Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2001 – 2008 và định hướng đến năm 2012

Trường đại học kinh tế quốc dân Khoa Thống kê ------- o0o ------- Chuyên đề Thực tập tốt nghiệp Đề tài: phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện tam nông tỉnh phú thọ giai đoạn 2001 – 2008 và định hướng đến năm 2012 Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Hòa Giảng viên hướng dẫn : GS. TS. Trần Thị Kim Thu Hà Nội, năm 2009 trường đại học kinh tế quốc dân khoa thống kê ------- o0o ------- Chuyên đề Thực tập tốt nghiệp Đề tài: phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2001 – 2008 và định hướng đến năm 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế huyện tam nông tỉnh phú thọ giai đoạn 2001 – 2008 và định hướng đến năm 2012 Họ và tên sinh viên : nguyễn thị hòa Chuyên ngành : thống kê Lớp : thống kê A Khóa : 47 Hệ : CHÍNH QUY Giảng viên hướng dẫn : GS. TS. Trần thị kim thu Hà Nội, năm 2009 MỞ ĐẦU Tam Nông là một huyện miền núi với diện tích tự nhiên 15596.92 ha, chiếm 4.43% diện tích của tỉnh Phú Thọ với dân số 82457 người (năm 2008).Toàn huyện có 20 đơn vị hành chính, trong đó có 19 xã và 1 thị trấn. Bao gồm các xã: Vực Trường; Hiền Quan; Hương Nha; Xuân Quang; Thanh Uyên; Tam Cường; Văn Lương; Tứ Mỹ; Phương Thịnh; Hùng Đô; Quang Húc; Tề Lễ; Cổ Tiết; Hương Nộn; Dị Nậu; Thọ Văn; Dậu Dương; Thượng Nông; Hồng Đà và thị trấn Hưng Hoá.Địa hình của huyện Tam Nông tương đối phức tạp, thể hiện những nét đặc thù của vùng bán sơn địa.Đất đai có núi, đồi, ruộng, đồng, sông, ngòi, hồ, đầm.Dạng địa hình chính của huyện Tam Nông là dốc, bậc thang, lòng chảo hướng nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Tam Nông mang đặc điểm khí hậu của miền Bắc nước ta, là khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng bức xạ cao, có nền nhiệt độ cao, lượng mưa tập trung chủ yếu vào mùa mưa.Trên địa bàn huyện có 3 dòng sông chảy qua là: sông Hồng, sông Đà, sông Bứa và một số lượng lớn các hồ, đầm bố trí hầu hết ở các xã trong huyện nên nguồn tài nguyên nước của huyện rất dồi dào.Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 15.596,92ha.Trong đó: Diện tích đất nông nghiệp là 11.315,24 ha, chiếm 72,55% tổng diện tích đất tự nhiên; đất phi nông nghiệp là 3.888,40 ha, chiếm 24,93% tổng diện tích đất tự nhiên; đất chưa sử dụng là 393,28 ha, chiếm 2,52% tổng diện tích đất tự nhiên.Do đặc điểm vị trí là nơi tiếp giáp giữa miền núi và đồng bằng nên đất đai của huyện Tam Nông tương đối phong phú và đa dạng. Theo kết quả báo cáo điều tra địa chất trên địa bàn huyện Tam Nông đã thống kê được 9 mỏ khoáng sản và điểm quặng có: than bùn, mica, caolin, fenpats, đá vôi xây dựng.Đây cũng là một lợi thế của huyện.Bên cạnh đó, tài nguyên rừng của huyện Tam Nông hiện nay đang được phục hồi và ngày càng phát triển.Không chỉ dừng lại ở đó tài nguyên du lịch gắn với di tích lịch sử văn hóa cũng là một điểm cần quan tâm. Tam Nông là mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và có bề dày lịch sử văn hoá lâu đời.Hiện nay, trên địa bàn huyện còn bảo tồn lưu giữ nhiều di sản văn hoá có giá trị bao gồm cả di sản văn hoá vật thể và phi vật thể.Tam Nông vốn là vùng đất giàu truyền thống văn hoá dân gian phong phú với nhiều hoạt động lễ hội, truyện cười Văn Lang nổi tiếng, là cái nôi của dân ca hát ghẹo Nam Cường, ngoài ra còn có dân ca hát trống quân, hát ví, hát chèo, hát xoan, ở Hương Nộn, Hương Nha…Tam Nông được chọn là một trong những địa phương nằm trong tua du lịch về cội nguồn với lễ hội Phết Hiền Quan.Những tiềm năng văn hoá lịch sử và danh lam thắng cảnh nói trên đã tạo cho Tam Nông có điều kiện phát triển theo hướng mở trên tất cả các lĩnh vực văn hoá – xã hội truyền thống, tạo cho Tam Nông có khả năng phát triển du lịch sinh thái, tín ngưỡng, lịch sử trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế phát triển để kêu gọi đầu tư trong tương lai. Với những điều kiện về tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên cùng với những điều kiện về xã hội nền kinh tế của huyện Tam Nông kể từ sau khi được tái lập, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng; sự chỉ đạo điều hành của các cấp chính quyền; sự phối kết hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cùng với sự nỗ lực của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và toàn thể nhân dân, nền kinh tế - xã hội của huyện có bước phát triển khá, trên tất cả các ngành và lĩnh vực.Cơ cấu kinh tế của huyện cũng từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, đời sống nhân dân được nâng cao, kinh tế - xã hội ổn định. Sự cần thiết của đề tài:Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định chính trị - xã hôi, bảo vệ môi trường luôn là vấn đề hàng đầu và là mục đích cuối cùng của phát triển.Những năm qua kinh tế của huyện đã từng bước phát triển và được biết đến với nhiều lĩnh vực sản xuất như:thủy sản, chăn nuôi bò thịt, phát triển vùng nguyên liệu giấy, sản xuất đồ gỗ…Bên cạnh đó Tam Nông cũng được biết đến là mảnh đất có sản phẩm nhựa sơn truyền thống và sản phẩm tầm gửi cây gạo với nhiều tác dụng chữa bệnh, phục hồi sức khỏe, cùng với tiềm năng có nhiều nguồn nguyên liệu phục vụ phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn như mây, tre, cát, đất sét…Với diện tích đất đai, tài nguyên cho phép huyện có khả năng phát triển nông nghiệp đa dạng, phong phú, có khả năng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi.Mặt khác, xuất phát từ tiềm năng đất đai và tài nguyên, cùng hệ thống giao thông thuận lợi huyện Tam Nông có nhiều lợi thế phát triển sản xuất công nghiệp và thương mại.Tuy nhiên những tiềm năng này chưa được khai thác một cách có hiệu quả do còn thiếu những giải pháp cụ thể, thiếu nguồn lực trong quá trình thực hiện.Trong quá trình phát triển còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa phát huy triệt để lợi thế, đặc trưng của vùng, làm cho kinh tế phát triển chưa mạnh, phát triển chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa ổn định.Trong khi đó, phát triển công nghiệp theo hướng hình thành các khu công nghiệp, phát triển tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là xu thế tất yếu, là biện pháp tích cực để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, giải quyết việc làm cho người dân, giảm sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị, góp phần phát triển bền vững.Những phân tích trên cho thấy đề tài : “Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2001 – 2008 và định hướng đến năm 2012” là thực sự cần thiết.Thông qua việc phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể thấy được những mặt được cần phát huy và những mặt yếu cần khắc phục, từ những phân tích có thể thấy được những ngành nghề, lĩnh vực lợi thế, những bước chuyển dịch đúng hướng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cần đẩy mạnh, và qua những đánh giá tồn tại, hạn chế trong quá trình chuyển dịch, từ đó có thể đưa ra những biện pháp, những kiến nghị đúng đắn để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giúp cho kinh tế - xã hội của huyện ngày càng phát triển. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài: Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi ranh giới hành chính của huyện Tam Nông; nghiên cứu từ năm 2001 và định hướng đến năm 2012; trên tất cả các ngành lĩnh vực kinh tế của huyện.