Đề bài: Phân tích sự phân chia lợi nhuận giữa các tâp đoàn tư bản. Từ đó rút ra ý nghĩa thực tế.
LỜI NÓI ĐẦU
Sự phát triển của Việt Nam cũng như của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) khác được đánh dấu bằng sự chuyển hướng trong tư tưởng, nhận thức của các Đảng và Nhà Nước về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đường đi lên CNXH. Ở Việt Nam, từ sau những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 25 năm, đó thực sự chỉ là một khoảng thời gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc, một đất nước.
20 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích sự phân chia lợi nhuận giữa các tâp đoàn tư bản. Từ đó rút ra ý nghĩa thực tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuy nhiên, trong 25 năm đó, Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển vượt bậc. Từ một nước nghèo đói và thiếu ăn quanh năm, luôn phải trông chờ vào các khoản viện trợ, trợ giúp của các nước khác, Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan). Các nghành sản xuất Công-Nông Nghiệp và Dịch Vụ đã đạt được những thành quả đáng kể, đời sống của nhân dân được cải thiện vv... Có được sự phát triển đó, chính là nhờ sự đổi mới trong nhận thức, tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH. Trong số những nhận thức đó, đặc biệt quan trọng, là sự đổi mới trong nhận thức về của lợi nhuận mà một khía cạnh là nhận thức rõ bản chất sự phân chia lợi nhuận của các tập đoàn tư bản. Từ sự phân chia đó để nhận định rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Việt Nam đang hội nhập sâu hơn với quốc tế, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản phương Tây. Hiểu rõ bản chất lợi nhuận và cách phân chia lợi nhuận trong thế giới tư bản không những giúp chúng ta định hướng đúng con đường Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn giúp chúng ta hội nhập sâu sắc và luôn tìm được hướng đi đúng đắn và có lợi cho sự phát triển đất nước.
Trong phạm vi cho phép của bài viết và do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết này khó tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ dẫn, giúp đỡ của thầy giáo để em có được những nhận thức đúng đắn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Phần I: Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận.
Học thuyết kinh tế của Mác xét về hoàn cảnh ra đời đã có một số ưu thế thuận lợi hơn các học thuyết kinh tế trước đó. Ra đời trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của CNTB vì vậy học thuyết kinh tế của Mác không chỉ giải thích được nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận mà còn thấy được những hình thái biểu hiện khác của lợi nhuận. Sở dĩ như vậy là do cùng với quá trình phát triển của mình,CNTB không ngừng tăng cường sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong xã hội. Do vậy, nếu trước kia trong xã hội chỉ tồn tại tư bản trong lĩnh vực sản xuất Công nghiệp thì nay đã được phân chia ra cả các lĩnh vực khác như Thương nghiệp, tín dụng và cả trong Nông nghiệp nữa. Trên cơ sở sự phân chia đó của tư bản, học thuyết của Mác cũng đã chỉ ra được sự phân chia tương ứng của lợi nhuận. Nếu trước đây, toàn bộ phần giá trị thặng dư bị nhà Tư bản Công nghiệp chiếm đoạt hết thì nay phần giá trị thặng dư đó lại được chia cho các lĩnh vực khác nữa và từ đó dẫn tới sự hình thành của lợi nhuận Thương nghiệp, lợi tức cho vay và địa tô Tư bản Chủ nghĩa.
Tuy nhiên, mặc dù lợi nhuận Công nghiệp, lợi nhuận Thương nghiệp, lợi tức cho vay và địa tô Tư bản Chủ nghĩa đều có cùng nguồn gốc là phần giá trị thặng dư do lao động không công của người lao động tạo ra, đều là các hình thức biểu hiện khác nhau của lợi nhuận nhưng mỗi một hình thức lại có một số đặc điểm riêng khác biệt với các hình thức khác. Để thấy rõ được điều này, sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu, xem xét lần lượt từng hình thức này.
