Phân tích tài chính dự án đầu tư theo loại hình dự án tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ & công nghiệp

Lời mở đầu Công nghiệp hoá và hiện đại hoá nhằm phát triển nền kinh tế quốc gia là mục tiêu mà nhà nước và nhân dân Việt Nam đang cố gắng thực hiện trong nỗ lực chung nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo đúng xu thế phát triển của thế giới. Để thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế cần có nhiều yếu tố như : cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật phát triển, một nền sản xuất hiện đại và đội ngũ lao động có trình độ. Tất cả những yếu tố này tuy có tính chất hoàn toàn khác nhau nhưng

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tài chính dự án đầu tư theo loại hình dự án tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ & công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều có một điểm chung là có thể tạo ra qua quá trình đầu tư của xã hội. Muốn có cơ sở hạ tầng thì cần có đầu tư trong hoạt động xây dựng, có khoa học kỹ thuật phát triển cần đầu tư nghiên cứu ứng dụng, để có đội ngũ lao động trình độ cao thì phải đầu tư cho giáo dục và dạy nghề... Vậy đầu tư có vai trò quan trọng với nền kinh tế là tạo ra động lực cho phát triển kinh tế xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển của một quốc gia. Để có được một kết quả tốt thì cần một quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng và thực hiện đầu tư tốt. Hai tiêu chuẩn chính để có thể đánh giá một quá trình đầu tư có hiệu quả hay không là xem chúng có tạo ra hiệu quả về mặt tài chính & kinh tế xã hội không. Một quá trình đầu tư được xem là có hiệu quả về mặt tài chính nếu sau khi đưa vào hoạt động nó đem lại cho chủ đầu tư một khoản thu lớn hơn chi phí bỏ ra; một dự án xem là có hiệu quả về kinh tế- xã hội nếu nó đem lại lợi ích cho xã hội-cộng đồng như tạo việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho quốc gia. Một dự án có thể chỉ có hiệu quả về tài chính hoặc kinh tế-xã hội nhưng cũng có dự án có hiệu quả cả về tài chính và kinh tế-xã hội. Thông thường trong hai kết quả thì kết quả về mặt tài chính thường được coi trọng hơn và nó là mục tiêu chính của hầu hết các hoạt động đầu tư trong xã hội. Như vậy việc phân tích chỉ tiêu tài chính có vai trò rất quan trọng trong quá trình lập một dự án đầu tư nó là tiền đề cho việc đánh giá hiệu quả, lựa chọn dự án và là cơ sở cho tính toán chỉ tiêu kinh tế-xã hội. Trong quá trình lập một dự án đầu tư phân tích hiệu quả tài chính dự án đầu tư là một vấn đề quyết yếu đối với chất lượng của một dự án đầu tư. Do vậy đánh giá tài chính luôn được giành một mối quan tâm đặc biệt của các chủ đầu tư, các tổ chức tài chính, cơ quan chức năng trong quá trình lập, thẩm định dự án. Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tư vấn đầu tư xây dựng nên phân tích hiệu quả tài chính luôn được công ty quan tâm đặc biệt vì nó quyết định lợi ích của khách hàng và cũng chính là lợi ích của công ty. Tuy có nhiều vấn đề cần xem xét song công ty đã có được những kết quả tốt trong việc phân tích hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại công ty. Chính vì vậy qua quá trình thực tập nghiên cứu tại phòng Kinh tế mỏ của công ty nhận thức tầm quan trọng của vấn đề mà muốn nhìn thận về những cải tiến trong quá trình đánh giá hiệu quả tài chính của công ty, cũng như mong muốn đóng góp một phần để giải quyết vấn đề còn tồn tại của đơn vị nên em đã chọn đề tài : “ Phân tích tài chính theo loại hình dự án tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Vấn đề này có tính thực tiễn và là một vấn đề mà công ty cũng đang muốn giải quyết nhất là trong điều kiện thực tế hiện nay công ty đang cố gắng chuẩn hoá công tác tư vấn đầu tư của công ty mình để đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002 trong vấn đề quản lý chất lượng. Với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú tại đơn vị thực tập và giáo viên hướng dẫn em đã thực hiện đề tài này, tuy đây là một đề tài không mới nhưng không dễ để có thể phân tích thấu đáo mọi vấn đề về nó chính vì vậy em chỉ hy vọng qua đề tài này thể hiện được phần nào nhận thức của mình về vận dụng lý thuyết đã học tại giảng đường đại học để giải thích một phần thực tế hoạt động tại công ty. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu này nhằm khẳng định tầm quan trọng của hoạt động phân tích tài chính với dự án đầu tư và sự đa dạng của cách thức phân tích của các đơn vị khác nhau. Trên cùng một khung chung thì với mỗi đơn vị đều có sự cải tiến công tác phân tích tài chính để phù hợp với thực tế hoạt động của đơn vị mình đó là điều em rút ra sau quá trình thực tập tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp và muốn chọn để trình bày trong đề tài của mình. Với các kết quả phân tích sẽ là các giải pháp mà em xin đưa ra tuy vẫn còn mang nặng tính lý thuyết trong cũng là nỗ lực bước đầu trong quá trình tiếp cận thực tế của bản thân. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào quy trình phân tích tài chính dự án tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp cùng với việc xem xét đánh giá qua hai dự án thực tế được lập tại công ty là : “ Đầu tư mở rộng mỏ than Kế Bào”, “ Dự án mua sắm thiết bị cho mỏ than Đèo Nai”. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin cùng với sự kết hợp với các chủ trương, chính sách của chính phủ của Tổng công ty than Việt Nam... để phân tích. Việc tính toán trong đề tài đựơc thực hiện theo đúng quy trình phân tích, xử lý số liệu thống kê kết hợp với sử dụng các trương trình trong Microsolf Excel để tính toán nhằm đảm bảo tính chính xác và thống nhất của dữ liệu đưa ra. Em đã cố gắng chọn ví dụ trong đề tài để đảm bảo tính điển hình cho quá trình phân tích tài chính dự án tại công ty nhưng không đại diện cho tất cả mà tuỳ điều kiện thực tế có thể có sai khác một vài điểm mà trong khuôn khổ của đề tài không trình bày hết được. Kết cấu của đề tài được chia ra làm ba phần chính ngoài lời mở đầu và kết luận ra đó là: Chương I : Các vấn đề lý luận chung Chương II : Thực trạng phân tích tài chính theo loại hình dự án tại công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp Chương III : Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính theo loại hình dự án tại công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp Sau cùng là phụ lục và danh mục các tài liệu đã sử dụng trong đề tài. Chương I : Các vấn đề lý luận chung I. Đầu tư và đầu tư phát triển 1.Khái niệm chung về đầu tư, đầu tư phát triển Đầu tư là sự bỏ ra hay sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại như tiền, là tài nguyên thiên, sức lao động và trí tuệ để tiến hành hoạt động nào đó nhằm đạt được các kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai. Các kết quả đạt được của hoạt động đầu tư có thể là lợi ích về vật chất như nhà xưởng, trường lớp, đường xá, cầu cống được xây dựng mới hay là các khoản tiền thu được từ hoạt động buôn bán hoặc đó cũng có thể là các lợi ích về trình độ học vấn, kỹ năng thông qua học tập hoặc cũng có thể chỉ là các lợi ích xã hội... Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư đều đem lại lợi ích chung cho cả nền kinh tế. Các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là chuyển giao quyền sử dụng tiền tệ từ người này sang người khác trong khi đó các hoạt động bỏ tiền xây dựng, mua thêm máy móc, đầu tư sản xuất- kinh doanh.. làm tăng thêm tài sản cho nền kinh tế các hoạt động như thế gọi là đầu tư phát triển. Vậy đầu tư phát triển là việc sử dụng các nguồn lực tài chính, vật chất, lao động, trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh tế- xã hội, tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Do vậy đầu tư phát triển có vai trò quan trọng với nền kinh tế. 2. Đặc điểm đầu tư phát triển Do sự khác biệt của mình nên về bản chất đầu tư phát triển nói riêng có những đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác ở những điểm sau: ỉ Đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài, các nguồn lực tiền, vật tư, lao động cần huy động lớn Thời gian từ lúc tiến hành đầu tư cho đến khi các thành quả đầu tư phát huy tác dụng thường kéo dài nhiều tháng, năm. Do đó trong quá trình đầu tư phải huy động một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, không tham gia vào quá trình chu chuyển, nên nó không sinh lợi cho nền kinh tế. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. Quá trình vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi được vốn hoặc cho đến khi thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra cũng thường kéo dài trong nhiều năm. Nên không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế. ỉNhững kết quả tạo ra từ hoạt động đâu tư phát triển có vai trò quan trọng với nền kinh tế Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm hàng nghàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển. Những thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. ỉ Đầu tư phát triển là hoạt động mang tính rủi ro. Hoạt động đầu tư một mặt là sự đánh đổi lợi ích ở hiện tại và quá trình thực hiện diễn ra trong một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường trước hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Do các kết quả và hiệu quả của thành qủa đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư phát triển đạt được hiểu quả kinh tế xã hội cao thì đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư. II.Dự án đầu tư 1.Khái niệm Dự án đầu tư có thể xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai. Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực nhất định. Một dự án đầu tư thường có bốn thành phần chính: -Mục tiêu của dự án : Bao gồm hai loại là mục tiêu phát triển lợi ích kinh tế xã hội do dự án đem lại và các mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần thực hiện được của dự án. -Các kết quả : Đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Đây là những điều kiện cần thiết để dự án thực hiện được các mục tiêu. -Các hoạt động : Là những nhiệm vụ hoặc những hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với biểu lịch và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án. -Các nguồn lực: Về vật chất, tài chính, con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cho dự án. Trong 4 thành phần trên thì kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án. Vì vậy yêu cầu trong quá trình thực hiện dự án thường xuyên có đánh giá kết quả. 2. Sự cần thiết phải đầu tư theo dự án Như đã trình bày ở trên đầu tư là quá trình sử dụng nhiều nguồn lực cả vật chất và trí tuệ, lao động với các kết quả được hình thành và tồn tại lâu dài nên ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp nói riêng và quốc gia nói chung vì vậy đầu tư theo dự án là một bước tối ưu hoá công cuộc đầu tư để thực hiện tốt các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp, địa phương hay quốc gia. Để lập được một dự án đầu tư thì chủ đầu tư cần phải thực hiện theo một trình tự quy định từ việc tìm kiếm cơ hội đầu tư , lập nghiên cứu tiền khả thi đến lập nghiên cứu khả thi ... trải qua một quá trình như vậy giúp chủ đầu tư có điều kiện để đánh giá một các chính xác về tính khả thi của dự án tạo điều kiện cho chủ đầu tư tiết kiệm chi phí vì nếu dự án không có tính khả thi sẽ dừng lại ngay ( giảm các chi phí không cần thiết) tránh dự án kém hiệu quả gây lãng phí. Ngoài ra với chủ đầu tư việc lập dự án còn có tác dụng