Đối tượng nghiên cứu:Kinh tế của huyện Tam Nông giai đoạn 2001 – 2008. Phương pháp nghiên cứu:Thu thập tài liệu theo dõi hiện trạng phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện, tham khảo ý kiến của các cán bộ phòng thống kê huyện.Các số liệu được tổng hợp với sự trợ giúp của phần mềm Excel và phân tổ thống kê theo các ngành kinh tế, cây trồng, con gia súc và dịch vụ.Nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích thống kê thông qua các chỉ tiêu phân tích như: số tương đối, số tuyệt đối, tốc độ bình quân và tốc độ phát triển để phân tích sự tăng, giảm về giá trị sản xuất và tỷ trọng của các ngành kinh tế.Có sử dụng các chỉ tiêu phân tích, đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế là giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất;số lượng, cơ cấu lao động, các gia súc, gia cầm… Kết cấu của đề tài:Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài gồm có 3 chương như sau: -Chương 1: Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2001 – 2008. -Chương 2: Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2001 – 2008. -Chương 3: Phương hướng, một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Tam Nông định hướng đến năm 2012 và một số kiến nghị. Và cũng qua chuyên đề này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo - GS.TS Trần Thị Kim Thu - Trưởng khoa và đồng thời là giảng viên khoa Thống kê trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG I ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HUYỆN TAM NÔNG - PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2001-2008 Ngay sau khi huyện Tam Nông được tái lập; dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng; sự chỉ đạo điều hành của các cấp chính quyền; sự phối kết hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cùng với sự nỗ lực của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và toàn thể nhân dân, nền kinh tế - xã hội của huyện có bước phát triển khá, được thể hiện ở các mặt sau: 1.1. Thực trạng phát triển kinh tế huyện Tam Nông 1.1.1. Tăng trưởng kinh tế Trong thời gian qua, nhất là 5 năm trở lại đây kinh tế Tam Nông có sự tăng trưởng khá, tốc độ ổn định ở mức cao.Tổng giá trị sản xuất (theo giá cố định 1994) năm 2008 đạt 453.65 tỷ đồng, tăng 9.50% so với năm 2007, tăng 288.49 tỷ đồng so với năm 2001.Trong đó:Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 166.25 tỷ đồng, tăng 4.94% so với năm 2007, tăng 70.59 triệu đồng so với năm 2001; giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng là 134.5 tỷ đồng, tăng 11.15% so với năm 2007, tăng 105.14 triệu đồng so với năm 2001; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ - thương mại là 152.9 tỷ đồng, tăng 13.39% so với năm 2007, tăng 112.75 triệu đồng so với năm 2001. Tổng giá trị sản xuất năm 2008 (theo giá hiện hành) là: 719.65 tỷ đồng tăng 507.42 triệu đồng so với năm 2001.Giá trị sản xuất thực tế bình quân đầu người đạt 8.99 triệu đồng/người/năm.Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 – 2008 đạt 15.53%.Đây là kết quả rất đáng khích lệ và cao hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 2000 – 2005 đã được thông qua là 7%/năm.Đóng góp cho sự tăng trưởng giai đoạn 2001 – 2008 vừa qua là sự phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực.Trong đó, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2008 của ngành công nghiệp – xây dựng là 24.29%, ngành dịch vụ là 21.05%, ngành nông nghiệp là 8.24%. Nhờ tăng trưởng kinh tế cao (tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2008 đạt 15.53%) nên thu nhập bình quân đầu người tăng từ 2.67 triệu đồng/người/năm 2001 lên 5.93 triệu đồng/người/năm năm 2005, năm 2008 đạt 8.99 triệu đồng/người/năm (theo giá thực tế).Như vậy giá trị sản xuất của huyện tăng hàng năm, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng, dịch vụ tăng nhanh, thể hiện nhịp độ phát triển kinh tế của huyện đã có sự chuyển biến rõ rệt từ nền sản xuất nông nghiệp là chủ yếu chuyển dần sang sản xuất công nghiệp, dịch vụ. Bảng 1.1. Quy mô và tốc độ tăng giá trị sản xuất của huyện Tam Nông giai đoạn 2001 - 2008 Đơn vị tính:Giá trị sản xuất: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 tốc độ tăng bình quân giai đoạn(%) I.Giá trị sản xuất(giá cố định 1994) 165.16 210.83 260.27 287.2 322.04 367.09 414.28 453.65 15.53 1.Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 95.66 117.94 132.97 151.3 158.87 155.39 158.42 166.25 8.22 2.Công nghiệp-xây dựng 29.36 43.52 46.1 53.5 61.27 98.58 121.01 134.5 24.29 3.Dịch vụ-thương mại 40.15 49.38 81.2 82.4 101.9 113.12 134.85 152.9 21.05 II.Giá trị sản xuất theo giá thực tế 212.23 273.42 359.01 434.74 483.56 573.78 636.1 719.65 19.06 III.Thu nhập bình quân đầu người(Triệu đồng/người/năm theo giá thực tế) 2.67 3.45 4.48 5.38 5.93 7.01 7.74 8.99 x Nguồn:Phòng thống kê huyện Tam Nông 1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và theo lĩnh vực kinh tế có nhiều tiến bộ, đang từng bước thúc đẩy nền kinh tế phát triển năm sau cao hơn năm trước.Tỷ trọng ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại tăng lên, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm dần nhưng giá trị sản xuất tăng khá theo xu hướng rất tích cực, tiến bộ. 1.1.3. Thực trạng phát triển các ngành, lĩnh vực Từ năm 2001 đến nay, nền kinh tế tiếp tục ổn định và phát triển đồng đều ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, đó là: Sản xuất nông lâm nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng hàng hoá, từng bước được nâng cao chất lượng, giá trị và hiệu quả; sản xuất nông nghiệp duy trì được tốc độ tăng trưởng; năng lực sản xuất của nhiều ngành, nhiều sản phẩm tăng cao, với sự tham gia tích cực của khu vực kinh tế tư nhân.Các ngành dịch vụ tiếp tục có chuyển biến, quy mô thị trường tiếp tục được mở rộng.Các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao có nhiều chuyển biến và đạt kết quả tích cực, đời sống nhân dân được nâng lên. Về cơ cấu kinh tế của huyện đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – xây dựng, từ 17,78% năm 2001 lên 29.65% năm 2008, dịch vụ tăng từ 24.31% năm 2001 lên 33.70% năm 2008.Giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp từ 57.92% năm 2001 xuống còn 36.65% năm 2008. Nông nghiệp – nông thôn có sự chuyển dịch cơ cấu các loại hình, các thành phần kinh tế.Trong nông nghiệp – nông thôn bên cạnh kinh tế hộ là chủ yếu, kinh tế tập thẻ về cơ bản đã chuyển đổi từ hợp tác xã kiểu cũ sang hợp tác xã kiểu mới, các trang trại (chủ yếu là trang trại gia đình) đang phát triển.Tính đến cuối năm 2008 có 57 trang trại (theo tiêu chí mới) tăng lên 34 trang trại so với năm 2000, tổng doanh thu từ kinh tế trang trại năm 2008 tăng 6,9 lần so với 2001 và chiếm 2,06% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.Sự phát triển của kinh tế trang trại có ý nghĩa quan trọng góp phần đa dạng hoá, chuyên môn hoá và tập trung hoá trong sản xuất nông nghiệp. Nhìn chung hiện nay kinh tế của huyện về cơ bản vẫn là kinh tế thuần nông, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuy chưa đạt mức theo yêu cầu nhưng đã có dấu hiệu chuyển đổi tích cực. 1.1.3.1. Sản xuất nông, lâm, thuỷ sản * Chuyển dịch cơ cấu lĩnh vực trồng trọt Giai đoạn 2001-2008 vấn đề an ninh lương thực đã được giải quyết, xu thế phát triển ngành trồng trọt đã bắt đầu xuất hiện những nhân tố ban đầu của sản xuất hàng hoá, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp (như: nguyên liệu giấy, nhựa, sơn), cho chế biến lương thực - thực phẩm như chế biến bún, bánh, đậu phụ…và các nông sản khác đáp ứng tiêu dùng nội địa.Giá trị sản xuất ngành trồng trọt năm 2008 đạt 93.09 tỷ đồng.Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt có sự thay đổi. Về sản xuất lương thực (so với năm 2001):Diện tích đất sản xuất lương thực chỉ tăng 3.13%, diện tích tăng chủ yếu là do tăng vụ (năm 2001 là 6420.2 ha; năm 2008 là 6621.3 ha), nhưng năng suất tăng khá nên sản lượng tăng khoảng 49%.Những diện tích trồng lúa bấp bênh do úng ngập được chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản, diện tích cao hạn đã từng bước được chuyển sang trồng đậu tương, lạc, rau, trồng cỏ chăn nuôi. Đã tích cực triển khai đưa nhanh giống mới có năng suất cao vào các xã có điều kiện thực hiện tốt như Vực Trường, Thượng Nông, Tam Cường, Tứ Mỹ…nên đã đưa năng suất lúa từ 37.01 tạ/ha năm 2001 lên 44 tạ/ha năm 2007. Về cây công nghiệp chủ lực:Cây công nghiệp dài ngày như cây sơn năm 2008 so với năm 2001 tăng 3.01 lần, sản lượng nhựa sơn tăng 2.6 lần (tăng bình quân mỗi năm 23%), giá trị tăng 3,3 lần (tăng bình quân mỗi năm 23%), đặc biệt là gíai đoạn 2001-2006 mỗi năm tăng bình quân 34.87% giá trị.Cây công nghiệp ngắn ngày chủ yếu là lạc, đậu tương diện tích trồng tương đối ổn định trên 900 ha, tuy nhiên do có sự đầu tư thâm canh và áp dụng các tiến bộ kĩ thuật nên sản lượng năm 2008 so với năm 2001`tăng 1.67 lần, giá trị sản lượng tăng 4.2 lần. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích. Đối với sản xuất lúa đã chuyển dịch mạnh cơ cấu các trà lúa: ở vụ đông xuân, cơ bản xoá bỏ được trà chiêm, trà xuân chính vụ, giảm trà xuân sớm, tăng trà xuân muộn toàn huyện để hạn chế bất lợi của thời tiết, đến nay trà xuân muộn toàn huyện chiếm trên 74% diện tích; vụ mùa tăng trà mùa sớm và mùa trung để mở rộng cây vụ đông.Vụ đông qua các năm mở rộng, phát triển và được coi là vụ sản xuất chính, diện tích cây vụ đông từ 1401.5 ha năm 2001 lên 1590.1 ha năm 2008, góp phần nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích.Sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp bước đầu được khởi động và đã xuất hiện nhiều mô hình đạt hiệu quả cao (theo số liệu điều tra năm 2007 huyện đã xây dựng 43 mô hình, trong đó có 33 mô hình đạt tiêu chí thu nhập cao). * Chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi Chăn nuôi lợn và bò phát triển, chiếm tới trên 53% giá trị sản xuất ngành chăn nuôi. Đặc biệt là những năm sau 2001 tập trung đầu tư phát triển chăn nuôi lợn theo hướng nạc phục vụ tiêu dung nội địa, chăn nuôi bò thịt đã được tập trung chuyển hướng phát triển đàn bò theo hướng đàn bò thịt (lai Zebu, lai sind), chăn nuôi gia cầm đã được phát triển theo hướng giảm dần số hộ, tập trung mở rộng qui mô chăn nuôi trang trại gắn liền với thực hiện triệt để công tác vệ sinh phòng dịch, xây dựng vùng chăn nuôi an toàn, đó là hướng đi tích cực để đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành chăn nuôi. Năm 2007 tổng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 48.95 tỷ đồng (giá cố định năm 1994).Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, lĩnh vực chăn nuôi chiếm tỷ trọng 38,2%, mục tiêu quy hoạch năm 2007 là 35%.Trong đó: Chăn nuôi gia súc chiếm tỷ trọng 59% toàn ngành chăn nuôi, chăn nuôi gia cầm chiếm 16% và sản phẩm chăn nuôi khác chiếm 14%.Năm 2008, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 50.826 tỷ đồng (giá cố định năm 1994), gấp 1.027 lần so với năm 2007. Về chuyển đổi cơ cấu giống: Tỷ lệ lợn ngoại và lợn lai hướng nạc tăng từ 7% tổng đàn (năm 2001) lên 16% tổng đàn (năm 2008); đàn lợn nái ngoại đã tăng lên đạt 15,3% tổng đàn (năm 2008); tỷ lệ đàn bò lai sind đến năm 2008 đã đạt 19.2%. * Chuyển dịch cơ cấu kinh tế lâm nghiệp Giá trị sản xuất lâm nghiệp (giá cố định 1994) năm 2008 đạt 7.359 tỷ đồng, tăng bình quân 10.24%/năm (giai đoạn 2001-2008).Cơ cấu phát triển lâm nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng phát triển vốn rừng gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái và đẩy mạnh khai thác tiềm năng thế mạnh trồng rừng nguyên liệu giấy cung cấp cho công nghiệp chế biến giấy. * Thuỷ sản Giá trị sản xuất thuỷ sản (theo giá cố định 1994) năm 2008 là 12.926 tỷ đồng, tăng bình quân 13.28%/năm (giai đoạn 2001-2008).Nuôi trồng thuỷ sản có tốc độ phát triển nhanh, về diện tích nuôi trồng năm 2008 là 1043.4 ha tăng 201.82%so với năm 2001 (bình quân tăng 9.17%/năm), về sản lượng nuôi trồng tăng từ 547,9 tấn năm 2001 lên 2041.9 tấn năm 2008 (bình quân tăng 20.68%/năm).Trong cơ cấu giá trị sản xuất thuỷ sản, tỷ trọng nuôi trồng từ 83,663% (năm 2001) lên 92.42% (năm 2008), tỷ trọng khai thác tự nhiên giảm từ 13,64%(năm 2001) xuống 7.58% (năm 2008) Trên địa bàn huyện đã có 30 trang trại nuôi trồng thuỷ sản chiếm 51% tổng số trang trại trên địa bàn, là động lực thúc đẩy sản xuất thuỷ sản phát triển, trong đó khoảng 21 trang trang trại có doanh thu trên 50 triệu đồng/năm. 1.1.3.2. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng *Thực trạng phát triển ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp Giai đoạn 2001-2008 sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển khá, tốc độ tăng trưởng đã đạt 29.64%.Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2008 đạt 56 tỷ đồng.Công nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh đã có những đóng góp quan trọng về giá trị sản xuất và tăng trưởng kinh tế, góp phần làm thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trên địa bàn huyện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đã hình thành được khu công nghiệp Trung Hà, cụm công nghiệp Cổ Tiết, bước đầu đã thu hút được những dự án vào đầu tư xây dựng.Công tác đào tạo đội ngũ quản lý và nguồn nhân lực được quan tâm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp thấp hơn mức tăng trưởng bình quân chung của tỉnh, chưa đạt mục tiêu Nghị quyết Đại Hội Đảng bô huyện lần thứ XXVII đề ra, tốc độ tăng trưởng chưa thạt sự đảm bảo ổn định và bền vững., hiệu quả sản xuất thấp, giá trị gia tăng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chưa cao, tiến độ thu hút đầu tư chậm, cơ sở hạ tầng công nghiệp thiếu và chưa đồng bộ, chưa khai thác được lợi thế về địa kinh tế của huyện. * Ngành xây dựng Trong những năm gần đây, do điều kiện phát triển kinh tế, thu nhập và mức sống của người dân được nâng lên là cơ sở thúc đẩy nhu cầu xây dựng ngày càng cao.Số lượng các doanh nghiệp, đội xây dựng trên địa bàn huyện tăng mạnh, thu hút 1.547 lao động năm 2008.Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành xây dựng giai đoạn 2001 - 2008 là 21.35%/năm.Giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2008 đạt 78.5 tỷ đồng.Cũng nhờ sự phát triển vượt bậc này giúp cho tỷ trọng ngành xây dựng trong giá trị sản xuất trên địa bàn huyện ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của huyện, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động địa phương, tăng thu nhập cho người dân và góp phần ngày càng lớn trong phát triển kinh tế của huyện. 1.1.3.3. Các ngành dịch vụ Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển với tốc độ tăng 21.05%/năm giai đoạn 2001 - 2008, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.Về thương mại, giá trị tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội năm 2001 đạt 61.07 tỷ đồng, năm 2008 tăng lên đạt trên 142 tỷ đồng.Về dịch vụ tổng hợp:dịch vụ vận tải hàng hoá và hành khách có mức tăng trưởng bình quân 23.75%/năm, riêng hàng hoá tăng 55.03%/năm;Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển tương đối nhanh, đến 2008 đã có 11 máy điện thoại/100 dân, so với năm 2001 tăng 9.1 lần, việc thông tin liên lạc trong và ngoài huyện nhanh chóng thuận lợi, việc xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin nội bộ được chú trọng, tích cực góp phần thực hiện công tác cải cách hành chính trong các cơ quan đơn vị; Dịch vụ tài chính, ngân hàng phát triển đã góp phần thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển.Mặc dù những năm gần đây thực hiện chính sách miễn giảm thuế nhưng thu ngân sách vẫn tăng năm sau cao hơn năm trước.Ngân hàng tín dụng đã bám sát chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội, mở rộng diện cho vay hộ vốn tạo điều kiện cho nhân dân, doanh nghiệp có nhu cầu vốn được vay vốn để đầu tư phát triển. 1.1.