a/ Lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận Thương nghiệp:
Trước tiên, xét trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hóa ta sẽ thấy tồn tại hai dạng tư bản là tư bản Thương nghiệp và tư bản Công nghiệp và tương ứng với chúng là hai hình thức lợi nhuận, lợi nhuận Thương nghiệp và lợi nhuận Công nghiệp. Không phải chỉ tới CNTB thì mới tồn tại hai dạng tư bản cũng như hai hình thái lợi nhuận này. Nhưng trong các xã hội trước CNTB thì hai dạng tư bản này hoàn toàn độc lập với nhau. Nhà tư bản sau khi sản xuất ra sản phẩm rồi phải tự mình mang sản phẩm ra thị trường để tiêu thụ do đó toàn bộ tư bản của họ ban đầu không chỉ được đầu tư vào mỗi quá trình sản xuất mà còn phải chi phí cho cả quá trình bán hàng do vậy lợi nhuận của nhà tư bản Công nghiệp sẽ bị giảm đáng kể. Còn tư bản Thương nghiệp trong giai đoạn này,hay còn được gọi là Thương nghiệp cổ xưa với chức năng lưu thông hàng hoá dựa trên cơ sở “mua rẻ, bán đắt” và vì vậy lợi nhuận Thương nghiệp lúc này thực chất là kết quả của việc “ăn cắp và lừa đảo”. Ta có thể thấy rõ điều này qua quan điểm của trường phái trọng thương, cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, cho rằng “không một người nào thu được lợi mà không làm thiệt kẻ khác”.
Nhưng trong giai đoạn TBCN, do nhu cầu của sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá thì Công nghiệp và Thương nghiệp hay nói rộng hơn là quá trình sản xuất và lưu thông không thể tách biệt độc lập mà đã trở nên phụ thuộc, gắn kết lẫn nhau. Lúc này thì tư bản Thương nghiệp, thực chất “là một bộ phận của tư bản Công nghiệp tách rời ra, phục vụ qúa trình lưu thông hàng hoá của nhà tư bản Công nghiệp”. Khi đó, với sự hình thành của tư bản Thương nghiệp thì cả tư bản Công nghiệp và tư bản Thương nghiệp đều thu được những lợi ích mà được thể hiện ra là lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận Thương nghiệp. Đối với tư bản Thương nghiệp, mặc dù chỉ tham gia vào lĩnh vực lưu thông, tức là chỉ tham gia vào việc thực hiện giá trị, trong đó có giá trị thặng dư, chứ không hề tham gia vào quá trình sản xuất ra giá trị nhưng vẫn thu được một phần lợi nhuận. Phần lợi nhuận này được gọi là lợi nhuận Thương nghiệp. Nếu chỉ xét tới vai trò của tư bản Thương nghiệp là thực hiện giá trị của hàng hoá mà tạm thời bỏ qua chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông của nó thì đúng là tư bản Thương nghiệp không hề tạo ra giá trị và giá trị thặng dư do vậy nhìn bề ngoài có thể lầm tưởng lợi nhuận Thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt mà có. Tuy nhiên, lợi nhuận Thương nghiệp thực chất, “là một phần giá trị trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản Công nghiệp nhường cho nhà tư bản Thương nghiệp”.
Sở dĩ nhà tư bản Công nghiệp chịu nhường và phải nhường một phần của thặng dư mà mình chiếm đoạt được hay một phần lợi nhuận của mình cho nhà tư bản Thương nghiệp là do:
Thứ nhất, với việc hình thành bộ phận tư bản Thương nghiệp chuyên trách việc lưu thông hàng hoá thì tư bản Công nghiệp đã thu được nhiều lợi nhuận hơn so với khi mà tư bản Công nghiệp phải đảm nhiệm cả việc lưu thông hàng hoá. Ngay cả khi phải chia sẻ một phần lợi nhuận cho tư bản Thương nghiệp thì phần lợi nhuận còn lại vẫn nhiều hơn cho nên nhà tư bản có thể nhường một phần lợi nhuận nhằm duy trì bộ phận tư bản Thương nghiệp.
Thứ hai là, như trên đã phân tích, nếu chỉ xét tư bản Thương nghiệp với vai trò thuần tuý là thực hiện giá trị thì tư bản Thương nghiệp không hề tạo ra một chút giá trị nào, tức là hoạt động đó sẽ không mang lại một chút lợi nhuận nào cho nhà tư bản Thương nghiệp. Do vậy,nếu muốn tư bản Thương nghiệp tiếp tục đảm nhiệm việc tiêu thụ hàng hóa, thực hiện gia trị thì nhà tư bản Công nghiệp buộc phải nhường một phần giá trị thặng dư cho tư bản Thương nghiệp.