giúp họ xin được giấy phép đầu tư hoặc giấy phép hoạt động, thuận tiện nếu dự án có nhập khẩu máy móc- thiết bị hay muốn xin các khoản ưu đãi đầu tư nếu là các dự án thuộc dạng được ưu đãi. Muốn đầu tư một dự án các đơn vị thường không đủ năng lực tài chính hoặc muốn san sẻ rủi ro cho các đơn vị khác nên thường bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu một dự án đầu tư thường có thêm vốn vay của các đơn vị hoặc vốn cổ phần thông qua phát hành cổ phiếu trái phiếu nên dự án đầu tư chính là cơ sở pháp lý cho việc vay vốn hoặc xin phép phát hành cổ phiếu của các đơn vị. Dự án đầu tư là một kết quả của quá trình nghiên cứu cẩn thận và kỹ lưỡng của các yếu tố thị trường, đầu vào-đầu ra sản phẩm... nên khi đầu tư theo dự án giúp hạn chế rủi ro mà một dự án có thể gặp phải hoặc có thể thay đổi phương án khi gặp rủi ro vì khi lập dự án đã tính đến các yếu tố rủi ro vậy dự án vẫn có thể đạt được các mục tiêu đã định. Dự án đầu tư cũng là cơ sở để đơn vị tổ chức theo dõi, quản lý, kiểm tra trong quá trình thực hiện đầu tư và cũng là cơ sở để bố trí nguồn lực cho các giai đoạn của dự án. Về phía các cơ quan quản lý thì dự án đầu tư là cơ sở để họ ra các quyết định đầu tư, là cơ sở cho việc thẩm định tính khả thi của dự án và cũng là cơ sở để tài trợ cho dự án. Như vậy dự án đầu tư có vai trò hết sức quan trọng cho cả đơn vị lập và các tổ chức có liên quan và là bước khởi đầu quan trọng để có một quá trình đầu tư thuận lợi. III.Phân tích tài chính dự án đầu tư 1.Khái niệm Phân tích tài chính dự án đầu tư là việc xem xét tính khả thi về mặt tài chính của dự án thông qua việc xem xét nhu cầu và sự đảm bảo nguồn lực tài chính cho việc thực hiện dự án đầu tư, xem xét tình hình kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ hạch toán kinh tế của đơn vị thực hiện dự án. Kết quả phân tích này là căn cứ để chủ đầu tư ra quyết định có đầu tư hay không. Ngoài ra phân tích tài chính còn là cơ sở cho phân tích kinh tế xã hội 2.Vai trò của phân tích tài chính dự án Đối với mỗi một chủ thể khác nhau thì phân tích tài chính DA có vị trí khác nhau: -Đối với chủ đầu tư : Phân tích tài chính là cách thức để chủ đầu biết có nên đầu tư hay không và lựa chọn phương án tốt nhất trong khả năng tài chính của mình. -Đối với đơn vị cho vay vốn: Phân tích tài chính dự án là một trong những công tác quan trọng để xem khả năng trả nợ của chủ đầu tư để từ đó có quyết định cho vay vốn hay không. -Đối với các cơ quan quản lý: Phân tích tài chính là một trong những căn cứ để xem xét quyết định có cho phép đầu tư hay không, là cơ sở để lựa chọn dự án đem lại lợi ích cho cả chủ đầu tư và xã hội. 3.Nội dung của phân tích tài chính dự án 3.1.Một số vấn đề có liên quan Để phân tích được khía cạnh tài chính thì cần thu thập được các số liệu có liên quan như lãi suất, doanh thu, chi phí... nhưng các yếu tố này phát sinh ở các thời điểm khác nhau nên trước khi xem xét nội dung của phân tích tài chính chúng ta phải xem xét một số khái niệm có liên quan là : 3.1.1. Giá trị thời gian của tiền Chúng ta thấy ở các thời điểm khác nhau với cùng một khối lượng tiền tệ thì lượng hàng hoá mua đựơc là không bằng nhau đó là do sự thay đổi giá trị của tiền qua các giai đoạn. Như vậy tiền có giá trị về mặt thời gian và chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau: Do ảnh hưởng của lạm phát điều này biểu hiện sự thay đổi giá trị của tiền theo thời gian Do ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên : Giá trị thời gian của tiền biểu hiện những giá trị gia tăng hoặc giảm đi theo thời gian do ảnh hưởng của các nhân tố ngẫu nhiên. Chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp giá trị sản xuất trong năm thời tiết thuận lợi cao hơn trong năm có thiên tai. Do thuộc tính vận động và khả năng sinh lợi của tiền : Trong nền kinh tế thị trường đồng vốn luôn luôn vận động để đem lại lợi ích cho chủ kể cả gửi ngân hàng hay dùng để đầu tư... như vậy sự thay đổi của một khoản tiền sau một thời gian cũng phản ánh giá trị thời gian của tiền và ở đây giá trị thời gian của tiền biểu hiện qua lãi tức. Lãi tức được xác định bằng tổng số vốn đã tích luỹ theo thời gian trừ đi vốn đầu tư ban đầu. Chính vì có sự khác nhau về giá trị của tiền theo thời gian nên khi thực hiện công việc phân tích tài chính một dự án đầu tư người ta phải thực hiện quy đổi các khoản tiền về cùng một giai đoạn để tiện cho việc đánh giá hiệu quả thông thường đó là giai đoạn thực hiện đầu tư. Tính chuyển về mặt bằng hiện tại: PV=FV* 1/(1+r)n Tính chuyển về mặt bằng tương lai: FV=PV* (1+r)n Trong đó: PV(present value): giá trị hiện tại của tiền FV(future value): giá trị tương lai của tiền r: tỷ suất chiết khấu của dòng tiền n: số năm 3.1.2. Tỷ suất “ r ” Tỷ suất “ r ” dùng để chuyển giá trị thời gian của tiền đồng thời dùng làm độ đo giới hạn để xét sự đáng giá của dự án đầu tư nên có vị trí rất quan trọng đối với việc đánh giá dự án đầu tư. Muốn xác định chính xác tỷ suất “r” của dự án cần phụ thuộc vào từng điều kiện cụ thể : Nếu vay vốn để đầu tư thì “ r ” là lãi suất vay Nếu vay từ nhiều nguồn khác nhau thì “ r ” lãi suất bình quân từ các nguồn vốn. Kí hiệu là Trong đó: IVk : số vốn từ các nguồn khác nhảy rk : lãi suất vay của các nguồn vốn n : số nguồn vốn vay Trong trường hợp đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác nhau ( vay dài hạn, vốn tự có, vốn cổ phần...)thì “ r ” là mức lãi suất bình quân của các nguồn vốn đó. Nếu vay theo những kỳ hạn khác nhau thì phải chuyển lãi suất đi vay về cùng một kỳ hạn ( thông thường theo năm ) Trong đó: rn : giá trị lãi suất theo năm rt : giá trị lãi suất theo các kỳ hạn khác ( tháng, quý, 6 tháng..) m: số kỳ hạn trong năm Nếu vốn đầu tư do ngân sách cấp thì tỷ suất “ r ” là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước quy định. Nếu chưa quy định thì lấy bằng lãi suất cho vay dài hạn của ngân hàng hoặc tốc độ lạm phát của nền kinh tế. Trường hợp cổ phần để đầu tư thì “ r ” là lợi tức cổ phần Nếu góp vốn liên doanh thì “ r ” là tỷ lệ lãi suất do các bên liên doanh thoả thuận Nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư thì “ r ” bao hàm cả tỷ lệ lạm phát và mức chi phí cơ hội. Trong đó: f : tỷ lệ lạm phát rcơ hội: tỷ lệ chi phí cơ hội 3.2.Nội dung phân tích tài chính của dự án đầu tư 3.2.1. Xác định tổng mức vốn đầu tư Tổng mức vốn đầu tư bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết để đưa dự án vào hoạt động. Tổng mức vốn này chia làm hai loại vốn cố định và vốn lưu động ban đầu ( hiện nay có thêm chi phí dự phòng ). ỹ Vốn cố định gồm có : Chi phí chuẩn bị ( chi phí cho quá trình thu thập số liệu, soạn thảo dự án đầu tư, thẩm định dự án...) Chi phí cho xây lắp và mua sắm thiết bị ( chi phí ban đầu về đất đai, chuẩn bị mặt bằng, giá trị nhà xưởng kết cấu hạ tầng, chi phí mua sắm thiết bị và chi phí khác..) ỹ Vốn lưu động ban đầu : Vốn sản xuất : Chi phí nguyên vật liệu, điện, nước... Vốn lưu thông : Thành phẩm tồn kho, sản phẩm dở dang, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền... Yêu cầu: - Tổng vốn đầu tư cần được dự tính theo các giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư, căn cứ vào độ thực hiện đầu tư, các công việc chủ yếu trong phân tích kỹ thuật. - Xác định nguồn tài trợ cho dự án và khả năng đảm bảo vốn từ mỗi nguồn về mặt số lượng và tiến độ. - Huy động vốn cho dự án phải đảm bảo đủ về số lượng, đúng về thời hạn cần bỏ vốn, mức lãi suất có thể chấp nhận của dự án. - Về các nguồn huy động cho dự án phải đảm bảo tính pháp lý, cơ sở thực tiễn. 3.2.2.Lập các báo cáo tài chính cho từng năm cũng như cả đời dự án Báo cáo tài chính giúp cho chủ đầu tư thấy được tình hình hoạt động tài chính của dự án và nó là nguồn số liệu giúp cho việc tính toán phân tích các chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính của dự án Thông thường với một dự án đầu tư thường có các loại báo cáo tài chính sau: Dự tính doanh thu từ hoạt động của dự án ( bao gồm doanh thu do bán sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phế liệu...) và cung cấp dịch vụ cho bên ngoài. Doanh thu dự án được tính cho từng năm hoạt động của dự án và dựa vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng năm để xác định. Biểu mẫu: Chỉ tiêu Năm hoạt động 1 2 ..... n A.Doanh thu từ sản phẩm chính B.Doanh thu từ sản phẩm phụ C.Doanh thu từ phế liệu, phế phẩm D.Dịch vụ cung cấp cho bên ngoài Tổng doanh thu chưa có VAT Dự tính chi phí sản xuất:Chỉ tiêu này dự tính cho từng năm hoặc cả đời dự án. Tính chi phí dựa trên kế hoạch sản xuất, kế hoạch khấu hao và kế hoạch trả nợ của dự án. Chỉ tiêu Năm hoạt động 1 2 ... n 1.Nguyên vật liệu 2.Nửa thành phẩm và dịch vụ mua ngoài 3.Nhiên liệu 4.Năng lượng 5.Nước 6.Tiền lương 7.Bảo hiểm xã hội 8.Chiphí bảo dưỡng máy móc thiết bị 9.Khấu hao 10.Chi phí phân xưởng 11.Chi phí quản lý 12.Chi phí ngoài sản xuất 13.Lãi vay tín dụng 14.Chi phí khác Tổng cộng chi phí Dự tính mức lỗ lãi của dự án:Trên cơ sở dự tính về doanh thu và chi phí người ta tiến hành tính lỗ lãi hàng năm của dự án. Đây là chỉ tiêu quan trọng vì nó phản ánh kết quả hoạt động sản xuất dịch vụ trong từng năm của đời dự án. Chỉ tiêu Năm hoạt động 1 2 .... n 1.Tổng doanh thu chưa có VAT 2.Các khoản giảm trừ 3.Doanh thu thuần (1-2) 4.Tổng chi phí sản xuất 5.Tổng lợi nhuận trước thuế (3-4) 6.Thuế thu nhập doanh nghiệp 7.Lợi nhuận thuần sau thuế ( 5-6) Bảng dự trù cân đối kế toán: Nó mô tả tình hình tài chính hoạt động kinh doanh của dự án thông qua cân đối tài sản và nguồn vốn hoạt động trong từng năm hoạt động của dự án nó giúp cho chủ đầu tư phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính của dự án. Chỉ tiêu Năm hoạt động 1 2 ... n Tài sản A.Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn I.Tiền II.Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn III.Các khoản phải thu IV. Hàng tồn kho V.Tài sản lưu động khác VII.Chi phí sự nghiệp B.Tài sản cố định- đầu tư dài hạn I.Tài sản cố định II.Đầu tư dài hạn Tổng cộng tài sản Nguồn vốn A.Nợ phải trả I.Nợ ngắn hạn II.Nợ dài hạn III.Nợ khác B.Nguồn vốn chủ sở hữu I.Nguồn vốn, quỹ II.Nguồn vốn kinh phí Tổng cộng nguồn vốn 3.2.3.Nhóm chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính của doanh nghiệp a/ Các chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp Hệ số vốn tự có so với vốn đi vay. Hệ số này phải lớn hơn hoặc bằng 1. Đối với dự án có triển vọng hiệu quả thu được là rõ ràng thì hệ số này có thể nhỏ hơn 1 vào khoảng 2/3 thì dự án thuận lợi. Tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn đầu tư phải lớn hơn 50%. Đối với các dự án có triển vọng và hiệu quả rõ ràng thì tỷ số này có thể chỉ chiếm 40% là chấp nhận được. Như vậy hai chỉ tiêu trên nói lên tiềm lực tài chính đảm bảo cho dự án thực hiện thuận lợi. b/ Nhóm chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án ỹ. