MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu, sơ đồ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
VND: Việt nam đồng
PGD: Phòng giao dịch
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Lãi suất huy động VND bình quân tháng và tốc độ phát triển liên hoàn của vốn huy động bằng VND tại PGD Oceanbank Đào Tấn từ tháng 9/2008 - 3/2009 34
Bảng 2.2: Lãi suất huy động USD bình quân tháng và tốc độ phát triển liên hoàn của vốn huy động bằng USD tại PGD Oceanbank Đào Tấn từ
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích thống kê hoạt động huy động vốn tại phòng giao dịch Oceanbank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 và dự đoán cho tháng 4, tháng 5/2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tháng 9/2008 đến tháng 3/2009 36
Bảng 2.3: Lãi suất huy động VND và USD bình quân các kì hạn tại Oceanbank từ tháng 7/2008 đến tháng 3/2009 40
Bảng 2.4: Lãi suất huy động VND và USD bình quân tháng tại Oceanbank từ tháng 7/2008 đến tháng 3/2009: 41
Bảng 2.5: Tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 44
Bảng 2.6: Các chỉ tiêu biểu hiện đặc điểm biến động của tổng vốn huy động tại PDG OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 44
Bảng 2.7: Lãi suất cơ bản Việt Nam đồng từ tháng 10 đến hết năm 2008: 46
Bảng 2.8: Tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 phân theo kì hạn 50
Bảng 2.9: Cơ cấu tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 phân theo kì hạn 50
Bảng 2.10: Tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 phân theo loại tiền 51
Bảng 2.11: Cơ cấu tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 phân theo loại tiền 53
Bảng 2.12: Các chỉ tiêu biểu hiện đặc điểm biến động của tổng vốn huy động bằng VND tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 55
Bảng 2.13: Các chỉ tiêu biểu hiện đặc điểm biến động của tổng vốn huy động bằng USD tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 56
Bảng 2.14: Tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 theo loại tiền và theo các nhóm kì hạn 58
Bảng 2.15: Cơ cấu tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 theo loại tiền và theo các nhóm kì hạn 52
Bảng 2.16: Tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 phân theo hình thức tài khoản: 62
Bảng 2.17: Cơ cấu tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 phân theo hình thức tài khoản 62
Đồ thị 2.1: CPI của Việt Nam các tháng năm 2008 22
Đồ thị 2.2: Mối liên hệ giữa X, lãi suất huy động VND bình quân tháng (đơn vị: %) và Y, tốc độ phát triển liên hoàn của vốn huy động bằng VND (đơn vị:%) 35
Đồ thị 2.3: Đường cong được xây dựng từ tài liệu được tính từ 2 mô hình hồi quy 35
Đồ thị 2.4: Mối liên hệ giữa X, lãi suất huy động USD bình quân tháng (đơn vị: %) và Y, tốc độ phát triển liên hoàn của tổng vốn huy động bằng USD (đơn vị: %) 37
Đồ thị 2.5: Đường cong được xây dựng từ tài liệu được tính từ 4 mô hình hồi quy 38
Đồ thị 2.6: Lãi suất huy động vốn tại Oceanbank từ tháng 7/2008 đến tháng 3/2009 40
Đồ thị 2.7: Lãi suất huy động VND và USD bình quân tháng tại Oceanbank từ tháng 7/2008 đến tháng 3/2009: 41
Đồ thị 2.8: Tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009: 43
Đồ thị 2.9: Đường cong được xây dựng từ 4 hàm xu thế 48
Đồ thị 2.10: Kết cấu tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 phân theo loại tiền 53
Đồ thị 2.11: Tổng vốn huy động theo loại tiền tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 55
Đồ thị 2.12: Tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 theo các nhóm kì hạn 60
Đồ thị 2.13: Cơ cấu tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 theo các nhóm kì hạn 60
Đồ thị 2.14: Tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 theo hình thức tài khoản. 63
Đồ thị 2.15: Kết cấu tổng vốn huy động theo hình thức tài khoản tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 63
Đồ thị 2.16: Đồ thị hàm xu thế của tổng vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn 69
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại là 1 trong những tổ chức kinh tế quan trọng nhất. Những năm gần đây hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng phát triển, mở rộng và hiện đại hơn. Ngân hàng thương mại đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong tập trung vốn nhàn rỗi cung cấp cho sản xuất giúp hoạt động sản xuất được diễn ra liên tục, góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa nước nhà. Ngân hàng thương mại cũng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từng bước chuyển đổi và nâng tầm hoạt động của ngân hàng, phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Năm 2008 vừa qua đánh dấu thắng lợi của hệ thống ngân hàng trong kiềm chế lạm phát. Có thể nói nền kinh tế không thể phát triển nhanh chóng, khỏe mạnh và ổn định khi thiếu đi hệ thống ngân hàng thương mại.
Phòng giao dịch Oceanbank Đào Tấn là 1 phòng giao dịch rất mới thuộc ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương (OceanBank), được thành lập ngày 16/07/2008. Nghiệp vụ chính của phòng giao dịch là huy động vốn. Đây cũng là 1 trong những nghiệp vụ chính của ngân hàng thương mại, nó giúp tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng hoạt động, tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Thành lập vào tháng 7/2008, thời điểm nhạy cảm của thị trường, hoạt động huy động vốn gặp không ít khó khăn. Tiến hành phân tích hoạt động huy động vốn trong thời gian qua sẽ giúp ngân hàng đánh giá được hoạt động của mình, tìm ra những ưu điểm hay thiếu sót, từ đó có sự điều chỉnh phù hợp; và dự đoán cho tương lai giúp ngân hàng có sự chuẩn bị tốt để hoạt động 1 cách hiệu quả nhất, nâng cao hiệu quả huy động vốn. Từ các góc độ trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Phân tích thống kê hoạt động huy động vốn tại PGD Oceanbank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 và dự đoán cho tháng 4, tháng 5/2009”.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động huy động vốn, phạm vi không gian là tại PGD OceanBank Đào Tấn, phạm vi thời gian là từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009.
Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề sử dụng 1 số phương pháp thống kê như: phương pháp dãy số thời gian, phương pháp hồi quy tương quan, phương pháp thống kê mô tả, phương pháp phân tổ thống kê… và 1 số phương pháp khác.
Kết cấu chuyên đề: Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm có 3 chương:
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại và hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
- Chương II: Phân tích thống kê hoạt động huy động vốn tại PGD Oceanbank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 và dự đoán cho tháng 4, tháng 5/2009.
- Chương III: Kiến nghị và giải pháp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại:
Nền kinh tế ngày càng phát triển kéo theo sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính - trung gian kết nối giữa cung và cầu vốn. Trong số các tổ chức trung gian tài chính, hệ thống các ngân hàng thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất về quy mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ.
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán (theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/5/1990 của Việt Nam); là một pháp nhân làm chức năng trung gian tài chính, tạo ra nguồn vốn và tham gia quá trình sản xuất thông qua hoạt động tín dụng, đầu tư, dịch vụ. Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và bảo vệ chính sách tiền tệ quốc gia, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tùy theo từng tiêu thức mà có thể phân loại ngân hàng thành nhiều loại khác nhau.
