của toàn bộ nền kinh tế thì có bao nhiêu đơn vị giá trị GDP do khu vực có vốn FDI tạo ra.
2.8 Tỷ lệ đóng góp vào xuất khẩu (): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia giá trị xuất khẩu do khu vực có vốn FDI () tạo ra cho giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế () nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đơn vị giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế thì có bao nhiêu đơn vị giá trị xuất khẩu do khu vực có vốn FDI tạo ra.
2.9 Tỷ lệ giá trị sản xuất trong các ngành (): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia giá trị sản xuất của ngành i do khu vực có vốn FDI tạo ra (i) cho giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế () nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết là cứ mỗi đơn vị giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế thì có bao nhiêu đơn vị giá trị xuất khẩu do khu vực có vốn FDI tạo ra.
2.10 Tỷ lệ số doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm (tmt): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm (Non) cho số doanh nghiệp FDI (N) nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng nhỏ càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết là cứ 100 doanh nghiệp FDI thì có bao nhiêu doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường.
2.11 Tỷ lệ số máy móc, công nghệ lạc hậu (): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số máy móc, công nghệ lạc hậu () cho toàn bộ số máy móc, công nghệ được chuyển giao qua FDI () nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng nhỏ càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết là cứ 100 máy móc, công nghệ được chuyển giao qua FDI thì có bao nhiêu máy móc, công nghệ lạc hậu.
2.12 Tỷ lệ số diện tích đất được các doanh nghiệp FDI thuê trong các KCN, KCX (): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số diện tích đất được các doanh nghiệp FDI thuê () cho tổng diện tích đất có trong KCN, KCX () nhân với 100.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết là cứ 100 ha diện tích đất trong KCN, KCX thì có bao nhiêu ha diện tích đất được doanh nghiệp FDI thuê.
Chương III
phân tích thống kê
thực trạng và hiệu quả FDI
I. Phân tích thực trạng thu hút FDI tại Việt Nam giai đoạn 1988 - 2000:
1. Đánh giá chung:
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và nhất là các nước Châu á mới ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nhưng nước ta vẫn thu hút được các chủ đầu tư nước ngoài là một thành công đáng ghi nhận. Tính đến hết ngày 31/12/2001 Việt Nam đã thu hút được 3.256 dự án với lượng vốn đăng ký trên 38.676 triệu USD, tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp giấy phép cho 250 dự án với số vốn đăng ký bình quân là 2.975 tr USD.
Trong thời gian 13 năm qua, kể từ năm 1988 đến nay hoạt động FDI có thể chia làm 4 giai đoạn:
Ba năm đầu (1988 - 1990) được coi là giai đoạn khởi động. Lúc đó chúng ta như người mới vào nghề, vừa chưa có kinh nghiệm, vừa rất mạnh dạn trong các quyết định, còn người nước ngoài thì đến với nước ta như đến một miền đất mới vừa lạ, vừa hấp dẫn, họ thận trọng không dám mạo hiểm, mới làm thử để thăm dò cơ hội, nên số dự án trong thời gian này chưa nhiều, mức tăng trưởng vốn đầu tư còn chậm. Trong giai đoạn này trừ hai lĩnh vực là thăm dò dầu khí và viễn thông FDI có tác động rõ rệt, còn các lĩnh vực khác hầu như mới chỉ có một ít dự án, phần lớn lại chưa được triển khai, doanh thu, kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng đóng góp trong GDP và các khoản nộp ngân sách còn rất ít, số lao động trong các xí nghiệp có vốn FDI cũng chưa nhiều. Do vậy, chưa thu hút được sự chú ý của các cơ quan Trung Ương cũng như các địa phương. Thái độ chung của nhiều người lúc này là “trải chiếu hoa“ đón các chủ đầu tư nước ngoài kể cả những chủ đầu tư thực và rởm, nên hoạt động đầu tư ít gặp khó khăn từ khi xin giấy phép đầu tư cho đến khi triển khai dự án.
Giai đoạn 1991 - 1995 được coi là giai đoạn tăng trưởng nhanh và thay đổi cả về chất lượng hoạt động đầu tư nước ngoài. Tháng 3 năm 1991 một Diễn đàn quốc tế về đầu tư nước ngoài có quy mô lớn với sự tham gia của hơn 650 khách quốc tế và đại diện của một số tổ chức quốc tế như: UNIDO, IMF, WB, ADB, ESCAF, UNDP... đã được tổ chức thành công tại thành phố Hồ Chí Minh. Đây có thể coi là một sự kiện quan trọng có ý nghĩa lịch sử trong hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta, mở đầu một thời kì mới trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nét nổi bật trong thời kì này là hoạt động đầu tư đã trở nên sôi động, hiệu quả hơn, hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được thể hiện ngày càng rõ rệt.