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần: Wi =Oi - Ci Chỉ tiêu lợi nhuận thuần được tính cho từng năm hoặc từng giai đoạn hoạt động của đời dự án. Chỉ tiêu này có tác dụng so sánh giữa các năm hoạt động của dự án và để tính chỉ tiêu lợi nhuận thuần, lợi nhuận bình quân cho cả đời dự án. Trong đó: Oi : là doanh thu thuần năm i Ci : là chi phí sản xuất ở năm i bao gồm tất cả các khoản có liên quan đến sản xuất kinh doanh ở năm i: chi phí quản lý, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí quản lý hành chính, chi phí khấu hao, chi phí trả lãi vốn vay, chi phí khác.... Chỉ tiêu lợi nhuận thuần từng năm có tác dụng so sánh quy mô lãi giữa năm của chính dự án đó không có tác dụng so sánh giữa các dự án. Để so sánh giữa các dự án phải sử dụng chỉ tiêu tổng lợi nhuận thuần hoặc lợi nhuận bình quân từng năm hoặc từng giai đoạn của đời dự án. Trong đó: Wi : Lợi nhuận thuần năm i ở thời điểm năm i Wipv : Lợi nhuận năm i ở thời điểm hiện tại r : Tỷ suất chiết khấu Để đánh giá đầy đủ quy mô lãi của cả đời dự án trong phân tích tài chính thường sử dụng chỉ tiêu thu nhập thuần. ỹ.Thu nhập thuần của dự án Thu nhập thuần của dự án là thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi các khoản chi phí của cả đời dự án. Bởi vậy chỉ tiêu này bao gồm không chỉ tổng lợi nhuận thuần từng năm của cả đời dự án mà còn bao gồm cả giá trị thu hồi thanh lý tài sản cố định ở năm cuối đời dự án và các khoản thu hồi khác.Nói cách khác thu nhập thuần của dự án là mức chênh lệch giữa tổng đầu tư của dự án và toàn bộ chi phí cần thiết để xây dựng, vận hành dự án và các chi phí khác của chủ đầu tư liên quan tới khai thác dự án quy về mặt bằng hiện tại Cũng như chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án thường được tính chuyển về mặt bằng hiện tại ký hiệu là NPV (Net present value). Chỉ tiêu này phản ánh quy mô lãi của dự án ở mặt bằng hiện tại ( đầu thời kỳ phân tích), giá trị hiện tại của thu nhập thuần còn được gọi là hiện giá thu nhập thuần. NPV= =-Iv0 + + Trong đó : NPV : lợi nhuận của dự án sau thuế Bi : là các khoản thu năm thứ i. Nó có thể là doanh thu năm thứ i, giá trị thanh lý TSCĐ ở các thời điểm trung gian (khi các tài sản hết tuổi thọ theo quy định) và ở cuối đời dự án, VLĐ bỏ ra ban đầu và thu về ở cuối đời dự án. Ci : khoản chi phí năm i. Nó có thể là chi phí vốn đầu tư ban đầu để tạo ra TSCĐ và TSLĐ ở thời điểm đầu và tạo ra TSCĐ ở các thời điểm trung gian, chi phí hằng năm của dự án (gồm cả các loại thuế và lãi vay, không tính khấu hao). n : đời của dự án. r : lãi suất chiết khấu được lựa chọn (thường được dùng là chi phí vốn) Chi phí sử dụng vốn phản ánh tỷ lệ lãi tối thiểu mà người cung cấp vốn đầu tư yêu cầu. Iv0 : là VĐT ban đầu(gồm cả chi phí đầu tư thay thế,vận hành,bảo dưỡng) SV : giá trị thu hồi thanh lý tài sản ở cuối đời dự án bao gồm cả VLĐ bỏ ra ban đầu. Chỉ tiêu giá trị hiện tại của thu nhập thuần được xem là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá DAĐT. Dự án được chấp nhận khi NPV 0. Khi đó tổng các khoản thu của dự án tổng các khoản chi phí sau khi đưa về mặt bằng hiện tại. Ngược lại dự án không được chấp nhận khi NPV< 0. Chỉ tiêu NPV còn được sử dụng như tiêu chuẩn tốt nhất để lựa chọn các dự án loại trừ nhau. *Ưu điểm: Phản ánh đầy đủ các khía cạnh của chi phí và kết quả của dự án. NPV của dự án được biểu hiện bằng một đại lượng tuyệt đối, cho phép đánh giá được quy mô lợi ích của dự án. *Nhược điểm: NPV chỉ mới là đại lượng tuyệt đối, không phản ánh được mức sinh lãi của dòng vốn đầu tư (tức là tỉ lệ sinh lời). Có thể một dự án có NPV nhỏ hơn NPV của một dự án khác nhưng hiệu quả tương đối (lợi nhuận thu được từ một đồng vốn đầu tư vào dự án) lại cao hơn. Độ tin cậy của NPV phụ thuộc vào khả năng lựa chọn lãi suất chiết khấu r. Khi r thay đổi thì NPV thay đổi. Dự án thường phải chọn những khoản chi phí lớn trong những năm đầu, khi vốn đầu tư được thực hiện, và các lợi ích (thu nhập) chỉ xuất hiện trong những năm sau, khi dự án đi vào hoạt động. Bởi vậy khi lãi suất tăng giá trị hiện tại của dòng thu nhập sẻ giảm nhanh hơn giá trị hiện tại của chi phí và do đó NPV sẽ giảm xuống. Khi r vượt qua một mức nào đó, NPV sẽ chuyễn từ dương sang âm. Do vậy NPV không phải là tiêu chuẩn tốt nếu không xác định được r thích hợp. Trong khi đó việc xác định r là một vấn đề khó khăn. c/ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư hay hệ số hoàn vốn(RR-return rate): Hệ số hoàn vốn nói lên mức độ thu hồi vốn đầu tư ban đầu từ lợi nhuận thu hồi được hàng năm. Chỉ tiêu này được tính như sau: -Nếu tính cho từng năm hoạt động RRi= Trong đó: Wipv: lợi nhuận thu được năm thứ i tính theo mặt bằng hiện tại. RRi : có tác dụng so sánh giữa các năm của đời dự án. -Nếu tính bình quân năm của đời dự án Trong đó : lợi nhuận thuần bình quân năm của đời dự án theo mặt bằng hiện tại có tác dụng dùng để so sánh giữa các dự án. phải cao hơn lãi suất gửi ngân hàng mới khuyến khích người có tiền đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong thực tế (trong nghiên cứu tiền khả thi) để tính người ta có thể lấy lợi nhuận thuần của một năm hoạt động ở mức trung bình trong đời dự án và áp dụng công thức giản đơn (không xét yếu tố thời gian của tiền) sau đây: = Trong đó: W : lợi nhuận thuần năm hoạt động trung bình của đời dự án. Ivo: vốn đầu tư ban đầu của dự án d/ Chỉ tiêu tỷ số lợi ích-chi phí (B/C-Benefits-cost ration) : Chỉ tiêu lợi ích-chi phí được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra.Lợi ích và chi phí của dự án có thể tính về thời điểm hiện tại hoặc thời điểm tương lai. Việc quy về thời điểm tương lai để tính chỉ tiêu này ít được sử dụng. Bởi vậy, chỉ tiêu B/C thường được xác định theo công thức sau: Trong đó: B: các khoản lợi ích thu được từ dự án C: các khoản chi phí của dự án r: tỷ suất chiết khấu của dự án Chỉ tiêu B/C được sử dụng để đánh giá dự án đầu tư. Dự án được chấp nhận khi B/C1. Khi đó, tổng các khoản thu của dự án đủ để bù đắp các chi phí bỏ ra của dự án và dự án có khả năng sinh lời. Ngược lại, nếu B/C < 1 dự án bị loại bỏ. Bản chất của chỉ tiêu cho biết thu nhập được tạo ra từ một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu B/C được sử dụng như một tiêu chuẩn trong so sánh lựa chọn các phương án đầu tư. Song vì là một tiêu chuẩn đánh giá tương đối nên việc sử dụng chỉ tiêu B/C có thể dẫn tới sai lầm khi so sánh lựa chon các dự án loại trừ nhau. Nên chỉ tiêu này chỉ được sử dụng để xem xét chứ không được dùng như một tiêu chuẩn đánh giá để lựa chọn dự án. e/ Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời nội bộ (Internal Rate of Return-IRR) Chỉ tiêu này còn được gọi là suất thu lợi nội tại, tỷ suất nội hoàn, suất thu hồi nội bộ.Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi, tức là: hay: Trong đó: Bi: các khoản thu năm i của dự án Ci: các khoản chi năm thứ i của dự án IRR là một chỉ tiêu cơ bản trong phân tích tài chính dự án. Nó cho biết mức lãi suất tối đa mà dự án có thể đạt được. Bởi vậy chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá dự án. Dự án được chấp nhận khi IRRr giới hạn. Dự án không được chấp nhận khi IRR<r giới hạn. r giới hạn có thể là lãi suất đi vay nếu dự án vay vốn đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do Nhà nước quy định nếu dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cấp, có thể là chi phí cơ hội nếu dự án sử dụng vốn tự có để đầu tư. Các cách tính IRR Sử dụng chương trình vi tính có phần mềm tính toán. Thử dần các giá trị chiết khấu vào vị trí r trong công thức tính đến khi cho kết quả đúng đó chính là IRR cần tìm. Xác định IRR thông qua đồ thị. Xác định chỉ tiêu IRR bằng phương pháp nội suy: tức là phương pháp xác định một giá trị cần tìm giữa hai giá trị đã chọn. Theo phương pháp này cần tìm hai tỷ ._.suất chiết khấu r1 và r2 (r2> r1) sao cho tương ứng với r1 ta có NPV1>0; ứng với r2 ta có NPV2<0. IRR cần tìm (ứng với NPV=0) sẽ nằm giữa hai tỷ suất chiết khấu r1và r2. Việc nội suy giá trị thứ ba(IRR) giữa hai tỷ suất chiết khấu trên được thực hiện theo công thức sau: IRR= r1+(r2-r1) Trong đó: r2>r1 và r2-r15% NPV1 > 0 gần 0, NPV2 < 0 gần 0 *Ưu điểm: Thuận lợi trong tính toán, không gặp phải khó khăn đối với việc lựa chọn lãi suất chiết khấu r như NPV. Phản ánh được tỷ lệ sinh lời của bản thân dự án và tạo cơ sở thuận lợi cho việc đánh giá, lựa chọ dự án( so sánh giữa các dự án với nhau, so sánh với lãi suất Ngân hàng, với chi phí vốn yêu cầu). *Nhược điểm: Có thể có dự án không tồn tại bất kỳ IRR nào (khi lợi ích thuần (Bi-Ci) trong tất cả các năm của dự án đều dương) hoặc ngược lại, âm đủ lớn vào các năm sau thời kỳ đầu tư ban đầu do những khoản đầu tư thay thế, những biến cố bất thường...) gây khó khăn cho việc đánh giá dự án. Có thể dẫn đến các quyết định không đúng trong việc so sánh, lựa chọn các loại dự án loại trừ nhau. f/ Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư ( The payback period-T) Thời gian thu hồi vốn đầu tư là thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chính là khoảng thời gian để hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng các khoản lợi nhuận thuần hoặc tổng lợi nhuận thuần và khấu hao thu hồi hằng năm. Thời gian thu hồi vốn đầu tư từ lợi nhuận thuần và khấu hao cho phép thấy được một cách đầy đủ khả năng thu hồi vốn. Với việc tính chỉ tiêu này, người đầu tư phải quan tâm lựa chọn phương thức và mức độ khấu hao hằng năm làm sao vừa để không làm cho giá thành quá cao, vừa kịp thời thu hồi đủ vốn đầu tư trước khi kết thúc đời kinh tế cuả dự án hoặc trước khi thiết bị máy móc lạc hậu về mặt kỷ thuật. Phương pháp xác định thời gian thu hồi vốn đầu tư: Thời gian thu hồi vốn đầu tư theo phương pháp cộng dồn được thực hiện như sau: →≥ Ivo Trong đó: T: năm thu hồi vốn đầu tư D: khấu hao Thời gian thu hồi vốn đầu tư tính theo phương pháp trừ dần như sau: Ivi : vốn đầu tư phải thu hồi năm thứ i (W+D)i : khoản thu hồi lợi nhuận thuần và khấu hao năm i. : số vốn đầu tư còn lại chưa thu hôi được năm i, phải chuyễn sang năm (i+1) để thu hồi tiếp. Ta có Ivi+1= i(1+r) hay Ivi=i-1(1+r) Khi i0 thì i đT. Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định theo phương pháp cộng dồn hoặc trừ dần xét về bản chất chỉ là một. *Ưu điểm: Thể hiện thời gian thu hồi lại số vốn đã bỏ ra đầu tư. T càng nhỏ càng tốt, vì vốn đầu tư mau chóng thu hồi sẽ được tái đầu tư và T càng nhỏ hạn chế được mức độ rủi ro trong điều kiện cạnh tranh gay gắt ngày nay. T là phương pháp có độ tin cậy cao vì T thường là những năm đầu khai thác dự án, mức độ bất trắc ít hơn những năm sau. Các số liệu dự báo đối với các năm đầu có độ tin cậy cao hơn nư năm sau. Nó được sử dụng nhiều để thẩm định. *Hạn chế: Không xét đến những thu nhập lớn sau thời kỳ T. Đôi khi một dự án có T lớn nhưng những thu nhập về sau lại cao hơn( làm cho NPV, RR...) cao hơn thì vẫn có thể là một dự án tốt. T phụ thuộc vào r, nếu r càng lớn thì T càng lớn, và ngược lại. Do vậy, cũng một dự án chọn r khác nhau sẽ dẫn đến T khác nhau. g/ Chỉ tiêu điểm hoà vốn Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ trang trải các khoản chi phí bỏ ra. Tại điểm hoàn vốn tổng doanh thu bằng tổng chi phí do đó tại đây dự án không có lãi cũng không bị lỗ. Bởi vậy chỉ tiêu này cho biết khối lượng sản phẩm hoặc mức doanh thu thấp nhất cần phải đạt của dự án để đảm bảo bù đắp chi phí bỏ ra. Điểm hoà vốn đựơc biểu hiện bằng chỉ tiêu hiện vật ( sản lượng hoà vốn) hoặc chỉ tiêu giá trị ( doanh thu hoà vốn). Nếu sản lượng doanh thu của dự án lớn hơn mức đó thì dự án có lãi và ngược lại. Đối với một dự án chỉ tiêu điểm hoà vốn càng nhỏ càng tốt , mức độ an toàn của dự án càng cao, thời hạn thu hồi càng ngắn. Các phương pháp xác định điểm hoà vốn: +Phương pháp đại số: Nhằm tìm ra công thức lý thuyết xác định điểm hoà vốn, mối quan hệ giữa điểm hoà vốn với các yếu tố có liên quan. Từ đó giúp chúng ta có các biện pháp tác động vào các yếu tố đó trong quá trình quản lý thực hiện dự án nhằm làm cho điểm hoà vốn nhỏ nhất. Theo phương pháp này gọi: X: tổng số sản phẩm bán được suốt