Tài liệu Phân tích tài chính Doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Văn Lâm - Hưng Yên: ... Ebook Phân tích tài chính Doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Văn Lâm - Hưng Yên
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích tài chính Doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Văn Lâm - Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử ra đời của các ngân hàng thương mại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá tiền tệ.Trước hết nó là cầu nối giữa những người có vốn dư thừa với những người có nhu cầu về vốn. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của các NHTM ngày càng xâm nhập sâu sắc hơn vào mọi mặt của nền kinh tế và trở thành chất dầu “bôi trơn” đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động.
Kinh doanh trong lĩnh vực được ví là “ngồi mát ăn bát vàng” nhưng hoạt động của các NHTM ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt. Để có chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh các ngân hàng đã không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hoá danh mục sản phẩm, đa dạng hoá đối tượng phục vụ, phạm vi phục vụ...nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường. Nằm trong chiến lược chung đó, hoạt động tín dụng-hoạt động mang lại doanh thu và lợi nhuận chủ chốt cho ngân hàng cũng được mở rộng cho nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội, đó là các doanh nghiệp, hộ gia đình... Cùng với việc mở rộng thì đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng là điều mà ngân hàng luôn hướng tới, bởi vậy đánh giá và lựa chọn khách hàng là công tác quan trọng, đặc biệt đối với các khách hàng là doanh nghiệp.
Tín dụng phục vụ doanh nghiệp mang lại nguồn lợi lớn nhưng cũng mang lại rủi ro lớn cho ngân hàng bởi giá trị của mỗi khoản vay thường lớn. Do vậy có khi chỉ cần sự đổ bể của một khoản tín dụng cũng có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn không lường trước được. Điều đó đòi hỏi trước mỗi quyết định có hay không tài trợ ngân hàng phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho vừa không bỏ lỡ cơ hội gia tăng doanh thu và lợi nhuận vừa đảm bảo chất lượng tín dụng. Phân tích tài chính doanh nghiệp tốt là một trong những yếu tố giúp cho ngân hàng đạt được điều đó.Với tầm quan trọng như vậy của công tác này, qua thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm-Hưng Yên, em đã chọn đề tài:
“Phân tích Tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm – Hưng Yên”
Môc ®Ých, ®èi tîng nghiªn cøu
Ph©n tÝch tµi chÝnh c¸c doanh nghiÖp vay vèn th«ng qua c¸c chØ tiªu tµi chÝnh tÝnh ®îc trªn c¬ së c¸c b¸o c¸o tµi chÝnh cña doanh nghiÖp nh»m n©ng cao chÊt lîng thÈm ®Þnh tÝn dông, gi¶m thiÓu rñi ro trong ho¹t ®éng cho vay cña ng©n hµng.
Phương pháp nghiên cứu
Chuyªn ®Ò sö dông mét sè ph¬ng ph¸p mµ ng©n hµng thêng sö dông phæ biÕn khi phân tích tài chính doanh nghiÖp là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích số tỷ lệ. Ngoài ra còn có các phương pháp khác như: phương pháp bảng biểu, sơ đồ...
Kết cấu của đề tài.
Ngoµi lêi më ®Çu vµ kÕt luËn, chuyªn ®Ò cña em gồm 3 phần chính là:
Chương 1. Lý luận chung về hoạt động của NHTM và công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại NHTM
Chương 2. Thực trạng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm – Hưng Yên
Chương 3. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm – Hưng Yên
§Ò tµi trªn lµ mét lÜnh vùc nghiªn cøu phøc t¹p, b¶n th©n em trong qu¸ tr×nh nghiªn cøu, t×m hiÓu c¶ lý luËn vµ thùc tiÔn ®· cã nhiÒu cè g¾ng song bµi viÕt kh«ng tr¸nh khái nh÷ng thiÕu sãt vµ h¹n chÕ. Em rÊt mong ®îc sù hç trî, chØ b¶o cña c¬ quan thùc tËp, c« gi¸o Lª thÞ DiÖu HuyÒn còng nh c¸c thÇy c« gi¸o kh¸c vµ nh÷ng ngêi quan t©m tíi ®Ò tµi nµy.
Em xin ch©n thµnh c¶m ¬n !
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM VÀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TẠI NHTM
. Ngân Hàng Thương Mại.
Khái niệm:
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM:
Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Luật Ngân hàng của Ấn Độ 1950 , được bổ sung 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”...
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích khai thác nội dung của các định nghĩa đó người ta có thể nhận thấy rằng các NHTM đều có chung một tính chất, đó là việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng .
Ở Việt Nam, theo nghị định 49 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thì NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng hiện có và các hoạt động khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận.
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính ngày càng phát triển, phong phú,đa dạng ,đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt NHTM với các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác dựa trên tài sản Có: Một NHTM là một ngân hàng trung gian mà tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của nó.
1.1.2. Các chức năng của NHTM
NHTM có 3 chức năng cơ bản sau:
Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội
Thực hiện chức năng này NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các doanh nghiệp và các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi tiền của họ.
Với chức năng này ngân hàng đã đem lại lợi ích cho cả hai bên tham gia quan hệ :
Đối với khách hàng, thông qua việc gửi tiền vào ngân hàng, họ không những được đảm bảo an toàn về tài sản mà còn thu được một khoản lợi tức từ ngân hàng (trừ trường hợp rủi ro khi ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, không đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng).
Đối với ngân hàng, chức năng này là cơ sở để ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán, đồng thời tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho ngân hàng thương mại để thực hiện chức năng trung gian tín dụng.
Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức năng làm thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thực hiện vai trò trung gian thanh toán. Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế, đó là rủi ro do phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế. Trước hết, thanh toán không dùng tiền mặt, qua ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn. Khả năng lựa chọn hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thích hợp cho phép khách hàng thực hiện thanh toán nhanh chóng và hiệu quả. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.
Thứ hai, việc cung ứng một dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt có chất lượng làm tăng uy tín cho ngân hàng và do đó tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền gửi.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM và do vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của NHTM mới được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quỹ của xã hội.
Chức năng trung gian tín dụng
Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sở dĩ ngân hàng làm được chức năng này là vì nó là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết được tình hình cung cầu về tín dụng. Thông qua việc thu hút tiền gửi với một khối lượng lớn, ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu tín dụng cả về khối lượng vốn cho vay và thời hạn cho vay.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng, người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế:
Người gửi tiền thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình thông qua khoản lãi tiền gửi. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Người đi vay sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Bản thân NHTM sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của NHTM.
Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện tốt các chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Việc nghiên cứu các nghiệp vụ cơ bản của một NHTM thực chất là việc xác định nội dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản. Đó là một báo cáo tài chính tổng hợp, được trình bày dưới dạng cân đối, phản ánh tổng quát tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn hoạt động của một NHTM tại một thời điểm nhất định.
Bảng tổng kết tài sản gồm 2 phần: Tài sản Nợ và tài sản Có.
Tài sản Nợ phản ánh nguồn vốn hoạt động của NHTM, bao gồm những khoản mà ngân hàng nợ thị trường và vốn của ngân hàng. Các khoản nợ thị trường được biểu hiện thông qua những khoản vốn mà dân chúng gửi vào NHTM hoặc NHTM đi vay các chủ thể trong nền kinh tế như các trung gian tài chính khác, Ngân hàng trung ương ...
Tài sản Có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM hay những khoản mà thị trường nợ NHTM. Đó là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay hay đầu tư vào thị trường.