Chức năng của ngân hàng thương mại:
Tầm quan trọng của ngân hàng thương mại được thể hiện qua các chức năng của nó. Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung bao gồm ba chức năng chính sau:
Trung gian tài chính:
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của ngân hàng thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính đứng ra tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Thực hiện chức năng này, ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế; trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng… của các chủ thể trong nền kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vai trò trung gian tài chính ngày càng trở nên phong phú hơn như việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, thẻ ATM, thẻ ghi nợ…
Trung gian thanh toán:
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ, thu hộ tiền, thanh toán hộ khách hàng. Ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ, thanh toán điện tử… thay vì chi trả bằng tiền mặt tốn kém, khách hàng chỉ cần lệnh cho ngân hàng thông qua các phương tiện, ghi nợ cho tài khoản người này, ghi có cho tài khoản người kia. Nhờ vậy tiết kiệm được thời gian và chi phí cho khách hàng và cả xã hội (chi phí đúc tiền, in tiền, bảo quản tiền, vận chuyển tiền…).
Ngày nay với công nghệ thanh toán hiện đại, các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng không chỉ phạm vi trong nước mà cả trên toàn cầu.
Tạo phương tiện thanh toán:
Khi ngân hàng thực hiện chức năng thứ nhất và thứ hai cũng là đang thực hiện chức năng tạo tiền. Quá trình tạo tiền của ngân hàng thương mại được thông qua các dịch vụ cấp phát tín dụng và cung cấp cơ chế thanh toán không bằng tiền mặt cho khách hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với ngân hàng trung ương ở mỗi nước. Đó là khả năng biến tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều lần và qua nhiều ngân hàng. Tóm lại, ngân hàng có khả năng tạo tiền bằng cách cấp phát tín dụng cho khách hàng và đầu tư.
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại:
Vai trò của NHTM được xác định trên cơ sở các chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn.
Vai trò thực thi chính sách tiền tệ:
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng Nhà nước; để thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng…Chính các NHTM là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua NHTM và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá… của nền kinh tế được phản hồi về cho ngân hàng Nhà nước để chính phủ và ngân hàng Nhà nước có những chính sách điều tiết thích hợp với tình hình cụ thể.
Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn là phương tiện thực hiện các chính sách của Đảng và chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa, góp phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch phát triển giữa các nhóm thu nhập và giữa các vùng trong nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô:
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô thuộc về ngân hàng Nhà nước, thể hiện qua việc xây dựng và thực thi các chiến lược phát triển kinh tế và chính sách tiền tệ. Tuy nhiên do không trực tiếp giao dịch với công chúng, ngân hàng Nhà nước phải dựa vào thông tin phản hồi từ các định chế tài chính trung gian để làm căn cứ soạn thảo chính sách tiền tệ. Các chính sách tiền tệ này tác động đến nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Bằng chính sách và các biện pháp tín dụng, ngân hàng thương mại điều tiết luồng tiền trên thị trường, điều chỉnh luồng cung, cầu tiền tệ, từ đó ổn định nền kinh tế vĩ mô, giải quyết các vấn đề vĩ mô như kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái…
Các hoạt động chủ yếu của NHTM:
1.1.4.1. Huy động vốn:
Ngân hàng thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình chủ yếu thông qua sử dụng vốn huy động của khách hàng. Bởi vậy huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn nhằm thực hiện cho vay và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển sẽ càng tạo uy tín và tiền đề cho ngân hàng trong mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế từ đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng phải căn cứ vào các chiến lược phát triển của địa phương cũng như của cả nước để đưa ra các chính sách huy động vốn thích hợp nhất đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Ngân hàng huy động các nguồn vốn khác nhau bao gồm: những khoản mà nhân dân gửi vào, những khoản ngân hàng đi vay các đối tượng khác trong nền kinh tế như ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác, vay trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ… Quy mô tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Bên cạnh đó, tiền vay chiếm tỷ trọng thấp hơn trong tổng nguồn và có vai trò quan trọng. Các khoản vay thường có thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ đi vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng.
1.1.4.2. Hoạt động sử dụng vốn:
Với nguồn huy động được, ngân hàng sẽ dành 1 phần với mục đích dự trữ, phần còn lại được sử dụng nhằm mục đích sinh lãi. Có thể chia nghiệp vụ sử dụng vốn thành 3 nhóm chính.
_ Nghiệp vụ cho vay: về bản chất, với nghiệp vụ này ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng đối với một lượng vốn nhất định của mình cho một bên thứ hai để đổi lấy thu nhập về lãi. Đối với ngân hàng, cho vay là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu, là nguồn thu nhập chính bù đắp các chi phí trong hoạt động của ngân hàng.
_ Nghiệp vụ đầu tư: nghiệp vụ trong đó ngân hàng tiến hành mua các chứng khoán với mục đích thu lợi từ việc sở hữu các chứng khoán này. Lợi tức bao gồm lãi của chứng khoán do nhà phát hành đưa ra và lợi nhuận mà ngân hàng thu được khi bán lại chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Nghiệp vụ đầu tư thường được chia thành hai nhóm: đầu tư với mục đích thanh khoản và đầu tư với mục đích lợi nhuận.
_ Nghiệp vụ chiết khấu: nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá (thương phiếu, hối phiếu…) với mục đích hưởng một mức lợi tức – thường gọi là lợi tức chiết khấu – tương xứng với chi phí vốn và rủi ro mà ngân hàng phải đảm nhận khi sở hữu các giấy tờ có giá đó.
Hoạt động khác:
Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, các mối quan hệ không chỉ diễn ra trong nước mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Hoạt động của ngân hàng cũng mở rộng phong phú hơn. Ngoài 2 hoạt động chính là huy động vốn và sử dụng vốn NHTM còn thực hiện nhiều hoạt động khách như: bảo lãnh, cho thuê tài chính, tư vấn đầu tư, môi giới chứng khoán…
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.2.1. Khái niệm vốn huy động:
Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân hàng tạm thời quản lí và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả. Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất của bất kì ngân hàng thương mại nào. Và cũng chỉ có các ngân hàng thương mại mới có quyền huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau.
Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỉ trọng chi phí đầu vào rất lớn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của hoạt động huy động vốn:
Do tầm quan trọng của vốn huy động nên hoạt động huy động huy động vốn có vai trò rất lớn đối với ngân hàng, doanh nghiệp và cả xã hội.
Đối với ngân hàng, hoạt động huy động vốn tạo nguồn vốn lớn và chủ yếu để ngân hàng hoạt động. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động với nhiều mục đích khác nhau nhằm tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Đối với doanh nghiệp, hoạt động huy động vốn tạo nguồn vốn vay cho doanh nghiệp khi cần thiết, đáp ứng nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp.
Do những vai trò trên, hoạt động huy động vốn giúp nền kinh tế phát triển ổn định và liên tục. Hơn nữa hoạt động huy động có vai trò quan trọng trong chức năng tạo tiền của các ngân hàng, giúp tiết kiệm chi phí cho xã hội.
1.2.3. Nguyên tắc huy động vốn:
Hoạt động của ngân hàng luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, vì vậy luôn có những nguyên tắc cần tuần thủ để đảm bảo phát triển hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động ngân hàng một cách tốt nhất.
Tuân thủ pháp luật trong huy động vốn:
_ Hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng.
_ Tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định hiện hành.
_ Giữ gìn bí mật số dư và hoạt động của tài khoản ngân hàng.
_ Không được che giấu các khoản tiền lớn và bất thường (thực hiện các quy định của pháp lệnh chống rửa tiền).
_ Không được cạnh tranh bất hợp lí (thông tin giả, khuyến mãi bất hợp pháp…).
Thỏa mãn yêu cầu kinh doanh với chi phí thấp:
_ Áp dụng nhiều phương thức huy động vốn.
_ Kết hợp chặt chẽ giữa huy động vốn với hiện đại hóa dịch vụ ngân hàng.