đời dự án x: số sản phẩm bán được tại điểm hoà vốn p: giá một đơn vị sản phẩm bán được bình quân cả đời dự án v: biến phí cho một đơn vị sản phẩm f: tổng định phí cho cả đời dự án Doanh thu dự án tại điểm hoà vốn là: Y1=x.p Chi phí tại điểm hoà vốn là: Y2=x.v+f Do doanh thu và chi phí bằng nhau tại điểm hoà vốn: Y1=Y2 ↔x.p = x.v+f Từ đó ta có: Đây là công thức xác định điểm hoà vốn theo đơn vị hiện vật Từ đó ta có công thức điểm hoà vốn tính theo giá trị: Trong đó: x: số sản phẩm bán được tại điểm hoà vốn p: giá một đơn vị sản phẩm bán được bình quân cả đời dự án v: biến phí cho một đơn vị sản phẩm f: Tổng định phí cho cả đời dự án Nếu dự án có nhiều loại sản phẩm ta có công thức tính : Trong đó: xi: số sản phẩm loại i bán được tại điểm hoà vốn pi: giá một đơn vị sản phẩm loại i bán được bình quân cả đời dự án vi: biến phí cho một đơn vị sản phẩm loại i fi: tổng định phí cho cả đời dự án của sản phẩm loại i +Phương pháp đồ thị: Lập hệ trục toạ độ, trục hoành biểu diễn số lượng sản phẩm, trục tung biểu diễn chi phí hoặc doanh thu do bán sản phẩm. Vì điểm hoà vốn là điểm ở đó doanh thu bằng chi phí nên điểm hoà vốn chính là giao điểm của đường biểu diễn doanh thu và đường chiphí. Thực tế tuỳ theo mục tiêu khi phân tích mà người ta có các điểm hoà vốn sau: ỹ Điểm hoà vốn lý thuyết ( điểm hoà vốn lỗ lãi) công thức xác định chúng như đã trình bày trên nhưng chỉ khác ở chỗ tổng định phí được tính cho một năm của đời dự án Trong đó: x: số sản phẩm bán được tại điểm hoà vốn p: giá một đơn vị sản phẩm bán được bình quân cả đời dự án v: biến phí cho một đơn vị sản phẩm f: tổng định phí cho cả đời dự án ỹ Điểm hoà vốn tiền tệ ( điểm hoà vốn hiện kim) là điểm mà tại đó dự án bắt đầu có tiền để trả nợ vay kể cả dùng khấu hao, cách xác định tương tự nhưng định phí phải trừ đi khấu hao. Trong đó: x: số sản phẩm bán được tại điểm hoà vốn p: giá một đơn vị sản phẩm bán được bình quân cả đời dự án v: biến phí cho một đơn vị sản phẩm f: tổng định phí cho cả đời dự án D: khấu hao của dự án ỹ Điểm hoà vốn trả nợ là điểm hoà vốn mà tại đó dự án có tiền để trả nợ vốn vay đồng thời có thể đóng thuế thu nhập. Trong công thức tính phải cộng thêm nợ gốc và thuế thu nhập vào định phí. Trong đó: x: số sản phẩm bán được tại điểm hoà vốn p: giá một đơn vị sản phẩm bán được bình quân cả đời dự án v: biến phí cho một đơn vị sản phẩm f: tổng định phí cho cả đời dự án D: khấu hao của dự án N: nợ gốc phải trả T: thuế phải nộp 3.2.4.Đánh giá độ an toàn của dự án đầu tư Đầu tư là một quá trình kéo dài và các kết quả của đầu tư cũng có thời gian hoạt động dài nên tất yếu chịu sự tác động của nhiều yếu tố bất định mà khi lập dự án chưa chắc dự tính được hết do đó việc đánh giá độ an toàn của dự án là điều hết sức cần thiết sau khi đã đánh giá các chỉ tiêu tài chính cơ bản của dự án. Đánh giá độ an toàn của dự án là một căn cứ quan trọng để đánh giá tính khả thi của dự án. Độ an toàn của dự án thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: An toàn về vốn An toàn về khả năng thanh toán nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và khả năng trả nợ Độ nhạy của dự án a/ An toàn về vốn Độ an toàn về vốn xem xét thông qua các vấn đề: Các nguồn vốn huy động phải được đảm bảo không chỉ đủ về số lượng mà còn phải phù hợp tiến độ cần bỏ vốn. Tính đảm bảo về pháp lý và trên cơ sở thực tiễn của các nguồn vốn huy động. Xem xét các điều kiện cho vay vốn, hình thức thanh toán và trả nợ vốn. Ngoài ra việc huyđộng vốn còn cần đảm bảo tỷ lệ hợp lý giữa nguồn vốn tự có( bao gồm cả vốn cổ phần và liên doanh) và vốn đi vay( tỷ lệ này đảm bảo ≥ 1). b/ An toàn về khả năng thanh toán Một số chỉ tiêu được dùng để tính khả năng an toàn về nghĩa vụ tài chính và khả năng trả nợ là: ỹKhả năng thanh toán nợ hiện hành :Tỷ lệ này phải ≥ 1 và đựơc xem xét cụ thể cho từng ngành nghề kinh doanh. ỹ Khả năng trả nợ của dự án:Tỷ lệ khả năng trả nợ của dự án được so với mức chuẩn quy định và tỷ lệ này phải đạt được mức quy định. c/Phân tích độ nhạy của dự án Là xem xét sự thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án khi các yếu tố có liên quan thay đổi. Phân tích độ nhạy có ý nghĩa giúp cho chủ đầu tư biết dự án nhạy cảm với yếu tố nào để có các biện pháp quản lý chúng trong quá trình thực hiện dự án; đồng thời giúp chủ đầu tư lựa chọn dự án có độ an toàn cao cho các kết quả tính toán. Có 3 phương pháp dùng trong phân tích độ nhạy của dự án: Phương pháp 1:Phân tích ảnh hưởng của từng yếu tố có liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính tìm ra yếu tố nào gây nên sự nhạy cảm lớn của chỉ tiêu hiệu quả xem xét. Xác định yếu tố có liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả xem xét. Tăng giảm mỗi yếu tố theo một tỷ lệ % nhất định và tính lại chỉ tiêu hiệu quả. Đo lường % thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính xem xét yếu tố nào làm cho chỉ tiêu hiệu quả thay đổi nhiều nhất sẽ là đối tượng dự toán nhạy cảm. Phương pháp 2: Phân tích ảnh hưởng đồng thời của các yếu tố trong các tình huống tốt xấu khác nhau đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính để xem xét độ an toàn cho các kết quả tính toán. Phương pháp 3: Lần lựơt cho các yếu tố liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính thay đổi trong giới hạn thị trường chấp nhận, người đầu tư và nhà quản lý chất lượng ứng với mỗi sự thay đổi ta có một phương án lần lượt cho các yếu tố thay đổi ta có một loạt các phương án căn cứ vào điều kiện cụ thể của thị trường , nhà đầu tư ta lựa chọn phương án tối ưu. 3.2.5.Phân tích dự án trong trường hợp có nhiều rủi ro Rủi ro là điều hay xảy ra trong kinh doanh đặc biệt là trong hoạt động đầu tư, rủi ro có thể là sự thay đổi cơ chế, chính sách hay sự biến động bất thường của thị trường... Do đó hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và đầu tư nói riêng cần xem xét các yếu tố rủi ro này để có biện pháp phòng ngừa hợp lý. a.Theo phương pháp xác xuất : thông qua việc tính các chỉ tiêu kỳ vọng của các biến cố để lựa chọn phương pháp tối ưu Trong đó: EV (expected value): mức độ trung bình của các biến cố qi : xác suất biến cố i pi : giá trị biến cố i Phương án có EV lớn hơn sẽ đựơc chọn Phương pháp điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận trong trường hợp có rủi ro như sau: Trong đó: IRRd/a: tỷ suất lợi nhuận đã điều chỉnh rgh : tỷ suất giới hạn q : xác suất rủi ro b. Phân tích dự án trong trường hợp có trượt giá và lạm phát: Trượt giá và lạm phát là hai yếu tố khách quan tác động đến các khoản thu chi và mức lãi suất thực tế của dự án. Bởi vậy để đánh giá đúng hiệu quả tài chính của dự án trong trường hợp có trượt giá và lạm phát cần phải tiến hành theo các bước sau: Tiến hành điều chỉnh các khoản thu chi của dự án theo tỷ lệ % trựơt giá nhằm phản ánh đúng các khoản thu,chi thực tế của dự án. Tiến hành điều chỉnh r theo tỷ lệ lạm phát theo công thức: Trong đó: r : tỷ suất chiết khấu đã loại trừ lạm phát rlf : tỷ suất chiết khấu có lạm phát f : tỷ lệ lạm phát Tiến hành điều chỉnh các khoản thu chi của dự án theo tỷ lệ % trượt giá nhằm phản ánh đúng các khoản thu chi của dự án. Loại trừ lạm phát ra khỏi tỷ suất chiết khấu theo công thức: Trong đó: r : tỷ suất chiết khấu đã loại trừ lạm phát rlf: tỷ suất chiết khấu có lạm phát f : tỷ lệ lạm phát 3.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả phân tích tài chính một dự án đầu tư 3.3.1.Các nhân tố chủ quan: Là các nhân tố tồn tại trong nội bộ đơn vị, do hành động của đơn vị tạo ra có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả phân tích tài chính dự án. Bao gồm: a/Phương pháp tính Phương pháp tính là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến kết quả của việc phân tích dự án đầu tư vì mỗi sự thay đổi nhỏ trong cách tính một chỉ tiêu có thể ảnh hưởng đến kết quả tính toán của toàn bộ dự án. Ví dụ tính các chỉ tiêu tài chính theo phương pháp giản đơn nghĩa là bỏ qua giá trị thời gian của tiền( cách làm trước đây) một dự án là có hiệu quả nhưng nếu tính theo phương pháp có chiết khấu tức là có tính giá trị thời gian của tiền thì các phương án có thể không còn đạt hiệu quả. Ngay cả việc tính khấu hao TSCĐ nếu dùng theo các phương pháp khác nhau có thể ảnh hưởng rất lớn đến giá trị lợi nhuận sau thuế .Các doanh nghiệp thường thích khấu hao theo phương pháp DB (declining balance-khấu hao với số dư giảm dần) vì như vậy thuế phải nộp nhiều trong những năm đầu khi lợi nhuận chưa cao nhưng lại giảm được thuế cho các năm tiếp theo. Bên cạnh đó lựa chọn các chỉ tiêu tính toán cũng cần phải có sự phù hợp với nội dung của dự án với tình hình thực tế của đơn vị mới tạo ra kết quả cao cho quá trình tính toán. Như vậy có thể khẳng định phương pháp tính có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của một quá trình phân tích tài chính dự án đầu tư nên các đơn vị khi tiến hành tính toán phải đặc biệt coi trọng yếu tố này. b/ Đội ngũ cán bộ Dù các chỉ tiêu có tốt đến đâu thì cuối cùng vẫn do con người tính toán nên nhân tố con người cũng có ảnh hưởng quyết định đến kết quả đánh giá tài chính. Việc phân tích các chỉ tiêu hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng, hiểu biết, đạo đức của đội ngũ cán bộ tham gia đánh giá dự án. Kinh nghiệm đúc kết trong quá trình làm việc cũng ảnh hưởng đến kết quả tính toán và công việc có thể tiến hành nhanh chóng có hiệu quả nhờ vào việc tích luỹ kinh nghiệm tính toán của các cán bộ. Muốn một quá trình đánh giá đạt kết quả tốt phản ánh khách quan về dự án cần có một đội ngũ cán bộ có chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm, kỷ luật tốt và cũng phải có phẩm chất đạo đức nếu không rất có thể do ý kiến chủ quan người đánh giá có thể dùng nhiều cách làm khả thi một dự án thực chất không có hiệu quả làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện dự án sau này. c/ Thông tin được cung cấp Thông tin đựơc coi là một nhân tố đầu vào quan trọng của một quá trình phân tích tài chính vì mọi công việc đánh giá đều phải dựa trên thông tin được cung cấp do đó nếu việc cung cấp thông tin không đầy đủ và chính xác sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của dự án. Kết quả phân tích có độ chính xác không cao, không phản ánh đầy đủ khách quan về dự án sẽ ảnh hưởng đến kết quả đầu tư. Hiện nay muốn có một hệ thống thông tin đầy đủ không chỉ là việc tìm kiếm thông thường mà cần phải tổ chức các cuộc điều tra có quy mô để phản ánh chính xác các nhân tố có liên quan đến dự án. Nếu có sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước để hình thành mạng lưới thông tin quốc gia thì rất tiện cho các doanh nghiệp hiện nay. Nếu các doanh nghiệp tự bỏ kinh phí đi điều tra thường rất lớn không phải đơn vị nào cũng có khả năng nhưng nhà nước có thể tổ chức điều tra bán kết quả cho các đơn vị như vậy các tổ chức cũng có lợi mà nhà nước có thể an tâm về tính hiệu quả của các dự án được phân tích dựa trên các thông tin chính xác đó. d/ Trang thiết bị Tuy chỉ là một yếu tố phụ trợ nhưng máy móc trang thiết bị cũng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến độ công tác đánh giá và đảm bảo cho kết quả tính toán có độ chính xác cao. Hiện nay trong các cơ quan doanh nghiệp hầu hết có hệ thống máy tính được nối mạng thông tin trong quá trình tính toán có liên quan đến dự án có thể chia sẻ cho mọi người giảm thời gian công sức khi phải đến từng phòng chức năng xin tài liệu khi quá trình đánh giá cần dùng đến. Hơn nữa các kết quả tính