Tính chất quan trọng của bảng tổng kết tài sản là tổng số tiền bên tài sản Có phải bằng tổng số tiền bên tài sản Nợ. Bởi vì bất kỳ một khoản mục sử dụng vốn nào của NHTM cũng có nguồn vốn hình thành tương ứng.
Tổng tài sản Có = Tổng tài sản Nợ + Vốn
Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ
Đây là nghiệp vụ phản ánh nguồn vốn của ngân hàng, nội dung của nghiệp vụ này bao gồm:
Nghiệp vụ tiền gửi: Phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó NHTM có thể huy động và được sử dụng vào kinh doanh. Ngoài ra ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính thời hạn dài, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra nghiệp vụ này còn giúp các NHTM tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nghiệp vụ đi vay: Đối với nghiệp vụ này các NHTM tiến hành tạo vốn cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng Trung ương dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
Nghiệp vụ huy động vốn khác: Các NHTM còn có thể tiến hành tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, thông qua việc sử dụng các phương tiện trong thanh toán, đòi hỏi khách hàng phải ký gửi một bộ phận tiền vào ngân hàng và trên cơ sở đó các ngân hàng có thể sử dụng những vốn nhàn rỗi trên tài khoản để đưa vào hoạt động kinh doanh.
Vốn tự có của ngân hàng : Đây là vốn thuộc sở hữu riêng có của các ngân hàng. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Tuy thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó có một vị trí quan trọng, quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, huy động vốn và cho vay.
Nghiệp vụ thuộc tài sản Có
Nghiệp vụ thuộc tài sản Có phản ánh việc sử dụng vốn nhằm bảo đảm an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung của nó bao gồm:
Nghiệp vụ ngân quỹ: Phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào mục đích đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung ương đề ra.
Nghiệp vụ cho vay: Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua cho vay ngắn hạn và trung, dài hạn đối với nền kinh tế.
Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
Nghiệp vụ khác: Bằng các hoạt động khác trên thị trường như kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý, thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý...mà các NHTM đã thu được lợi nhuận đáng kể.
1.1.4. Vai trò của NHTM
Vai trò của NHTM được thể hiện trong việc vận dụng các chức năng của nó và cụ thể hoá trong các hoạt động của ngân hàng. Khái quát lại, có thể nêu lên hai vai trò lớn sau đây:
NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩỵ sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá
Nhờ có hệ thống NHTM mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, đoàn thể, các tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Như vậy, NHTM đã góp phần di chuyển nguồn lực của xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Thêm nữa, với vai trò làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã thực hiện các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế từ đó đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hóa, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm chi phí thanh toán cho từng cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời ngân hàng cũng giám sát được các hoạt động kinh tế góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội.
NHTM là kênh thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
Với các chức năng của mình, NHTM là một trong các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn trong nền kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương phải sử dụng các công cụ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các NHTM và các ngân hàng trung gian khác như việc chấp hành quy định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
Thông qua hệ thống NHTM, Ngân hàng Trung ương phát hành thêm tiền vào lưu thông, thực hiện các chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất của Nhà nước để điều tiết các hoạt động của nền kinh tế.
Hệ thống NHTM trực tiếp cấp tín dụng cho nền kinh tế vì thế nó là tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến sức mua của nền kinh tế, tạo ra phương tiện thanh toán để lưu thông hàng hoá và các dịch vụ do nền kinh tế tạo ra.
Vì vậy, hoạt động của các NHTM ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng của nền kinh tế, đến sự ổn định tiền tệ và ảnh hưởng đến những sự phát triển kinh tế xã hội khác. Ngược lại, các NHTM lại chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung ương bằng các quy định cụ thể. Nó phải hoạt động theo những quy định mà chính sách tiền tệ đã vạch ra và định hướng cho nó.
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại NHTM
1.2.1. Tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, quan hệ tín dụng ra đời và tồn tại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình tuần hoàn vốn nhằm giải quyết hiện tượng thừa, thiếu vốn diễn ra thường xuyên giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội. Đây là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội, ngày nay có thể định nghĩa quan hệ tín dụng một cách đầy đủ như sau:
“Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”.
Như vậy một quan hệ tín dụng phải thoả mãn ba đặc trưng đó là tính tạm thời, tính hoàn trả và sự tin tưởng.
Là một trong những loại hình tín dụng, tín dụng ngân hàng cũng mang đầy đủ những đặc trưng đó.
Trong Ngân hàng thương mại, tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên song hành với lợi nhuận là rủi ro cao. Có nhiều loại rủi ro tác động tới ngân hàng: Rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản...Trong đó rủi ro tín dụng là loại gắn liền với hoạt động cho vay. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, Ngân hàng luôn cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung Ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng khó có thể xảy ra. Tuy nhiên không thể dự đoán chính xác các khả năng xảy ra, hơn nữa không phải mọi cán bộ Ngân hàng đều có khả năng phân tích tín dụng tốt. Do vậy, trên quan điểm Ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, chỉ có thể đề phòng hạn chế chứ không thể loại trừ.
Rủi ro tín dụng là tình trạng khách hàng vay không trả được nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng nhưng có những nguyên nhân chính sau:
Những nguyên nhân bất khả kháng như: Thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh, sự thay đổi của môi trường chính trị, môi trường pháp lí, các cơ chế, chính sách...
Những nguyên nhân chủ quan thuộc về phía khách hàng như: Rủi ro đạo đức, sử dụng vốn sai mục đích, sự suy giảm khả năng quản lý, sự không hiểu biết về sản phẩm và công nghệ của đối thủ cạnh tranh, những hành vi không lành mạnh của đối thủ cạnh tranh...
Những nguyên nhân thuộc về phía Ngân hàng như: Chính sách tín dụng không hợp lí,quá coi trọng việc mở rộng mà xem nhẹ chất lượng tín dụng, cán bộ ngân hàng yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ hoặc vi phạm đạo đức nghề nghiệp tiếp tay với khách hàng chiếm dụng vốn của ngân hàng...
Trong ba nhóm nguyên nhân trên thì nhóm thứ hai thường xuyên xảy ra nhất, chiếm tỉ trọng lớn.
Đứng trước thực trạng cho vay là nghiệp vụ chủ đạo mà rủi ro tín dụng lại luôn thường trực, hơn nữa lại diễn ra hết sức phức tạp nên đối với việc cho vay các Ngân hàng thương mại luôn phải thực hiện theo một qui trình chặt chẽ với những bước phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính của khách hàng, kết quả của những phân tích ấy sẽ giúp ngân hàng ra quyết định có hay không cho khách hàng vay.
Trên thực tế, đối với cho vay doanh nghiệp việc xác định các thông số phi tài chính như uy tín, năng lực, đạo đức người lãnh đạo... là rất khó, mang tính chất định tính.Vì vậy những thông tin định lượng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong đánh giá, lựa chọn doanh nghiệp để cho vay. Phân tích tài chính doanh nghiệp cho phép ngân hàng xác định được các yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn, xác định được thời hạn hợp lí của các khoản vay, xác định được khả năng trả nợ, kì hạn trả nợ...đối với từng doanh nghiệp. Như vậy phân tích tài chính doanh nghiệp không chỉ là nhu cầu mà còn là đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi NHTM.