Ngoài ra, sự chuyên môn hoá này còn góp phần mở rộng qui mô tái sản xuất, mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho Công nghiệp phát triển. Hơn nữa, tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư nhưng tư bản Thương nghiệp lại góp phần làm tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận và do đó, làm cho tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội tăng.
Như vậy, khái quát lại thì lợi nhuận Thương nghiệp có nguồn gốc từ phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên lợi nhuận đó được thực hiện như thế nào? Do tư bản Thương nghiệp chỉ tham gia vào quá trình lưu thông cho nên lợi nhuận Thương nghiệp chính là phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Nhưng nói thế không có nghĩa là nhà tư bản Thương nghiệp phải mua hàng hoá với đúng giá trị của nó để rồi bán cao hơn giá trị nhằm thu lợi nhuận chênh lệch. Mà thực chất thì nhà Tư bản Thương nghiệp sẽ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và bán đúng bằng giá trị của hàng hoá. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự hình thành một tỉ suất lợi nhuận bình quân mới là bình quân các tỉ suất lợi nhuận của hai nghành Công nghiệp và Thương nghiệp. Ta có thể thấy rõ điều này khi phân tích ví dụ sau:
Một nhà Tư bản Công nghiệp có một lượng tư bản là 800 với cấu tạo: 700c + 100v với tỉ suất giá trị thặng dư: m’ = 100% => giá trị hàng hóa là: 700c + 100v + 100 = 900
Tỉ suất lợi nhuận nghành Công nghiệp sẽ là:
P’CN = 100/800 * 100% = 12,5%
Bây giờ, nếu có thêm một nhà tư bản Thương nghiệp bỏ ra 200 để mua hàng hoá =>lúc đó ta có tỉ suất lợi nhuận bình quân sẽ bằng:
100 *100% = 10%
800 + 200
Theo tỉ suất lợi nhuận chung mới này thì phần lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận Thương nghiệp tương ứng sẽ bằng:
LnCN = 800 * 10% = 80
LnTN = 200 * 10% = 20
Khi đó nhà tư bản Thương nghiệp sẽ mua hàng hoá từ nhà tư bản Công nghiệp với giá thấp hơn giá trị:
800 + 80 = 880 (<900)
và sẽ bán với giá đúng bằng giá trị và thu được lợi nhuận Thương nghiệp:
880 + 20 = 900
Như vậy là, với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận chung giữa hai ngành Công nghiệp và Thương nghiệp thì lợi nhuận Thương nghiệp đã được thực hiện. Với sự xuất hiện của lợi nhuận Thương nghiệp trong xã hội tư bản, đã hình thành nên hai loại giá cả sản xuất là giá cả sản xuất Công nghiệp và giá cả sản xuất thị trường. Nó cũng góp phần che dấu thêm một mức nữa quan hệ bóc lột TBCN.
b/ Lợi tức cho vay và lợi nhuận ngân hàng:
Như trên đã phân tích, tư bản Thương nghiệp là một bộ phận tư bản Công nghiệp tách ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của nhà tư bản Công nghiệp. Còn tư bản cho vay, thực chất cũng là một bộ phận của tư bản Công nghiệp được tách ra nhưng là để, một mặt vừa đáp ứng nhu cầu về tư bản, mặt khác là để thoả mãn sự thèm khát lợi nhuận của nhà tư bản. Sau đây, ta sẽ tiến hành xem xét nguồn gốc hình thành của tư bản cho vay để làm rõ thêm điều đó.
Trước hết, cần phải thấy rằng trong quá trình chu chuyển của tư bản, có nhiều lúc, nhà tư bản Công nghiệp hoặc Thương nghiệp có một số tư bản tiền tệ nhàn rỗi, ví dụ như tiền trong quỹ khấu hao tái sản cố định, tiền dùng để mua nguyên nhiên liệu, vật liệu nhưng chưa tới kỳ mua.... Nếu nhà tư bản chỉ để tiền ở dạng nhàn rỗi, không hoạt động như vậy thì lượng tiền đó sẽ không mang lại cho nhà tư bản một thu nhập nào. Mà đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền, bất cứ một đơn vị tư bản nào cũng phải mang lại lợi nhuận. Do vậy mà nhà tư bản nẩy sinh ý định đem lượng tư bản nhàn rỗi đó cho người khác vay để kiếm lời.