Giai đoạn 1996 - 1999 cũng như trạng thái kinh tế nói chung FDI đã có dấu hiệu suy giảm. Tốc độ tăng trưởng lần lượt qua các năm là: 96: 9,3%; 97: 8,2%; 98: 5,8%; 99: 4,8% và lượng vốn FDI năm 96 là 8.640 triệu USD thì đến năm 99 chỉ còn 1.568 triệu USD. Nếu lấy con số thống kê năm 96 là 8.640 triệu USD, tăng 31% so với năm 95 thì có lẽ tình hình vẫn khả quan. Tuy vậy, cần lưu ý rằng số vốn thực hiện năm 1996 lại giảm 0,94% so với năm 1995.
Giai đoạn 2000- 2001: Đây là giai đoạn bắt đầu xuất hiện dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế nói chung và khả năng thu hút FDI nói riêng. Theo ước tính, năm 2000 tốc độ tăng trưởng đạt 6,7% tăng hơn so với 4,8% năm 1999. Tính đến ngày 15/4/2001 trên cả nước có khoảng 2.725 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 36,56 tỷ USD vốn pháp định trên 16,45 tỷ USD.
2. Phân tích quy mô dự án FDI:
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư đến 31/3/2001 Việt Nam đã thu hút được 3.348 dự án với tổng vốn đăng ký 38.902 triệu USD.
Qua số liệu thống kê cho thấy thời kì đầu tư năm 1988 - 1990 FDI chỉ dừng lại ở những dự án có quy mô vừa và nhỏ, với quy mô trung bình một dự án khoảng 6,9 triệu USD. Bước sang thời kì thứ hai 1991 - 1995 FDI đã tăng mạnh cả về số lượng và chất lượng, quy mô trung bình một dự án năm 1991 là 8,2 triệu USD, thì đến năm 1995 đã là 16,4 triệu USD. Đặc biệt, trong hai năm 1994 - 1995, cả số vốn đăng ký được duyệt lẫn vốn thực hiện đều có bước tiến nhảy vọt. So với năm 1988 vốn đầu tư của năm 1995 tăng gấp 18 lần, chỉ nói hết quý I năm 1995, số vốn đăng ký đã đạt hơn một nửa của cả năm 1994, số vốn thực hiện đạt khoảng 30%.
Nhịp độ vốn FDI tăng nhanh, năm 1988 số lượng vốn đăng ký mới chỉ đạt 366 triệu USD, năm 1995 tăng lên 6.607 triệu USD mức tăng bình quân hàng năm là 51,2%. Tốc độ tăng vốn FDI cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (thời kì 1986 - 1990 là 23,3%) điều này phù hợp với xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay. Tốc độ của dòng FDI đạt được ngày càng lớn chứng tỏ rằng, các chủ đầu tư đã nhận ra một miền đất hứa hẹn nhiều lợi nhuận và an toàn.
Nhưng đến năm 1996, do tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc nội có phần chậm lại cùng với ngòi nổ của cuộc khủng hoảng khu vực, FDI đã bắt đầu chững lại và suy giảm. Thật vậy, năm 1996 tổng vốn FDI đăng ký là 8,6 tỷ USD (tăng 31% so với năm 1995) với quy mô trung bình một dự án là 23,67 triệu USD thì đến năm 1997, tổng vốn đăng ký đã giảm mạnh chỉ còn 4,6 tỷ USD và 13,4 triệu USD bình quân một dự án, cho dù vào thời điểm của năm 1996 có hai dự án là khu đô thị Nam Thăng Long và An Phú với số vốn khoảng 1 tỷ USD và một trong hai dự án này đã không triển khai được vào năm 1997.
Năm 1999, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và nhất là các nước Châu á mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nhưng nước ta vẫn thu hút được 311 dự án với vốn đăng ký là 1.568 triệu USD là một thành công đáng ghi nhận. Sự thành công không dừng lại ở số dự án và số vốn đăng ký mà còn thể hiện rõ nét ở các góc độ khác: Năm 1999 so với năm 1998, tuy số vốn đăng ký chỉ bằng 44,29% nhưng tỷ lệ vốn thực hiện cao hơn hẳn 98,13% so với 50,19%. Như vậy nếu xét suốt thời kì 1988 - 1999 thì năm 1995 có thể xem là đỉnh cao về thu hút FDI của Việt Nam (cả về số lượng dự án, vốn đăng ký và vốn thực hiện).