1.2.2. Quy trình và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp tại NHTM.
Khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng sử dụng các báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 3 năm gần nhất. Những báo cáo này do doanh nghiệp lập và gửi đến. Do vậy, kiểm tra báo cáo tài chính là công việc cần thiết đầu tiên của nhà ngân hàng trước khi phân tích. Điều này một mặt đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc phân tích, mặt khác nó còn đảm bảo được sự chính xác, trung thực của số liệu. Có như vậy, kết quả phân tích mới đảm bảo sát thực, phản ánh đúng thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc kiểm tra báo cáo tài chính bao gồm xem xét các nguồn số liệu, dữ liệu do doanh nghiệp lập, chế độ kế toán áp dụng, tính chính xác của các số liệu kế toán.
Sau khi kiểm tra các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nếu có sự trung thực hợp lý thì ngân hàng sẽ lấy số liệu từ đó để tính các chỉ tiêu tài chính và thực hiện việc phân tích. Hiện nay các chỉ tiêu phổ biến được ngân hàng sử dụng là:
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Hệ số này là một tỷ lệ thường được sử dụng nhiều nhất. Nó đo lường khả năng mà các tài sản ngắn hạn có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này cao, có thể đem lại sự an toàn về khả năng bù đắp cho sự giảm giá trị của tài sản ngắn hạn. Tuy nhiên, một doanh nghiệp có hệ số này quá cao cũng có thể doanh nghiệp đó đã đầu tư quá mức vào tài sản hiện hành, một sự đầu tư không mang lại hiệu quả, chẳng hạn doanh nghiệp có quá nhiều hàng tồn kho, quá nhiều khoản phải thu...
Trong thực tế người ta thường yêu cầu chỉ tiêu này của các doanh nghiệp phải lớn hơn 1, còn lớn hơn bao nhiêu là tốt thì tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp ở từng ngành nghề khác nhau. Một doanh nghiệp có khả năng bán các khoản hàng tồn kho để thu lại tiền nhanh chóng thì chỉ tiêu này có thể được chấp nhận ở mức thấp hơn so với trường hợp một doanh nghiệp khác có chu kỳ sản xuất dài và các khoản mục hàng tồn kho chậm chuyển sang tiền hơn.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số có khả năng thanh toán nhanh
=
Tiền + ĐTTC ngắn hạn + Phải thu
Nợ ngắn hạn
Hệ số này là thước đo khả năng trả nợ ngay các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp trong kỳ không dựa vào việc phải bán các loại vật tư hàng hoá và tài sản ngắn hạn khác. Nhìn chung hệ số này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ vì vào lúc cần doanh nghiệp có thể buộc phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán các tài sản với giá thấp để trả nợ . Hệ số này nên ở mức hợp lí là bằng 1.Tuy nhiên cũng như hệ số phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, độ lớn của hệ số này cũng phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, chất lượng tài sản ngắn hạn...của doanh nghiệp.
b) Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính
Hệ số nợ :
Hệ số nợ
=
Tổng số nợ phải trả
Tổng tài sản
Hệ số nợ phản ánh trong tổng tài sản của doanh nghiệp có bao nhiêu phần do vay nợ mà có.
Hệ số nợ càng cao thì mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào các chủ nợ càng nhiều, sự độc lập, tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kém đi. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thường muốn có hệ số nợ cao vì khi đó chi phí sử dụng vốn sẽ thấp đi do chi phí lãi vay được tính giảm trừ thu nhập chịu thuế, mặt khác nếu doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do người cho vay gánh chịu, còn doanh nghiệp nắm phần lợi rõ rệt, chỉ cần bỏ ra một số vốn ít nhưng được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn để kinh doanh. Đặc biệt khi doanh nghiệp ở giai đoạn phồn thịnh, tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản lớn hơn lãi suất tiền vay bình quân, doanh nghiệp càng vay, lợi nhuận mang lại cho chủ doanh nghiệp càng lớn. Bởi vậy, trong thực tế nhiều chủ doanh nghiệp rất ưa thích hệ số nợ cao để tận dụng lợi thế của đòn bẩy tài chính này.
Trên quan điểm của các nhà ngân hàng, hệ số nợ càng thấp thì nền tảng vốn chủ sở hữu càng vững mạnh. Nói cách khác, doanh nghiệp càng ít phụ thuộc vào nợ vay thì rủi ro mà bên cho vay phải chịu càng giảm. Tuy nhiên bất cứ ngân hàng nào cũng muốn mở rộng doanh số hoạt động nhất là mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Song nếu càng lấn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ trở thành người đỡ đòn rủi ro cho doanh nghiệp. Do đó ngân hàng phải tự hạn chế mình. Vấn đề đặt ra là hệ số nợ ở mức bao nhiêu thì hợp lý để vừa đảm bảo cho nhà ngân hàng kinh doanh an toàn vừa có lợi nhuận chấp nhận được cho doanh nghiệp.
Về mặt lý thuyết, trong các doanh nghiệp phi tài chính hệ số nợ hợp lý là 0,5. Tuy nhiên, có thể nói rằng không có một tỷ số nợ lý tưởng chung cho mọi doanh nghiệp trong mọi ngành hoạt động. Để trả lời câu hỏi hệ số nợ nên ở mức bao nhiêu sẽ tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, đó là:
Thái độ của ban lãnh đạo doanh nghiệp đối với rủi ro.
Cơ cấu tài sản của doanh nghiệp.
Tình hình thanh khoản.
Thâm niên hoạt động của doanh nghiệp.
Thái độ của người cho vay đối với ngành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chính sách về lợi nhuận để lại, cổ tức và dự trữ.
Nhà ngân hàng phải hiểu rõ mức độ vay vốn như thế nào cho phù hợp với doanh nghiệp và cần duy trì mức độ đó càng ổn định càng tốt. Chính tổ chức hoạt động của doanh nghiệp sẽ giúp xác định cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp.
Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay
hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay
=
Lợi nhuận trước thuế + Lãi tiền vay phải trả
Lãi tiền vay phải trả
Hệ số này nói lên trong kỳ doanh nghiệp đã tạo ra lợi nhuận gấp bao nhiêu lần lãi phải trả về tiền vay. Hệ số này càng cao thì rủi ro mất khả năng chi trả lãi tiền vay càng thấp và ngược lại. Thông thường hệ số này được các chủ nợ chấp nhận ở mức hợp lí khi nó lớn hơn hoặc bằng 2.
c) Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu + Thu nhập khác
Tỷ số này phản ánh trong một đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực hiện trong kỳ có mấy đồng lợi nhuận. Tỷ số này càng cao chứng tỏ khả năng sinh lợi của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại.
- Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản:
Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản
=
Tổng lợi nhuận trước thuế
Tổng tài sản bình quân
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản phản ánh cứ một trăm đồng tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trong điều kiện bình thường chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ khả năng sinh lời của tài sản càng tốt.
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên nguồn VCSH:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên nguồn VCSH
=
Tổng lợi nhuận sau thuế
Nguồn VCSH bình quân
Tỷ số này đo lường mức độ tạo lợi nhuận từ vốn chủ sở hữu. Nó được dùng như một thước đo hiệu quả đầu tư nếu đứng trên quan điểm của các cổ đông, và được so sánh với mức sinh lời chung về quản lý vốn. Tỷ số này càng cao càng tốt.