Mặt khác, cũng chính trong những thời gian đó, lại có những nhà tư bản lại đang rất cần tiền, ví dụ như đang cần mua nguyên nhiên vật liệu để tiếp tục sản xuất nhưng lại chưa bán được hàng hoá, cần tiền để đổi mới tài sản cố định nhưng quỹ khấu hao không đủ... Do đó, những nhà tư bản này tất yếu có nhu cầu vay tư bản của người khác.
Như vậy là cùng một lúc vừa có những nhà tư bản có nhu cầu đi vay lại vừa có những nhà tư bản có nhu cầu cho vay. Và tất yếu sẽ hình thành nên mối quan hệ tín dụng TBCN và nhà tư bản Công nghiệp có tư bản nhàn rỗi sẽ trở thành nhà tư bản cho vay.
Vậy tư bản cho vay "là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó". Đặc điểm nổi bật của tư bản cho vay là nó không thuộc sở hữu của nhà tư bản sử dụng nó vào sản xuất. Có nghĩa là khi nhà tư bản cho vay cho người khác vay một lượng tư bản tiền tệ là chỉ cho người đó quyền sử dụng lượng tư bản tiền tệ đó chứ không cho quyền sở hữu lượng tư bản đó. Do vậy mà ở tư bản cho vay thì quyền sử dụng và quyền sở hữu được tách rời nhau, đây cũng là sự khác biệt căn bản của tư bản cho vay với tư bản Công nghiệp và tư bản Thương nghiệp.
Như trên đã phân tích, nhà tư bản cho vay cho người khác sử dụng lượng tư bản tiền tệ nhàn rỗi của mình không phải do lòng tốt hay vì một cái gì khác mà chỉ đơn thuần là để kiếm lời. Chính vì vậy mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay một số tiền nào đó, khoản tiền này được gọi là lợi tức và nó dược trích từ phần lợi nhuận thu được của nhà tư bản đi vay sau khi anh ta sử dụng lượng tư bản đi vay vào quá trình sản xuất.
Vậy lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Như vậy thì xét cho cùng nguồn gốc của lợi tức chính là phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản Công nghiệp chiếm đoạt của người lao động.
Với sự hình thành của tư bản cho vay và tương ứng với nó là lợi tức cho vay thì lúc này phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản Công nghiệp và tư bản Thương nghiệp thu được không còn thuộc hoàn toàn về họ mà phần lợi nhuận bình quân đó được chia ra thành lợi tức cho vay là khoản đem trả cho nhà tư bản cho vay, phần còn lại sau khi trả lợi tức được gọi là thu nhập của chủ xí nghiệp. Lượng lợi tức đem trả nhiều hay ít tuỳ theo quan hệ cung cầu về tư bản cho vay và nó phụ thuộc vào tỉ suất lợi tức, là tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và tổng số tư bản tiền tệ cho vay.
Nếu kí hiệu lợi tức là Z còn tỉ suất lợi tức là Z’ thì ta có:
Z’ = ( Z/tư bản cho vay) * 100%
Phần lợi tức cao hay thấp là do tỉ suất lợi tức quy định, đến lượt nó thì tỉ suất lợi tức lại bị quy định bởi các yếu tố:
Giới hạn cao nhất của tỉ suất lợi tức chính là tỉ suất lợi nhuận bình quân do vậy mà sự thay đổi của tỉ suất lợi nhuận bình quân cũng dẫn tới sự thay đổi thuận chiều tương ứng của tỉ suất lợi tức. Cũng chính vì vậy cho nên, vì tồn tại quy luật giảm dần của tỉ suất lợi nhuận do đó tỷ suất lợi tức cũng có xu hướng giảm dần.
Tỉ suất lợi tức phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu về tư bản cho vay.