Nếu so với năm 1997 thì số dự án được duyệt năm 1998 chỉ bằng 75,36%, năm 1999 chỉ bằng 90,14%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 87,22% và 33,69%. Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì quy mô dự án bình quân của thời kỳ 1988 - 1999 là 12,71 triệu USD/1 dự án. So với một số nước ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu hút FDI thì quy mô bình quân của 1 dự án này không phải là thấp. Nhưng vấn đề đang quan tâm ở đây là quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 lại nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước tới nay (5,04 triệu USD/1 dự án). Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 chỉ bằng 39,65% quy mô bình quân của thời kỳ 1988 - 1999 và chỉ bằng 21,29% quy mô bình quân một dự án của năm cao nhất, năm 1996). Điều này cho thấy, trong một chừng mực nhất định, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng khá nặng nề của cuộc khủng hoảng khu vực. Khi mà khoảng 70% vốn FDI vào Việt Nam là xuất phát từ các chủ đầu tư Châu á và nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng là sự giảm sút về khả năng hấp dẫn do điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam.
Trong thời kỳ 1996 - 2000 tổng vốn FDI thực hiện đạt 12,2 tỷ USD. Trong 5 năm tới phấn đấu để vốn FDI thực hiện đạt mức cao hơn so với 5 năm trước. Điều này có khả năng trở thành hiện thực khi xem xét diễn biến và xu hướng của lĩnh vực FDI trong thời gian tới.
Trước hết, trong số 2.620 dự án FDI được cấp giấy phép trước năm 2001 và còn hiệu lực thì hiện vẫn còn tới 1.300 dự án với tổng vốn đăng ký 17,6 tỷ USD đang trong quá trình xây dựng hoặc đang làm thủ tục hành chính hoặc chưa triển khai. Như vậy, trong 5 năm tới số vốn đầu tư thực hiện của nhóm dự án này có thể đạt mức 7 - 8 tỷ USD.
Hai là, đã có không ít dự án đang hoạt động có hiệu quả có xu hướng tăng thêm vốn. Trong thời kỳ 1996 - 2000 đã có 500 dự án tăng vốn với tổng vốn tăng thêm gần 4 tỷ USD, trong khi vốn thực hiện đạt 2 tỷ USD. Như vậy, có thể dự báo rằng, cùng với chính sách cởi mở của nhà nước tạo điều kiện tối đa cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì số vốn thực hiện của nhóm dự án này trong thời kỳ 2001 - 2005 cũng có thể bằng hoặc vượt mức kế hoạch trong thời kỳ trước.
Ba là, số vốn thực hiện của những dự án mới được cấp giấy phép kể từ năm 2001 có thể đạt khoảng 4 tỷ USD như tiến độ thực hiện ở thời kỳ trước. Như vậy cộng 3 nguồn vốn này lại thì tổng vốn FDI thực hiện trong thời kỳ 2001 - 2005 có thể đạt trên 13 tỷ USD.
Năm 2000 và 2001 bắt đầu xuất hiện dấu hiệu của sự phục hồi, năm 2000 với số vốn đăng ký đạt 1.985 triệu USD tăng 28,2% so với 1999, trong đó có dự án Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn với số vốn đăng ký 1 tỷ USD được cấp giấy phép trong tháng 12 là lớn nhất. Đây cũng là dự án lớn thứ hai trong vòng 3 năm nay, sau dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất (1,8 tỷ USD). Trong 3 tháng đầu năm 2001 cả nước đã có thêm 83 dự án có vốn FDI được cấp giấy phép, với tổng vốn đăng ký đạt 273 triệu USD. Điểm khả quan nhất mà kết quả thống kê này cho thấy là số vốn FDI được cấp giấy phép trong quý I vừa qua đã tăng 14,1% so với cùng kì năm 2000 và số dự án tăng 16,9%. Tính riêng trong tháng 3 năm nay đã có thêm 20 dự án có vốn FDI được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký là 1.413 triệu USD, trong đó dự án lớn nhất là của Metro Cash và Carry GmHI với 120 triệu USD vốn đăng ký. Tình hình thu hút FDI quý I/2001 có những dấu hiệu phục hồi dưới tác động của các chính sách mới do Nhà nước ban hành gần đây, trong đó có những nỗ lực liên tiếp kể từ sau khi Luật sửa đổi luật đầu tư nước ngoài được thông qua vào ngày 9 tháng 6 năm 2000. Nghị định 24/2000/NĐ - CP, Thông tư 12/ 2000/ TT/BKH. Có thể kể tới thành công của cuộc hội thảo “Cùng hướng tới thành công” được tổ chức tại Hà Nội và Singapore.