Để đánh giá tổng quát tình hình tài chính doanh nghiệp sau khi xác định được các tỷ số tài chính đặc trưng người ta thường lập biểu phân tích (bằng phương pháp so sánh) giữa các kỳ, giữa các tỷ số đặc trưng của doanh nghiệp với các tỷ số tài chính đặc trưng của ngành (nếu có). Cán bộ tín dụng khi thực hiện phân tích cần lưu ý rằng hoàn toàn không có một chuẩn mực nào cho phần phân tích theo từng tỷ số .Một hay một số tỷ số là tốt cũng chưa thể kết luận là doanh nghiệp đang trong tình trạng tốt. Do vậy mối quan hệ giữa các tỷ số là mục đích cuối cùng của việc phân tích vì chỉ như vậy mới có thể đưa ra được kết luận chính xác về doanh nghiệp.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng của NHTM
Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp được hiểu là tính chính xác của những đánh giá về tình hình tài chính, về rủi ro, mức độ, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và sự trung thực của các báo cáo tài chính. Vì vậy có rất nhiều nhân tố khác nhau gây ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới chất lượng phân tích. Có thể chia các nhân tố đó thành hai nhóm chính là nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan.
a) Nhóm nhân tố chủ quan
- Nhân tố con người
Đó là trình độ nghiệp vụ, nhận thức, đạo đức, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng trong suốt quá trình đánh giá tài chính khách hàng. Mỗi người cán bộ tín dụng đều có kinh nghiệm thực tế, trình độ nghiệp vụ ,nhận thức và hiểu biết khác nhau do đó ngoài việc phân tích đánh giá tài chính khách hàng theo qui định chung của luật thì có độ nhạy bén, sắc sảo khác nhau. Mặt khác, mặc dù ngân hàng luôn yêu cầu nhân viên của mình phải thẳng thắn, trung thực, vô tư, trong sáng, có lương tâm nghề nghiệp song trong thực tế vẫn có những cán bộ tín dụng khi phân tích tài chính khách hàng do có động cơ không lành mạnh đã để cho ý kiến chủ quan lấn át tính khách quan làm sai lệch kết quả phân tích .
- Chính sách tín dụng của ngân hàng
Trong thời kỳ ngân hàng thực hiện chính sách tín dụng thắt chặt, phân tích khách hàng có thể kỹ hơn do vậy chất lượng phân tích tài chính khách hàng cũng được đảm bảo hơn còn trong thời kỳ ngân hàng thực hiện chính sách tín dụng mở rộng thì việc phân tích có thể đơn giản hơn, dù trên quan điểm của mình ngân hàng cố gắng không để xảy ra sơ suất nhưng điều này phần nào cũng ảnh hưởng tới chất lượng phân tích.
- Loại khách hàng
Ngân hàng thường phân biệt hai nhóm khách hàng: Khách hàng đã thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng và khách hàng quan hệ lần đầu. Thông thường, đối với khách hàng quan hệ lần đầu ngân hàng yêu cầu phải cung cấp một số lượng đáng kể dữ liệu thông tin về bản thân và công tác phân tích tài chính của ngân hàng cũng được thực hiện hết sức thận trọng.
- Loại và kỹ thuật cấp tín dụng
Mỗi loại hay kỹ thuật cấp tín dụng được áp dụng trong hoàn cảnh cụ thể với những công cụ kiểm soát khác nhau, vì vậy lượng thông tin và độ sâu của việc phân tích tài chính khách hàng cũng thay đổi theo. Thông thường đối với loại kỹ thuật nào tiềm ẩn nhiều rủi ro ngân hàng sẽ thực hiện việc phân tích tài chính khách hàng kỹ hơn.
b) Nhóm nhân tố khách quan
- Bản thân doanh nghiệp vay vốn
Các doanh nghiệp vay vốn rất đa dạng, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau, quy mô hoạt động, cơ cấu tổ chức, nhu cầu tín dụng khác nhau...nên ảnh hưởng lớn đến công tác phân tích của ngân hàng.
Lĩnh vực kinh doanh: Mỗi ngành nghề đều có đặ._.c trưng riêng cho nên các chỉ tiêu tài chính của mỗi ngành cũng có những mức chuẩn khác nhau do đó không thể áp dụng mức chuẩn chung để phân tích đánh giá tất cả các doanh nghiệp.
Loại hình doanh nghiệp khác nhau thì các chỉ tiêu tài chính được quan tâm, chú trọng cũng khác nhau. Chẳng hạn, đối với công ty TNHH, các thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm đối với những khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác trong phạm vi số vốn góp của mình còn công ty tư nhân thì phải chịu trách nhiệm bằng cả tài sản ngoài kinh doanh của chủ sở hữu nên hệ số nợ của mỗi loại hình doanh nghiệp được quan tâm ở mức độ khác nhau.
Thời hạn của các khoản vay cũng khiến ngân hàng chú trọng đến các khía cạnh khác nhau của tình hình tài chính. Nếu trước quyết định cho vay ngắn hạn ngân hàng đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp thì trước quyết định cho vay dài hạn, ngân hàng lại đặc biệt quan tâm đến khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy mô nhu cầu tín dụng cũng ảnh hưởng đến việc phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng. Độ sâu sắc và toàn diện của việc phân tích sẽ tăng lên khi doanh nghiệp có quy mô nhu cầu tín dụng lớn.
Mức độ trung thực của các báo cáo tài chính: Đây là nhân tố đóng vai trò quyết định đến chất lượng phân tích vì toàn bộ việc phân tích được thực hiện căn cứ vào số liệu từ các báo cáo này. Các báo cáo mà không sát thực thì dẫn đến những kết luận sai về tình hình doanh nghiệp. Vì thế, việc kiểm tra lại độ chính xác, phù hợp của báo cáo tài chính là hết sức cần thiết để công sức phân tích của người cán bộ tín dụng không bị lãng phí.
Các nhân tố khác
Các nhân tố khác như công nghệ tin học, môi trường kinh tế xã hội và pháp luật cũng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ tin học sẽ giúp cho việc tính toán được chính xác hơn, tiết kiệm thời gian và sức lực. Mặt khác, thông qua hệ thống máy tính, ngân hàng có thể lưu giữ, cập nhật những thông tin mới nhất và cần thiết một cách nhanh chóng.
Các văn bản pháp luật, quy định cũng buộc công tác phân tích, đánh giá phải tuân thủ các bước, các chuẩn mực của toàn ngành và từng ngành của ngân hàng, chính những yếu tố này đã góp phần tạo nên chất lượng của hoạt động phân tích.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ CÔNG TÁC TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT VĂN LÂM – HƯNG YÊN
2.1. Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm – Hưng Yên
2.1.1. Sự hình thành và phát triển , mô hình tổ chức và khái quát nội dung hoạt động của đơn vị.
Chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm–Hưng Yên được tái lập ngày 1/9/1999 sau khi chia tách huyện Mĩ Văn thành 3 huyện Văn Lâm, Mĩ Hào, Yên Mĩ theo quyết định của thủ tướng chính phủ.
Là một đơn vị đóng trên địa bàn huyện có nhiều làng nghề và khu công nghiệp như làng nghề Minh Khai, Ngọc Lịch, Chỉ Đạo, khu công nghiệp Như Quỳnh, Tân Quang...chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm có thị trường hoạt động khá rộng. Buổi đầu thành lập bên cạnh thuận lợi to lớn về mặt thị trường thì ngân hàng cũng vấp phải những khó khăn nhất định như cơ sở vật chất còn non kém, đội ngũ cán bộ một số được điều động từ nơi khác đến nên không hiểu rõ tình hình kinh tế địa phương...Song với sự cố gắng nỗ lực của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên sau gần bảy năm ra đời và hoạt động chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm đã không ngừng vươn lên tự khẳng định mình. Đơn vị đã có nhiều đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương nói riêng và của đất nước nói chung,được tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen của các cấp các ngành và đặc biệt luôn là một trong những lá cờ đầu của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên.