Nói tóm lại, xuất phát từ việc nảy sinh mối quan hệ tín dụng TBCN cho nên đã nảy sinh các nhu cầu cho vay và đi vay đã dẫn tới sự hình thành tư bản cho vay và lợi tức cho vay. Tuy nhiên, quan hệ tín dụng TBCN ở thời kỳ này mới chỉ ở dạng đơn giản mang tính trực tiếp, tức là nhà tư bản cho vay thiết lập trực tiếp mối quan hệ tín dụng với nhà tư bản đi vay. Nhưng cùng với sự phát triển của CNTB thì nhu cầu đi vay và cho vay ngày càng nhiều, các quan hệ tín dụng trong xã hội tư bản trở nên trồng chéo, phức tạp. Do vậy đã đòi hỏi phải xuất hiện một tổ chức đóng vai trò trung gian để đơn giản hoá các quan hệ tín dụng này. Đó chính là ngân hàng TBCN, là một tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ, đóng vai trò môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng thực hiện chức năng môi giới này thông qua hai nghiệp vụ cơ bản của nó là nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ nhận gửi. Với nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng thu hút tiền vốn vào quỹ của nó bằng cách tập hợp các tư bản và thu nhập nhàn rỗi không hoat động. Còn với nghiệp vụ cho vay, ngân hàng cho các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, tức là các nhà tư bản Công nghiệp và tư bản Thương nghiệp vay tư bản tiền tệ để sử dụng hay nói khác đi nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ phân phối và sử dụng những tư bản ngân hàng có được qua nghiệp vụ nhận gửi.
Trong nghiệp vụ nhận gửi, để huy động được các nguồn tư bản nhàn rỗi, Ngân hàng trả một khoản lợi tức nhận gửi cho các khoản gửi. Đồng thời, trong nghiệp vụ cho vay, Ngân hàng lại thu một khoản lợi tức cho vay của những người đi vay. Và như mọi tổ chức kinh doanh TBCN khác, mọi hoạt động của Ngân hàng cũng phải nhằm mục tiêu đem lại lợi nhuận. Chính vì vậy, dựa trên việc quy định lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay, Ngân hàng đã thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của mình. Khoản lợi nhuận này được gọi là lợi nhuận Ngân hàng, nó chính là khoản chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi đã trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ Ngân hàng và cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ. Khác với lợi tức vận động theo quy luật tỉ suất lợi tức giảm dần, lợi nhuận ngân hàng hoạt động theo quy luật tỉ suât lợi nhuận bình quân giảm dần, có nghĩa là lợi nhuận ngân hàng ngang bằng với lợi nhuận bình quân.
c/ Địa tô Tư bản Chủ nghĩa:
Ở trên chúng ta đã nghiên cứu và xem xét sự hình thành và xâm nhập của CNTB vào lĩnh vực Thương nghiệp và tín dụng và tương ứng là sự hình thành nên các bộ phận tư bản Thương nghiệp; tư bản cho vay và tư bản Ngân hàng. Đến phần này, chúng ta sẽ xem xét sự xâm nhập của CNTB vào trong Nông nghiệp dẫn tới sự hình thành bộ phận tư bản kinh doanh trong Nông nghiệp và sự xuất hiện một hình thức mới của lợi nhuận là địa tô Tư bản Chủ nghĩa.
Trước tiên, ta sẽ xem xét sự xâm nhập của PTSX TBCN vào trong Nông nghiệp. Với sự phát triển của CNTB, giai cấp Tư bản không chỉ thống trị nghành Công nghiệp mà còn dần dần thao túng cả lĩnh vực Nông nghiệp. Sự xâm nhập của CNTB vào lĩnh vực Nông nghiệp có thể diễn ra theo hai cách sau
Một là, trước hết vẫn duy trì về căn bản nền kinh tế phong kiến địa chủ trước kia và sau đó thông qua các cuộc cải cách mà dần dần chuyển sang đường lối kinh tế theo kiểu Tư bản Chủ nghĩa.
Cách thứ hai là, ngay từ đầu, thông qua con đường Cách mạng Tư sản lật đổ chế độ kinh tế phong kiến cũ; giải phóng lực lượng sản xuất thoát khỏi xiềng xích nông nô. Trên cơ sở đã xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, thiết lập QHSX TBCN trong Nông nghiệp từ đó phát triển nhanh chóng Nông nghiệp theo con đường các ấp trại TBCN.