toán được tính bằng máy cán bộ chỉ phải nhập dữ liệu vào luôn cho kết quả chính xác cao thuận tiện hơn nhiều so với việc tính thủ công thông thường. Song không phải cứ có thiết bị hiện đại là kết quả tính toán sẽ tốt, thực tế cho thấy chỉ cần máy móc thông thường nhưng các cán bộ biết khai thác hết khả năng của nó cho công việc của mình thì kết quả vẫn tốt lại giảm chi phí không cần thiết cho máy móc hiện đại đắt tiền. e/ Tổ chức điều hành Tất cả các công tác, không chỉ có việc phân tích tài chính muốn hoạt động có hiệu quả thì công tác tổ chức, quản lý là hết sức cần thiết. Tổ chức điều hành giúp cho quá trình hoạt động được vận hành tốt theo đúng một trật tự thống nhất đảm bảo cho việc tính toán đựơc thực hiện theo đúng quy trình và phối hợp hoạt động của các nhân viên được thuận lợi. Nếu công tác quản lý yếu kém thì tổ chức hoạt động rời rạc, nhiệm vụ không rõ ràng thì các nhân viên sẽ không thể hiện tinh thần trách nhiệm của mình trong hoạt động dẫn đến sự chậm trễ trong công tác, không linh hoạt trước các yêu cầu của dự án. Muốn công tác tổ chức điều hành có kết quả tốt phải có cán bộ điều hành có kinh nghiệm, có tinh thần trách nhiệm, phải có phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng cán bộ trong dây chuyền hoạt động giúp liên kết các cá nhân thành một tập thể thống nhất tạo điều kiện cho công tác được thuận lợi. 3.3.2.Nhân tố khách quan: Là các nhân tố tồn tại bên ngoài nhưng tác động đến hoạt động phân tích tài chính của dự án đầu tư bao gồm cả các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô cũng như vi mô có thể đem lại các tác động khác nhau đến dự án. Các nhân tố này thường rất bất thường doanh nghiệp không biết trước tác động của nó và cũng không kiểm soát được chỉ có thể đưa ra các biện pháp để đối phó khi xảy ra. Thông thường các tác động này thường có tác động tiêu cực đến kết quả tính toán của dự án. a/Biến động bất thường Một dự án thừơng bao gồm rất nhiều yếu tố như đầu vào, đầu ra của dự án. Các yếu tố này luôn có liên quan trực tiếp đến thị trường chịu sự tác động của quy luật thị trường nên tất yếu dự án và công tác đánh giá tài chính cũng chịu sự tác động này. Một sự thay đổi trong giá đầu vào sản phẩm là ảnh hưởng đến chi phí của dự án; một sự giảm sút trong nhu cầu sản phẩm tác động ngay đến phương án tiêu thụ dẫn đến sự tác động vào doanh thu dự án cuối cùng sẽ tác động đến kết quả phân tích tài chính dự án. Do đó để đối phó với tình huống này trong khi lập dự án thường có nhiều phương án khác nhau, mỗi phương án tương ứng với một trường hợp cụ thể. Phân tích tài chính cũng có phân tích độ nhạy để đánh giá dự án trong tình huống có sự rủi ro tuy không thể chính xác tuyệt đối nhưng cũng có thể giảm rủi ro tối đa cho dự án. b/Hệ thống pháp luật Như đã biết mọi công cuộc đầu tư đều phải chịu sự quản lý của các cơ quan nhà nước mà công cụ trực tiếp là hệ thống pháp luật do đó đây là yếu tố có ảnh hưởng đến dự án và cả khâu phân tích tài chính của dự án. Nếu dự án thuộc dạng khuyến khích đầu tư mức thuế khác nhau sẽ tác động đến chi phí và lợi nhuận của dự án khi phân tích, chế độ quy định về tiền lương, bảo hiểm cho người lao động thay đổi ( như tăng mức lương tối thiểu lên 290.000 VND) cũng ảnh hưởng đến chi phí từ đó tác động đến kết quả phân tích của dự án. Một hệ thống pháp luật rõ ràng ổn định có vai trò quan trọng tạo cơ hội tốt cho các nhà đầu tư và ngược lại một hệ thống luật pháp kém ổn định sẽ hạn chế đầu tư ảnh hưởng đến kết quả của các dự án. c/ Do yêu cầu của công tác Trong nhiều trường hợp kết quả phân tích sẽ có thay đổi lớn nếu có sự can thiệp của các cơ quan chức năng. Để muốn duy trì hoạt động của một cơ quan nào đó, tạo việc làm cho người lao động có thể dự án không có hiệu quả về tài chính các cán bộ vẫn phải tìm cách đẩy các chỉ tiêu lên để đạt mức khả thi tối thiểu. Đây là thực tế thừơng gặp phải với các công ty của nhà nước nhiều công ty làm ăn kém hiệu quả nhưng các dự án đầu tư vẫn được chấp nhận nên khi đưa vào thực hiện thường tạo ra lãng phí lớn như các dự án mía đường, hay cầu vượt quốc lộ 5.... Như vậy trong điều kiện thực tế mọi hoạt động đầu tư và công tác phân tích tài chính dự án luôn chịu tác động của nhiều nhân tố cả chủ quan lẫn khách quan nên đòi hỏi công tác phân tích luôn phải tự đổi mới để đảm bảo tính hiệu quả của công tác phân tích và các cơ quan chức năng cũng cần có các biện pháp giúp các đơn vị chủ động hơn trong công tác của mình tạo điều kiện cho sự ra đời của nhiều dự án có hiệu quả. Việc phân tích tài chính đang đăt ra câu hỏi cho nhiều đơn vị chính trong đó có Công ty Tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp vì thế đề tài này sẽ chọn và trình bày một phương thức đổi mới trong công tác phân tích tài chính tại công ty đã áp dụng để công tác này có hiệu quả hơn trong chương tiếp theo đây về thực trạng phân tích dự án đầu tư tại Công ty Tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp. I.Giới thiệu về công ty Tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp 1.Sự hình thành và phát triển của công ty Công ty Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp ( tên giao dịch quốc tế là INDUSTRIAL AND MINING CONSULTING COMPANY viết tắt là IMCC ) là một đơn vị thành viên, hạch toán độc lập trong Tổng công ty than Việt Nam gồm các đơn vị phụ thuộc có quan hệ mật thiết về lợi ích kinh tế, tài chính , hoạt động tư vấn xây dựng, nghiên cứu xây dựng, thông tin , đào tạo, dịch vụ. Trụ sở chính của công ty đặt tại Km9 đường Nguyễn Trãi- Thanh Xuân -Hà Nội tiền thân là Viện nghiên cứu mỏ, được thành lập theo Quyết định 1139/BCNNS-KB ngày 22/9/1965 của bộ Công nghiệp, nhằm tập trung chuyên môn hoá hoạt động tư vấn xây dựng để thực hiện nhiệm vụ chung của tổng công ty than Việt Nam giao, đáp ứng yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình công ty không có sự thay đổi lớn về chức năng nhiệm vụ nhưng có sự thay đổi về tên gọi qua các giai đoạn Viện quy hoạch thiết kế Than ( 6/10/1969) Viện quy hoạch kinh tế và thiết kế than trên cơ sở sát nhập Viện kinh tế năng lượng của bộ vào Viện quy hoạch và thiết kế Than. Công ty khảo sát và thiết kế Than ( trên cơ sở hợp nhất Viện quy hoạch kinh tế và thiết kế than với công ty khảo sát và thiết kế Than ) Công ty quy hoạch và thiết kế Mỏ. Công ty tư vấn xây dựng Mỏ và Công nghiệp. Sau khi thành lập Tổng công ty Than, để tăng tính cạnh tranh Tổng công ty thành lập thêm trung tâm Tư vấn đầu tư Than, đến năm 2000 Trung tâm được sát nhập vào công ty Tư vấn Xây dựng mỏ và công nghiệp và đổi thành tên hiện nay là Công ty Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp. 2.Chức năng nhiệm vụ của công ty Công ty có nhiệm vụ hoạt kinh doanh tư vấn xây dựng theo quy chế của nhà nước theo quy hoạch, kế hoạch của Tổng công ty than Việt Nam bao gồm : Nghiên cứu và lập các đề án cho các công trình mỏ và một số công trình công nghiệp khác Khảo sát, thí nghiệm và lập các báo cáo khảo sát Tư vấn về đấu thầu và hợp đồng kinh tế Trung tâm lưu trữ hồ sơ và dữ liệu sản xuất kinh doanh trong ngành than Thẩm định các dự án đầu tư, thiết kế và tổng dự toán các công trình trong và ngoài nước Quản lý dự án, tổng thầu thiết kế và quản lý dự án Đánh giá tài sản cố định, thiết bị sản phẩm, lập tổng quyết toán các công trình xây dựng Tư vấn về đầu tư nước ngoài Xây dựng thực nghiệm các công trình điện đến 35KV và các công trình dân dụng khác Tư vấn về xuất nhập khẩu dây chuyền công nghệ Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ sản xuất Thực hiện các nghiệp vụ tư vấn khác 3.Bộ máy tổ chức Công ty hoạt động theo mô hình giám đốc là người đứng đầu chỉ đạo các hoạt động của công ty, tiếp đó là ba phó giám đốc quản lý ba mảng công tác của công ty là kỹ thuật, kế hoạch, tổ chứ hành chính và một kế toán trưởng chịu trách nhiệm quản lý mảng tài chính doanh nghiệp. Giám đốc cũng là người quản lý trực tiếp với các phòng ban chức năng của công ty với các nhiệm vụ khác nhau được thể hiện qua sơ đồ sau: Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Kế toán trưởng Phòng kỹ thuật Phòng mặt bằng đội khảo sát Phòng giám sát thiết kế Phòng tin học Phòng kế hoạch Phòng tổ chức hành chính xí nghiệp dịch vụ tổng hợp và xây dựng Xí nghiệp thiêt kế hòn gai Phòng địa chất môi trưòng Phòng kinh tế mỏ Phòng xây dựng Phòng điện Phòng cơ tuyển Phòng lộ thiên Phòng hầm lò Phòng tài chính kế toán Sơ Đồ bộ máy tổ chức công ty 4.Tình hình hoạt động của công ty thời gian qua 4.1.Vốn của đơn vị Là một công ty thành lập theo quyết định của Nhà nứơc theo đề xuất của Tổng công ty Than Việt Nam nên đây là một công ty nhà nước hoạt động dựa trên hai nguồn vốn cơ bản là vốn của nhà nước cấp và vốn tự huy động là vốn do kết quả hoạt động để lại, khấu hao, góp của cán bộ công nhân...nhưng chủ yếu là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra. Cũng như các công ty nhà nước khác hiện nay là vốn nhà nước cấp và hoạt động sản xuất để lại không đủ cho nhu cầu nên đơn vị phải huy động từ nguồn khác đó là vay tín dụng thương mại để tiến hành các hoạt động của công ty. Bảng 1: Cơ cấu vốn của công ty Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Vốn ngân sách cấp 4.569,323 4.580,886 4.579,835 4.630,447 Vốn tự bổ sung 342,959 708,659 771,658 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2000,2001,2002 4.2.Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Đối với mọi công ty luôn phải tìm các giải pháp để nâng cao kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh công ty Tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp cũng không nằm ngoài quy luật đó nhất là trong điều kiện hiện nay công ty phải cạnh tranh với nhiều công ty, đơn vị khác cũng hoạt động trong lĩnh vực tư vấn. Nhiều năm qua công ty luôn tìm các biện pháp để nâng cao chất lượng công tác tư vấn của mình để thu hút nhiều hơn khách hàng đến với đơn vị và điều đó thể hiện qua nhiều dự án công ty tham gia tư vấn hiện nay hoạt động bước đầu đều có kết quả tốt như các dự án quy hoạch vùng than Cẩm Phả, Uông Bí, Thiết kế nâng cao công suất mỏ Mạo Danh, lập dự án đầu tư mỏ Cọc Sáu.... chính vì vậy trong các năm qua công ty hoạt động có hiệu quả thể hiện: Bảng 2: Báo cáo kết quả hoạt động của công ty Đơn vị: Triệu đồng Năm Chi phí Doanh thu Lãi - lỗ 2000 12,480.282 12,513.732 33.450 2001 11,251.172 11,141.103 110.069 2002 18,030.069 18,082.440 52.371 2003 19,516.623 19,583.965 67.342 Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2003 Để hiểu hơn về cách thức đổi mới trong hoạt động của công ty chúng ta hãy nghiên cứu nét đổi mới trong quy trình phân tích tài chính của doanh nghiệp. II.Các loại hình dự án tại công ty tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp 1.Các loại hình dự án tại công ty Công ty tham gia tư vấn lập dự án chủ yếu là các dự án có liên quan đến các mỏ mặc dù trong chức năng nhiệm vụ công ty có nhiều lĩnh vực công ty có thể tham gia. Với các dự án mỏ mà công ty thực hiện khá đa dạng từ việc tư vấn mua sắm máy móc, trang thiết bị cho mỏ nhằm nâng cao năng lực sản xuất hoặc tư vấn xây dựng hệ thống vận tải, nhà xưởng... hoặc có thể tư vấn đầu tư khai thác một mỏ mới, đầu tư cải tạo môi trường mỏ... nên qua quá trình hoạt động thực tế công ty chia các dự án tại đơn vị làm ba loại hình chính: 1.1.Dự án đầu tư mới hoặc cải tạo một mỏ Đây là loại dự án đầu tư mới hoàn toàn một mỏ mới phát hiện hoặc một mỏ cũ đang khai thác sắp hết muốn tiến hành đầu tư khai thác thêm tại mỏ đó. Thông qua các biện pháp như đào sâu thêm, kéo dài hầm nếu là mỏ hầm lò hoặc mở rộng vỉa nếu là mỏ than lộ thiên. Trong hình thức phân loại này cũng bao gồm các dự án quy hoạch vùng than như dự án quy hoạch vùng than Cẩm Phả mà công ty tham gia lập dự án năm 2003. Các dự án quy hoạch là các dự án có độ phức tạp cao nhất vì nó là một chuỗi các mỏ khác nhau có liên quan đến môi trường khai thác chung của cả một vùng than nên đòi hỏi phải có nhiều biện pháp xử lý kết hợp. Về bản chất các dự án trong loại hình này có thể coi là các dự án đầu tư theo chiều rộng vì nó chỉ đơn thuần khai thác một mỏ mới, nâng công suất mỏ cũ thông qua khai thác một vùng than khác mà không tiến hành nâng cao công suất hoạt động của mỏ hiện tại. 1.2.Dự án đầu tư công trình(hạng mục công trình) mỏ hoặc dự án mua sắm thiết bị Đây là dự án thường có quy mô nhỏ và đơn giản hơn loại dự án thứ nhất vì nó chỉ liên quan đến một phần trong tổng thể chung của một mỏ. Đây là hoạt động đầu tư nâng cấp để tăng thêm hiệu quả của mỏ thông qua đầu tư nâng cấp hệ thống vận tải ngoài để giảm chi phí cho vận chuyển, nâng cấp hệ thống xưởng chế biến than tại chỗ... và các dự án mua sắm thiết bị các loại tức là các thiết bị cho mỏ than để nâng cao hiệu quả hoạt động của mỏ. Trong loại này như đã thấy cũng có một số dự án có tính chất là nâng cấp mỏ nhưng do không phải là các dự án nâng cấp toàn bộ hoặc đầu tư không quá lớn lên đều xếp vào loại này. Thực chất đây chính là hình thức đầu tư theo chiều sâu vì hoạt động này không nâng cấp năng lực của mỏ thông qua đầu tư mở rộng địa bàn khai thác mà tập trung vào nâng cao năng lực hoạt động của dây chuyển sẵn có, cải tiến kỹ thuật nhằm tăng doanh thu, xây dựng hệ thống vận tải nhằm giảm chi phí sản xuất từ đó tác động đến loại nhuận của dự án. 1.3.Dự án đầu tư cải tạo môi trường mỏ Đây là loại các dự án thuộc về lĩnh vực đầu tư “phi lợi nhuận” . Như đã biết do đặc thù ngành khai thác nên môi trường ngành than luôn phải đối diện với tình hình gặp phải rất nhiều loại ô nhiễm khác nhau như ô nhiễm không khí, nguồn nước, chất thải... nên đầu tư cải tạo môi trường mỏ là đòi hỏi tất yếu của các mỏ.Đây là loại dự án đặc biệt đó là không tạo ra lợi nhuận cho chủ đầu tư chủ yếu chỉ có ý nghĩa về mặt xã hội nhưng đều phải đầu tư để giữ vững cân bằng chung của môi trường. 2.Tác dụng của phân loại dự án đầu tư Việc công ty phân loại dự án đầu tư của mình để thuận tiện cho công tác quản lý nói chung và công tác phân công nhiệm vụ nói riêng. Thông qua phân loại dự án để bố trí công việc cho các đơn vị trong công ty; ví dụ nếu đó là dự án đầu tư mới mỏ hầm lò thì giao cho phòng hầm lò lập thiết kế, nếu là dự án môi trường thì giao cho phòng môi trường lập thiết kế để tránh chồng chéo, rõ ràng trong trách nhiệm lập dự án. Tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này chỉ xem xét vấn đề có liên quan đến phân tích tài chính vì vậy sẽ chỉ trình bày các tác dụng của phân loại với công tác phân tích tài chính dự án đầu tư đó là: 2.1.Tiết kiệm nguồn lực Như đã trình bày công ty tham gia tư vấn cho nhiều đơn vị với các quy mô dự án khác nhau. Đội ngũ cán bộ của phòng kinh tế mỏ không phải tất cả đều là các cán bộ có nhiều kinh nghiệm thực tế ( ví dụ như các cán bộ trẻ mới về phòng, các cán bộ không từng học chuyên môn kinh tế...) nên nếu tất cả các dự án đều tập trung cho các cán bộ có kinh nghiệm thực hiện tất cả các công đoạn sẽ rất mất thời gian mà lại lãng phí nguồn lực. Do đó phân loại này để xác định với các dự án nhỏ, đơn giản._.ính rõ ràng, minh bạch cho kết quả phân tích và hoàn toàn có tính pháp lý. Tỷ lệ chiết khấu tính toán theo đúng quy định với việc sử dụng tỷ lệ chiết khấu bình quân khi tính nếu nguồn vốn của dự án được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu nguồn vốn của công ty chỉ có hai nguồn là vốn tự có và vốn đi vay tín dụng thì công ty sử dụng lãi suất vay làm tỷ suất chiết khấu nghĩa là coi chi phí cơ hội vốn đầu tư đúng bằng lãi suất vay như vậy cũng chấp nhận được nếu lãi suất vay và lãi suất gửi tiền không quá cách xa nhau( đúng cho hiện tại) như vậy vẫn đảm bảo tính chính xác của tỷ suất chiết khấu khi tính kết quả. b/ Với công tác phân tích tài chính theo loại hình dự án nói riêng: Qua quá trình phân tích trên ta thấy công tác phân tích tài chính theo loại hình dự án tại công ty có các ưu điểm sau: Do đã có sự phân loại dự án đầu tư trước khi tính toán các chỉ tiêu tài chính nên quá trình thực hiện phân tích tài chính một số dự án có thuận lợi và nhanh chóng hơn. Như trong hai ví dụ đã trình bày thì chỉ có dự án thuộc nhóm phân loại I ( Dự án nâng cấp mỏ than Kế Bào ) là có tiến hành tính toán đầy đủ các chỉ tiêu tài chính như NPV, IRR ... còn với dự án loại II ( Dự án đầu tư mua sắm thiết bị mỏ than Đèo Nai ) thì chỉ dừng lại với việc tính giá trị lỗ lãi đơn thuần. Tạo điều kiện cho việc thu thập xử lý thông tin thuận lợi hơn, tạo điều kiện công tác cho cán bộ trẻ. Trong dự án nâng cấp mỏ than Kế Bào , dự án được phân loại có độ khó cao hơn nên cử 2 cán bộ đã công tác tại công ty hơn 10 năm tham gia thu thập và xử lý số liệu cho tính toán, chủ nhiệm đề tài là trưởng phòng Th.s Nguyễn Tiến Chỉnh đóng vai trò trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Với dự án mua sắm máy móc cho mỏ than Đèo Nai cán bộ thu thập thông tin là một người có thời gian công tác 10 năm và một cán bộ trẻ về công ty năm 2001 , chủ nhiệm đề tài là phó phòng kinh tế mỏ. 5.2.Những hạn chế còn tồn tại 5.2.1.Những vấn đề còn tồn tại Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá quá trình tính toán các chỉ tiêu tài chính là công ty đảm bảo các yêu cầu cơ bản của một quá trình phân tích nhưng vẫn còn một số hạn chế còn tồn tại trong quá trình phân tích. Việc tìm ra những hạn chế còn tồn tại này để có thể tìm biện pháp khắc phục chính là công việc công ty cần làm nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án trong điều kiện cạnh tranh hiện nay. a/ Với công tác phân tích tài chính nói chung: Nhìn chung việc phân loại dự án như công ty đang tiến hành có thể thuận tiện cho phân tích riêng lẻ từng dự án, thuận tiện cho đội ngũ cán bộ của công ty khi làm việc, cho công tác tổ chức cán bộ của đơn vị nhưng lại khó khăn hơn cho khách hàng và các tổ chức khác khi việc thẩm định, xem xét các dự án của công ty khi mà việc tính toán các dự án là khác nhau và không theo một quy tình thống nhất. Cách lấy tỷ suất chiết khấu lãi vay làm tỷ suất chiết khấu của nguồn vốn tự có khi tính tỷ suất chiết khấu của dự án trong trường hợp có hai nguồn vốn là vốn vay và vốn chủ sở hữu chỉ đúng trong trường hợp nguồn vốn tự có chiếm tỷ lệ không quá lớn hoặc không có nhiều nguồn vốn nếu không phải tính theo phương pháp tỷ trọng và sử dụng chi phí cơ hội với vốn tự có để đảm bảo tính xác thực của dự án. Trong phương pháp tính các chỉ tiêu doanh thu và chi phí các thông số đầu vào, đầu ra như giá bán sản phẩm đều được mặc định với mặt bằng lúc tính toán mà trong quá trình phân tích không đề cập đến biến động giá như vậy chưa phản ánh chính xác doanh thu chi phí trong điều kiện biến động có thể ảnh hưởng đến dự án. Việc tính toán này được công ty lý giải là giá than trên thị trường hầu như ổn định trong nhiều năm qua nên không cần tính đến phương pháp có biến động giá, mặt khác công ty cho rằng có hai phương pháp tính một là theo giá biến động và một là theo mặt bằng giá cố định thì công ty lựa chọn phương án hai để tính toán. Các dự án đầu tư mua máy móc thiết bị và các dự án môi trường như đã giới thiệu thường chỉ tính các chỉ tiêu đơn giản hoặc không tính đến hiệu quả tài chính như dự án môi trường như vậy sẽ không chính xác nếu các dự án có vốn đầu tư lớn, nên tính toán đầy đủ các chỉ tiêu hiệu quả là cần thiết. Việc đơn giản hoá các chỉ tiêu chỉ nên áp dụng trong điều kiện dự án đơn giản và vốn đầu tư không lớn. Trong các chỉ số mà dự án dùng trong phân tích tài chính dự án chỉ là các chỉ tiêu hết sức cơ bản như NPV, IRR mà chưa thấy các chỉ số khác như các chỉ tiêu về điểm hoà vốn( điểm hoà vốn lý thuyết, tiền tệ...), độ nhạy cũng chưa được tính toán trong dự án.Việc phân tích độ nhạy cho thấy khả năng biến động của dự án khi các thông số đầu vào, đầu ra thay đổi nên rất cần thiết cho việc phân tích tài chính dự án. Ngoài các nhân tố có liên quan trực tiếp đến tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án thì cũng có thể thấy một số vấn đề khác tồn tại có liên quan đến quá trình phân tích mà ta cũng cần chỉ ra để xem xét đó là vấn đề lao động và các yếu tố khác quan khác: Cán bộ công ty dù đã rất cố gắng trong hoạt động phân tích nhưng do chủ yếu là các cán bộ từ các chuyên ngành khác chuyển sang làm kinh tế nên vẫn còn những khó khăn là họ chủ yếu tính theo mẫu có sẵn trong một số trường hợp dự án đa dạng áp dụng cứng nhắc có thể đưa đến sai lầm nhất định như việc tính lãi suất bình quân của dự án, đều mặc định coi lãi suất ngân hàng là tỷ suất chiết khấu của nguồn vốn tự có. Do sự thúc ép của khách hàng và nhiều nhân tố khác nhằm “giữ khách” trong điều kiện nhiều đơn vị cạnh tranh với công ty trong việc tư vấn lập dự án như hiện nay công ty nhiều khi chỉ đạo cán bộ phân tích tài chính phải nâng cao kết quả của các chỉ tiêu tài chính để dự án nào đó có thể có tính khả thi cao để được Tổng công ty phê duyệt thực hiện muốn như vậy trong quá trình tính toán công ty phải nâng cao một số khoản doanh thu hoặc giảm một số khoản chi phí của dự án tuy phân tích thì không bị tác động nhiều nhưng nếu đưa vào thực hiện có thể ít nhiều ảnh hưởng đến dự án. b/ Với công tác phân tích tài chính theo loại hình dự án nói riêng: Công tác phân loại dự án chưa có tiêu chuẩn nhất định: Nhiều năm qua việc phân loại dự án đầu tư chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thực tế của cán bộ và điều kiện dự án để phân loại . Nhưng có khi phát sinh những trường hợp dự án thuộc loại II nhưng giá trị đầu tư lớn hơn một số dự án loại I như vậy nếu chỉ tính những chỉ tiêu đơn giản dẫn đến kém chính xác trong kết quả phân tích dự án. Tạo ra “cạnh tranh” ngay trong đơn vị: Dự án được phân cho từng nhóm cán bộ thực hiện mà lương cán bộ hưởng theo quy mô dự án dẫn đến tình trạng nhiều người muốn tham gia dự án loại I ( vì quy mô vốn lớn ) , không thích tham gia dự án nhóm II dẫn đến tình trạng cạnh tranh ngay trong phòng ban làm giảm tinh thần công tác của cán bộ. Gây khó khăn cho công tác quản lý: Trong cùng một phòng ban lúc có nhiều dự án khác nhau phân ra làm nhiều nhóm thực hiện dù muốn hay không cũng gây khó khăn nhất định cho công tác quản lý hoạt động của cán bô trong phòng. 