Chức năng và nhiệm vụ của NHNo&PTNT Văn Lâm hiện nay là:
Khai thác và nhận tiền gửi không kì hạn, có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước bằng VND, USD.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng bằng VND.
Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền.
Hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, thẩm định các dự án tín dụng vượt quyền phán quyết trình NHNo&PTNT cấp trên quyết định.
Kinh doanh ngoại hối, thực hiện dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và NHNo&PTNT Việt Nam.
Hạch toán kinh doanh theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam.
Thực hiện việc kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ, quy trình nghiệp vụ trong phạm vi đơn vị.
Tổ chức việc phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Về cơ cấu tổ chức NHNo&PTNT Văn Lâm gồm ban lãnh đạo và các phòng chức năng là phòng kinh doanh, phòng kế toán–ngân quỹ , phòng kiểm toán nội bộ , phòng hành chính và một ngân hàng cấp 3 trực thuộc .
Nhiệm vụ chủ yếu của các phòng:
-Phòng kinh doanh: Nghiên cứu, đề xuất chiến lược khách hàng; phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng thị trường, thị phần; kinh doanh ngoại hối; thực hiện dịch vụ bảo lãnh và một số dịch vụ ngân hàng khác; thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền; phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và giải pháp khắc phục; tổng hợp, báo cáo và kiểm tra chuyên đề theo quy định; thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao.
-Phòng kế toán-ngân quỹ: Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định; quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định; tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu; chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ; thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước; chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề; thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao.
-Phòng kiểm toán nội bộ: Kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy trình nghiệp vụ, chấp hành các quy định của Ngân hàng Nhà nước về đảm bảo an toàn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng; kiểm tra độ chính xác của các báo cáo tài chính, việc tuân thủ các nguyên tắc chế độ về kế toán tài chính theo quy định của Nhà nước, của ngành ngân hàng; báo cáo giám đốc chi nhánh về kết quả kiểm tra và đề xuất biện pháp xử lý, khắc phục khuyết điểm, tồn tại...
-Phòng hành chính: Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, tiếp nhận công văn, giấy tờ của chi nhánh, chấp hành công tác báo cáo thống kê, kiểm tra chuyên đề, thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao.
2.1.2. Tình hình cho vay tại chi nhánh
Công tác cho vay tại chi nhánh luôn bám sát vào định hướng kinh doanh của hệ thống, vào các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đã khẳng định được vai trò chủ đạo của NHNo&PTNT trên thị trường Nông nghiệp–Nông thôn, đáp ứng được nhu cầu vốn phục vụ cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, thực hiện Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá Nông nghiệp và nông thôn, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế của địa phương.
Bên cạnh đó chi nhánh đã chú ý quan tâm tới việc mở rộng mạng lưới hoạt động, thành lập một chi nhánh NHNo&PTNT cấp 3, áp dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động, thực hiện tốt chiến lược kinh doanh để thu hút khách hàng và mở rộng thị phần tín dụng.
Với tinh thần nỗ lực quyết tâm phấn đấu không ngừng, kể từ khi tái lập công tác đầu tư tín dụng của chi nhánh luôn có tốc độ tăng trưởng nhanh đặc biệt trong những năm gần đây.
Bảng 1. Tình hình sử dụng vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2005 so
với năm 2004
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ lệ
(%)
1.Chovay ngắn hạn
Doanh số cho vay
Doanh số thu nợ
Dư nợ
126.808
105.369
84.660
78,6
80
63,3
154.537
122.776
116.421
67
73,5
59
27.729
17.407
31.761
21,9
16,5
37,5
2.Cho vay trung, dài hạn
Doanh số cho vay Doanh số thu nợ
Dư nợ
34.445
26.370
49.105
21,4
20
36,7
76.116
44.319
80.902
33
26,5
41
41.671
17.949
31.797
121
68
64,8
3.Tổng số
Tổng sốchovay
Tổngsốthu nợ
Tổng dư nợ
161.253
131.739
133.765
100
100
100
230.653
167.095
197.323
100
100
100
69.400
35.356
63.558
43
26,8
47,5
(Nguồn báo cáo của NHNo&PTNT Văn Lâm năm 2004-2005)
Nhận xét: Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh số cho vay của chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm năm 2005 so với năm 2004 tăng 69.400 triệu đồng (tăng 43%), doanh số thu nợ tăng 35.356 triệu đồng (tăng 26,8%), tổng dư nợ tăng 63.558 triệu đồng (tăng 47,5%) . Điều này khẳng định công tác phát triển tín dụng của chi nhánh đã đạt được kết quả nhất định, góp phần gia tăng doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời thúc đẩy quá trình sản xuất ở địa phương.
Tỷ lệ cho vay trung dài hạn của chi nhánh có xu hướng tăng dần, năm 2004 tỷ lệ này là 21,4% đến năm 2005 đã đạt 33%, tăng về số tuyệt đối là 41.671 triệu đồng, tăng về số tương đối là 121%. Tương quan giữa tỷ lệ dư nợ ngắn hạn và tỷ lệ dư nợ trung dài hạn ngày càng tiến tới trạng thái cân bằng hợp lý, năm 2004 các tỷ lệ đó là 63,3% và 36,7%; năm 2005 tỷ lệ là 59% và 41%. Sở dĩ có sự gia tăng dư nợ trung dài hạn là vì trong năm 2005 địa phương có rất nhiều công ty mới nên nhu cầu về vốn cố định rất lớn. Việc mở rộng khối lượng cho vay trung dài hạn không những mang lại lợi nhuận cao hơn cho chi nhánh (lãi suất cho vay trung dài hạn là 1,18%; lãi suất cho vay ngắn hạn là 1,03%) mà còn đáp ứng được nhu cầu vốn đa dạng của khách hàng, góp phần củng cố và phát triển thị phần tín dụng của chi nhánh .
Bảng 2. Dư nợ phân theo thành phần kinh tế của chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm
Đơn vị : Triệu đồng
Thành phần kinh tế
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2005 so
với năm 2004
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tuyệt
đối
Tỷ lệ
(%)
1.DNNN
4.690
3,5
150
0,08
-4.540
-96,8
2.HTX
0
0
0
0
0
0
3.DNNQD
35.830
26,8
81.488
41,3
45658
127,4
4.HSX cá thể
88.194
66
102.862
52,12
14668
16,6
5.Khác
5.051
3,7
12.823
6,5
7772
153,9
6.Tổng dư nợ
133.765
100
197.323
100
63558
47,5
(Nguồn báo cáo của NHNo&PTNT Văn Lâm năm 2004-2005)
Nhận xét: Từ bảng số liệu trên ta thấy, dư nợ doanh nghiệp Nhà nước của chi nhánh năm 2005 có sự sụt giảm cả về số tuyệt đối và số tương đối so với năm 2004. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là nhiều doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp, củng cố lại, cổ phần hoá và sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong quan hệ với ngân hàng về tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ, những doanh nghiệp Nhà nước không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo đều không được ngân hàng cho vay vốn.