_ Đa dạng hóa phương thức trả lãi đi đôi với dự thưởng để thu hút khách hàng.
Ngăn ngừa sự giảm sút bất thường của nguồn vốn huy động:
_ Tạo uy tín cho khách hàng bằng cách đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu rút tiền trong mọi tình huống.
_ Ngăn chặn những tin đồn nhảm.
_ Có phương pháp đáp ứng nhu cầu thanh toán kịp thời khi có sự cố xảy ra.
1.2.4. Các hình thức huy động vốn:
Bởi vốn huy động có ý nghĩa quyết định khả năng hoạt động của mỗi ngân hàng nên nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng thương mại. Các hình thức huy động vốn ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng vốn huy động được vì vậy việc đưa ra nhiều hình thức huy động phù hợp, linh hoạt là điều hết sức cần thiết đối với ngân hàng bởi như vậy họ mới khai thác được hết các nguồn vốn từ các doanh nghiệp và cá nhân trong mọi thành phần kinh tế.
Nguồn tiền được truyền tải đến ngân hàng theo nhiều kênh khác nhau, với các hình thức phân loại khác nhau.
1.2.4.1. Phân loại theo đối tượng khách hàng:
Khách hàng của ngân hàng bao gồm nhiều đối tượng khác nhau, rất đa dạng. Với mỗi đối tượng khách hàng ngân hàng có hình thức huy động vốn khác nhau tùy theo mục đích và nhu cầu của từng nhóm đối tượng. Đối với hoạt động huy động vốn, dựa theo đối tượng khách hàng thì hoạt động huy động vốn của ngân hàng được chia thành các hình thức sau: tiền gửi của cá nhân; tiền gửi của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
Tiền gửi của cá nhân
Khách hàng cá nhân chiếm đa số trong đối tượng khách hàng của ngân hàng. Chính vì vậy, các hoạt động dịch vụ của ngân hàng với đối tượng khách hàng này cũng rất đa dạng, đặc biệt đối với hoạt động huy động vốn. Với mục đích gửi tiền chủ yếu là tiết kiệm, bảo quản, đem lại khả năng sinh lời cho mình thì khách hàng cá nhân đã đem lại một lượng vốn huy động đáng kể và ổn định cho ngân hàng. Với nguồn vốn này ngân hàng có thể dễ dàng sử dụng để thực hiện các hoạt động đầu tư của mình một cách hiệu quả.
Tiền gửi của doanh nghiệp
Doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế cũng tạo lượng vốn huy động tương đối lớn cho ngân hàng, góp phần tạo nên sự đa dạng trong hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên mục đích gửi tiền của đối tượng khách hàng này chủ yếu là dùng để thanh toán và tiến hành các giao dịch khác nên lượng vốn huy động có kỳ hạn thực tế không cố định gây khó khăn cho ngân hàng trong việc đem vốn đi đầu tư sinh lời.
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Trên thực tế tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác là vốn vay của ngân hàng thương mại đối với các tổ chức đó nhằm tạo khả năng thanh toán cho ngân hàng. Tuy nhiên trong một số trường hợp, với những ngân hàng có một lượng vốn huy động lớn có thể đem gửi tại các ngân hàng khác nhằm mục đích hưởng một phần lãi hoặc được hưởng lãi điều hoà từ hội sở chính của các ngân hàng đó. Điều này giúp ngân hàng thương mại giảm bớt được một phần chi phí, đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng.
1.2.4.2. Phân loại theo mục đích huy động:
Phân loại theo mục đích huy động thì hoạt động huy động vốn bao gồm các hình thức sau:
Tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu thanh toán cho khách hàng khi họ có yêu cầu, chủ tài khoản có thể được hưởng những dịch vụ ngân hàng với mức chi phí thấp. Tiền gửi thanh toán không nhằm mục đích hưởng lãi vì vậy lãi suất không phải là công cụ thu hút nguồn vốn này mà công cụ là dịch vụ ngân hàng cung cấp kèm theo phải có nhiều tiện ích, an toàn, nhanh chóng và chính xác. Nhìn chung chi phí cho loại tiền gửi này rất thấp nhưng kỳ hạn thực tế không cố định, do đó ngân hàng cần có chính sách sử dụng hợp lí để vừa tận dụng được nguồn vốn rẻ vừa đảm bảo rủi ro. Do tính linh hoạt của nó nguồn vốn này thường được sử dụng để cho vay ngắn hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn
Nguồn vốn này thường có kỳ hạn xác định trước với một lãi suất cao hơn so với lãi suất của tiền gửi thanh toán. Có thể nói đây là nguồn vốn có chi phí cao nhất của ngân hàng, người gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi vì vậy công cụ chủ yếu để thu hút nguồn vốn này là lãi suất. Do tính ổn định cao trong kỳ hạn bởi mục đích gửi tiền của doanh nghiệp hay các cá nhân là để hưởng lãi, các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu được tài trợ bằng nguồn vốn này, thường được dùng cho vay trung và dài hạn.
Tiền gửi tiết kiệm
Các tầng lớp dân cư đều có khoản tiền nhàn rỗi, khoản thu nhập chưa sử dụng đến. Trong điều kiện có thể tiếp cận ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời. Do lượng tiền nhàn rỗi này của dân cư được gửi với thời gian cố định nên đây là lượng vốn chủ yếu cho ngân hàng sử dụng trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ tiền tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động vốn đa dạng với lãi suất hấp dẫn. Tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn tương đối giống nhau tuy nhiên cũng có một số điểm khác biệt theo quy định của văn bản pháp luật mà ngân hàng Nhà nước quy định.
Phát hành các giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Đặc điểm nổi bật của giấy tờ có giá là chỉ được hoàn vốn khi đáo hạn vì vậy đây là nguồn vốn có tính ổn định cao nhất của ngân hàng thương mại. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn nên thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường.
Các giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hành bao gồm kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá.
1.2.4.3. Phân loại theo kỳ hạn:
Có thể phân loại tiền gửi thành tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi không có kỳ hạn xác định, tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có kỳ hạn xác định (1 tuần, 2 tuần, 1 tháng…).
Cũng có thể phân loại tiền gửi thành tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi trung và dài hạn. Tiền gửi ngắn hạn là nguồn vốn ngân hàng huy động trong khoảng thời gian ngắn hạn và thường xác định là từ 0 cho đến 12 tháng. Tiền gửi trung và dài hạn là nguồn vốn mà ngân hàng huy động trong thời gian từ 12 tháng trở lên. Đây là nguồn vốn ổn định được ngân hàng sử dụng với mục đích đầu tư mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Phân loại theo loại tiền:
Vốn huy động bằng Việt Nam đồng:
Ngân hàng huy động vốn bằng VNĐ thông qua tất cả các hình thức huy động vốn khác nhau với các mục đích sử dụng khác nhau. Trong nguồn vốn ngân hàng huy động được thì nguồn vốn huy động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng cao, đáp ứng các nhu cầu về sử dụng vốn của ngân hàng.
Vốn huy động bằng ngoại tệ
Ngoài huy động vốn bằng VNĐ, ngân hàng cũng tiến hành huy động vốn bằng ngoại tệ. Mục đích huy động vốn bằng ngoại tệ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế và các hoạt động kinh doanh ngoại tệ của khách hàng cũng như ngân hàng. Vốn huy động bằng ngoại tệ của ngân hàng chủ yếu là USD hoặc EUR.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn:
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng tuy nhiên có thể chia thành 2 nhóm chính, đó là nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan.