Tuy nhiên, những con số trên đây mới chỉ nói lên được số lượng vốn đầu tư mới và vốn đưa vào thực hiện, còn những yếu tố quan trọng như cơ cấu đầu tư (theo ngành, vùng, đối tác đầu tư và hình thức đầu tư) thì sao?
3. Phân tích cơ cấu đầu tư:
Đây cũng là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút FDI, bởi vì nó có tác động to lớn đưa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của kinh tế Việt Nam.
3.1 Phân theo ngành nghề:
Qua nhiều năm vừa làm vừa điều chỉnh, cơ cấu FDI đã có bước chuyển biến quan trọng, bước đầu phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bảng 3: FDI vào Việt Nam phân theo ngành trong hai năm 1999 - 2000
Đơn vị tính: 1000 USD
Số thứ tự
Ngành
Năm 1999
Năm 2000
Số dự án
Vốn đầu tư
Tỉ lệ (%)
Số dự án
Vốn đầu tư
Tỉ lệ (%)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
CN nặng
Dầu khí
CN nhẹ
CN thực phẩm
Nông - lâm nghiệp
Khách sạn - Du lịch
Dịch vụ
GTVT - Bưu điện
Xây dựng
Văn hoá- tế-Giáo dục
Thuỷ sản
Ngân hàng - Tài chính
57
5
132
23
23
6
35
4
12
6
3
5
371.745
46.300
242.291
195.717
53.303
148.045
121.350
136.827
198.372
7.010
7.080
40.000
23,71
2,95
15,45
12,48
3,40
9,44
7,74
8,73
12,65
0,45
0,45
2,55
82
8
173
16
35
2
27
2
12
9
4
1
185.664
1.184.300
364.288
70.101
50.880
22.800
17.027
7.995
24.063
67.212
8.050
10.000
9,23
58,85
18,10
3,48
2,53
1,13
0,85
0,40
1,19
3,34
0,40
0,50
Tổng
311
1.568.040
100,00
371
2.012.380
100,00
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong những năm đầu, vốn FDI tập trung chủ yếu vào các ngành dầu khí (32,2%), khách sạn (20,6%). Bởi vì, để tận thu được nguồn vốn FDI nên chúng ta có phần ít chú ý đến việc phải lựa chọn các dự án đầu tư sao cho phù hợp với yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế của chúng ta. Đến năm 1991, thì tỷ trọng của các ngành sản xuất bắt đầu tăng, năm 1992 đầu tư vào công nghiệp tăng 38%, năm 1995 tăng lên đến 43%. Tính đến hết năm 1993, cơ cấu FDI theo ngành vẫn nghiêng về hai khối ngành khách sạn và du lịch (20.6%) và dầu khí (16.6%). Toàn bộ khối ngành công nghiệp chiếm 40.7%, song do nó bao gồm khoảng 20 ngành cấp 2 nên thực tế vốn bình quân cho mỗi ngành cụ thể là nhỏ (bình quân 2% mỗi ngành). Ba khối ngành quan trọng khác là nông - lâm nghiệp, ngư nghiệp và giao thông chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn.
Tiếp theo xu hướng xuất hiện từ 1993, 1994 sang năm 1995, cơ cấu FDI có thay đổi: tỷ trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, nhất là ngành công nghiệp nhẹ, tức là những ngành vừa có hiệu quả vốn đầu tư cao, vừa có khả năng tận dụng lao động để tạo ra năng lực xuất khẩu, tạo nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân.
Năm 1999, tỷ trọng số dự án và vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp tăng lên rõ rệt 68,17% và 51,64%, các ngành khác như xây dựng, nông nghiệp, tài chính và ngân hàng cũng có số vốn đầu tư tăng lên. Số vốn đầu tư vào các ngành nông nghiệp tăng lên chút ít 0.95%, trong khi đó để thực hiện thắng lợi chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn, ngoài nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, nhà nước chủ trương huy động các nguồn vốn khác cho nông nghiệp, đặc biệt là vốn FDI, điều này thể hiện sự chưa phù hợp với phương hướng gọi FDI tại Việt Nam. (thiếu)
3.2 Phân theo tỉnh, thành phố:
Tính đến nay, thì tất cả các tỉnh và thành phố trên toàn quốc đều đã có dự án FDI. Cơ cấu đầu tư ngày càng cân đối hơn, cùng với xư hướng chuyển dịch nguồn vốn đầu tư từ các nước Châu á sang Châu Âu, vùng nhận FDI cũng thay đổi. Số dự án đầu tư vào các khu vực nghèo, chậm phát triển gia tăng, dự án vào các đô thị lớn giảm dần.