So với năm 2004, năm 2005 chi nhánh có dư nợ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh đạt 81.488 triệu đồng (tăng 127.4%) đóng góp to lớn vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện nhà, giải quyết việc làm cho nhiều lao động địa phương. Tuy nhiên, là đơn vị đóng trên địa bàn huyện có tiềm năng kinh tế phát triển , số lượng doanh nghiệp chiếm khoảng 1/3 của tỉnh (138 doanh nghiệp ) thì tổng dư nợ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt mức như trên là chưa xứng tầm , ngân hàng chưa thực sự khai thác được nhiều thị trường doanh nghiệp. Ngoài ra các doanh nghiệp hiện có quan hệ tín dụng với ngân hàng chủ yếu là các công ty TNHH, công ty tư nhân, công ty cổ phần, ngân hàng chưa thiết lập được quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh. Nguyên nhân chính là do tính năng động, sáng tạo chủ động tìm kiếm khách hàng, dự án khả thi còn thiếu và ít được chú trọng.
Dư nợ hộ sản xuất của chi nhánh tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Năm 2004 đạt 88.194 triệu đồng chiếm tỷ trọng 66% trong tổng dư nợ; Năm 2005 đạt 102.862 triệu đồng chiếm tỷ trọng 52,12% trong tổng dư nợ. Tuy tỷ trọng của nó trong tổng dư nợ giảm song số tuyệt đối lại tăng lên rất nhiều (tăng 14.668 triệu đồng). Sở dĩ như vậy là vì địa phương đang đẩy mạnh việc phát triển kinh tế trang trại, phát triển các làng nghề như làng nghề thuốc Nam ở Nghĩa Trai-Tân Quang; làng nghề đúc đồng, chì ở Lạc Đạo; làng nghề tái chế nhựa ở Minh Khai-Như Quỳnh...
Tóm lại, qua phân tích số liệu ta thấy dư nợ theo thành phần kinh tế của chi nhánh đang có sự tăng trưởng và thay đổi hợp lý, khẳng định chất lượng hoạt động kinh doanh và uy tín của chi nhánh đối với các thành phần kinh tế ngày càng gia tăng.
Bảng 3. Tình hình nợ quá hạn tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2005 so
với năm 2004
Số tuyệt đối
Tỷ lệ (%)
1.Tổng dư nợ
133765
197323
63558
47.5
1.1.Nợ quá hạn
2141
9867
7726
360.8
1.2.Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ
1.6%
5%
(Nguồn báo cáo của NHNo&PTNT Văn Lâm năm 2004-2005)
Nhận xét: Từ bảng số liệu trên ta thấy, năm 2004 chi nhánh có nợ quá hạn là 2.141 triệu đồng chiếm 1,6% tổng dư nợ. Năm 2005 nợ quá hạn là 9.867 triệu đồng, chiếm 5% tổng dư nợ. Trong năm này nợ quá hạn tăng nhanh cả về số tuyệt đối và số tương đối (tăng 7.726 triệu đồng tương ứng là 360,8%). Hầu hết nợ quá hạn đều nằm ở khu vực cho vay hộ sản xuất. Nguyên nhân của việc nợ quá hạn tăng đột biến là do chi nhánh thực hiện quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, theo khoản 3 điều 6 thì “Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với tổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ nào bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng”.
Thực trạng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm
Cũng như hoạt động của bất kỳ NHTM nào khác, đối với chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm, công tác phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng của toàn bộ quá trình thẩm định cho vay nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đây là công tác thường xuyên, liên tục phải làm đối với doanh nghiệp xin vay vốn tại chi nhánh kết quả đưa ra từ công tác này sẽ trợ giúp đắc lực cho việc ra quyết định có hay không tài trợ vốn cho doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hiện nay kinh doanh trong nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau . Để hiểu rõ thực trạng phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp của chi nhánh, xin được phân tích qua hai đại diện điển hình cho các doanh nghiệp kinh doanh trong hai ngành nghề khác nhau là: Công ty TNHH Văn Phòng Phẩm Trà My và Công ty Xây Dựng Chiến Thắng.
a) Công ty TNHH Văn Phòng Phẩm Trà My
Tên khách hàng: Công ty TNHH Văn Phòng Phẩm Trà My
Trụ sở chính: Ngọc Đà – Tân Quang – Văn Lâm – Hưng Yên
Ngành nghề kinh doanh chủ yếu : Buôn bán đồ dùng , thiết bị văn phòng phẩm , sản xuất các sản phẩm bằng nhựa , xúc tiến thương mại , đại lý mua bán , ký gửi hàng hoá .
Loại hình doanh nghiệp : Là công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên.
Một số ảnh hưởng quan trọng đến tình hình sản xuất kinh doanh : Công ty được thành lập từ năm 2000, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh các mặt hàng văn phòng phẩm. Công ty đã có quan hệ bạn hàng lâu năm, hoạt động mua bán, thanh toán tín nhiệm. Thị trường đầu ra tương đối đảm bảo vì công ty qua nhiều năm hoạt động đã thiết lập được một hệ thống khách hàng trên cả ba miền. Hơn nữa công ty có điểm thuận lợi là các thành viên trong công ty đều có năng lực, trình độ, có nhiều năm kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh văn phòng phẩm.
Trong năm 2005, công ty tiếp tục nhập khẩu máy móc thiết bị để hiện đại hoá sản xuất. Cũng trong năm này giá cả nguyên vật liệu đầu vào có nhiều biến động.
Công ty có bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh như sau :
Bảng 4. Bảng cân đối kế toán của Công ty TNHH Trà My
từ năm 2003 đến năm 2005
Đơn vị : VN đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
TÀI SẢN
A. Tài sản ngắn hạn
4.848.746.205
4.628.939.637
9.200.033.932
1. Tiền
125.117.725
513.708.450
302.980.674
2. Các khoản phải thu
1.554.835.553
1.661.586.487
3.116.138.862
3. Hàng tồn kho
3.168.792.927
2.453.644.700
578.014.396
B. Tài sản dài hạn
8.816.299.290
10.896.815.836
17.931.772.032
1. Tài sản cố định hữu hình
4.286.299.290
10.896.815.836
17.897.681.133
- Nguyên giá
4.604.917.290
12.433.989.836
22.533.512.133
- Giá trị hao mòn luỹ kế
318.618.000
1.537.174.000
4.635.831.000
2. Chi phí XDCB dở dang
4.530.000.000
34.090.899
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
13.665.045.495
15.525.755.473
27.131.805.964
NGUỒN VỐN
A. Nợ phải trả
6.936.013.423
8.090.387.884
18.038.410.874
1. Nợ ngắn hạn
2.399.954.053
3.841.520.924
8.479.922.809
- Phải trả cho người bán
367.382.902
822.238.690
1.367.308.200
- Vay ngắn hạn
2.032.571.151
3.019.282.234
5.994.777.272
2. Nợ dài hạn
4.536.059.370
4.248.866.960
9.558.488.065
- Vay dài hạn
4.536.059.370
4.248.866.960
9.558.488.065
B. Vốn chủ sở hữu
6.729.032.072
7.435.367.589
9.093.395.090
TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
13.665.045.495
15.525.755.473
27.131.805.964
Bảng 5. Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty TNHH Trà My
từ năm 2003 đến năm 2005
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1.Doanh thu thuần
20.105.374.170
28.546.243.547
38.162.956.427
2.Giá vốn hàng bán
17.596.934.401
25.985.456.327
34.651.038.252
3.Lợi nhuận gộp
2.508.439.769
2.560.787.220
3.511.918.175
4.Doanh thu hoạt động tài chính
1.435.805
2.773.037
2.652.326
5.Chi phí hoạt động tài chính
788.235.660
601.792.681
1.322.027.554
6.Chi phí bán hàng
211.591.159
125.344.517
290.375.230
7.Chi phí quản lý doanh nghiệp
281.016.683
128.205.402
150.323.428
8.Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
1.229.032.072
1.708.217.657
1.751.844.289
9.Thu nhập khác
10.Chi phí khác
11.Lợi nhuận khác
12.Tổng lợi nhuận trước thuế
1.229.032.072
1.708.217.657
1.751.844.289
13.Thuế thu nhập DN phải nộp
393.290.263
478.300.944
0
14.Lợi nhuận sau thuế
835.741.809
1.229.916.713
1.751.844.289
( Năm 2005 công ty đã hoàn tất thủ tục miễn thuế thu nhập doanh nghiệp )
Từ số liệu của bảng cân đối kế toán , báo cáo kết quả kinh doanh và những thông tin cần thiết khác , các chỉ tiêu tài chính của công ty Trà My được tính như sau :
Năm 2003
Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn:
Chỉ tiêu thanh toán nhanh:
Hệ số nợ:
Chỉ tiêu khả năng trả lãi:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn CSH:
Các chỉ tiêu tài chính năm 2004-2005 của công ty được tính tương tự như trên.