Như vậy, dù sự xâm nhập của PTSX TBCN vào Nông nghiệp được thực hiện theo cách nào đi chăng nữa thì hậu quả của sự xâm nhập này vẫn là hình thành nên trong nền Nông nghiệp TBCN ba giai cấp chủ yếu là giai cấp địa chủ, giai cấp tư bản Nông nghiệp và giai cấp công nhân Nông nghiệp. Nhưng cần phải thấy rằng giai cấp địa chủ lúc này không phải là những địa chủ xuất thân từ tầng lớp quí tộc, tăng lữ như trong giai đoạn phong kiến mà địa chủ lúc này, thực chất là những nhà tư sản, đã đầu tư tư bản để nhằm thu gom,thao túng ruộng đất, gây ra tình trạng'lũng đoạn quyền tư hữu ruộng đất'.
Chính vì sự xuất hiện của giai cấp địa chủ trong nông nghiệp cho nên giá trị thặng dư, được hình thành do lao động không công của những công nhân làm thuê trong Nông nghiệp, sẽ được phân chia khác với trong lĩnh vực Công nghiệp trên cơ sơ đảm bảo lợi nhuận cho không chỉ giai cấp tư sản Nông nghiệp mà còn cho cả giai cấp địa chủ, những người mà thực chất là các nhà tư bản đã đầu tư vào ruộng đất. Điều đó có nghĩa là lượng giá trị thặng dư mà giai cấp tư bản Nông nghiệp chiếm đoạt được sẽ phải không những đủ để họ có thể thu được lợi nhuận bằng với lợi nhuận bình quân mà còn phải dư ra một khoản để trả cho chủ ruộng đất mà nhà tư bản đã thuê. Khoản dư ra để trả cho ruộng đất đó được gọi là địa tô Tư bản Chủ nghĩa.
Vậy địa tô Tư bản Chủ nghĩa “là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất”. Sở dĩ ở đây, phần lợi nhuận mà nhà tư bản kinh doanh ruộng đất thu được phải bằng với lợi nhuận bình quân vì nếu nhỏ hơn lợi nhuận bình quân thì các nhà tư bản sẽ rút tư bản ra khỏi lĩnh vực Nông nghiệp dể đầu tư vào các lĩnh vực khác mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Tuy nhiên nếu lợi nhuận của nhà tư bản Nông nghiệp đã bằng lợi nhuận bình quân, mà như ta đã biết thì tổng số lợi nhuận bao giờ cũng bằng tổng giá trị thặng dư. Như vậy thì giai cấp tư sản kinh doanh trong Nông nghiệp đã kiếm đâu ra phần lợi nhuận siêu ngạch để trả cho giai cấp địa chủ dưới hình thức địa tô Tư bản Chủ nghĩa. Để trả lời câu hỏi này ta sẽ phải xem xét sự hình thành của địa tô Tư bản Chủ nghĩa để thấy được nguồn gốc, bản chất và các hình thái của nó.
Trước tiên ta sẽ xem xét nguyên nhân tạo ra phần lợi nhuận siêu ngạch trong sản xuất Nông nghiệp. Trong lĩnh vực Công nghiệp, lợi nhuận siêu ngạch được hiểu là phần lợi nhuận chênh lệch so với lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản, có những điều kiện sản xuất cá biệt tốt hơn điều kiện sản xuất trung bình của toàn xã hội, thu được. Phần lợi nhuận siêu ngạch này chỉ mang tính tạm thời, cá biệt. Còn trong lĩnh vực Nông nghiệp, lợi nhuận siêu ngạch cũng mang ý nghĩa tương tự, nó cũng là phần lợi nhuận chênh lệch mà những nhà tư bản đầu tư vào những mảnh đất mầu mỡ hơn có thể thu được. Tuy nhiên, khác với trong lĩnh vực Công nghiệp, phần lợi nhuận siêu ngạch trong lĩnh vực Nông nghiệp mang tính ổn định, lâu dài và khá phổ biến. Sở dĩ như vậy là vì trong Nông nghiệp, một tư liệu lao đông chủ yếu là đất đai lại có tính chất hạn chế, đại bộ phận đất đai là xấu, cằn cỗi chỉ có một số ít là đất trồng trọt mầu mỡ. Hơn thế nữa, các ruộng đất xấu thì hoặc là không thể cải tạo được hoặc là cải tạo được nhưng đòi hỏi những chi phí rất lớn còn các ruộng đất tốt thì lại bị độc quyền kinh doanh kiểu TBCN. Chính vì vậy mà các nhà tư bản Nông nghiệp bắt buộc phải thuê ruộng đất xấu. Điều đó dẫn tới thực trạng là các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt luôn tốn ít chi phí hơn các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu để cùng sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Hơn nữa, nếu như trong Công nghiệp, giá cả là do giá thành sản xuất trong điều kiện trung bình quyết định thì trong Nông nghiệp, vì ruộng đất tốt sản xuất không đủ sản phẩm để thoả mãn nhu cầu do vậy bắt buộc phải tiến hành sản xuất trên ruộng đất xấu. Vì vậy nếu vẫn để giá cả sản xuất do điều kiện sản xuất trung bình quyết định thì các nhà sản xuất kinh doanh trên ruộng đất xấu sẽ thu được ít lợi nhuận hơn. Điều đó làm cho họ sẽ chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác và sẽ gây ra khan hiếm các sản phẩm Nông nghiệp. Chính vì vậy mà trong Nông nghiệp thì giá cả sản xuất là do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu quyết định.