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn 1.1.4.1. Theo hướng sản xuất nguyên liệu phục vụ sản xuất công nghiệp Chuyển dịch cơ cấu sản xuất gắn với phát triển công nghiệp nông thôn có tác dụng phục vụ đắc lực cho nông nghiệp phát triển, ngược lại nông nghiệp phát triển sẽ cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, tạo ra sự phân công mới về lao động, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo cho khu vực nông thôn.Từ nhận thức đó và thực tế nhiều huyện cũng như Tam Nông phát triển công nghiệp nông thôn trước hết tập trung vào sản xuất nguyên liệu phục vụ sản xuất, công nghiệp và khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ để phát triển ngành ngề nông thôn.Phát triển công nghiệp nông thôn Tam Nông đã đạt được một số kết quả bước đầu; nhất là sản xuất nhựa sơn. Sản xuất nguyên liệu giấy:Trên địa bàn huyện từ lâu đã hình thành vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ cho nhà máy giấy Bãi Bằng, với diện tích 2431 ha (năm 2008), sản lượng khai thác bình quân 40-50 mét khối gỗ nguyên liệu trên 1 ha, chủ yếu là bạch đàn, keo, tre, bương. Sản xuất nhựa sơn:Cây sơn là cây trồng truyền thống – đặc thù địa lý của huyện với diện tích hiện có là 445 ha, trong đó 306 ha đang cho khai thác, sản lượng nhựa cung cấp cho nhu cầu nội tiêu và xuất khẩu bình quân 110 tấn/năm.Hiện nay huyện cũng đã xây dựng được một cơ sở sản xuất sản phẩm tranh sơn mài, đây là nhân tố mới trong việc gắn sản xuất với chế biến. 1.1.4.2. Theo hướng sản xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn Năm 2008 giá trị sản xuất ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (theo giá cố định 1994) đạt 56 tỷ đồng, tăng 46.9 tỷ đồng so với năm 2001, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2001 – 2008 bình quân đạt 29.64%/năm. Đến nay đã có 3548 cơ sở sản xuất (gồm: 34 hợp tác xã, 4 công ty cổ phần, 7 công ty trách nhiệm hữu hạn, 1 doanh nghiệp tư nhân, 3506 cơ sở quy mô hộ) thu hút 5276 lao động, tăng 1910 cơ sở và 2880 lao động so với năm 2001. Sản phẩm gồm 6 loại sản phẩm thuộc nhóm ngành nghề chính là: Chế biến nông sản, thực phẩm; Khai thác chế biến khoáng sản; Sản xuất vật liệu xây dựng; Chế biến lâm sản và các ngành nghề dịch vụ khác. Phát triển công nghiệp nông thôn đã thu hút được phần lớn nguyên liệu tại chỗ để chế biến làm tăng giá trị kinh tế của sản phẩm, đồng thời tạo ra sự thay đổi về phân công lại lao động xã hội.Thực tế cho thấy lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm, lao động cho công nghiệp tăng và bình quân thu nhập của lao động khu vực nông thôn cũng tăng lên đáng kể. Sự phát triển ngành nghề nông thôn có bước phát triển tích cực, tăng với tốc độ khá, sản phẩm đa dạng hơn, mẫu mã đẹp hơn, máy móc thiết bị được đầu tư, cải tiến, chất lượng giá trị sản phẩm được nâng lên, nhiều làng nghề được duy trì phát triển.Đến cuối năm 2004, Ủy ban nhân dân tỉnh đã công nhận và cấp bằng cho 01 làng nghề mộc Minh Đức – Thanh Uyên.Đồng thời, công tác hỗ trợ làng nghề tiếp tục được triển khai, đến hết năm 2007 đã có 5 dự án được tỉnh phê duyệt hỗ trợ kinh phí, hỗ trợ nhân cấy thêm làng nghề mới, phát triển nâng cao làng nghề đã có. 1.1.4.3. Chuyển dịch theo hướng nâng cao giá tri thu nhập trên 01 đơn vị diện tích đất sản xuất Giá trị sản xuất nông nghiêp, thủy sản trên đơn vị diện tích đất nông nghiệp theo giá cố định 1994 đạt 15,7 triệu đồng/ha năm 2007. theo giá thực tế đạt 29,3 triệu đồng/ha năm 2007. Giá trị sản xuất trồng trọt (bao gồm tất cả các cây trồng trên địa bàn) trên đơn vị diện tích đất canh tác (diện tích đất trồng cây hàng năm) theo giá cố định 1994 đạt 21,6 triệu đồng/ha năm 2007. theo giá thực tế đạt 29,7 triệu đồng/ha năm 2007. 1.2. Quan hệ sản xuất tiếp tục được củng cố và phát triển Các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.Kinh tế tập thể đang tiếp tục đổi mới, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển.Các hợp tác xã sau khi chuyển đổi theo luật đã bước đầu sản xuất kinh doanh có hiệu quả, hiện nay trên địa bàn huyện có 34 hợp tác xã hoạt động trên các lĩnh vực nông nghiệp, điện dân dụng, vận tải, thương mại, tiểu thủ công nghiệp. 1.3. Khoa học công nghệ Công tác nghiên cứu khoa học,ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật, công nghệ mới vào sản xuất tiếp tục được đẩy mạnh và tăng cường trên tất cả các lĩnh vực:Trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Chuyển giao khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đưa giống năng suất – chất lượng cao vào sản xuất đi đôi với tiến bộ kĩ thuật canh tác được xác định là khâu đột phá thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp.Từ sau tái lập huyện nhất là giai đoạn 2001 đến nay công tác khuyến nông chuyển giao đưa tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất được chú trọng, năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi tăng nhanh và đạt được kết quả đáng khích lệ, tạo bước chuyển biến tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.Nhiều kết quả nghiên cứu được ứng dụng nhanh vào sản xuất và đời sống đã phát huy hiệu quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm như:Tiến bộ trồng lạc phủ nilon, gieo mạ xuân muộn có che phủ nilon, nghiên cứu phục hồi phát triển cây sơn nhựa và ứng dụng giống cây con lai mới tiến bộ kĩ thuật trong sản xuất. 1.4. Đánh giá thành tựu đạt được, một số tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân tồn tại Giai đoạn 2001 – 2008 bộ mặt kinh tế - xã hội huyện Tam Nông đã có sự thay đổi, kinh tế phát triển góp phần phát triển xã hội.Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại những điểm yếu cần khắc phục, được đúc rút như sau: -Thành tựu đạt được: Đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành, tranh thủ mọi cơ hội, khai thác các nguồn lực đầu tư phát triển.An ninh lương thực được đảm bảo, cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực, kinh tế giữ được tốc độ phát triển khá. -Một số tồn tại cần khắc phục:Tốc độ phát triển ngành công nghiệp và tốc độ đô thị hóa chậm, sản phẩm hàng hóa đơn điệu, chất lượng hiệu quả đem lại chưa cao.Những mặt hàng chủ lực chưa có khối lượng lớn, tỷ lệ nông, lâm sản qua chế biến thấp, thị trường, lượng hàng hóa tiêu thụ không ổn định, sức cạnh tranh thấp.Chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành kinh tế chậm, đặc biệt là kinh tế nông thôn.Việc khai thác tiềm năng, lợi thế, thế mạnh vào phát triển kinh tế chưa đáp ứng được với yêu cầu.Các lĩnh vực du lịch, dịch vụ, vận tải hàng hóa phát triển còn yếu. -Nguyên nhân tồn tại:Tư tưởng trông chờ, ỷ nại, tự mãn với những kết quả đạt được còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ, nhân dân.Trình độ năng lực cán bộ quản lý ở một số địa phương còn yếu, thiếu năng động và tâm huyết với công việc.Tam Nông là huyện miền núi có điểm xuất phát thấp, kết cấu hạ tầng còn thiếu, chất lượng chưa đảm bảo, chưa đáp ứng được yêu cầu.Thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp, thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, nhiều tình huống vượt quá khả năng chủ động ứng phó.Cơ chế chính sách chưa đồng bộ, còn chồng chéo. Qua việc đánh giá các thành tựu đạt được và những mặt yếu kém huyện Tam Nông cần phải khắc phục, sửa đổi và tiếp tục phấn đấu để phát triển kinh tế - xã hội, đưa huyện thoát khỏi huyện nghèo. CHƯƠNG II PHÂN TÍCH THỐNG KÊ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ HUYỆN TAM NÔNG TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2001 -2008 2.1. Giới thiệu phân ngành kinh tế quốc dân và đặc điểm phân ngành kinh tế ở huyện Tam Nông 2.1.1. Giới thiệu về phân ngành kinh tế quốc dân Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam năm 2007 gồm 5 cấp.Ngành cấp 1 có 21 ngành; ngành cấp 2 có 88 ngành; ngành cấp 3 có 242 ngành; ngành cấp 4 có 437 ngành; ngành cấp 5 có 642 ngành.Các ngành cấp 1 là: -Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản -Khai khoáng -Công nghiệp chế biến chế tạo -Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí -Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải -Xây dựng -Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác -Vận tải kho bãi -Dịch vụ lưu trú và ăn uống -Thông tin và truyền thông -Hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm -Ho._.ạt động kinh doanh bất động sản -Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ -Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ -Hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị - xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc -Giáo dục và đào tạo -Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội -Nghệ thuật, vui chơi và giải trí -Hoạt động dịch vụ khác -Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình -Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế 2.1.2. Đặc điểm phân ngành kinh tế của huyện Tam Nông Về cơ bản phân ngành kinh tế của huyện vẫn dựa theo phân ngành kinh tế quốc dân, nhưng do đặc điểm kinh tế của huyện có những điểm riêng nên việc phân chia kinh tế vẫn chia thành 3 nhóm ngành lớn, đó là: Nông, lâm nghiệp và thủy sản;Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và xây dựng;Thương mại – dịch vụ để việc đánh giá, tổng hợp số liệu được thuận tiện, dễ dàng hơn. 2.2. Phân tích thống kê tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Tam Nông giai đoạn 2001 – 2008 2.2.1. Phân tích thống kê tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của huyện giai đoạn 2001 – 2008 Với những số liệu đã có ở bảng 1.1 ta có thể lập được bảng số liệu biểu hiện giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất của các ngành kinh tế của huyện giai đoạn 2001 – 2008 như sau: Bảng 2.1. Giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất của huyện Tam Nông giai đoạn 2001 – 2008 Đơn vị tính:Giá trị sản xuất số tương đối:tỷ đồng, tỷ trọng:% Số thứ tự Chỉ tiêu Năm Tổng giá trị sản xuất(giá cố định năm 1994) Trong đó Nông,lâm nghiệp và thuỷ sản Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và xây dựng Dịch vụ-thương mại I Số tuyệt đối 2001 165.16 95.66 29.36 40.15 2002 210.83 117.94 43.52 49.38 2003 260.27 132.97 46.10 81.20 2004 287.20 151.30 53.50 82.40 2005 322.04 158.87 61.27 101.90 2006 367.09 155.39 98.58 113.12 2007 414.28 158.42 121.01 134.85 2008 453.65 166.25 134.50 152.90 II Tỷ trọng 2001 100 57.92 17.78 24.30 2002 100 55.94 20.64 23.42 2003 100 51.09 17.71 31.20 2004 100 52.68 18.63 28.69 2005 100 49.33 19.03 31.64 2006 100 42.33 26.85 30.82 2007 100 38.24 29.21 32.55 2008 100 36.65 29.65 33.70 Với số liệu tính toán từ bảng số liệu trên ta có thể biểu diễn cơ cấu giá trị sản xuất của huyện như sau: Biểu đồ 2.2. Cơ cấu giá trị sản xuất của huyện Tam Nông giai đoạn 2001 -2008 Qua kết quả bảng 2.1 và biểu đồ 2.2 trên ta có thể nhận thấy nền kinh tế của huyện những năm qua đã có sự chuyển dịch đáng kể và chuyển dịch đúng hướng.Giá trị sản xuất tăng bình quân 15.54%/năm.Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng lên từ 95.66 tỷ đồng năm 2001 lên 166.25 tỷ đồng năm 2008 nhưng tỷ trọng lại giảm đáng kể, từ 57.92% năm 2001 xuống còn 36.65% năm 2008.Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng tăng từ 29.36 tỷ đồng năm 2001 lên 134.5 tỷ đồng năm 2008, và tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cũng tăng dần, từ 17.78% năm 2001 lên 29.65% năm 2008.Giá trị sản xuất ngành thương mại - dịch vụ tăng lên, từ 40.15 tỷ đồng năm 2001 lên 152.9 tỷ đồng năm 2008, và tỷ trọng các ngành thương mại – dịch vụ cũng tăng dần, từ 24.30% năm 2001 lên 33.70% năm 2008. Cùng với sự chuyển dịch kinh tế, cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện.Sự chuyển dịch đó được biểu hiện ở bảng sau: Bảng 2.3. Tổng hợp tình hình phân công và sử dụng lao động của huyện Tam Nông qua các năm Đơn vị tính:% Chỉ tiêu Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng số lao động trong các ngành kinh tế quốc dân 100 100 100 100 100 100 100 100 Nông, lâm nghiệp và thủy sản 86.90 86.00 81.90 83.80 82.00 80.30 79.20  77.80 Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp- xây dựng 5.60 6.40 7.70 8.00 8.80 10.10 9.80  10.50 Dịch vụ - thương mại 7.50 7.60 10.40 8.30 9.20 9.50 11.00  11.70 Nguồn:Niên giám thống kê huyện Tam Nông Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng giảm dần. Tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 86.9% năm 2001 xuống còn 77.80% năm 2008.Tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp lớn, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng và dịch vụ - thương mại rất thấp chứng tỏ kinh tế của huyện vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng tăng từ 5.6% năm 2001 lên 10.50% năm 2008 do một số ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng mới phát triển như sản xuất gạch, may công nghiệp, nghề mộc đã thu hút được nhiều lao động ở bộ phận nông nghiệp sang bộ phận này.Tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ tăng từ 7.5% năm 2001 lên 11.70% năm 2008, các chợ được quy hoạch, nền kinh tế tăng trưởng, mức sống của người dân tăng nên ngành dịch vụ cũng phát triển và thu hút được nhiều lao động.Như vậy cơ cấu lao động của huyện cũng đang có bước chuyển dịch tuy còn chậm nhưng đã đi đúng hướng, đây cũng là dấu hiệu tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện. Nhìn chung nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất của huyện vì đây là ngành chủ yếu, đặc thù của kinh tế nước ta.Và vì Tam Nông là một huyện miền núi nên nông nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng, các ngành công nghiệp mới bắt đầu phát triển.Các cụm, khu công nghiệp mới đi vào hoạt động nên tốc độ phát triển còn chậm.Các ngành dịch vụ cũng mới được chú trọng và đầu tư phát triển.Dù cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm nhưng nhìn chung đã chuyển dịch đúng hướng giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản và tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng, dịch vụ.Nhưng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện còn chưa ổn định, thiếu tính bền vững.(Do đặc điểm riêng biệt về kinh tế của huyện nên trong đề tài em chỉ đi vào phân tích những ngành có số liệu được tổng hợp đầy đủ, rõ ràng, có sự chuyển dịch cơ cấu đáng kể). 2.2.2. Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 2.2.2.1.Phân tích chung Trong những năm vừa qua sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản của huyện có những bước phát triển khá toàn diện, hiệu quả, đã đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm ngoài ra còn sản xuất hàng hóa cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu.Nhiều mô hình sản xuất mới trong nông nghiệp cho năng suất cao, hiệu quả cao đã được đưa vào áp dụng và nhân rộng.Nông nghiệp ngày càng phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, cơ cấu kinh tế nông nghiệp có sự chuyển dịch mạnh, từ độc canh cây lúa sang phát triển đa dạng hóa các sản phẩm, việc chuyển đổi diện tích trồng trọt kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản đang được tích cực chuyển khai, trồng cỏ phát triển chăn nuôi đã đem lai hiệu quả kinh tế cho sản xuất.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp từ năm 2001 trở lại đây diễn ra nhanh theo hướng tăng mạnh tỷ trọng giá trị sản xuất ngành thủy sản, chăn nuôi, lâm nghiệp và giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt.Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây: Bảng 2.4. Giá trị sản xuất và cơ cấu ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản huyện Tam Nông giai đoạn 2001-2008 Đơn vị tính:Số tuyệt đối:Tỷ đồng, tỷ trọng:% Số thứ tự Chỉ tiêu Năm Tổng giá trị sản xuất(giá cố định năm 1994) Trong đó Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản I Số tuyệt đối 2001 95.66 86.53 3.72 5.40 2002 117.94 105.31 4.11 8.52 2003 132.97 117.83 6.05 9.09 2004 151.30 135.20 6.60 9.50 2005 158.87 141.70 7.33 9.84 2006 155.39 136.72 6.49 12.18 2007 158.42 138.52 7.08 12.82 2008 166.251 145.966 7.359 12.926 II Tỷ trọng 2001 100 90.46 3.89 5.65 2002 100 89.29 3.48 7.23 2003 100 88.61 4.55 6.84 2004 100 89.36 4.36 6.28 2005 100 89.19 4.61 6.20 2006 100 87.99 4.18 7.83 2007 100 87.44 4.47 8.09 2008 100 87.80 4.43 7.77 Dựa vào số liệu trên ta có thể biểu diễn cơ cấu của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản của huyện giai đoạn 2001 - 2008 qua biểu đồ sau: Biểu đồ 2.5. Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản huyện Tam Nông giai đoạn 2001 - 2008 Qua các số liệu ở bảng 2.4 và biểu đồ 2.5 ta thấy ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản của huyện giai đoạn 2001 – 2008 phát triển khá, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn đạt 8.22%/năm.Đóng góp cho tốc độ tăng trưởng chung của ngành phải kể đến tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành thủy sản đạt 13.28%/năm và ngành lâm nghiệp đạt 10.24%/năm.Về cơ cấu của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng thấy rõ sự chuyển dịch.Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng từ 86.53 tỷ đồng năm 2001 lên 145.966 tỷ đồng năm 2008 nhưng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành lại giảm từ 90.46% năm 2001 xuống còn 87.80% năm 2008.Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp, thuỷ sản tăng lên, ngành lâm nghiệp tăng từ 3.72 tỷ đồng năm 2001 lên 7.359 tỷ đồng năm 2008, ngành thuỷ sản tăng từ 5.4 tỷ đồng năm 2001 lên 12.926 tỷ đồng năm 2008 và tỷ trọng giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp, thủy sản cũng đồng thời tăng lên, ngành lâm nghiệp tăng từ 3.89% năm 2001 lên 4.43% năm 2008, ngành thủy sản tăng từ 5.65% năm 2001 lên 7.77% năm 2008(Bảng 2.4). Nguyên nhân chính là do huyện đã chú trọng chỉ đạo mở rộng phát triển chăn nuôi bò thịt, chăn nuôi lợn, gà;phát triển cây sơn, phát triển thủy sản là những chương trình nông nghiệp trọng điểm. Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng lên, tỷ trọng trong tổng giá trị sản xuất giảm nhưng diện tích đất nông nghiệp của huyện từ năm 2001 đến năm 2008 đã tăng 2001.99 ha.Tình hình sử dụng đất của huyện giai đoạn 2001 – 2008 được thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.6. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của huyện Tam Nông giai đoạn 2001-2008 Đơn vị tính:ha Thứ tự Mục đích sử dụng đất Diện tích năm 2001 Diện tích năm 2008 Năm 2008 so với năm 2001 Đất nông nghiệp 9313.25 11315.24 2001.99 1 Đất sản xuất nông nghiệp 6239.58 7133.5 893.92 2 Đất lâm nghiệp 2933.56 3604.47 670.91 3 Đất nuôi trồng thủy sản 139.38 576.54 437.16 4 Đất nông nghiệp khác 0.73 0.73 0 (Nguồn: Phòng Thống kê Huyện Tam Nông) Diện tích đất nông nghiệp tăng lên kéo theo diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản cũng tăng lên.Giá trị sản xuất các ngành đều tăng, tỷ trọng ngành lâm nghiệp, thuỷ sản tăng nhưng tỷ trọng ngành nông nghiệp lại giảm.Điều đó cho thấy ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản của huyện đang dần dần có bước chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng những ngành có tiềm năng và giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Tam Nông là huyện miền núi nên lâm nghiệp cũng là lợi thế, tỷ trọng ngành lâm nghiệp tăng dần từ 3.88% năm 2001 lên 4.43% năm 2008, tốc độ tăng nhìn chung còn chậm.Ngành nuôi trồng thủy sản hiện đang có hiệu quả kinh tế cao, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn bỏ vốn và đất ruộng ra để làm ao, hồ nuôi cá, chuyển đổi ruộng cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản (như các xã Phương Thịnh, Hùng Đô, Tứ Mỹ đã có nhiều mô hình nuôi cá đạt năng suất cao).Giá trị sản phẩm trồng trọt, nuôi trồng thủy sản trên một đơn vị diện tích hai năm gần đây đã tăng lên đáng kể.Giá trị sản phẩm trồng trọt, thủy sản trên một ha qua hai năm 2007-2008 tăng 1.34 lần từ 29.3 triệu đồng/ha lên 39.3 triệu đồng /ha.Như vậy ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản của huyện đã có sự chuyển dịch khá nhanh, tuy một số ngành còn chậm nhưng đều đã đi đúng hướng, tích cực. 2.2.2.2. Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp *Cơ cấu chung của ngành nông nghiệp Với những số liệu tổng hợp được về sự phát triển ngành nông nghiệp của huyện giai đoạn 2001 – 2008 ta có bảng số liệu tổng hợp về giá trị sản xuất và cơ cấu ngành nông nghiệp như sau: Bảng 2.7. Giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp huyện Tam Nông giai đoạn 2001 – 2008 Đơn vị tính:Số tuyệt đối:tỷ đồng và tỷ trọng: % Số thứ tự Chỉ tiêu Năm Tổng giá trị sản xuất(giá cố định năm 1994) Trong đó Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ trong nông nghiệp I Số tuyệt đối 2001 86.53 59.44 25.64 1.45 2002 105.31 70.47 33.42 1.42 2003 117.83 75.99 40.35 1.49 2004 135.2 87.91 45.66 1.63 2005 141.7 87.56 52.41 1.73 2006 136.72 81.71 53.12 1.89 2007 138.52 87.63 48.95 1.94 2008 145.966 93.09 50.826 2.05 II Tỷ trọng 2001 100 68.69 29.63 1.68 2002 100 66.92 31.73 1.35 2003 100 64.49 34.24 1.27 2004 100 65.02 33.77 1.21 2005 100 61.79 36.99 1.22 2006 100 59.76 38.85 1.39 2007 100 63.26 35.34 1.401 2008 100 63.78 34.82 1.404 Dựa vào tỷ trọng các ngành tính được ở bảng trên ta có thể biểu diễn cơ cấu ngành nông nghiệp bằng biểu đồ sau: Biểu đồ 2.8. Cơ cấu ngành nông nghiệp huyện Tam Nông giai đoạn 2001 – 2008 Trong nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự chuyển biến.Giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng lên, từ 59.44 tỷ đồng năm 2001 lên 93.09 tỷ đồng năm 2008 nhưng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt trong nội bộ ngành nông nghiệp lại giảm xuống từ 68.69% năm 2001 xuống còn 63.78% năm 2008.Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng từ 25.64 tỷ đồng năm 2001 lên 50.826 tỷ đồng năm 2008, đồng thời tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi trong nội bộ ngành nông nghiệp tăng lên từ 29.63% năm 2001 lên 34.82% năm 2008.Giá trị sản xuất dịch vụ trong nông nghiệp tăng từ 1.45 tỷ đồng năm 2001 lên 2.05 tỷ đồng năm 2008 nhưng tỷ trọng dịch vụ trong nông nghiệp trong nội bộ ngành cũng giảm xuống từ 1.676% năm 2001 xuống còn 1.404% năm 2008.Nhưng nhìn chung sự tăng giảm không đều đặn, còn bấp bênh. *Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt Giai đoạn 2001-2008 vấn đề an ninh lương thực đã được giải quyết, xu thế phát triển ngành trồng trọt đã bắt đầu xuất hiện những nhân tố ban đầu của sản xuất hàng hóa, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp (như:nguyên liệu giấy, nhựa sơn), cho chế biến lương thực - thực phẩm như chế biến bún bánh, đậu phụ…và các nông sản khác đáp ứng tiêu dùng nội địa.Đánh giá một cách tổng quát ngành trồng trọt của huyện trong những năm qua có xu hướng giảm dần về tỷ trọng trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.Đất trồng cây hàng năm, cây lâu năm đều tăng lên, cây hàng năm tăng 279.77 ha,từ 4686.5 ha năm 2001 lên 4966.27 ha năm 2008, cây lâu năm tăng 614.15 ha, từ 1553.08 ha năm 2001 lên 2167.23 ha năm 2008.Đất lâm nghiệp cũng tăng 670.91 ha, tăng từ 2933.56 ha năm 2001 lên 3604.47 ha năm 2008.