Tập hợp các chỉ tiêu đã tính ta có bảng sau:
Bảng 6. Các chỉ tiêu tài chính của công ty TNHH Trà My
từ năm 2003 đến năm 2005
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
- Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn
2,02
1,21
1,09
- Chỉ tiêu thanh toán nhanh
0,7
0,57
0,4
Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính
- Hệ số nợ
0,51
0,52
0,66
- Chỉ tiêu khả năng trả lãi
2,56
3,84
2,33
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
doanh thu
4,2%
4,3%
4,6%
- Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản
9%
11%
6,5%
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
vốn chủ sở hữu
12,4%
16,5%
19,3%
Theo quan điểm của Ngân hàng thì mức lí tưởng của các chỉ tiêu tài chính là: hệ số thanh toán ngắn hạn phải lớn hơn 1; hệ số thanh toán nhanh bằng 1 ; hệ số nợ nên nhỏ hơn hoặc bằng 0,5; chỉ tiêu khả năng trả lãi nên lớn hơn hoặc bằng 2; các chỉ tiêu khả năng sinh lời phải dương và có xu hướng tăng dần qua các năm.
Từ kết quả ở bảng 3 cho thấy công ty Trà My có chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn giảm dần qua các năm. Hiện thời chỉ tiêu này của công ty là 1,09 thấp hơn nhiều so với năm 2003, tuy nhiên vẫn đảm bảo lớn hơn 1 nên về mặt lí thuyết hệ số này hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Hệ số thanh toán nhanh của công ty trong 3 năm 2003, 2004, 2005 lần lượt là 0,7; 0,57; 0,4 đều nhỏ hơn 1 và lại không hề có xu hướng được cải thiện. Đặc biệt năm 2005, hệ số này ở mức 0,4 thấp hơn rất nhiều so với mức lí tưởng là 1.Từ hai chỉ tiêu này cho thấy công ty có một lượng hàng tồn kho khá lớn. Tính thanh khoản của công ty phụ thuộc nhiều vào chất lượng và khả năng chuyển đổi thành tiền của hàng tồn kho.
Hệ số nợ trong 3 năm của công ty có xu hướng tăng dần. Năm 2003, 2004 lần lượt là 0,51; 0,52 đều nằm trong lân cận của 0,5, biểu hiện một cơ cấu vốn khá an toàn, nó cho thấy phân nửa tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu. Năm 2005, hệ số này lên đến 0,66 do công ty đã mở rộng quy mô sản xuất lên rất nhiều, nguồn vốn của công ty tập trung cho tài sản cố định và hàng tồn kho. Điều này cũng đã được phản ánh ở sự suy giảm khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty. Tuy nhiên, việc đầu tư vào tài sản cố định của công ty được thực hiện ở thời điểm giữa năm nên trong năm chưa khai thác được nhiều nhưng nó hứa hẹn việc tăng năng lực sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, tạo thế cạnh tranh của công ty trên thị trường. Mặt khác, các máy móc thiết bị mới được đầu tư của công ty đều rất hiện đại, chất lượng tài sản của công ty khá tốt và đây là một công ty có tín nhiệm trong thanh toán nên hệ số nợ như vậy là có thể chấp nhận được.
Chỉ tiêu khả năng trả lãi của công ty trong 3 năm liên tục đều lớn hơn 2. Điều đó chứng tỏ công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán lãi tiền vay. Tuy nhiên năm 2005 chỉ tiêu này có sự giảm sút so với 2 năm trước nguyên nhân do công ty đã tăng vay nợ để đầu tư mở rộng sản xuất và đang ở giai đoạn đầu của việc khai thác công suất nên lợi nhuận đem lại chưa tương xứng.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu của công ty qua các năm 2003, 2004, 2005 lần lượt là 4,2%; 4,3%; 4,6% đều có xu hướng tăng lên, cho thấy một triển vọng kinh doanh khá tốt đẹp .
Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản năm 2003 của công ty là 9%, năm 2004 là 11% nhưng năm 2005 hạ xuống còn 6,5%. Như đã nói ở trên, do những tài sản cố định mới đầu tư đi vào hoạt động chưa lâu nên điều này là hoàn toàn bình thường.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của công ty đều tăng qua các năm. Cụ thể, năm 2003 chỉ tiêu này đạt 12,4%, năm 2004 đạt 16,5%, năm 2005 đã đạt 19,3% đây là mức khá cao .
Như vậy khả năng sinh lời của công ty là khá tốt .
Tóm lại , qua phân tích ta thấy công ty có tình hình tài chính lành mạnh , tình hình hoạt động kinh doanh tương đối tốt , làm ăn có hiệu quả .
b) Công ty Xây dựng Chiến Thắng
Tên khách hàng : Công ty Xây dựng Chiến Thắng
Trụ sở chính : Trưng Trắc – Văn Lâm – Hưng Yên
Ngành nghề kinh doanh chủ yếu: Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp.
Loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên
Những ảnh hưởng quan trọng đến tình hình sản xuất kinh doanh: Công ty xây dựng Chiến Thắng mới được thành lập vào đầu năm 2003, trong khoảng thời gian từ đó đến nay giá cả nguyên vật liệu xây dựng như sắt thép, xi măng...có nhiều biến động.