Từ hai nguyên nhân trên, đã dẫn tới việc hình thành nên lợi nhuận siêu ngạch trong sản xuất Nông nghiệp. Dạng lợi nhuận siêu ngạch này khi nộp cho chủ đất dưới dạng địa tô còn được gọi là địa tô chênh lệch. Vậy địa tô chênh lệch chính là phần lợi nhuận thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân, thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất trung bình và tốt, trên cơ sở giá cả sản xuất cá biệt nhỏ hơn giá cả sản xuất chung do điều kiện sản xuất xấu nhất quy định. Xét cho cùng thì nguồn gốc của địa tô chênh lệch cũng chính là một phần giá trị thặng dư do công nhân Công nghiệp tạo ra.
Nhà tư bản có thể có được địa tô chênh lệch nhờ hai cách và do đó tương ứng có hai dạng địa tô chênh lệch khác nhau. Cách thứ nhất, địa tô chênh lệch có được nhờ việc kinh doanh trên ruộng đất có độ mầu mỡ tự nhiên hoặc có vị trí giao thông thuận lợi,theo cách này thì địa tô chênh lệch được gọi là địa tô chênh lệch I. Ngoài ra cũng có thể đạt được địa tô chênh lệch thông qua việc thâm canh, cải tạo ruông đất mà có. Với cách này thì địa tô được tạo ra gọi là địa tô chênh lệch II.
Việc nghiên cứu địa tô chênh lệch và các hình thức biểu hiện của nó còn phản ánh được sự mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ. Một khi mà nhà tư bản, nhờ thâm canh tăng vụ hoặc nhờ phương pháp sản xuất mới... mà tăng được phần lợi nhuận siêu ngạch nhằm mục đích tăng lợi nhuận thu được thì ngay sau đó chủ đất lại tìm mọi cách để tăng khoản địa tô phải nộp lên đúng bằng phần lợi nhuận siêu ngạch thu được. Chính vì vậy mà trong CNTB, sự tồn tại của địa tô chênh lệch đã không thúc đẩy các nhà tư bản kinh doanh quan tâm tới việc cải tạo, duy trì và nâng cao chất lượng đất trồng mà họ chỉ tìm mọi cách để khai thác hết độ màu mỡ của đất đai nhằm thu lợi nhuận nhiều hơn. Do đó, đất đai sẽ ngày càng bị thoái hoá.
Trên đây, ta đã nghiên cứu, xem xét nguồn gốc và bản chất của địa tô chênh lệch, là phần địa tô mà những nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất trung bình và tốt phải nộp cho chủ đất còn giả định là những nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu thì sẽ không phải nộp. Tuy nhiên, trên thực tế thì ngay cả những nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu cũng vẫn phải nộp địa tô cho chủ đất. Khoản địa tô này được gọi là địa tô tương đối. Vậy thì lượng địa tô tương đối này do đâu mà có? Nguồn gốc, bản chất của nó là gì?