Điều này thể hiện chiều hướng tốt trong sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng của huyện. Trong những năm qua cơ cấu giá trị sản xuất của ngành trồng trọt có sự thay đổi.Năm 2001 giá trị sản xuất ngành trồng trọt (giá cố định năm 1994) là 59.44 tỷ đồng , năm 2008 giá trị sản xuất trồng trọt tăng lên 93.09 tỷ đồng.Nhưng tỷ trọng ngành trồng trọt trong nội bộ ngành nông nghiệp lại giảm xuống, từ 68.69% năm 2001 giảm xuống còn 63.78% năm 2008(Bảng 2.7).Nguyên nhân là do huyện đã có những thay đổi trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu về sản xuất cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả không có biến động đáng kể. - Về sản xuất cây lương thực:Diện tích đất sản xuất lương thực tăng 5.22% trong khi mặt bằng đất canh tác giảm 146 ha, diện tích tăng chủ yếu là do tăng vụ.Những diện tích trồng lúa bấp bênh do úng ngập được chuyển sang nuôi trồng thủy sản, diện tích cao hạn đã từng bước được chuyển sang trồng đậu tương, trồng lạc, trồng rau và trồng cỏ chăn nuôi.Huyện đã tích cực triển khai đưa nhanh giống mới có năng suất cao vào các xã có điều kiện thực hiện tốt như Vực Trường, Thượng Nông, Tam Cường, Tứ Mỹ…nên đã đưa năng suất lúa từ 37.01 tạ/ha năm 2001 lên 44.0 tạ/ha năm 2007.Lương thực bình quân đầu người từ 321 kg năm 2001 lên 355 kg vào năm 2007, so với năm 2001 đã tăng 34.0 kg và gấp 1.1 lần.Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt trong giai đoạn 2001 – 2008 tương đối ổn định, mặt bằng canh tác giảm do chuyển mục đích sử dụng đất cho các nhu cầu phát triển công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng được bù lại bằng diện tích tăng vụ, sản lượng lương thực tăng từ 16339.6 tấn năm 2001 lên 22758.2 tấn năm 2005 và năm 2008 là 27022.9 tấn(tăng bình quân 0.95%/năm).Nhờ vậy giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giai đoạn 2001 – 2008 tăng lên. + Đối với sản xuất lúa:Cơ cấu các trà lúa, giống lúa có chuyển biến mạnh mẽ, việc áp dụng các tiến bộ kĩ thuật mới vào sản xuất, thâm canh có nhiều tiến bộ, đặc biệt là ứng dụng công nghệ làm mạ xuân có che phủ nilon.Kỹ thuật thâm canh của người nông dân đã có tiến bộ.Ở vụ Đông xuân, cơ bản xóa bỏ được trà chiêm, trà xuân chính vụ, giảm trà xuân sớm, tăng trà xuân muộn để hạn chế tác động xấu của thời tiết, đến nay trà xuân muộn toàn huyện chiếm trên 56% diện tích.Vụ mùa tăng trà mùa sớm lên 55% tổng diện tích để mở rộng diện tích cây vụ đông, còn lại cấy trà mùa trung, trà mùa muộn cơ bản được xóa bỏ.Vụ đông chú trọng chỉ đạo mở rộng qua các năm, đến nay đã là vụ sản xuất chính, diện tích cây vụ đông từ 1401.5 ha năm 2001 lên 1590.1 ha năm 2008, góp phần nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích.Sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao (theo số liệu điều tra năm 2007 huyện đã xây dựng được 43 mô hình, trong đó có 33 mô hình đạt tiêu chí thu nhập cao).Tỷ lệ lúa lai hiện nay đạt 27.1% mặc dù trợ giá giống lúa lai chỉ còn lại 13 khu đặc biệt khó khăn.Diện tích gieo trồng lúa chiếm trên 70% tổng diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt toàn huyện, giai đoạn 2005 – 2007 có xu hướng giảm dần từ 4661.5 ha năm 2005 xuống còn 4437.9 ha năm 2007.Năng suất lúa qua các năm đạt tốc độ tăng khá, bình quân giai đoạn 2001 – 2007 tăng 4.27%/năm, năng suất đạt 44 tạ/ha năm 2007.Về sản lượng lúa, giai đoạn 2001 – 2008 tăng bình quân 3.57%/năm, đạt 20905 tấn năm 2008.Cây lúa là cây lương thực chính, việc chuyển đổi cơ cấu giống và các trà lúa,và áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất đã góp phần nâng cao năng suất,chất lượng của cây lúa và nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích và góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt theo hướng tích cực. + Cây ngô là cây lương thực sau lúa, trong những năm gần đây diện tích ngô có xu hướng tăng (tăng bình quân 4.46%/năm giai đoạn 2001 – 2008), đến năm 2008 diện tích ngô đạt 1621.7 ha.Đồng thời cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, cùng với việc đưa nhanh vào sản xuất các giống ngô lai có tiềm năng năng suất cao nên năng suất ngô tăng nhanh từ 29.9 tạ/ha năm 2001 lên 47.1 tạ/ha năm 2008 (bình quân tăng 9.51%/năm) đưa sản lượng ngô toàn huyện từ 3575.3 tấn năm 2001 lên 8167.8 tấn năm 2008 (bình quân tăng 12.53%/năm), trong đó ngô vụ đông chiếm khoảng 75.6% diện tích. Chương trình lương thực thực hiện đã đạt được những kết quả đáng kể nhưng vần còn tồn tại một số những han chế.Việc đầu tư thâm canh không đều, chưa đáp ứng yêu cầu kĩ thuật vì vậy chưa phát huy hết ưu thế của giống lúa lai, ngô lai (nhất là lúa lai), đặc biệt là việc cải tạo đất vẫn còn hạn chế, nhiều hộ nông dân còn mang nặng tư tưởng bóc màu đất, lượng phân bón cho cây trồng ít, bón không cân đối, chưa đúng quy trình kĩ thuật gây lãng phí và làm giảm hiệu quả sử dụng phân bón.Cơ cấu mùa vụ chuyển biến chưa triệt để, chưa vững chắc.Vụ Đông xuân tình trạng gieo mạ xuân muộn không che phủ nilon, gieo trước khung lịch khá phổ biến hoặc dung lúa ngắng ngày, thấp cây cấy cho vùng trũng khi nhiệt độ dưới 15 độ C ở nhiều địa phương tại một số xã vẫn còn xảy ra. - Về cây công nghiệp chủ lực:Cây công nghiệp dài ngày như cây sơn, diện tích trồng sơn năm 2008 đạt 467 ha, tăng 339.9 ha so với năm 2001, sản lượng nhựa sơn tăng 2.6 lần (tăng bình quân mỗi năm 23%),giá trị tăng 3.3 lần (tăng bình quân mỗi năm 23%) đặc biệt là giai đoạn 2001 – 2006 mỗi năm tăng bình quân 34.87% giá trị.Cây công nghiệp ngắn ngày chủ yếu là lạc và đậu tương diện tích trồng tương đối ổn định trên 900 ha, tuy nhiên do có sự đầu tư thâm canh và áp dụng các tiến bộ kĩ thuật nên sản lượng năm 2008 so với năm 2001 tăng 1.67 lần, giá trị sản lượng tăng 4.2 lần. Qua phân tích trên ta thấy cơ cấu sản xuất nông nghiệp của huyện chuyển dịch theo hướng tích cực, nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích.Đối với sản xuất lúa đã chuyển dịch mạnh cơ cấu các trà lúa:Ở vụ Đông xuân, cơ bản xóa bỏ được trà chiêm, trà xuân chính vụ, giảm trà xuân sớm, tăng trà xuân muộn để hạn chế bất lợi của thời tiết, đến nay trà xuân muộn toàn huyện chiếm trên 74% diện tích; vụ mùa tăng trà mùa sớm và mùa trung để mở rộng cây vụ đông.Vụ đông qua các năm mở rộng , phát triển và được coi là sản xuất chính, diện tích cây vụ đông từ 1401.5 ha năm 2001 lên 1590.1 ha năm 2008, góp phần nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích.Sự chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp bước đầu được khởi động và đã xuất hiện nhiều mô hình đạt hiệu quả cao(theo số liệu điều tra năm 2007 huyện đã xây dựng được 43 mô hình, trong đó có 33 mô hình đạt tiêu chí thu nhập cao). *Chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi Đi đôi với trồng trọt, chăn nuôi là một ngành quan trọng trong nông nghiệp của huyện miền núi như Tam Nông.Những năm gần đây ngành chăn nuôi cũng đã có những chuyển biến rõ rệt, phát triển khá nhanh.Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (giá cố định năm 1994) giai đoạn 2001- 2008 tăng 1.98 lần từ 25.64 tỷ đồng năm 2001 lên 50.826 tỷ đồng năm 2008. Tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nội bộ ngành nông nghiệp tăng lên từ 29.63% năm 2001 lên 34.82% năm 2008(Bảng 2.7).Chăn nuôi lợn và bò phát triển, chiếm tới trên 53% giá trị sản xuất ngành chăn nuôi.Đặc biệt là những năm sau 2000 tập trung đầu tư phát triển chăn nuôi lợn theo hướng lợn hướng nạc phục vụ tiêu dùng nội địa, chăn nuôi bò thịt đã được tập trung chuyển hướng phát triển đàn bò theo hướng đàn bò thịt(lai Zebu, lai sind), chăn nuôi gia cầm đã được phát triển theo hướng giảm dần số hộ, tập trung mở rộng quy mô trang trại gắn với thực hiện triệt để công tác vệ sinh phòng dịch, xây dựng vùng chăn nuôi an toàn, đó là hướng đi tích cực để đẩy nhanh tốc độ ngành chăn nuôi.Năm 2008 tổng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 50.826 tỷ đồng (giá cố định năm 1994), trong cơ cấu ngành nông nghiệp, chăn nuôi chiếm tỷ trọng 34.82%.Năm 2007, chăn nuôi chiếm tỷ trọng 35.34%, trong đó:chăn nuôi gia súc chiếm tỷ trọng 59% toàn ngành chăn nuôi, chăn nuôi gia cầm chiếm 16% và sản phẩm chăn nuôi khác chiếm 14%.Số lượng các gia súc, gia cầm và chăn nuôi khác của huyện đều tăng, nhưng tăng rất chậm.Do mấy năm trở lại đây dịch cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng ở bò, lợn hoành hành, cộng với thời tiết không thuận lợi rét đậm rét hại nên chăn nuôi kém phát triển.Số trâu, bò hiện có năm 2008 là 19502 con (trong đó trâu chiếm 14.74%, bò chiếm 85.26%), giảm 1424 con so với năm 2007, tổng đàn bò năm 2008 la 16410 con tăng 1.95 lần so với năm 2001 nhưng lại giảm so với năm 2007, đàn trâu giảm do áp dụng tiến bộ kĩ thuật, cơ giới hóa nông nghiệp, đưa máy móc vào sản xuất nên số lượng đại gia súc giảm.Ngày 29-12-2006 Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành quyết định số 948/QĐ-UB về phê duyệt dự án phát triển chăn nuôi bò thịt giai đoạn 2006 – 2010.Mục tiêu phấn đấu đến 2010 đàn bò thịt đạt 20000 con, trong đó bò nái nền lai sind đạt 8000 con, chiếm 40% tổng đàn.Sau hơn một năm thực hiện, chương trình chăn nuôi bò thịt đạt những kết quả sau:Đã hình thành vùng chăn nuôi bò thịt ở 14/20 xã, thị trấn, vùng trọng điểm là Vực Trường, Hiền Quan, Hương Nha, Cổ Tiết, Hương Nộn có số lượng bò đực lai sind là 13 con;930 bò cái lai sind đã được thẩm định, bấm số tai đư vào quả lý lý lịch.