Bảng 5: 10 tỉnh và thành phố dẫn đầu trong thu hút FDI từ năm 1988 đến 31/12/2000
Số thứ tự
Tên tỉnh
Số dự án
Vốn đăng ký
(Tr USD)
Tỉ lệ vốn đăng ký (%)
Vốn thực hiện (Tr USD)
Tỉ lệ vốn thực hiện (%)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
TP.Hồ Chí Minh
Bình Dương
Hà Nội
Bà Rịa - Vũng Tàu
Đồng Nai
Long An
Hải Phòng
Quảng Ngãi
Phú Thọ
Quảng Ninh
915
366
279
378
5
85
68
47
38
27
9.688
7.700
4.527
2.298
1.328
1.281
1.204
845
639
578
32,2
25,59
15,05
7,64
4,41
4,26
4,00
2,81
2,12
1,92
4.732
2.776
2.107
1.051
352
916
393
86
177
258
36,83
21,61
16,40
8,18
2,74
7,13
3,06
0,67
1,38
2,00
Tổng
2.208
30.088
100,00
12.848
100,00
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bảng 6: 10 tỉnh và thành phố dẫn đầu trong thu hút FDI năm 1999,2000
Số thứ tự
Năm 1999
Năm 2000
Tên tỉnh
Số dự án
Số vốn đăng ký
(triệu USD)
Tên tỉnh
Số dự án
Số vốn đăng ký
(triệu USD)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
TP.Hồ Chí Minh
Bình Dương
Hà Nội
Bà Rịa - Vũng Tàu
Đồng Nai
Long An
Hải Phòng
Quảng Ngãi
Phú Thọ
Quảng Ninh
104
66
31
5
16
7
13
2
2
8
450,6
276,8
248,6
247,9
62,9
40,3
40,2
20,6
17,1
16,2
Bình Dương
Tp.Hồ Chí Minh
Đồng Nai
Bà Rịa - Vũng Tàu
Hà Nội
Khánh Hoà
Tây Ninh
Quảng Nam
Thanh Hoá
Vĩnh Phúc
114
114
32
6
36
5
11
3
3
5
332,6
194,4
110,8
35,5
33,5
29,5
20,4
10,0
6,9
6,5
Tổng
254
1.421,2
329
780,1
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nếu trong những năm đầu, đầu tư ở các tỉnh phía Bắc chỉ có 25% số dự án với 20% vốn đầu tư, thì đến cuối năm 1995, các tỉnh phía Bắc đã thu hút được 31% số dự án với 36% vốn đầu tư. Năm 1998, cơ cấu đầu tư có sự chuyển biến tích cực: Số dự án đầu tư vào 3 vùng kinh tế trọng điểm quốc gia giảm còn 203 dự án (chiếm 34%) vốn đăng ký là 1.825 triệu USD chiếm 47% tổng số vốn đăng ký (những năm trước tỷ lệ này là 70 - 75%). Tỷ trọng dự án đầu tư vào những vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa tăng lên.
Dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất với số vốn 1.300 triệu USD đã đưa Quảng Ngãi lên vị trí đầu bảng, trở thành địa phương có vốn FDI lớn nhất nước trong năm 1998, tiếp đó Lâm Đồng với dự án xây dựng khu vui chơi giải trí. Thành phố Hồ Chí Minh từ vị trí thứ nhất năm 1997 tụt xuống thứ hai năm 1998. Hà Nội từ vị trí thứ 2 năm 1997 tụt xuống thứ 4. Còn Hải Phòng từ vị trí thứ 4 năm 1997 đã bị loại ra khỏi bảng xếp hạng 10 địa phương có vốn FDI nhiều nhất.
Năm 1999, Thành phố Hồ Chí Minh lại vươn lên hàng thứ nhất với 104 dự án, số vốn đăng ký 450,6 triệu USD. Trong cơ cấu GDP của Thành phố, khu vực có vốn FDI tăng từ 11,1% năm 1998 lên 18,1% năm 1999. Tốc độ tăng GDP của khu vực này đạt 11,12% cao hơn hẳn so với khu vực kinh tế nội._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29796.doc