1.2.5.1. Nhân tố chủ quan:
Chính sách lãi suất của ngân hàng:
Lãi suất được coi là giá cả của các sản phẩm dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn, ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Tuy nhiên lãi suất liên quan trực tiếp đến chi phí và các hoạt động khác của ngân hàng vì vậy hệ thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô và cơ cấu nguồn vốn để mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng.
Tổ chức nhân sự:
Dù trong thời đại nào con người luôn khẳng định vị trí trung tâm của mình. Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Trong hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố quan trọng trong việc tiếp xúc khách hàng, đặt quan hệ giao dịch,... Như vậy để nâng cao hiệu quả huy động vốn thì một yêu cầu được đặt ra là ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực, được đào tạo một cách bài bản, có chuyên môn nghiệp vụ cao, đồng thời phải nắm bắt được những kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài những yêu cầu về nghiệp vụ thì một cán bộ tín dụng phải có tư cách phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và tuân thủ pháp luật, các quy định của ngân hàng. Đặc biệt với bộ phận nhân sự thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, phải tạo cho khách hàng cảm giác thoải mái và tin tưởng cho khách hàng.
Mặt khác, tổ chức nhân sự hợp lý tạo nên một chi phí hợp lý đối với nguồn nhân lực, như vậy hiệu quả huy động vốn của ngân hàng sẽ tốt hơn.
Chất lượng dịch vụ của ngân hàng
Đây là nhân tố tổng hợp, có liên quan mật thiết với các yếu tố khác như trình độ công nghệ, hệ thống mạng lưới, đội ngũ nhân sự, ban quản lí của ngân hàng…
Ngày này, công nghệ có vai trò cực kì quan trọng. Với công nghệ hiện đại ngân hàng vừa có thể đưa ra các sản phẩm dịch vụ đa dạng, tiện ích, nhanh chóng và đồng bộ đáp ứng nhu cầu khách hàng lại vừa tiết kiệm chi phí. Bên cạnh đó ngân hàng có thể tăng tốc độ xử lý các giao dịch, công tác quản lý tài chính và quản trị rủi ro được nâng cao.
Hệ thống mạng lưới huy động vốn là một trong những yếu tố chủ yếu quyết định quy mô vốn huy động của khách hàng, đặc biệt là với đối tượng khách hàng dân cư. Các khoản tiền tiết kiệm của dân cư thường là các khoản tiền nhỏ. Vì vậy, nếu việc tiếp cận với ngân hàng khó khăn sẽ tạo ra cho khách hàng tâm lý ngại đến ngân hàng. Với một mạng lưới rộng khắp, tạo ra sự dễ dàng trong việc tiếp cận ngân hàng của người dân thì ngân hàng sẽ thu hút được các khoản tiền gửi đó một cách có hiệu quả hơn. Đồng thời nhờ hệ thống mạng lưới rộng rãi mà các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng được thực hiện nhanh chóng. Bên cạnh đó giúp nắm bắt nhu cầu khách hàng và khuyếch trương hình ảnh của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra chất lượng dịch vụ còn thể hiện ở mức độ hài lòng và thoải mái của khách hàng khi đến với ngân hàng.
Hoạt động marketing của ngân hàng
Marketing ngân hàng là phương pháp quản trị tổng hợp dựa trên cơ sở nhận thức về môi trường kinh doanh; những hành động của ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, phù hợp với sự biến động của môi trường. Trên cơ sở đó mà thực hiện các mục tiêu của ngân hàng.
Nhiệm vụ then chốt của marketing ngân hàng là xác định được nhu cầu, mong muốn của khách hàng và cách thức đáp ứng nó một cách hiệu quả hơn các đối thủ khác.
Hoạt động marketing ngân hàng sẽ quyết định phương thức hoạt động, kết quả hoạt động, khả năng cạnh tranh cùng vị thế của mỗi ngân hàng trên thị trường. Marketing giúp ngân hàng xác định loại sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cần cung ứng ra thị trường, và giúp tổ chức tốt quá trình cung ứng dịch vụ. Nó được coi là cầu nối gắn kết hoạt động của ngân hàng với thị trường. Chính sách khuếch trương sẽ giúp người dân hiểu rõ ràng, đầy đủ về ngân hàng thông qua phương tiện thông tin đại chúng, xây dựng hình ảnh đẹp về ngân hàng tạo, lòng tin với khách hàng.
Bởi vậy chính sách marketing có ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng.
1.2.5.2. Nhân tố khách quan:
Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô ở đây bao gồ._.m môi trường kinh tế, môi trường văn hóa - xã hội, môi trường chính trị pháp luật…
Môi trường kinh tế tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến nhu cầu và cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng của khách hàng. Khi nền kinh tế trong thời kỳ hưng thịnh, có tốc độ phát triển nhanh, thu nhập quốc dân cao, các đơn vị kinh tế, dân cư sẽ có nguồn tiền gửi dồi dào vào ngân hàng. Ngược lại, trong điều kiện tình hình nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp tăng cao, thu nhập giảm sút, lạm phát thì việc huy động vốn của ngân hàng nói riêng và các hoạt động khác của ngân hàng nói chung sẽ gặp nhiều khó khăn bởi người dân không tin tưởng gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền để mua các tài sản có tính ổn định cao, còn các doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, lượng tiền gửi vào ngân hàng sẽ bị thu hẹp, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Môi trường văn hóa-xã hội ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng, thói quen sử dụng và cất trữ tiền tệ và sự hiểu biết, nhận thức của dân chúng về ngân hàng do đó ảnh hưởng tới nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Ví dụ nếu người dân có thói quen chi tiêu nhiều hay tâm lí thiếu tin tưởng vào ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Bởi vậy cần nghiên cứu các yếu tố văn hóa - xã hội nhằm xác định tác động của chúng tới hành vi sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và đưa ra các chính sách hợp lí.
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành kinh doanh chịu sự giám sát chặt chẽ của luật pháp và các cơ quan chức năng của chính phủ. Hoạt động của các ngân hàng thường được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật. Sự thay đổi chính sách của nhà nước, của ngân hàng Nhà nước về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng của nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Ngoài ra tình hình chính trị ổn định hay bất ổn cũng tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Khách hàng:
Khách hàng là thành phần có vị trí hết sức quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Bởi khách hàng vừa tham gia trực tiếp vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, vừa trực tiếp sử dụng và thụ hưởng sản phẩm đó. Đối tượng khách hàng của ngân hàng hết sức đa dạng và phong phú, tuy nhiên từng khách hàng lại có những nhu cầu, mong muốn và đòi hòi khác nhau về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu của từng loại khách hàng, ngân hàng cần phải có các chính sách, chiến lược phát triển phù hợp.
Đối thủ cạnh tranh:
Kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, với xu hướng toàn cầu hóa hệ thống ngân hàng cũng ngày một phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cả ở trong và ngoài nước càng gay gắt hơn bao giờ hết. Hoạt động huy động vốn của một ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào nội lực và chính sách hoạt động của ngân hàng đó mà còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách lãi suất, dịch vụ của các ngân hàng cạnh tranh. Bởi vậy ngân hàng cần nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để chủ động trong xây dựng và tổ chức chiến lược cạnh tranh một cách năng động, hiệu quả.
