Phân tích tác động gia nhập WTO của Việt Nam đối với xuất khẩu cà phê của Tổng Công ty cà phê Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài: Ngành cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, chỉ trong vòng hai mươi, hai nhăm năm trở lại đây, chúng ta đã đưa sản lượng cà phê của cả nước tăng lên hàng trăm lần. Thành tựu đó được ngành cà phê thế giới ca ngợi và chúng ta đã tự hào vì nó. Trong những năm gần đây, do kích thích mạnh mẽ của giá cả thị trường cà phê đã mang lại cho các nhà sản xuất và kinh doanh lợi nhuận siêu ngạch. Tình hình phát triển của cà phê đã ra khỏi tầm kiểm soát của ngành

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3025 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tác động gia nhập WTO của Việt Nam đối với xuất khẩu cà phê của Tổng Công ty cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng như của Nhà Nước, và chính vì thế mà sự tăng trưởng nhanh chúng với mức độ lớn đã có tác động quan trọng trong việc góp phần đâỷ ngành cà phê thế giới đến thời kỳ hoàng kim. Ngành cà phê Việt Nam với quy mô sản xuất không ngừng được mở rộng tạo ra nguồn cung cấp dồi dào về sản phẩm cà phê ra thị trường thế giới. Gần đây giá cà phê thế giới luôn đứng ở mức cao và không có dấu hiệu giảm giá( giá cà phê Robusta giao kỳ hạn tháng 12/2006 trên thị trường London 1428 USD/ tấn, giá cà phê Arabica giao kỳ hạn tháng 12/2006 trên thị trường Newyork đạt 2.536,29 – 2545,10 USD/ tấn). “Theo ” Đó là cơ hội lớn đối với các nhà sản xuất và kinh doanh cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay, ở Việt Nam cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có giá trị lớn và đứng thứ hai thế giới sau Brasil. Tuy nhiên, việc Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO về cơ bản đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam bước vào một sân chơi rất rộng với vô số luật lệ vừa đa dạng vừa phức tạp.Cái khó không những ở chỗ phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm và hiểu hết những luật lệ này là gì, ở những lĩnh vực nào mà còn ở chỗ dù Việt Nam đã cố gắng đến mức tối đa trong việc bổ xung hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại để có thể gia nhập WTO, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Pháp luật của chúng ta còn thiếu nhiều định chế và một số định chế chưa tương thích với pháp luật quốc tế. Có lẽ các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có Tổng công ty Cà phê Việt Nam đang quan tâm nhiều tới việc gia nhập WTO của Việt Nam thì họ phải tuân thủ những quy định nào và ảnh hưởng cuả nó tới tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Vấn đề đặt ra với hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề, thành phần kinh tế của Việt Nam trong đó có ngành nông nghiệp nói chung, ngành Cà phê và Tổng công ty cà phê Việt Nam nói riêng được đánh giá là sẽ chịu nhiều sức ép không chỉ bởi những quy định nghiêm ngặt của WTO đối với nông nghiệp như xóa bỏ trợ cấp xuất Khẩu hay cắt giảm thuế quan mà còn bởi xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty nói riêng, ngành cà phê Việt Nam nói chung phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài trên bình diện mới rộng hơn, sâu hơn trong khi thực tế là xuất khẩu cà phê của Tổng công ty mặc dù có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn quá nhiều yếu kém. Nhìn nhận thực tế tình hình xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam thời gian qua, những thành tựu mà Tổng công ty đã đạt được không phải là không đáng kể. Song, một khi đã gia nhập WTO, một sân chơi lớn với sức ép cạnh tranh cao, trong khi đó với một nền nông nghiệp nói chung ngành cà phê nói riêng vẫn còn lạc hậu như Việt Nam hiện nay không phải là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, Phân tích tác động gia nhập WTO của Việt Nam đối với xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam không chỉ là việc nhìn nhận, đánh giá thực trạng xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam nói riêng, ngành cà phê Việt Nam nói chung mà còn xây dựng cơ sở cho việc đề ra những giải pháp hữu hiệu đối với việc thúc đẩy xuất Khẩu cà phê tăng mạnh hơn nữa trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO nhằm giữ vững vị thế của mình trên thị trường thế giới. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu tìm hiểu những quy định, quy chế của tổ chức thương mại thế giới – WTO về nông nghiệp nói chung và xuất nhập khẩu hàng cà phê nói riêng, cũng như phân tích thực trạng xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam từ 2002 đến nay, luận văn sẽ đưa ra những phân tích, đánh giá ảnh hưởng gia nhập WTO của Việt Nam đối với xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam, đồng thời đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tác động của gia nhập WTO đối với xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Phân tích mặt hàng cà phê xuất Khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam tế nay đến 2010. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê kinh nghiệm, phân tích tổng hợp, ngoại suy kết hợp với phương pháp tiếp cận hệ thống và phân tích thông tin. Những đóng góp của luận văn: Mặt là, nghiên cứu những quy định, quy chế của tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó tới ngành nông nghiệp nói chung ngành cà phê nói riêng và các cơ hội hấp dẫn từ việc gia nhập WTO đối với việc mở rộng thị trường xuất Khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam . Hai là, đánh giá tổng quát thực trạng xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam thời gian qua và rút ra những thành công cũng như những vấn đề còn tồn tại cần giải quyết trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO từ đó đề ra những giải pháp cơ bản khai thác cơ hội hấp dẫn từ việc gia nhập WTO của Việt Nam nhằm thúc đẩy xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam. Nội dung và kết cấu luận văn: Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu xây dựng làm 3 chương: Chương 1: Đặc điểm kinh doanh cà phê trong điều kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO. Chương 2: Phân tích tác động của gia nhập WTO đến xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam. Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản khai thác cơ hội hấp dẫn từ việc Việt Nam gia nhập WTO để thúc đẩy xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam. CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM KINH DOANH CÀ PHÊ TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI – WTO. 1.1. Xuất khẩu cà phê và các nhân tố cơ bản tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê: 1.1.1. Khái niệm xuất khẩu và vai trò của nó đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất Khẩu cà phê: 1.1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu: Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các nước thông qua mua bán nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Trao dổi hàng hóa là mặt hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia và phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Ngày nay, Xuất khẩu không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy, phải coi trọng xuất khẩu cũng như xem thương mại quốc tế như một tiền đề, một nhân tố phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hóa quốc tế. Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương trong dù hàng hóa và dịch vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, nó không chỉ là một hành vi buôn bán đơn lẻ mà là có một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên ngoài nhằm mục đích lợi nhuận thúc đẩy hàng hóa sản xuất phát triển, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt khác, hoạt động này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể lại gây ra thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng đến xuất khẩu tư liệu sản xuất từ máy móc thiết bị cho đến các máy móc công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hóa hữu hình đến hàng hóa vô hình. Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Hoạt động này diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian và thời gian; nó có thể diễn ra trong một ngày hoặc kéo dài hàng năm; có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia khác nhau. Nếu xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Do vậy mà xuất khẩu được xem như là chiến lược kinh doanh quan trọng của các doanh nghiệp. Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu trong đó có thể là: + Sử dụng khả năng vượt trội ( hoặc những lợi thế ) của doanh nghiệp. + Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao đơn vị khối lượng sản xuất. + Nâng cao được lợi nhuận của công ty. + Giảm được rủi ro cho tối thiểu hóa sự giao động của nhu cầu. Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hóa, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất giá cả và xu hướng biến động của nó. Những điều này phải luôn trở thành nếp thường xuyên trong tư duy của mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu, để có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh trong thương mại quốc tế. Như vậy, hoạt động xuất khẩu phát triển chắc chắn sẽ góp phần to lớn trong sự đi lên của đất nước hội nhập vững chắc vào nền kinh tế thế giới. 1.1.1.2. Vai trò hoạt động xuất khẩu cà phê: 1.1.1.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân nói chung: Với xu thế ngày nay trong sự khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường và nền kinh tế thế giới cũng không ổn định. Một đất nước có được thiên nhiên ưu đãi đến đâu đi nữa nhưng nếu không hội nhập vào thương mại quốc tế thì nền kinh tế tự cung tự cấp đó sẽ bị kiệt quệ, yếu kém, không tài nào có thể vực dậy được, không theo kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc tế và sẽ bị tụt hậu. Đại hội VI TW Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã nhận thức một cách sâu sắc là: “ Chỉ có mở rộng ngoại thương, hội nhập thương mại quốc tế mới cho phép chúng ta đánh giá đúng khả năng, trình độ, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam”. Vì vậy, xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu cà phê cũng là sự đóng góp không nhỏ góp phần vào hoạt động của Việt Nam. - Xuất khẩu cà phê tạo nguồn vốn không nhỏ cho nhập khẩu thiết bị, công nghệ....phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa đòi hỏi phải có một số lượng vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến. Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn, một nước có thể sử dụng nguồn vốn huy động chính như sau: + Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ. + Thu từ các hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ trong nước. + Thu từ hoạt động xuất khẩu. Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận được, song việc huy động chúng không phải là dễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này, các nước đi vay thường phải chịu thiệt thòi, phải chịu sự o ép và sẽ phải trả những khoản nợ sau này. Thực tế, trong những năm qua xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã mang lại hàng trăm triệu USD cho đất nước. Một phần của lượng tiền này được đầu tư vào quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, phần còn lại được đầu tư tiếp cho quá trình tái sản xuất cà phê.Vì vậy, xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô, tốc độ tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. Ở một số nước, một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó nguồn vốn từ bên ngoài được coi là nguồn chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện thực. - Xuất khẩu cà phê thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ nhất chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động nhờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.Thực tế trong những năm vừa qua thì số lượng sản xuất ra không những phục vụ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu và đứng thứ hai thế giới sau Brasil về xuất khẩu cà phê. Thứ hai coi thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất thể hiện: - Xuất khẩu cà phê tạo điều kiện cho các ngành cùng cơ hội phát triển : chẳng hạn khi sản xuất cà phê xuất khẩu phát triển thì nó cần rất nhiều sự hỗ trợ của các ngành khác như: công nghiệp chế tạo máy móc, công nghiệp điện, giao thông vận tải và nó cũng cũng đòi hỏi chính sự phát triển của các ngành này. - Xuất khẩu cà phê tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm cà phê góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô. - Xuất khẩu cà phê tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất cà phê, tăng thêm về nguồn nguyên liệu cho sản xuất và chế biến mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần giới hạn sản xuất của quốc gia đó. - Xuất khẩu cà phê có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa tăng cường hiệu quả sản xuất cà phê của Việt Nam trên thị trường thế giới. Nó cho phép chuyên môn hóa sản xuất cà phê cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày nay, đối với việc sản xuất những sản phẩm công nghệ cao thì mỗi một loại sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực hiện ở nước thứ năm. Như vậy, Hàng hóa sản xuất ra ở một nước và tiêu thụ ở nhiều nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất khẩu đối với việc chuyên môn hóa sản xuất, tạo điều kiện cho chuyên môn hóa sâu. Đối với việc sản xuất cà phê xuất khẩu ở Việt Nam để đạt được hiệu quả kinh tế cao thì cần có sự chuyên môn hóa không những về mặt sản xuất mà còn phải chuyên môn hóa về thương mại cho mặt hàng cà phê. Xuất khẩu cà phê góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Đặc biệt là đối với Việt Nam một nước đang phát triển đồng tiền khôngcó khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa về cung cầu ngoại tệ, ổn định sản xuất qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Xuất khẩu cà phê có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm, xóa đói nghèo cải thiện đời sống nhân dân. Sau 27 năm được nhà nước quan tâm, vườn cà phê của ta đã không ngừng chiếm vị trí quan trọng trong ngành sản xuất nông nghiệp nước nhà. Việc trồng cà phê phát triển với tốc độ nhanh nhất là từ sau 1990 trở đi, sản lượng cà phê tăng nhanh, sản xuất và chế biến cà phê đã thu hút trên 600 ngàn lao động, những tháng thời vụ có thể thu hút đến hàng triệu lao động ngoài ra còn có hàng ngàn công lao động được đào tạo cho chế biến các loại sản phẩm cà phê như: cà phê sữa, cà phê hòa tan, bánh kẹo có sử dụng cà phê. Sản xuất cà phê được tập trung nhiều ở các hộ gia đình riêng lẻ, sản phẩm chế biến của nông dân chiếm 80% vì thế việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong lĩch vực nông nghiệp, nông thôn tăng lên, nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của lao động nông nghiệp của cả nước từ 74,2 % năm 2000 lên 80% năm 2005, đồng thời tạo điều kiện về vốn qua các hinh thức tín dụng cho các hộ dân nghèo có nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất, tăng thu nhập. - Xuất khẩu cà phê là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có mối tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu cà phê là một hoạt đông chủ yếu cơ bản là hình thức ban đầu cuả kinh tế đối ngoại từ đó nó thúc đẩy các mối quan hệ khác phát triển theo như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế....ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Xuất khẩu nói riêng và ngoại thương nói chung dẫn tới sự thay đổi của của những loại hàng hóa có thể tiêu dùng được trong nền kinh tế bằng hai cách: + Cho phép khối lượng hàng khác với số hàng hóa được sản xuất ra + Cho phép một sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm cho phù hợp với các đặc điểm cho sản xuất. Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động của xuất khẩu đối với các quốc gia này không giống nhau. - Xuất khẩu cà phê góp phần tăng GNP, GDP: Thật vậy, năm 2001 sản lưọng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt 931 nghìn tấn, với kinh ngạch 400,6 triệu USD, năm 2002 xuất khẩu 722 nghìn tấn đạt 323,4 triệu USD, năm 2003 xuất khẩu 749 nghìn tấn đạt 458 triệu USD, năm 2004 xuất khẩu 975 nghìn tấn đạt 594 triệu USD kế hoạch năm 2005 xuất khẩu đạt 900 nghìn tấn ... Trong 5 năm 2001 – 2005, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được được khả năng tăng trường khá nhanh và tương đối bền vững, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm năm ước gần 7,5 % năm đạt xấp xỉ so với mục tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 trong đó ngành cà phê đóng góp không nhỏ về kinh ngạch cho đất nước. 1.1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê: Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia nói chung và của doanh nghiệp nói riêng, việc xuất khẩu cà phê đã mang lại cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê rất nhiều lợi ích như: - Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê trong nước có cơ hội tham gia vào các cuộc cạch tranh trên thị trường cà phê thế giới về giá cả và chất lượng cà phê. Những yếu tố đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất của mình phù hợp với thị trường thế giới. Do đó, đòi hỏi tự nâng cao năng lực và trình độ sản xuất và kinh doanh của mình để tạo ra những sản phẩm cà phê có chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của thị trường. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh cà phê mở rộng thị trường mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong nước và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi tăng doanh số với lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. - Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, luôn tìm tòi và đưa ra mô hình sản xuất chế biến, tổ chức tiêu thụ sao cho có hiệu quả nhất. Thêm vào đó, hoạt động xuất khẩu còn khuyến khích sự phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, marketing và sự phân phối, sự mở rộng trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu các mặt hàng khác. - Sản xuất và kinh doanh cà phê giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động tạo ra thu nhập ổn định, thu được nguồn ngoại tệ tạo cơ sở về vấn đề nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng, trang bị công nghệ dây chuyền máy móc hiện đại để phục vụ cho ngành cà phê, vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của của nhân dân và thu được ngoại tệ để phục vụ cho quá trình tái đầu tư. - Xuất khẩu kinh doanh cà phê tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp như mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài có thể thông qua đối tác tiêu thụ cà phê của mình mà doanh nghiệp có được những thông tin, nguồn sản phẩm mới, công nghệ mới mà ngay thị trường trong nước đang cần. * Thông qua hoật động xuất khẩu doanh nghiệp có được cơ hội và điều kiện để liên doanh liên kết hợp tác để sản xuất, tiêu thụ những loại sản phẩm mới ngay tại nước mình hoặc các nước khác. Ngoài ra việc xuất khẩu mặt hàng cà phê ra thị trường quốc tế còn giúp ngành cà phê hiểu, xác định được mình nên chú trọng vào loại cà phê nào, cần nâng cao chất lượng, chủng loại, mãu mã, bao bì và giá cả hạ cho phù hợp với thị hiếu của thị trường quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận. 1.1.2. Các nhân tố cơ bản tác động tới kinh doanh xuất khẩu cà phê của Việt Nam : Thị trường tiêu thụ cà phê là nơi diễn ra hoạt động mua bán nông sản phẩm, là khâu trung gian nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Cho nên hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê chịu ảnh hưởng của các nhân tố trong giai đoạn lưu thông, tiêu dùng. Tác động tới kinh doanh xuất khẩu cà phê có nhiều nhân tố khác nhau, đứng trên góc độ doanh nghiệp chúng ta có thể phân loại các nhân tố theo hai nhóm cơ bản sau: 1.1.2.1. Nhóm nhân tố bên trong: * Nhân tố về vốn vật chất hay sức mạnh về tài chính: Trong kinh doanh, nếu không có vốn thì doanh nghiệp sẽ không bán được gì cả khi đã có cơ hội kinh doanh. Có vốn giúp doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh một cách dễ dàng hơn, có điều kiện tận dụng các cơ hội để thu được lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Đặc biệt, Mặt hàng cà phê là mặt hàng nông sản nếu doanh nghiệp có vốn lớn sẽ có điều kiện mua hàng tại thời điểm có lợi nhất với giá rẻ nhất và sẽ xuất bán khi nhu cầu của khách hàng tăng lên. Sự trường vốn tạo ra khả năng nắm bắt thông tin nhanh chóng hơn, chính xác hơn do có điều kiện sử dụng các thông tin hiện đại. Ngoài ra, Nó còn cho phép các doanh nghiệp thực hiện các công cụ marketing quốc tế trên thị trường về giá cả, cách thức phân phối, họat động quảng cáo và xúc tiến bán hàng, do vậy mà tạo ra điều kiện xuất khẩu được nhiều hơn. * Nhân tố con người: Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi thành viên trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công trong kinh doanh. Xét về tiềm lực doanh nghiệp thì con người là vốn quý nhất đánh giá sức mạnh của doanh nghiệp đó như thế nào. Trong hoạt động xuất nhập khẩu từ khâu nghiên cứu thị trường, tìm kiếm nguồn hàng, khách hàng, đến công tác giao dịch kí kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng. Nếu thực hiện bởi những cán bộ nhanh nhẹn, trình độ chuyên môn cao và lại có kinh nghiệm thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao, hoạt động xuất khẩu cũng sẽ được tiến hành một cách liên tục và xuôn sẻ. Nếu các yếu tố trên không được đáp ứng thì mọi cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp có tốt thế nào đi chăng nữa cũng bị đổ bể và sẽ gây ra những đổ vỡ lớn cho doanh nghiệp đó. * Nhân tố về bộ máy quản lý, tổ chức điều hành: Trong hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lý con người là rất quan trọng, một hệ thống quản lý hợp lý sẽ giúp các nhà lãnh đạo sử dụng tốt hơn nguồn lực của doanh nghiệp. Nếu một bộ máy quản lý cồng kềnh, bất hợp lý sẽ dẫn tới hiệu quả hoạt động kém, chi phí cho quản lý lớn làm giảm lợi nhuận. Căn cứ trên tình hình thực tế hiện nay, các doanh nghiệp đang ngày càng có xu hướng giảm bớt các bộ phận không cần thiết, gộp những phòng có chức năng tương tự vào với nhau, giảm thiểu những khâu chi phí không cần thiết trong giao dịch. Như vậy, việc tổ chức bộ máy hành chính là một yếu tố không kém phần quan trọng góp phần thúc đẩy hay hạn chế việc kinh doanh nói chung của doanh nghiệp cũng như hoạt động xuất khẩu nói riêng. * Tiềm năng và lợi thế bên trong của doanh nghiệp: Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩch vực sản xuất kinh doanh cà phê đã lâu, bao giờ cũng có nhiều lợi thế nhất định so với những doanh nghiệp mới hoặc bắt đầu tham gia vào thị trường cà phê, đó là: - Về mặt kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm kinh doanh mặt hàng cà phê, thông qua những bài học mà học có thể trải qua. - Số lượng khách hàng mà họ có quan hệ từ trước tới nay, các doanh nghiệp này chỉ việc duy trì các khách hàng cũ và mở rộng những khách hàng mới. - Hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường, mức độ chi phối thị trường. - Có thể có những ưu tiên từ phía nhà nước. 1.1.2.2. Nhóm nhân tố bên ngoài: Bất kỳ một hình thức kinh doanh nào cũng đều phải chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh doanh từ hai hướng tích cực và tiêu cực. Đối với họat động kinh doanh xuất khẩu thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh là mạnh mẽ hơn, bởi vì có các yếu tố quốc tế tác động vào nhất là khi Việt Nam ra nhập WTO, chúng ta phải cam kết giảm các loại thuế, mở cửa thị trường và xóa bỏ hỗ trợ cho xuất khẩu. * Việc Việt Nam gia nhập WTO về cơ bản đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam bước vào một sân rất rộng với vô số luật lệ vừa đa dạng, vừa phức tạp. Cái khó không những ở chỗ phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm và hiểu hết những luật lệ này là gì, ở những lĩnh vực nào mà còn ở chỗ dù Việt Nam đã có cố gắng đến mức tối đa trong việc bổ xung, hòan thiện hệ thống pháp luật về thương mại để có thể gia nhập WTO, nhưng cũng phải thừa nhận rằng pháp luật của chúng ta còn thiếu nhiều định chế và một số định chế chưa tương thích với pháp luật quốc tế. - Thuế quan: Trong lĩnh vực hoạt động xuất khẩu trước đây Việt Nam chưa gia nhập WTO, việc đánh thuế xuất khẩu làm tăng tương đối mức giá cả hàng xuất khẩu so với giá cả thế giới nên đem lại bất lợi cho sản xuất kinh doanh trong nước. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã gia nhập WTO chúng ta phải tuân thủ các cam kết mà WTO quy định với các thành viên, bên cạnh đó mỗi thành viên cũng được hưởng lợi khi vào WTO cụ thể: + Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 với mục đích bãi bỏ hàng rào phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa nhằm hạn chế số lượng như giấy phép, hạn ngạch, đặc biệt đối với hàng nông sản. Những quy định trong hiệp định này là có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam, nhưng đồng thời nó cũng là điều mà các nhà sản xuất hàng nông sản phải lưu ý khi đương đầu với hàng nông sản nước ngoài nhất là các nước thành viên WTO có tiềm năng về hàng nông sản xuất khẩu sang Việt Nam. - Hiệp định về hàng rào kỹ thuật: Hiệp định này cho phép các nước thành viên có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe, môi sinh, môi trường. Dù hiệp định đã đưa ra những nguyên tắc và tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm tránh lạm dụng những biện pháp này để tạo ra những rào cản thương mại ( phi thuế) bất hợp lý, nhưng trên thực tế không ít nước đã đặt ra những rào cản kỹ thuật chưa thực sự công bằng và minh bạch nhằm hạn chế nhập khẩu đối với một số hàng hóa nhất định trong bối cảnh mà họ cho là cần thiết. Các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam cần hết sức lưu ý về những biện pháp loại này khi xuất khẩu hàng của mình sang một thị trường cụ thể nào đó. Nếu không dễ rơi vào tình trạng tiền mất tật mang. - Hiệp định về chống trợ cấp: hiệp định này đề ra các biện pháp bảo hộ hợp pháp đối với hàng hóa sản xuất trong nước khi có sự cạnh tranh không lành mạnh (unfaircompition) của hàng hóa nhập khẩu mà những hành hóa này được sản xuất có sự trợ cấp của chính phủ xuất khẩu. Ngoài các quy định về chống trợ cấp trong hiệp định này, các nước có đạo luật riêng về chống trợ cấp nhằm bảo hộ sản xuất trong nước như Việt Nam có pháp lệnh chống trợ cấp. Những dấu hiệu để xác định chống trợ cấp là: Có sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc của một tổ chức công, hỗ trợ thu nhập hoặc hỗ trợ giá; quy định khối lượng trợ cấp dưới bất kỳ điều kiện nào. Điều đó cũng có nghĩa là các nước thành viên WTO không được cấp hoặc duy trì những khoản trợ cấp mà gây tác động xấu đến quyền lợi của các nước thành viên khác. - Hiệp định về nông nghiệp: Hiệp định này nhằm tạo ra điều kiện ngày càng thuận lợi đối với việc mua bán hàng hóa nông sản để ổn định và đảm bảo sự an toàn của nền nông nghiệp của các nước xuất siêu cũng như các nước nhập siêu hàng nông sản. Theo hiệp định để mở cửa thị trường hàng nông sản thì phải dần loại bỏ các hình thức hạn chế nhập khẩu, nghĩa là ban đầu các hình thức hạn chế định lượng nhập khẩu phải được chuyển sang hình thức thuế quan, sau đó thuế quan phải được cắt giảm, và cuối cùng là các hàng rào thương mại phi thuế quan (hạn chế khối lượng nhập khẩu các loại phí áp đặt đối với nông sản nhập khẩu....) phải bị loại bỏ. Ngoài ra, hiệp định cần quy định rằng trợ cấp xuất khẩu phải được cắt giảm kể cả về mặt giá trị và quy mô. Như vậy, Sau khi ra nhập WTO, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam có cơ hội để mở rộng thị trường và tăng kim ngạch xuất khẩu . Tuy nhiên, phải tránh việc dựa vào nhà nước để hưởng trợ cấp xuất khẩu mà hậu quả khó lường trước được. - Hiệp định về trị giá thuế hải quan: Xác định trị giá tính thuế theo tỷ giá giao dịch cho hàng hóa nhập khẩu. Điều kiện để áp dụng phương pháp này là quyền định đoạt hàng của người mua sau khi nhập khẩu, sau khi bán lại hàng, người mua không phải trả thêm bất kỳ khoản nào từ số tiền bán lại. Xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng loại nhập khẩu. Xác định trị giá thuế theo trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự. Xác định trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ, tức khấu trừ các chi phí tiền hoa hồng, phí vận chuyển, bảo hiểm, thuế, thuế nội địa. Xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính toán, nghĩa là nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các cách trên thì áp dụng phương pháp này. Trị giá này bao gồm: Chi phí để sản xuất hàng hóa ; lợi nhuận của việc sản xuất hàng hóa; các chi phí có liên quan tới việc nhập khẩu như vận chuyển, xếp dỡ hàng, phí bảo hiểm. Xác định trị giá tính thuế theo suy đoán hợp lý, đây là phương pháp cuối cùng nếu không xác định được các phương pháp đã nêu. - Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu: Hiệp định này dựa trên một nguyên tắc cơ bản là tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là nhập khẩu; giảm thiểu các thủ tục, giấy tờ không cần thiết gây ảnh hưởng xấu cho hoạt động thương mại. Ưu điểm nổi bật của hiệp định này là nó yêu cầu các nước thành viên buộc phải công bố cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, các nhà nhập khẩu trong nước và cả các cơ quan chức năng liên quan đầy đủ thông tin về thủ tục cấp giấy nhập khẩu để xác định cụ thể trách nhiệm của từng loại đối tượng. Doanh nghiệp cần lưu ý là hệ thống cấp giấy phép gồm tự động và không tự động tùy thuộc vào việc một c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2382.doc