5.2.2.Nguyên nhân của những tồn tại trên Việc tìm ra nguyên nhân để có thể đưa ra các biện pháp khắc phục làm cho hoạt động của công ty có hiệu quả hơn là rất cần thiết và có ý nghĩa nhằm hoàn thiện hơn công tác phân tích tài chính của công ty.Việc có những hạn chế trên là có thể chỉ ra từ một số nguyên nhân sau: a/ Nguyên nhân chủ quan ỹ Phương pháp phân tích: Hiện nay công ty đang phân tích hiệu quả tài chính dự án theo tiêu chuẩn của UNIDO. Tuy nhiên trong quá trình tính việc công ty không đưa lãi vay vào chi phí sản xuất kinh doanh trong khi dự án của công ty có tỷ trọng lớn là vốn đi vay ( thường hơn 60%) như vậy là chưa hợp lý. Việc dùng khấu hao để tính thuế thu nhập doanh nghiệp sau đó lại bỏ ra để tính không có khấu hao các khoản thu, chi của dự án là không cần thiết mà có thể để luôn khấu hao vừa là khoản thu vừa là khoản thu của dự án. ỹ Đội ngũ cán bộ : Nhân tố con người có ý nghĩa quan trọng với việc tính các chỉ tiêu trong phân tích tài chính. Nhân sự của phòng kinh tế mỏ chủ yếu tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế của đại học Mỏ địa chất hoặc các chuyên ngành khác chứ chưa có cán bộ được đào tạo theo đúng chuyên ngành đầu tư. Vẫn biết quá trình làm có thể tích luỹ kinh nghiệm song nếu có cán bộ chuyên ngành kết hợp với đội ngũ cán bộ hiện có thì công việc có thể hoàn thành với kết quả tốt hơn. ỹ Thông tin: Trong quá trình phân tích thì thông tin có một vai trò đặc biệt quan trọng. Như đã trình bày hoạt động phân tích hiệu quả tài chính chỉ là một khâu nhỏ trong quy trình lập dự án đầu tư tại công ty. Việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả hoàn toàn dựa trên các kết quả kỹ thuật đã được thông qua ở các giai đoạn trước đó nên nếu vì một lý do nào đó mà các thông tin đầu vào không chính xác thì việc tính toán sẽ không có kết quả cao. Việc trực tiếp đi thu thập thông tin tại các mỏ là do các đơn vị trong cơ quan công ty tự thực hiện.Vì việc thu thập số liệu này là do các phòng ban thu thập độc lập nên các số liệu này thường không đồng nhất và chưa phản ánh đúng thực tế sẽ có thể làm ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Công ty chưa có một phòng ban nào chính thức đảm nhận việc thu thập số liệu chung cho toàn công ty mà cứ tính toán có liên quan đến phòng nào thì phòng đó tự tìm số liệu, tính xong lại chuyển cho phòng khác như vậy khi đến tay phòng kinh tế là mắt xích cuối cùng trong dây chuyền tính toán thì kết quả đã sai khác khá nhiều và khó khẳng định và tìm ra sai sót từ khâu nào trong dây chuyền này. Chính thực tế này không cho phép phản ánh chính xác rủi ro tiềm ẩn trong quá trình thực hiện dự án có thể nảy sinh bất kỳ ảnh hưởng xấu đến dự án. Ngoài sử dụng thông tin của đơn vị mình tự tìm kiếm công ty cũng sử dụng cả thông tin từ phía Tổng công ty than và đơn vị thuê tư vấn cung cấp nên nếu vì một lý do nào đó mà thông tin này không chính xác có thể tạo ra sự sai lệch trong kết quả tính toán. Thông tin thu thập được như đã nói chủ yếu là thông tin từ nhiều nguồn khác nhau nhưng sau khi có được công ty thường sử dụng luôn mà không có công tác phân loại, thống kê lại số liệu và tiến hành xử lý nên các thông tin này không đảm bảo độ đồng nhất khi dùng làm số liệu tính toán.Như vậy bên cạnh hạn chế trong thu thập thông tin thì xử lý thông tin cũng là hạn chế còn tồn tại ở công ty. ỹ Trang thiết bị phục vụ tính toán: Trong nhiều công tác nếu có sự hỗ trợ từ máy móc thiết bị thì sẽ giảm nhẹ khối lượng công việc cần tính toán của đơn vị hơn. Trước đây để tính độ nhạy của một dự án đầu tư cán bộ công nhân của công ty thường phải sử dụng vài tập giấy để tính và việc tính tay mất rất nhiều thời gian và có thể còn tạo ra nhầm lẫn. Hiện nay tuy công ty đã trang bị máy tính cho phòng xong chủ yếu chỉ dùng cho tính toán đơn giản chưa thực sự khai thác được triệt để tính năng của máy tính. Trong lĩnh vực đầu tư có rất nhiều phần mềm hỗ trợ tính toán và cơ sở dự liệu rất tốt nhưng đơn vị vẫn chưa có chính sách với vấn đề này thể hiện ở chỗ quản lý dự án, tính toán tiến độ vẫn dùng các bản vẽ tính toán qua EXCEL mà chưa dùng đến các chương trình quản lý hiệu quả như Microsotf Project rất hiệu quả trong sắp xếp công tác; việc tính toán công ty thường lặp lại nhưng chưa dùng đến chương trình quản lý cơ sở dữ liệu như Acess mà chủ yếu là “cắt”-“dán” trong EXCEL... Một mặt khác không thể phủ nhận là trình độ của một số cán bộ công ty phần nào đó chưa tiếp ứng được với việc sử dụng máy móc trong tính toán cần phải tiến hành đào tạo thêm. ỹ Tổ chức hoạt động tính toán Như đã nói trên phòng tài chính của công ty các cán bộ có năng lực đảm nhận hoàn chỉnh một dự án không nhiều, trưởng phòng thường xuyên được điều động làm chủ nhiệm các dự án nên việc phân công công tác không phải không có khó khăn nhất định. Nhiều cán bộ tham gia vào nhiều dự án cùng lúc nên khối lượng công việc lớn có thể làm ảnh hưởng đến tiến độ chung của các dự án. Do dự án là kết quả tính toán chung của nhiều phòng ban nên nếu một phòng ban tổ chức hoạt động không tốt tất yếu là ảnh hưởng đến các dự án khác và ảnh hưởng đến các phòng ban tiếp sau đó trong dây chuyền hoạt động của công ty . Điều này thể hiện trên một phương diện nào đó các phòng ban có tính chất phụ thuộc khá cao. b.Nguyên nhân khách quan ỹ Hệ thống pháp lý: Khi chuyển đổi nền kinh tế không tránh khỏi những thay đổi trong hệ thống pháp lý có ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Sự thay đổi trong các quy chế về thuế, cách tính khấu hao ảnh hưởng không ít đến kết quả tính toán của dự án. Việc thay đổi trong chế độ kế toán cũng có tác động đến dự án khi cán bộ công ty vừa quen với cách tính này thì đã có sự thay đổi thành một cách tính khác. Bên cạnh đó như đã nói hệ thống phân tích tài chính công ty áp dụng là do tự đội ngũ cán bộ công ty đúc kết từ thực tế và tìm tòi mà hình thành chưa có một chuẩn mực thống nhất từ phía nhà nước cũng ảnh hưởng nhất định việc phân tích tại công ty. ỹ Các nhân tố khác quan khác: Một dự án nhiều khi được công ty thẩm định là có kết quả không cao cùng lắm là hoà vốn nhưng do một số điều kiện nhất định như có sự chỉ đạo từ cấp trên hoặc muốn tạo việc làm cho người lao động đơn vị vẫn phải tìm cách để hợp thức hoá giúp các dự án này có thể được chấp nhận đầu tư nên có thể tạo ra các dự án không có hiệu quả kinh tế cao mà chỉ có hiệu quả về mặt xã hội. Như vậy có thể nói dù đã có nhiều cố gắng song trong quá trình thực hiện hoạt động phân tích tài chính dự án công ty cũng gặp không ít khó khăn tồn tại cần khắc phục để hoạt động của đơn vị có hiệu quả hơn trong thời gian tới và có thể có nhiều khách hàng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Vì vậy trong chương tới của đề tài xin đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn công tác phân tích tài chính tại Công ty Tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp. I.Một số mục tiêu của công ty trong thời gian tới: Giai đoạn sắp tới đối với công ty là một thời kỳ quan trọng với nhiều nhiệm vụ đặt ra nhằm hoàn thiện hoạt động của đơn vị như: 1.Với toàn đơn vị Thực hiện thống nhất tổ chức hoạt động toàn công ty theo quy trình liên kết giữa các phòng ban nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong công tác tư vấn của đơn vị. Chuẩn hoá hoạt động các phòng ban trong công ty với mục tiêu đạt chứng chỉ ISO 9002 về tiêu chuẩn chất lượng của hoạt động tư vấn. Thành lập phòng chuyên trách về nhiệm vụ thu thập thông tin cho toàn đơn vị để đảm bảo tính thống nhất trong quá trình tính toán. Nếu có thể sớm xúc tiến bộ phận Marketing của đơn vị với vai trò chuyên tìm kiếm các hợp đồng trong các lĩnh vực hoạt động khác mà đơn vị được phép tham gia như xây dựng, điện dân dụng nhằm tạo thêm việc làm cho cán bộ, giảm áp lực cạnh tranh khi hiện nay công ty chỉ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tư vấn đầu tư mỏ. Tiếp tục tổ chức đào tạo thêm cho cán bộ công ty và tiếp nhận một số cán bộ mới về đơn vị. 2.Với phòng kinh tế mỏ Thực hiện tốt các chủ trương và nhiệm vụ công ty giao cho phòng. Hoàn thiện quy trình tính toán các chỉ tiêu kinh tế, tài chính của đơn vị. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ và nhận thêm một số cán bộ trẻ về phòng ( quý II năm 2004 nhận thêm 4 cán bộ ). II.Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty 1.Phân loại các dự án trước khi phân tích Việc phân loại dự án hiện nay chủ yếu là theo cảm tính, theo thực tế mà phân loại không phải theo quy chuẩn nhất định. Việc phân loại này thực tế ảnh hưởng đến việc tính toán các chỉ tiêu taì chính của dự án như đã trình bày ở trên. Trong một số trường hợp việc phân loại như vậy là được nhưng có một số trường hợp nếu đầu tư mua máy móc thiết bị để nâng cao công suất cho một mỏ lớn có thể vốn đầu tư lớn hơn cho một mỏ trung bình-nhỏ nhưng lại không tính các chỉ tiêu hiệu quả có thể làm ảnh hưởng đến tính chính xác của kết quả tính toán. Như vậy xin kiến nghị công ty nên phân loại dự án theo quy mô vốn. Nếu dự án có mức vốn lớn hơn một mức nhất định thì sẽ xếp vào loại cần tính toán đầy đủ các chỉ tiêu hiệu quả, còn không có thể giản bớt các chỉ tiêu khi phân tích nhưng vẫn cần trình bày tóm tắt kết quả để cho các đơn vị khác khi theo dõi thuận tiện hơn. Với các dự án môi trường đúng là việc tính toán chỉ tiêu hiệu quả tài chính là rất phức tạp và có thể là không cần thiết nhưng khi đó đơn vị nên thay thế bằng một số chỉ tiêu kinh tế khác như chỉ tiêu về kinh tế xã hội; có thể về mặt tài chính không có nhiều ý nghĩa nhưng vẫn cho thấy tính khả thi của phương án được trình bày. 2.Về hệ thống thông tin cung cấp cho phân tích Nền kinh tế càng phát triển thì các biến động nội tại của thị trường càng nhiều và có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên hệ thống thông tin cập nhật là rất cần thiết và phải thực hiện ngay ngoài việc để bổ sung cho các thông tin thiếu hụt trong quá trình phân tích dự án mà còn nhằm làm cho kết quả tính toán chi tiết và thực tế hơn. Muốn làm được điều này công ty cần tổ chức một hệ thống thông tin thống nhất cho toàn công ty với các thông tin được cập nhật liên tục bao gồm: Các thông tin vĩ mô: Về các chính sách của nhà nước như sự thay đổi trong các chính sách thuế, khuyến khích đầu tư, các chuẩn mực kế toán... Hệ thống thông tin thị trường: các vấn đề liên quan đến tiêu thụ như quy mô dân số, thu nhập của dân cư, chủ trương đầu tư các nhà máy mới, thay đổi giá cả của các mặt hàng thay thế ( như dầu, ga..), hay biến động của thị trường quốc tế... để đáp ứng tốt nhu cầu thị trường tăng khả năng các dự án. Thông tin cụ thể có liên quan đến dự án như đặc điểm tính chất của các máy móc thiết bị, các chủng loại máy mới của ngành với giá cả, công suất... từ đó tính toán đến các phương án đầu tư nâng cao công suất của dự án. Các thông tin về lĩnh vực tài chính: Vì vốn vay thường chiếm một tỷ trọng khá lớn trong nguồn vốn của các dự án ở công ty nên việc thường xuyên cập nhật thông tin về lãi suất là rất cần thiết. Công ty cũng cần chú ý thông tin về các nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức nhất là cho các dự án làm sạch môi trường vùng mỏ... hay tỷ giá hối đoái nếu công ty phải nhập khẩu máy móc thiết bị hay buôn bán với nước ngoài. Khi đã thu thập được các thông tin đó công ty không chỉ dừng lại ở việc lưu trữ mà phải tiến hành xử lý nó. Bằng các phương pháp thống kê và tính toán nhất định có thể phân loại các thông tin và đưa vào các kênh thông tin như thị trường giá cả, máy móc, tài chính... như vậy tiện dụng cho việc tính toán nói chung và phân tích tài chính nói riêng. Tuy việc thu thập thông tin này rất tốn kém nhưng cần thiết vì công ty chủ yếu lập dự án cho các đơn vị trong ngành than nên các thông tin có thể sử dụng cho nhiều loại dự án nên việc phân đều chi phí thông tin sẽ làm giảm chi phí cho việc thu thập thông tin đơn lẻ cho từng dự án. ỹ Về nguồn thông tin có thể thu thập từ: Các nguồn thông tin của các bộ ngành có liên quan như bộ tài chính, cục thuế, bộ kế hoạch đầu tư, đơn vị chủ quản ( Tổng công ty Than Việt Nam)... Nguồn thông tin từ báo chí, phát thanh, truyền hình.. đặc biệt hiện nay có một công cụ là mạng internet có thể cung cấp các thông tin bằng việc vào trực tiếp các trang Web của các công ty họ sẽ cung cấp thông tin về các sản phẩm của họ rất chi tiết và cũng có thể đặt hàng hoặc lấy cataloge qua mạng rất thuận tiện cho các loại dự án có liên quan đến mua sắm thiết bị. Thông qua báo cáo tổng điều tra được thực hiện cho thấy nhu cầu và giúp hình thành chiến lược sản phẩm với các dự án kéo dài.. Tóm lại mọi thông tin đều có thể tìm kiếm bằng nhiều cách khác nhau nhưng phải có công tác xử lý sau thu thập để đảm bảo tính chính xác và hợp lý của thông tin. Muốn thực hiện được điều này công ty cần đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng thống kê tốt và tận dụng tối đa các công cụ máy tính trong việc xử lý và lưu trữ dữ liệu. 3.Giải pháp về phương thức phân tích Khi có phương thức tính toán thống nhất tạo điều kiện cho việc phân tích đạt kết quả tốt. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay để có một phương pháp tính thống nhất trong khi nhà nước không có quy định cụ thể và mỗi đơn vị lại có cách tính riêng là rất khó khăn nên biện pháp trước mắt của công ty là hoàn thiện phương pháp tính hiện có: ỹ Về tỷ suất chiết khấu: Mọi dự án đầu tư thường diễn ra trong thời gian dài đặc biệt là các dự án đầu tư xây dựng như các dự án mỏ nên việc tính chính xác tỷ suất chiết khấu để quy đổi là rất cần thiết vì nếu tỷ suất chiết khấu càng cao thì NPV càng nhỏ và ngược lại. Hiện nay công ty sử dụng tỷ suất chiết khấu theo tỷ lệ nguồn vốn nhưng chỉ có hai nguồn vốn chính là vốn tự có và vốn vay tín dụng nên việc áp dụng lãi suất vay làm chi phí cho vốn tự có là chưa chính xác. Hiện nay mức tỷ suất lợi nhuận bình quân cho các đơn vị trong nền kinh tế chưa đựơc công bố rõ ràng nên công ty có thể dùng tỷ lệ lãi gửi hoặc lãi suất ổn định của lãi suất trái phiếu kho bạc nhà nước thì phản ánh chính xác hơn kết quả tính toán. Nếu tính như vậy thì ta có lãi suất dùng chiết khấu trong dự án mỏ than Kế Bào là : Rdự án= (8.05%*2922+8.64%*28049)/(2922+29049)=8.32%. Nếu sử dụng tỷ suất chiết khấu này để tính giá trị NPV của dự án thì ta có NPVmới= 8581.01 triệu đồng. Như vậy giá trị này lớn hơn giá trị NPVcũ=7559 triệu đồng như kết quả tính toán ở trên. Ngoài ra khi tính toán các chỉ tiêu kinh tế-tài chính mức lãi suất của công ty chưa phản ánh tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế.Việc sử dụng mặt bằng giá cố định làm cho việc tính toán trở nên đơn giản hơn nhưng chưa phản ánh được sự biến động của giá cả trên thị trường đó là yếu tố thực tế hiện nay. Nếu có tính giá trị lạm phát vào cách tính tỷ suất chiết khấu thì chúng ta có thể dùng công thức : để tính tỷ suất chiết khấu đặc biệt khi dự án có nguồn vốn tự có . Nếu lấy tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế hiện nay là 4% thì giá trị tỷ suất chiết khấu có tính đến yếu tố lạm phát sẽ là: rlf= (1+8.64%)* (1+4%) = 13% Khi tính đến yếu tố trượt giá của doanh thu là 5%, chi phí là 4% sử dụng tỷ suất chiết khấu mới là 13% thì khi tính lại NPVmới=557.43 triệu đồng nhỏ hơn rất nhiều so với giá trị khi chưa có trượt giá và lạm phát là NPV= 7559 triệu đồng như vậy xin kiến nghị công ty là trong quá trình tính các chỉ tiêu tài chính nên tính cả yếu tố trượt giá và lạm phát tức là dùng phương pháp phân tích động. ỹ Về chỉ tiêu NPV : Như đã trình bày chỉ tiêu này công ty tính không bao gồm yếu tố lãi vay trong chi phí nên các kết quả thường tốt hơn nếu sử dụng phương pháp tính có tính đến yếu tố lãi vay trong chi phí. Chính vì thế công ty chỉ nên lựa chọn dự án có NPV lớn hẳn hơn không và IRR lớn hơn rgiới hạn ít nhất là 50% thì tính hiệu quả thực tế mới lớn. Nếu trong các kết quả tính toán của công ty mà có tính đến yếu tố lãi vay như là một khoản chi phí thì giá trị NPV mới tính được là NPVmới=-227 triệu đồng, như vậy là dự án này không còn có hiệu quả nếu nguồn vốn dự án đi vay với tỷ lệ lớn như vậy. Do đó kiến nghị công ty là khi tính toán các chỉ tiêu tài chính phải đưa lãi vay vào như một khoản chi phí của dự án vì nếu khi dự án có hiệu quả cả khi phải thanh toán lãi vay thì mới đáng đầu tư. ỹ Các chỉ tiêu khác: Ngoài hai chỉ tiêu cơ bản trên công ty nên tính thêm các chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn để thấy tốc độ thu hồi vốn của dự án, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư để thấy mức sinh lời trên vốn của dự án khi so sánh các phương án đầu tư có quy mô vốn khác nhau, chỉ tiêu điểm hoà vốn để thấy số lượng than mà công ty đơn vị phải khai thác đển đảm bảo thu hồi vốn đầu tư và có thể có lãi. Theo tính toán dựa trên các số liệu của dự án thì dự án có thời gian thu hồi vốn khoảng 14 năm 2 ngày. Với thời gian của cả dự án chỉ có 18 năm mà tới năm thứ 14 mới thu hồi xong vốn đầu tư và chỉ có lãi thực sự trong 4 năm còn lại cho thấy đây không phải là dự án có hiệu quả cao. Tính toán độ nhạy: Việc tính toán độ nhạy chỉ được công ty thực hiện cho một số dự án quy mô vốn lớn như các dự án quy hoạch vùng, đầu tư mỏ lớn.. còn lại là không tính. Hiện nay khi có máy tính thì việc tính toán độ nhạy chỉ cần vài thao tác không cần nhiều thời gian và công sức nên công ty lên tính cho tất cả các dự án có tính hiệu quả tài chính để đảm bảo lường hết các khả năng có thể xảy ra với dự án để có hiệu quả cao hơn cho kết quả phân tích. Tính độ nhạy cho dự án mỏ than Kế Bào ta có kết quả sau: Chỉ tiêu thay đổi Giá ( Doanh thu ) Giá ( Doanh thu )- Chi phí Chi phí -3% +3% Giá -2% CF +2% Giá -1% CF +1% +1% +3% NPV IRR 926,395 9.02 % 14081.13 13.98 % -65.239 8.614% 3746.89 10.09% 5957.78 10.98% 2755.26 9.7% Như vậy theo kết quả tính toán trên ta thấy nếu các chỉ tiêu giá và chi phí sản xuất thay đổi theo chiều hướng không tốt thì chỉ có thể ảnh hưởng đến kết quả dự án khi mỗi chỉ tiêu thay đổi vượt quá 5%. Nếu cả hai cùng thay đổi thì khoảng từ 1-2% là có ảnh hưởng đến kết quả của dự án. Với ví dụ thứ hai ( dự án mua sắm máy móc cho mỏ than Đèo Nai) việc tính toán chỉ sử dụng phương pháp giản đơn( không tính đến giá trị thời gian của tiền) và việc tính tổng giá trị cộng dồn nên không phản ánh chính xác về kết quả. Kiến nghị công ty sử dụng tính toán có tính đến giá trị chiết khấu. Nếu các kết quả đó tính theo phương pháp có chiết khấu thì kết quả là: Lợi nhuận của phương án I là 15764 triệu đồng và phương án II là 17680 triệu đồng. Như vậy việc lựa chọn phương án II là vẫn thoả mãn. Như đã trình bày trong phần phân tích thực trạng về dự án mỏ than Đèo Nai trong chương hai đó là hai phương án đầu tư có quy mô vốn khác nhau lên không thể so sánh đơn thuần lợi nhuận thuần vì phương án II quy mô vốn lớn hơn nên có lợi nhuận lớn hơn là tất yếu. Xin kiến nghị công ty tính giá trị lợi nhuận trung bình trên một đơn vị vốn đầu tư như vậy phản ánh đúng hơn kết quả của phân tích tài chính. Theo kết quả tính toán thì lợi nhuận trên một đơn vị vốn đầu tư của phương án I là 0.20 triệu đồng trong khi phương án II có kết quả là: 0.289 triệu đồng. Vậy theo kết quả tính toán lại thì phương án II vẫn có hiệu quả hơn và lựa chọn là chính xác. Nếu trong loại dự án nào đó mà có hai phương án như dự án mỏ Đèo Nai mà hai phương án tạo ra cùng một doanh thu thì có thể tính toán đơn giản hơn bằng cách so sánh chi phí ( hoặc chi phí trên một đơn vị vốn đầu tư) nếu phương án nào có kế quả nhỏ hơn thì lựa chọn. Như trong ví dụ trên phương án II là kết quả được lựa chọn. 4.Giải pháp về máy móc và nhân lực Để có một đội ngũ cán bộ có trình độ cho công tác phân tích tài chính ( một khâu rất quan trọng trong quá trình lập dự án của công ty ) để đảm bảo đủ yêu cầu cho giai đoạn hiện nay và giai đoạn sắp tới đòi hỏi: Cán bộ công ty đặc biệt là phòng kinh tế phải có trình độ năng lực chuyên môn đáp ứng cho nhu cầu của công việc. Biết sử dụng thành thạo máy tính trong việc tính toán các chỉ tiêu phân tích và xử lý số liệu có liên quan. Phải có tác phong nhanh nhẹn, khẩn trương, có sáng tạo trong công việc, có khả năng làm việc độc lập nhưng cũng có thể làm việc theo nhóm có hiệu quả nếu công việc có yêu cầu. Để làm được việc này công ty có thể sử dụng một số biện pháp sau: Trang bị kiến thức cho cán bộ bằng việc gửi đi học thêm chuyên ngành tại các trường đại học, mời giảng viên và các cán bộ tài chính về giảng dạy và chỉ đạo các kiến thức cập nhật hay hướng dẫn tính toán theo quy chế mới ban hành của nhà nước... Tiếp nhận các cán bộ trẻ có năng lực và tiến hành các lớp để phổ biến kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ trẻ để họ có thêm kinh nghiệm có thể áp dụng kiến thức mới vào việc nâng cao chất lượng tính toán của công ty. Khuyến khích nghiên cứu, đổi mới trong công tác của đội ngũ cán bộ công nhân viên nhằm tìm ra các ý tưởng hay đưa vào thực tế hoạt động. Đảm bảo có chính sách và mức thưởng, phạt hợp lý nhằm động viên và khuyến khích đội ngũ lao động cố gắng trong hoạt động sản xuất. Về trang thiết bị cho hoạt động nghiên cứu của công ty thì công ty cần thường xuyên nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, kỹ thuật theo hướng phù hợp sản xuất và yêu cầu công tác của đơn vị. Nên áp dụng những công nghệ hiện đại đã được các đơn vị cùng ngành đã áp dụng để phát huy tác dụng của công nghệ trong sản xuất. Công ty cũng cần có biện pháp để đổi mới hệ thống máy móc thiết bị của công ty nếu thấy cần thiết để thuận tiện cho điều kiện làm việc của đội ngũ công nhân viên. Hiện nay như đã nói có rất nhiều phần mềm có thể ứng dụng trong hoạt động đầu tư công ty cân tìm cách tiếp cận mua nếu có điều kiện để trang bị cho công tác của đơn vị nhằm chuẩn hoá công tác tính toán tại công ty. Về tổ chức nhân sự của công ty: Thông qua việc giám sát kiểm tra để biết năng lực của cán bộ nếu không đáp ứng đủ điều kiện công tác cần cho đi học thêm học tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên. Tổng hợp số lượng công việc cần làm sau đó có phân công cụ thể cho từng người tránh việc chồng chéo gây lãng phí thời gian và tiền bạc. Đánh giá dự án tập trung vào chất lượng không nên dàn trải chạy theo số lượng nếu chỉ vì mục tiêu lợi nhuận. Tổ chức tổng hợp báo cáo hàng năm cho việc thực hiện công tác tại công ty từ đó có thể góp ý sửa đổi nếu có thiếu sót trong quá trình phân tích và để có thể đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của công ty. Kết luận Phân tích tài chính dự án đầu tư dù nhìn nhận từ góc độ nào, tính toán theo phương pháp nào thì cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của chúng đối với một dự án đầu tư. Tuy nhiên do phân tích tài chính dự án cũng đòi hỏi một quá trình nghiên cứu đầy đủ qua nhiều công đoạn và khá phức tạp nên do hạn chế về mặt nhận thức và khuôn khổ nghiên cứu nên đề tài còn nhiều thiếu sót xong bước đầu có một số kết quả sau: Giới thiệu được về dự án đầu tư và tầm quan trọng của dự án đầu tư Phân tích tài chính và các chỉ tiêu tính toán hiệu quả tài chính dự án đầu tư Phân tích thực trạng tại công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp về quá trình đánh giá hiệu quả tài chính theo loại hình dự án đầu tư qua đó đánh giá các mặt được và còn tồn tại của dự án Đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục phần nào các nhược điểm của quá trình phân tích tài chính dự án tại công ty đã nêu ra trong đề tài. Thực hiện đề tài này không ngoài mục đích củng cố lý thuyết và hoàn thiện phương pháp nghiên cứu sau quá trình học tập tại trường và tạo tiền đề cho công việc sau này của bản thân nên em rất mong nhận được ý kiên đóng góp của các bạn và thầy cô để hoàn thiện hiện hơn cho đề tài. Mục lục Chương I ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0088.doc
Tài liệu liên quan