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI PGD OCEANBANK ĐÀO TẤN TỪ THÁNG 8/2008 ĐẾN THÁNG 3/2009 VÀ DỰ ĐOÁN CHO THÁNG 4, THÁNG 5/2009
2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM NĂM 2008 VÀ ĐẦU NĂM 2009 ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA OCEANBANK:
Năm 2008 là một năm khó khăn đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Khủng hoảng nhà đất lan sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản. Cuộc khủng hoảng này đã làm sụp đổ 25 ngân hàng tại Mĩ trong năm 2008, trong đó có những ngân hàng đầu nước Mĩ. 11/7, IndyMac - ngân hàng cho vay thế chấp lớn nhất của Mỹ sụp đổ. Ngày 7/9, hai nhà cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác. Vào ngày 15/9, ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 nước Mỹ Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau, Washington Mutual - ngân hàng tiết kiệm lớn nhất ở Mỹ - tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ đôla. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, ngân hàng đầu tư số một nước Mỹ, Merill Lynch cũng bị thâu tóm bởi Bank of America.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm cũng chứng kiến các cơn sốt dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu, từ mức 90 đôla một thùng vào đầu năm đã leo lên trên 100 đôla vào 20/2 và lập kỷ lục trên 147 đôla một thùng vào 11/7. Dầu leo thang kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên 1.000 đôla một ounce vào 17/3. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia. Hãng tư vấn kinh tế hàng đầu thế giới Global Insight (GI) công bố mức lạm phát trên toàn cầu đang tăng nhanh nhất trong 13 năm qua.
Ở Vệt Nam, lạm phát lên đến đỉnh điểm vào cuối tháng 7, sau cơn sốt gạo cục bộ và cú sốc tăng giá xăng.
Đồ thị 2.1: CPI của Việt Nam các tháng năm 2008
(Nguồn số liệu: tổng cục Thống kê)
Cuối tháng 6, lạm phát ở Việt Nam ở mức cao nhất khu vực. Lạm phát là 18,44% so với 31/12/2007 và 24,8% so với cùng kì năm trước. Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô trở thành mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Giải pháp cắt giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, tạo sức ép hạ giá tiêu dùng hết hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước lãnh trọng trách thắt chặt tiền tệ, lãi suất cơ bản được nâng cao. Tháng 6/2008, lãi suất cơ bản lên đến 14%.
Lạm phát vừa được đẩy lùi, nguy cơ suy giảm đã lộ diện. Kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái quý cuối cùng của năm đã tác động mạnh tới Việt Nam.Giá dầu bất ngờ lao dốc không phanh, nguyên nhân cho hiện tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn kinh tế. Dấu hiệu suy giảm kinh tế lộ diện rõ nét khi tiêu dùng giảm mạnh, CPI ở mức âm 3 tháng liên tiếp, sản xuất kinh doanh đình đốn, kim ngạch xuất khẩu giảm sút. Nguồn thu ngân sách bị đe dọa do giá dầu thô sụt mạnh. Chính phủ đã huy động mọi lực lượng chống suy thoái. Lần đầu tiên trong một năm Chính phủ hai lần điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng GDP, từ 8 - 8,5% xuống 7% và hạ tiếp còn 6 - 6,5%. Tuy nhiên, tính chung cả năm 2008, GDP chỉ tăng 6,23%. Ngân hàng Nhà nước cắt giảm lãi suất cơ bản nhằm kích cầu nền kinh tế.
Trên thế giới, tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến ngân hàng trung ương Mỹ, Anh, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng loạt để khơi thông dòng vốn. Trong năm 2008 Mỹ đã 8 lần cắt giảm lãi suất, từ đó lãi suất cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ Nhật, và EU tuyên bố rơi vào suy thoái. Mỹ, lần đầu tiên sau 8 năm, chính thức thừa nhận đã lâm vào tình trạng trên từ tháng 12/2007. Điều tương tự cũng xảy ra với Nga, cường quốc kinh tế lớn thứ 4 thế giới. Tính đến 14/11 đã có 15 nước Châu Âu thừa nhận đã lâm vào suy thoái. Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều năm. Trong ba tháng, tính tới cuối tháng 9, đã có hơn 30.000 doanh nghiệp Mỹ phá sản. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp tại quốc gia này tính tới 6/12 đã lên tới 6,7%, mức cao nhất trong vòng 15 năm qua.
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã đẩy hệ thống ngân hàng Việt Nam vào khó khăn thực sự. Chính sách tiền tệ có công lớn trong việc kiểm soát lạm phát, song đã tạo những cú sốc với doanh nghiệp và chính các ngân hàng. Hàng loạt quyết định như phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản lên 14%, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc… đẩy các ngân hàng vào cuộc đua tăng lãi suất và giành giật vốn. Lãi suất đầu vào tăng cao, ngân hàng lâm vào cảnh càng cho vay càng lỗ vì không thể đẩy lãi suất đầu ra cao quá trần quy định. Chưa kịp hoàn hồn với cuộc khủng hoảng thiếu thanh khoản, ngân hàng lại rơi vào một chiếc bẫy mới khi chính sách tiền tệ liên tiếp được nới lỏng. Chỉ trong vòng ba tháng cuối năm lãi suất cơ bản giảm 5 lần, 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn. Phần vốn huy động với lãi suất cao chưa kịp đẩy đi, ngân hàng lại phải nhanh chóng hạ lãi suất cho vay theo đúng quy định. Đã vậy, doanh nghiệp cũng không còn thiết tha vay vốn vì sản xuất đình đốn. Ngân hàng rơi vào cảnh thừa vốn mà không thể cho vay. Nhiều ngân hàng phải điều chỉnh kế hoạch lợi nhuận, thậm chí sẵn sàng đối mặt với nguy cơ thua lỗ.
Năm 2009 bắt đầu với nhiều lo lắng và khó khăn. Kinh tế thế giới vẫn tiếp tục suy giảm mặc những nỗ lực nhằm kích thích nền kinh tế. Riêng trong tháng 1, nhà chức trách Mỹ đã đóng cửa 6 ngân hàng, mở đầu là National Bank of Commerce và Bank of Clark County. Đến 27/2, Mỹ đã có 16 ngân hàng bị đóng cửa. 31/01/2008, trong nỗ lực vực dậy nền kinh tế Mỹ trước nguy cơ suy thoái do cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn gây ra, cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), đã cắt giảm thêm 0,5% lãi suất quỹ Liên bang (lãi suất cho vay qua đêm), từ 3,5% xuống còn 3%. Cũng trong ngày, Fed đã cắt giảm 0,5% lãi suất chiết khấu (lãi suất các ngân hàng vay từ Fed), từ 4% xuống 3,5%. Fed đã phải tiến hành cắt giảm mạnh nhất đồng thời hai loại lãi suất, trong thời gian ngắn nhất kể từ năm 1990 trở lại đây.
Bước sang năm 2009, ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản. Trong tháng 1, mặt bằng lãi suất huy động giảm 0,2- 1,5%/năm, lãi suất cho vay giảm 0,5 - 1,2%/năm. Đến 1/2, lãi suất cơ bản còn 7%. Với lãi suất cơ bản mới, lãi suất cho vay tối đa VND chỉ còn 10,5%/năm, các doanh nghiệp thuộc đối tượng được vay vốn bù lãi suất kích cầu 4% sẽ được hưởng lãi suất thấp hơn, tín dụng tiêu dùng có điều kiện để phát triển trở lại… Lãi suất cho vay liên tiếp giảm, lãi suất huy động buộc phải điều chỉnh theo có thể sẽ ảnh hưởng đến tốc độ huy động vốn của các ngân hàng thương mại.