Đến ngày 1-4-2007 tổng đàn bò của huyện đã đạt 17675 con, trong đó bò cái lai sind là 2989 con.Số lượng trâu bò giảm không phải là một dấu hiệu xấu mà nó cho thấy sự chuyển dịch kinh tế của huyện, đã đi theo hướng tích cực đó là cơ giới hóa nông nghiệp – nông thôn.Tổng đàn lợn có tăng nhưng tăng ít, năm 2007 là 28062 con, năm 2008 là 28091 con, tỷ trọng lợn nái giảm nhẹ 0.02% và tỷ trọng lợn nuôi lấy thịt tăng lên 0.02%.Số lượng gia cầm năm 2008 giảm 12400 con so với năm 2007, số lượng tổng đàn biến động không lơn nhưng có xu hướng giảm số hộ nuôi và tăng quy mô chăn nuôi trong mỗi hộ.. Về chuyển đổi cơ cấu giống, tỷ lệ lợn ngoại và lợn hướng nạc đạt 16% tổng đàn (năm 2008), đàn lợn nái ngoại chiếm 15.3% tổng đàn lợn nái (năm 2008), tỷ lệ đàn bò lai sind đến năm 2008 đạt 19.2% tăng 3.2 lần so với năm 2001. So với ngành trồng trọt cơ cấu sản xuất trong chăn nuôi thay đổi chậm hơn và không rõ rệt lắm.Chủ yếu là sự thay đổi trong chăn nuôi bò và lợn, xu hướng tăng số lượng và chất lượng đàn bò thit, lợn thịt để đáp ứng nhu cấu tiêu dùng của huyện và các vùng lân cận. *Dịch vụ trong nông nghiệp: Nhìn vào bảng 2.7 ta có thể thấy giá trị sản xuất dịch vụ trong nông nghiệp giai đoạn 2001 – 2008 đã tăng lên 0.6 tỷ đồng, từ 1.45 tỷ đồng năm 2001 lên 2.05 tỷ đồng năm 2008, tốc độ phát triển bình quân là 105.07%/năm.Nhưng tỷ trọng dịch vụ trong nông nghiệp trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp lại giảm xuống từ 1.676% năm 2001 xuống còn 1.404% năm 2008.Tam Nông là huyện miền núi, kinh tế còn khó khăn và do đặc thù địa hình đồi núi nên những dịch vụ như làm đất, cày bừa bằng máy móc gần như không áp dụng được, mấy năm trở lại đây, dịch vụ máy vò lúa cũng đã phát triển nhưng chưa đáng kể.Những dịch vụ thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ thực vật cũng được chú trọng.Và người dân đã biết tự phòng sâu bệnh cho cây trồng, súc vật thông qua những lớp tập huấn của trạm khuyến nông huyện.Nhìn chung giá trị dịch vụ trong nông nghiệp của huyện tăng lên nhưng tăng chậm do vậy cần có biện pháp nghiên cứu, ứng dụng máy móc thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp để dịch vụ phát triển hơn. 2.2.2.3. Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành lâm nghiệp huyện Tam Nông giai đoạn 2001 – 2008 Giai đoạn 2001 – 2008 giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp (giá cố định năm 1994) của huyện đã tăng lên 3.639 tỷ đồng, tăng từ 3.72 tỷ đồng năm 2001 lên 7.359 tỷ đồng năm 2008 (Bảng 2.4), tốc độ phát triển bình quân là 110.24%/năm.Tỷ trọng ngành lâm nghiệp trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng tăng lên, từ 3.889% năm 2001 lên 4.426% năm 2008 (Bảng 2.4).Cơ cấu phát triển lâm nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng phát triển vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và đẩy mạnh khai thác tiềm năng thế mạnh trồng rừng nguyên liệu giấy cung cấp cho công nghiệp chế biến giấy.Trồng rừng tập trung mới hàng năm tăng từ 154 ha năm 2000 lên 251.5 ha năm 2007, trồng rừng phân tán bình quân 60000-:-80000 cây/năm, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng từ 21% năm 2001 lên 24% năm 2007.Rừng trồng được chăm sóc, bảo vệ và khai thác theo kế hoạch do vậy phát triển lâm nghiệp đạt kết quả khá. Diện tích rừng hiện có năm 2008 của huyện là 2822 ha.Chủ yếu là trồng cây bạch đàn để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy giấy Bãi Bằng.Bên cạnh đó là các cây keo lai, keo lá chàm và cây lấy gỗ có giá trị khác.Việc bảo vệ rừng ngày càng tốt hơn, không có các vụ cháy lớn xảy ra, các vụ vi phạm lâm luật như mua bán, vận chuyển lâm sản, khai thác rừng, đốt nương làm rẫy trái phép giảm từ 22 vụ năm 200 còn 11 vụ năm 2007.Ngành lâm nghiệp đang phát triển theo hướng tăng dần tỷ trọng trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, phát huy được ưu thế của huyện miền núi.Nhưng đánh giá một cách triệt để thì ngành lâm nghiệp không có chuyển biến gì lớn và chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị sản xuất của giai đoạn 2001 – 2008. 2.2.2.4. Phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản Những năm gần đây phát triển thủy sản có bước tăng trưởng khá.Giá trị sản xuất ngành thủy sản (giá cố định năm 1994) giai đoạn 2001 – 2008 tăng 2.39 lần, tăng từ 5.4 tỷ đồng năm 2001 lên 12.926 tỷ đồng năm 2008, tăng bình quân 13.28%/năm.Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản trong nội bộ ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2001 – 2008 cũng tăng lên, từ 5.65% năm 2001 lên 7.77% năm 2008.Tình hình sản xuất ngành thuỷ sản được biểu thị qua bảng số liệu sau đây: Bảng 2.9. Hiện trạng phát triển thuỷ sản huyện Tam Nông giai đoạn 2001 – 2008 Chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 1.Giá trị sản xuất thủy sản Tỷ đồng Theo giá cố định năm 1994 Tỷ đồng 5.400 8.521 9.090 9.500 9.835 12.180 12.825 12.926 Theo giá hiện hành Tỷ đồng 6.939 8.610 12.539 14.380 18.289 19.038 25.636 34.008 2.Sản lượng thủy sản Tấn 547 873.5 945.3 1134.5 1322.2 1547.4 1678.8 2041.9 Nuôi trồng Tấn 269 570.4 678.1 743.6 620.2 1199.8 1366.8 1887.2 Khai thác Tấn 278 303.1 267.2 390.9 702 347.6 312 154.7 3.Tỷ trọng sản lượng thuỷ sản % 100 100 100 100 100 100 100 100 Nuôi trồng % 49.18 65.3 71.73 65.54 46.91 77.54 81.42 92.42 Khai thác % 50.82 34.7 28.27 34.46 53.09 22.46 18.58 7.58 Trong cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản, tỷ trọng sản lượng nuôi trồng tăng từ 49.18 % năm 2001 lên 92.42% năm 2008, tỷ trọng khai thác tự nhiên giảm từ 50.82% năm 2001 xuống còn 7.58% năm 2008.Sản xuất phát triển gắn với sự thay đổi phương thức sản xuất, chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, bước đầu đưa giống năng suất, chất lượng cao, nhiều mô hình nuôi tôm càng xanh, chép lai 3 máu, rô phi đơn tính…có thu nhập cao trên đơn vị diện tích.Trên địa bàn huyện đã có 27 trang trại nuôi trồng thủy sản chiếm 49% tổng số trang trại trên địa bàn, trong đó khoảng 19 trang trại có doanh thu trên 50 triệu đồng/năm.Đây là động lực thúc đẩy sản xuất thủy sản phát triển.Như vậy ngành thuỷ sản đã có bước chuyển dịch đúng hướng, giá trị sản xuất ngành thuỷ sản tăng hàng năm, tỷ trọng sản lượng thuỷ sản cũng đã có sự thay đổi khá nhanh tăng tỷ trọng sản lượng nuôi trồng, giảm tỷ trọng sản lượng khai thác, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của huyện. 2.2.3. Phân tích thống kê chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp Trong những năm gần đây, giá trị sản xuất ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của huyện Tam Nông tiếp tục tăng cao, đạt tốc độ tăng bình quân 29.64%/năm giai đoạn 2001 – 2008, giá trị sản xuất ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (giá cố định năm 1994) tăng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2220.doc
Tài liệu liên quan