Công ty có bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh như sau:
Bảng 7. Bảng cân đối kế toán 3 năm gần nhất của công ty Xây dựng Chiến Thắng
Đơn vị : VN đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
TÀI SẢN
A. Tài sản ngắn hạn
4.211.018.000
5207..889.900
7.587.796.000
1. Tiền
242.244.000
38.142.000
2.633.000
2. Các khoản phải thu
2.804.388.000
3.265.568.000
2.082.083.000
3. Hàng tồn kho
1.164.386.000
1.904.179.000
5.503.080.000
B. Tài sản dài hạn
273.157.000
253.157.000
243.157.000
1. Tài sản cố định hữu hình
273.157.000
253.157.000
243.157.000
- Nguyên giá
554.047.000
554.047.000
554.047.000
- Giá trị hao mòn luỹ kế
280.890.000
300.890.000
310.890.000
2. Chi phí XDCB dở dang
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
4.484.175.000
5.461.046.000
7.830.953.000
NGUỒN VỐN
A. Nợ phải trả
3.182.908.000
4.149.742.000
1.531.659.000
1. Nợ ngắn hạn
3.182.908.000
4.149.742.000
1.531.659.000
- Phải trả cho người bán
1.582.442.000
259.873.000
401.659.000
- Vay ngắn hạn
1.600.466.000
3.889.869.000
1.130.000.000
2. Nợ dài hạn
- Vay dài hạn
B. Vốn chủ sở hữu
1.301.267.000
1.311.304.000
6299294000
TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
4.484.175.000
5.461.046.000
7.830.953.000
B
ảng 8. Báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm gần nhất của công ty Xây dựng Chiến Thắng
Đơn vị : VN đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1.Doanh thu thuần
4.133.685.000
6.321.475.000
4.223.187.000
2.Giá vốn hàng bán
3.925.974.500
5.977.298.000
3.843.101.000
3.Lợi nhuận gộp
207.710.500
344.177.000
398.452.000
4.Doanh thu hoạt động tài chính
0
5.Chi phí hoạt động tài chính
100.059.500
190.789.000
85.575.000
6.Chi phí bán hàng
82.651.000
114.760.000
195.925.000
7.Chi phí quản lý doanh nghiệp
25.000.000
24.000.000
25.500.000
8.Lợi nhuận thuần từ hoạt động
kinh doanh
0
14.628.000
91.452.000
9.Thu nhập khác
10.Chi phí khác
0
11.Lợi nhuận khác
0
12.Tổng lợi nhuận trước thuế
0
14.628.000
91.452.000
13.Thuế thu nhập DN phải nộp
0
4.591.000
27.195.000
14.Lợi nhuận sau thuế
0
10.037.000
64.257.000
Qua các số liệu ở bảng 4 và bảng 5, các chỉ tiêu tài chính của công ty này được tính như sau:
Năm 2003
Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn:
Chỉ tiêu thanh toán nhanh:
Hệ số nợ:
Chỉ tiêu khả năng trả lãi:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn CSH :
Các chỉ tiêu tài chính năm 2004-2005 của công ty được tính tương tự như trên.
Tập hợp các chỉ tiêu đã tính ta có bảng sau:
Bảng 9. Các chỉ tiêu tài chính của công ty xây dựng Chiến Thắng
từ năm 2003 đến năm 2005
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
- Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn
1,32
1,26
4,95
- Chỉ tiêu thanh toán nhanh
0,96
0,8
1,36
Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính
- Hệ số nợ
0,71
0,76
0,2
- Chỉ tiêu khả năng trả lãi
1
1,08
2,07
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
doanh thu
0
0,16%
1,52%
- Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản
0
0,18%
0,82%
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu
0
0,77%
1,02%
Từ số liệu ở bảng 6 cho thấy, công ty có hệ số thanh toán ngắn hạn qua 3 năm 2003 , 2004 , 2005 lần lượt là 1,32 ; 1,26 ; 4,95 đều lớn hơn 1 chứng tỏ khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty là tương đối tốt . Đáp ứng tiêu chuẩn của Ngân hàng. Năm 2004 , hệ số này có giảm chút ít so với năm 2003 song năm 2005 nó đã được cải thiện rất nhiều , trong năm này qui mô vốn của công ty tăng 1,7 lần so với năm 2003 , tăng 1,4 lần so với năm 2004 hoàn toàn do tăng vốn chủ sở hữu. Nợ ngắn hạn giảm nhiều, qui mô tài sản ngắn hạn tăng lên đã làm cho hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn tăng mạnh, nó cho thấy một đồng nợ ngắn hạn của công ty trong năm được trang trải bằng 4,95 đồng tài sản ngắn hạn mà không cần sử dụng các tài sản khác.
Hệ số thanh toán nhanh của công ty qua các năm 2003 , 2004 , 2005 lần lượt là 0,96; 0,8; 1,36 đều nằm trong lân cận của mức lý tưởng là 1. Điều đó thể hiện công ty có khả năng thanh toán nhanh tốt đặc biệt đối với một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng – lĩnh vực mà vốn chủ yếu nằm trong hàng tồn kho như chi phí sản xuất dở dang , nguyên vật liệu tồn kho … Từ hai chỉ tiêu trên cho thấy, công ty có khả năng thanh toán ngắn hạn tương đối tốt .
Hệ số nợ của công ty trong hai năm 2003, 2004 lần lượt là 0,71 và 0,76. Đây là mức khá cao, thể hiện một cơ cấu vốn mạo hiểm. Song sang năm 2005, hệ số này đã được cải thiện rất nhiều do các thành viên đã bổ sung vốn góp. Năm 2005, hệ số này là 0.2, trên quan điểm của ngân hàng, nó cho thấy một cơ cấu vốn rất an toàn.
Chỉ tiêu khả năng trả lãi của công ty trong hai năm 2003-2004 lần lượt là 1 và 1,08 rất thấp so với mức lí tưởng là 2. Song sang năm 2005 chỉ tiêu này đã đạt 2,07 do công ty giảm vay nợ và làm ăn có lãi nhiều hơn năm trước. Hiện tại công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán lãi tiền vay.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của công ty đều có xu hướng tăng dần qua các năm song còn ở mức thấp. Do đây là doanh nghiệp mới thành lập và đặc thù kinh doanh là lĩnh vực xây dựng nên điều này là có thể chấp nhận được .
Tóm lại, qua phân tích ta thấy công ty có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh đang dần đi vào ổn định và làm ăn có lãi.
Đánh giá hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo Văn Lâm
2.3.1. Kết quả đạt được
Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh đã được thực hiện trên cơ sở tuân thủ quy trình nghiệp vụ do NHNo&PTNT Việt Nam ban hành và sự nỗ lực, tận tâm nghề nghiệp của các cán bộ tín dụng. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào có nhu cầu vay vốn, chi nhánh đều đề nghị cung cấp các thông tin về tình hình tài chính. Sau đó, các cán bộ tín dụng sẽ tiến hành xem xét, tính toán và phân tích các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp dựa vào số liệu của các báo cáo tài chính và những thông tin cần thiết khác. Hoạt động này cũng được tiến hành định kỳ đối với các doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng với chi nhánh. Nhờ vậy, cán bộ tín dụng có thể theo dõi được xu hướng tốt, xấu và những biến động trong tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, tìm hiểu nguyên nhân của những biến động, một phần có thể tư vấn cho doanh nghiệp, một phần có thể quyết định cho vay hay không cho vay nhằm sử dụng vốn hiệu quả và tránh rủi ro cho Ngân hàng.
Cho đến nay, gần bảy năm trong công tác cho vay doanh nghiệp của chi nhánh, hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp đã hỗ trợ cho công tác này đạt được các kết quả sau:
-Thứ nhất, rủi ro thấp, độ an toàn cao: Kinh doanh trong môi trường có sự cạnh tranh gay gắt, việc tạo uy tín lớn đối với toàn hệ thống cũng như đối với khách hàng là điều tối quan trọng. Do đó, toàn chi nhánh nói chung và các cán bộ tín dụng nói riêng đã phát huy hết năng lực của mình để hoạt động cho vay đạt hiệu quả cao nhất, đặc biệt là cho vay đối với các doanh nghiệp bởi vì hiện nay các loại hình doanh nghiệp như Công ty TNHH, Công ty tư nhân xin vay để hoạt động kinh doanh rất nhiều mà bản thân các công ty này chứa đựng độ rủi ro rất cao, cho nên mỗi cán bộ tín dụng luôn tập trung phát huy hết khả năng phân tích tài chính ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32308.doc