2.2. SƠ LƯỢC THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA PGD OCEANBANK ĐÀO TẤN:
Phòng giao dịch Oceanbank Đào Tấn là PGD của ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương hay còn gọi là Oceanbank, thành lập ngày 16/07/2008, được đặt tại 11 Đào Tấn – quận Ba Đình – TP.Hà Nội. Đây là 1 PGD rất mới, quy mô nhỏ, tại thời điểm thành lập bộ máy nhân sự chỉ gồm 3 người: 1 trưởng phòng – 1 kế toán viên – 1 thủ quỹ, đến tháng 12 mới bổ sung thêm 1 kế toán viên. Phòng giao dịch Đào Tấn thực hiện tất cả các chức năng như huy động vốn, nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn; nhận vốn ủy thác; cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng hiện đại tuy nhiên hoạt động chủ yếu là huy động vốn dân cư.
Các sản phẩm huy động vốn của PGD Đào Tấn tương đối đa dạng, ngoài các sản phẩm truyền thống ngân hàng còn triển khai thêm nhiều sản phẩm mới nội dung hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu khách hàng để thu hút tối đa nguồn vốn từ dân cư như: tiết kiệm rút gốc linh hoạt – lãi theo thời gian thực gửi, tiết kiệm VND bảo đảm giá trị theo vàng, tiết kiệm dự thưởng “Khám phá thế giới cùng OceanBank”, “Oceanbank saving”, … đồng thời có chính sách thích hợp về lãi suất, kỳ hạn gửi đa dạng, hấp dẫn, giúp khách hàng có nhiều sự lựa chọn.
Mặc dù ra đời trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng nhờ chất lượng dịch vụ tốt, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, nhiệt tình nên tuy mới thành lập nhưng PGD Đào Tấn đã giành được kết quả cao, trở thành 1 trong những phòng giao dịch có số dư vốn huy động cao nhất của chi nhánh OceanBank Hà Nội với tốc độ phát triển cao, lượng khách hàng ổn định. Ngay trong tháng đầu tiên, tháng 7/2008, đã huy động được 15.333 triệu đồng, trong đó vốn huy động bằng nội tệ chiếm 83,89%, vốn huy động bằng ngoại tệ (USD) chiếm 16,11%. Đến tháng thứ 2, tháng 8/2008, tổng vốn huy động đã tăng lên 44.110,84 triệu đồng. Tổng vốn huy động liên tục tăng trong những tháng tiếp theo và đạt 105.475,10 triệu đồng vào tháng 3/2009. Nguồn vốn huy động được chủ yếu là tiền gửi có kì hạn, tiền gửi không kì hạn chỉ chiếm 1 phần nhỏ không đáng kể. Từ khi thành lập PGD Đào Tấn luôn đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, là một trong những PGD hoạt động tốt nhất của chi nhánh OceanBank Hà Nội.
Trong thời gian tới PGD sẽ có bổ sung và cơ cấu lại bộ máy nhân viên, bên cạnh đó tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn.
2.3. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN:
2.3.1. Những vấn đề chung về hệ thống chỉ tiêu thống kê:
Thông tin thống kê được phản ánh qua các chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn, trong điều kiện thời gian, địa điểm cụ thể. Tính chất của hiện tượng được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê.
Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc:
_ Tính hướng đích: việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải thỏa mãn, phù hợp với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
_ Tính hệ thống: các chỉ tiêu trong hệ thống phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau.
_ Tính thống nhất: phù hợp với được quy định trong các tổ chức quốc tế và các nước khác về nội dung, phạm vi, phương pháp tính, nhờ đó đảm bảo tính so sánh được.
_ Tính khả thi: phù hợp với khả năng, điều kiện về nhân tài, vật lực.
_ Tính hiệu quả: hệ thống chỉ tiêu cần xây dựng phải phù hợp với mục đích nghiên cứu và nhu cầu thông tin.
_ Tính thích nghi: Hệ thống chỉ tiêu phải thường xuyên phải thay đổi hoàn thiện phù hợp tình hình thực tế.
2.3.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê phân tích hoạt động huy động vốn:
Có 5 nhóm chỉ tiêu thống kê phân tích hoạt động huy động vốn: nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô huy động vốn, nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu huy động vốn, nhóm chỉ tiêu phản ánh kì hạn huy động vốn, nhóm chỉ tiêu phản ánh lãi suất huy động vốn và nhóm chỉ tiêu phản ánh chi phí huy động vốn. Chuyên đề chỉ sử dụng 3 trong 5 nhóm chỉ tiêu đó.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô huy động vốn:
_ Tổng vốn huy động (kí hiệu: Vhd) là toàn bộ số tiền mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và dân cư tính đến 1 thời điểm nhất định thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm, được lấy làm đại diện cho tháng, quý, hoặc năm đó.
+ Công thức: Vhd = SVi (đơn vị giá trị: VND, USD…)
Trong đó Vi là lượng vốn huy động từ các nguồn i theo các tiêu thức phân tổ khác nhau.
+ Ý nghĩa: chỉ tiêu Vhd phản ánh quy mô lượng vốn mà ngân hàng huy động được trong 1 khoảng thời gian nhất định. Nó cũng là cơ sở để mở rộng quy mô cho vay và thể hiện năng lực thanh toán của ngân hàng.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu huy động vốn:
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, chúng ta sẽ có cơ cấu vốn huy động theo nhiều tiêu thức khác nhau.
_ Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền (kí hiệu: dv): phản ánh tỷ trọng của vốn huy động nội tệ hay ngoại tệ trong tổng vốn huy động chiếm bao nhiêu lần hay phần trăm (%).
+ công thức: , ( là vốn huy động theo loại tiền i)
+ Ý nghĩa: dv cho biết tỷ trọng của từng loại tiền trong tổng vốn huy động từ đó điều chỉnh cơ cấu cho hợp lí.
_ Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng huy động (kí hiệu: ddt) phản ánh tỷ trọng vốn huy động theo từng đối tượng huy động trong tổng vốn huy động chiếm bao nhiêu lần hay phần trăm(%).
+ Công thức: , ( là vốn huy động từ đối tượng i)
+ Ý nghĩa: cơ cấu vốn huy động theo đối tượng huy động cho biết tỷ trọng vốn huy động theo từng đối tượng huy động trong tổng vốn huy động.
_ Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn ( kí hiệu ): phản ánh tỷ trọng vốn huy động theo kỳ hạn huy động ( ngắn hạn, trung hạn, dài hạn ) hoặc (có kỳ hạn, không kỳ hạn) trong tổng vốn huy động là bao nhiêu lần hay %.
+ Công thức: , là số vốn huy động theo thời gian huy động i.
+ Ý nghĩa: cơ cấu này cho biết tỷ trọng của vốn huy động theo từng loại kỳ hạn huy động trong tổng vốn huy động của ngân hàng.
_ Cơ cấu vốn huy động theo mục đích huy động ( kí hiệu ): phản ánh tỷ trọng từng loại vốn huy động ( tiền gửi, giấy tờ có giá, vốn đi vay, vốn khác) chiếm bao nhiêu lần( %) trong tổng vốn huy động.
+ Công thức: , ( là lượng vốn huy động theo hình thức i)
+ Ý nghĩa : chỉ tiêu cho biết tỷ trọng của vốn huy động theo từng mục đích huy động trong tổng vốn huy động của ngân hàng.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh lãi suất huy động vốn:
Chỉ tiêu lãi suất huy động vốn là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền lãi phải trả khách hàng so với số vốn huy động của ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Thực chất có thể coi lãi suất là giá cả của việc mua và bán quyền sử dụng vốn. Lãi suất là yếu tố cơ bản để huy động vốn của ngân hàng.
Lãi suất bao gồm:
_ Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất được công bố trên báo chí, phương tiện thông tin đại chúng và tại ngân hàng. Nó đơn thuần là số lượng đơn vị tiền thu được từ mỗi 100 đơn vị tiền tệ được đem đầu tư trong khoảng thời gian nhất định nào đó.
_ Lãi suất thực: là giá trị thực thu được từ hoạt động đầu tư.
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỉ lệ % của lạm phát trong thời gian hoạt động đầu tư.
Cả người dân lẫn ngân hàng đều quan tâm đến lãi suất thực hơn là lãi suất danh nghĩa.
CÁC PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ SỬ DỤNG:
2.4.1. Phương pháp phân tổ thống kê:
Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hoặc một số tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ hoặc tiểu tổ có tính chất khác nhau.
Phân tổ thống kê là một trong các phương pháp quan trọng của phân tích thống kê, đồng thời là cơ sở để vận dụng các phương pháp thống kê khác. Việc phân tổ chính xác sẽ giúp phản ánh bản chất và quy luật phát triển của hiện tượng.
Có nhiều loại phân tổ thống kê tuy nhiên với nguồn số liệu đã có chuyên đề chỉ sử dụng 2 loại phân tổ: phân tổ phân loại và phân tổ kết cấu.
Phân tổ phân loại phân chia các loại hình kinh tế – xã hội của hiện tượng nghiên cứu từ đó nêu lên đặc trưng của từng loại hình, mối quan hệ giữa các loại hình trong quá trình vận động và phát triển để từ đó nhận thức được một cách đúng đắn bản chất cũng như tính quy luật của hiện tượng.
Phân tổ kết cấu biểu hiện kết cấu của hiện tượng nghiên cứu qua đó nêu lên đặc điểm cơ bản của hiện tượng trong điều kiện thời gian, địa điểm cụ thể.
2.4.2. Phương pháp dãy số thời gian:
Mặt lượng của hiện tượng thường xuyên biến động qua thời gian, việc nghiên cứu sự biến động này được thực hiện trên cơ sở phân tích dãy số thời gian.
Dãy số thời gian là dãy các số liệu thống kê của hiện tượng nghiên cứu được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Dưạ vào các mức độ của dãy số thời gian phản ánh quy mô của hiện tượng qua thời gian, có thể phân dãy số thời gian thành dãy số thời kì và dãy số thời điểm.
Việc phân tích dãy số thời gian cho phép nhận thức được các đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian và tính quy luật của sự biến động, trên cơ sở đó dự đoán về mức độ của hiện tượng trong tương lai.
Chuyên đề sử dụng phương pháp dãy số thời gian để nghiên cứu đặc điểm biến động của nguồn vốn huy động thông qua 5 chỉ tiêu. Vốn huy động là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm vì vậy 5 chỉ tiêu đó được tính toán như sau (gọi yi (i = 1, 2,..., n) là các mức độ của dãy số):
Mức độ bình quân qua thời gian: phản ánh mức độ đại diện của hiện tượng trong suốt thời gian nghiên cứu.
Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối: phản ánh sự biến động về mức độ tuyệt đối giữa hai thời gian.
- Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn (hay từng kì): phản ánh sự biến động về mức độ tuyệt đối giữa hai thời gian liền nhau và được tính theo công thức: i = yi – yi-1 (với i = 2, 3, …, n)
- Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc: Phản ánh sự biến động về mức độ tuyệt đối trong những khoảng thời gian dài và được tính theo công thức sau: i = yi – y1 (với i = 2, 3, …, n)
- Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân: Phản ánh mức độ đại diện của các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn và được tính theo công thức sau:
Tốc độ phát triển: phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng nghiên cứu qua thời gian.
- Tốc độ phát triển liên hoàn: phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng ở thời gian sau so với thời gian liền trước đó và được tính theo công thức:
ti = (lần, %), ( với i = 2, 3,…, n)
- Tốc độ phát triển định gốc: phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng ở những khoảng thời gian dài và được tính theo công thức sau:
Ti = (lần, %), (với i = 2, 3, …, n)
- Tốc độ phát triển bình quân: Phản ánh mức độ đại diện của các tốc độ phát triển liên hoàn.
Từ công thức tính tốc độ phát triển bình quân cho thấy chỉ nên tính chỉ tiêu này đối với những hiện tượng biến động theo 1 xu hướng nhất định. Với những hiện tượng biến động không theo 1 xu hướng nhất định thì tốc độ phát triển bình quân sẽ làm bù trừ các biến động, giá trị tính toán được không có ý nghĩa trong việc phân tích biến động của hiện tượng.
Tốc độ tăng (hoặc giảm): phản ánh qua thời gian hiện tượng đã tăng (hoặc giảm) bao nhiêu lần hoặc bao nhiêu phần trăm. Tùy theo mục đích nghiên cứu có thể tính các tốc độ tăng (hoặc giảm) sau:
- Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn: phản ánh tốc độ tăng (hoặc giảm) ở thời gian i so với thời gian i-1: (hoặc 100)
- Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc: phản ánh tốc độ tăng (hoặc giảm) ở thời gian i so với thời gian đầu trong dãy số và được tính theo công thức sau:
(hoặc 100)
Tốc độ tăng (hoặc giảm) bình quân:
(Nếu biểu hiện bằng lần)
Hoặc: (nếu biểu hiện bằng %)
Giá trị tuyệt đối 1 % của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn: phản ánh cứ 1% tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì tương ứng với một quy mô cụ thể là bao nhiêu. Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
Đây là 1 chỉ tiêu rất quan trọng trong phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng. Nó cho phép phân tích sâu sắc và toàn diện hơn về đặc điểm biến động của hiện tượng.
Chỉ tiêu này khống tính đối với tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc vì luôn là một số không đổi và bằng : .
5 chỉ tiêu trên mỗi một chỉ tiêu có nội dung và ý nghĩa riêng đối với việc phân tích, nhưng đồng thời giữa năm chỉ tiêu đó có mối liên hệ mật thiết với nhau không những về phương diện tính toán mà cả về phương diện nhận thức đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian. Khi phân tích tùy theo từng trường hợp chúng ta thường phải kết hợp cả năm chỉ tiêu đó nhằm giúp cho việc phân tích được đầy đủ, chính xác và sâu sắc. Nếu kết hợp không đầy đủ các chỉ tiêu có thể khiến cho việc phân tích không được sâu sắc thậm chí đi đến kết luận sai lệch và phiến diện về hiện tượng.
2.4.3. Phương pháp hồi quy – tương quan:
Phương pháp hồi quy tương quan được sử dụng để nghiên cứu mối liên hệ giữa các tiêu thức có mối quan hệ nhân – quả. Trong đó phân tích hồi quy là đi xây dựng mô hình (phương trình) hồi quy phản ánh mối liên hệ. Chuyên đề chỉ nghiên cứu mối liên hệ giữa 1 tiêu thức nguyên nhân và 1 tiêu thức kết quả gọi là hồi quy đơn. Mô hình hồi quy đơn có thể là mô hình tuyến tính hoặc phi tuyến tính. Ngoài ra có thể xây dựng mô hình hồi quy phản ánh mối liên hệ giữa nhiều tiêu thức nguyên nhân và 1 tiêu thức kết quả, thường gọi là hồi quy tuyến tính bội. Phân tích tương quan là đánh giá mức độ chặt chẽ của mối liên hệ.
2.4.4. Các phương pháp khác:
Ngoài 2 phương trên chuyên đề còn sử dụng 1 số phương pháp khác như: phương pháp số tương đối, phương pháp thống kê mô tả…
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI PGD OCEANBANK ĐÀO TẤN TỪ THÁNG 8/2008 - 3/2009:
Để nghiên cứu biến động nguồn vốn huy động tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009 ta sử dụng báo cáo tháng và biểu lãi suất của PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009. Nguồn số liệu được sử dụng bao gồm:
Báo cáo tháng:
_ Số liệu về vốn huy động: là tổng vốn huy động được phân loại theo loại tiền (VND, USD), theo kì hạn (không kì hạn, kì hạn 1 tuần, 2 tuần…) và theo loại tài tài khoản (tài khoản tiết kiệm thường (tiết kiệm định kì), tài khoản tiết kiệm rút gốc linh hoạt, tài khoản tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng). Số liệu về tổng vốn huy động trong chuyên đề là tổng vốn huy động tại thời điểm cuối của các tháng, số liệu vốn huy động bằng USD đều đã được quy đổi sang VND.
_ Số liệu về chi phí: bao gồm toàn bộ chi phí huy động vốn của PGD Oceanbank Đào Tấn.
Biểu lãi suất:
_ Số liệu về lãi suất của ngân hàng thương mại cổ phần Oceanbank theo các kì hạn, theo loại tiền và theo các hình thức tài khoản.
2.5.1. Lãi suất huy động vốn tại PGD Oceanbank Đào Tấn từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009:
Mối liên hệ giữa lãi suất huy động vốn và tốc độ phát triển liên hoàn vốn huy động của từng loại tiền:
Chuyên đề sử dụng phần mềm thống kê SPSS để xử lí số liệu.
_ Mối liên hệ giữa lãi suất huy động VND và tốc độ phát triển liên hoàn vốn huy động bằng VND tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 9/08 - 3/09.
Bảng 2.1: Lãi suất huy động VND bình quân tháng và tốc độ phát triển liên hoàn vốn huy động bằng VND tại Oceanbank Đào Tấn từ tháng 9/08 - 3/09
(đơn vị: %)
Thời gian
Chỉ tiêu
9/2008
10/2008
11/2008
12/2008
1/2009
2/2009
3/2009
Lãi suất
bình quân
17,96
16,42
12,87
8,72
7,96
6,93
7,07
Tốc độ phát triển liên hoàn
152,18
120,89
109,54
99,02
109,48
113,73
101,83
(Nguồn lãi suất: biểu lãi suất ngân hàng OceanBank)
Đồ thị 2.2: Mối liên hệ giữa X, lãi suất huy động VND bình quân tháng (đơn vị: %) và Y, tốc độ phát triển liên hoàn của vốn huy động bằng VND (đơn vị:%)
Kết quả thăm dò bằng đồ thị cho thấy mô hình hồi quy có thể có dạng:
- Mô hình bậc hai (quadratic)
- Mô hình bậc ba (cubic)
Phần mềm SPSS cho ta kết quả như sau:
Đồ thị 2.3: Đường cong được xây dựng từ tài liệu được tính từ 2 mô hình hồi quy:
(Đơn vị: %)
Dạng hàm
Phương trình
SSE
quadratic
226,060
Cubic
201,036
Mô hình bậc ba có tổng bình phương sai số SSE =201,036 nhỏ hơn. Như vậy ta có mô hình hồi quy:
Mô hình cho tỷ số tương quan chứng tỏ mối liên hệ giữa lãi suất huy động VND và tốc độ phát triển liên hoàn vốn huy động bằng VND rất chặt chẽ.
_ Mối liên hệ giữa lãi suất huy động USD và tốc độ phát triển liên hoàn của vốn huy động bằng USD tại PGD OceanBank Đào Tấn từ tháng 9/2008 đến tháng 3/2009.
Bảng 2.2: Lãi suất huy động USD bình quân tháng và tốc độ phát triển liên hoàn của vốn huy động bằng USD tại PGD Oceanbank Đào Tấn từ tháng 9/2008 đến tháng 3/2009
(đơn vị: %)
Thời gian
Chỉ tiêu
9/2008
10/2008
11/2008
12/2008
1/2009
2/2009
3/2009
Lãi suất
bình quân
5,62
5,20
4,90
4,43
2,92
2,62
2,40
Tốc độ phát triển liên hoàn
145,15
110,55
106,38
117,31
90,52
109,86
88,31
(Nguồn lãi suất: biểu lãi suất ngân hàng OceanBank)Đồ thị 2.4: Mối liên hệ giữa X, lãi suất huy động USD bình quân tháng (đơn vị: %) và Y, tốc độ phát triển liên hoàn của tổng vốn huy động bằng USD (đơn vị: %)
Kết quả thăm dò bằng đồ thị cho thấy mô hình hồi quy có thể có dạng:
- Mô hình tuyến tính (linear)
- Mô hình hypebol (inverse)
- Mô hình bậc hai (quadratic)
- Mô hình bậc ba (cubic)
Phần mềm SPSS cho ta kết quả như sau:
Đồ thị 2.5: Đường cong được xây dựng từ tài liệu được tính từ 4 mô hình hồi quy:
(Đơn vị: %)
Dạng hàm
Phương trình
SSE
Line
947,683
Inverse
1090,589
Quadratic
755,870
Cubic
714,582
Mô hình bậc ba có SSE = 714,582 nhỏ hơn. Như vậy ta có mô hình hồi quy:
Mô hình cho tỷ số tương quan chứng tỏ mối liên hệ giữa lãi suất huy động USD và tốc độ phát triển liên hoàn của vốn huy động bằng USD tương đối chặt chẽ.
Như vậy, giữa lãi suất huy động và vốn huy động bằng VND và USD đều có mối liên hệ chặt chẽ. Tuy nhiên mối liên hệ giữa lãi suất và tốc độ phát triển vốn huy động bằng VND là chặt chẽ hơn.
Tuy nhiên ngoài yếu tố lãi suất, tổng vốn huy động cũng như tốc độ phát triển của tổng vốn huy động con phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: chất lượng dịch vụ, thương hiệu của ngân hàng, lãi suất của ngân hàng cạnh tranh, tình hình lạm phát, môi trường kinh tế, xã hội… Vì vậy cần phải xem xét tổng hợp các yếu tố khi phân tích thống kê nguồn vốn huy đông của ngân hàng.
2.5.1.2. Lãi suất huy động vốn tại Oceanbank từ tháng 8/2008 đến tháng 3/2009:
Phương pháp hồi quy tương quan đã cho ta thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tốc độ phát triển vốn huy động, vì vậy trước khi tiến hành phân tích nguồn vốn huy động của PGD OceanBank Đào Tấn cần thiết phải xem xét yếu tố lãi suất của ngân hàng này.
Mỗi ngân hàng có hoạch định lãi suất riêng để đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng mình, tuy nhiên lãi suất phải đảm bảo:
_ Gồm tất cả các chi phí huy động vốn.
_ Bù đắp được chi phí quản lí.
_ Trang trải được các loại rủi ro.
_ Phải có phần lợi nhuận hợp lí.
Do nền kinh tế năm 2008 và nửa đầu năm 2009 có nhiều biến động, ngân hàng Nhà nước phải nhiều lần sử dụng lãi suất cơ bản để điều chỉnh thị trường. Điều này kèm theo một số yếu tố thị trường khác khiến cho Oceanbank cũng phải liên tục thay đổi biểu lãi suất để thích ứng, chỉ trong vòng 9 tháng ngân hàng đã phải thay đổi biểu lãi s._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2425.doc