Để trả lời các câu hỏi này, chúng ta sẽ nghiên cứu dựa trên nhận định là với cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào lĩnh vực Công nghiệp và Nông nghiệp thì cấu tạo hữu cơ của lượng tư bản đầu tư vào Nông nghiệp sẽ thấp hơn trong Công nghiệp. Nhận định này xuất phát từ thực tế là do tồn tại sự độc quyền về tư hữu ruộng đấtcho nên đã cản trở sự phát triển của quan hệ sở hữu Tư bản Chủ nghĩa trong Nông nghiệp. Do đó dẫn tới tình trạng là Nông nghiệp thường lạc hậu hơn so với Công nghiệp về cả kinh tế và kỹ thuật.Do vậy mà chi phí cho lao động sống trong Nông nghiệp luôn lớn hơn chi phí trong Công nghiệp. Chính vì vậy nếu với một trình độ bóc lột ngang nhau, có nghĩa là tỷ suất giá trị thặng dư trong hai nghành là như nhau, thì một lượng tư bản đầu tư vào Nông nghiệp sẽ tạo ra nhiều gia trị thặng dư hơn so với một lượng tương ứng đầu tư vào Công nghiệp. Do vậy, giá trị của nông sản được tạo ra bao giờ cũng lớn hơn giá cả sản xuất chung. Chính sự chênh lệch này đã tạo ra địa tô tương đối.
Sở dĩ tồn tại sự chênh lệch đó là do tồn tại chế độ tư bản ruộng đất. Nếu không có chế độ tư hữu về ruộng đất thì số thừa ra, do cấu tạo hữu cơ Công nghiệp thấp hơn gây ra, sẽ được phân phối lại cho toàn bộ các nhà tư bản và lúc đó, nông sản sẽ được bán theo giá cả sản xuất (= k+p = c+v+p). Tuy nhiên, do tồn tại sự độc quyền về tư hữu ruộng đất nên đã ngăn cản sự tự do cạnh tranh, đã ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân giữa hai nghành Công nghiệp và Nông nghiệp. Vì vậy mà cái phần chênh lệch dôi ra đó không tham gia vào việc bình quân lợi nhuận mà được giữ lại trong Nông nghiệp để trả cho chủ đất. Lượng chênh lệch này nhiều hay ít phụ thuộc vào sự chênh lệch giữa giá bán và giá cả sản xuất chung mà giá bán lại dựa trên cơ sở là giá trị của nông sản và thường bằng đúng giá trị.
Vậy địa tô tuyệt đối "cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong Nông nghiệp thấp hơn trong Công nghiệp,nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản xuất chung".
Nói tóm lại, địa tô,dù là địa tô tuyệt đối hay địa tô chênh lệch, như Mác nói, đều “là một thứ cống vật mà xã hội, dưới chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa, phải hiến cho những người nhiều ruộng đất”. Xét về nguồn gốc thì địa tô cũng như các hình thức khác của lợi nhuận, đều có nguồn gốc từ giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã chiếm đoạt của người công nhân. Hơn nữa, địa tô còn phản ánh tính “ăn bám” của giai cấp địa chủ, phản ánh những thiệt hại mà sự ăn bám đó mang lại. Vì có địa tô tuyệt đối nên các nông phẩm ngày càng trở nên đắt đỏ làm cho mức sống của con người giảm sút. Vì có địa tô chênh lệch nên xã hội không được hưởng những lợi ích từ việc tăng năng suất lao động trong Nông nghiệp cũng như nhiều lợi ích do đất đai phì nhiêu mang lại.
d/ Lợi nhuận độc quyền:
ở trên, ta thấy rằng do tồn tại sự độc quyền về tư hữu ruộng đất cho nên đã hình thành nên địa tô tuyệt đối mà thực chất là một dạng lợi nhuận trả cho sự độc quyền về tư hữu ruộng đất. Nhưng dần dần cùng với sự mạnh mẽ của CNTB thì hiện tượng độc quyền không chỉ xuất hiện và tồn tại trong Nông nghiệp mà còn hình thành cả trong lĩnh vực Công nghiệp, dẫn tới sự ra đời của một hình thức mới của CNTB, đó là Chủ nghĩa Tư bản độc quyền.
Sự hình thành của Tư bản độc quyền đã dẫn tới hình thành thêm một hình thức mới của lợi nhuận là lợi nhuận độc quyền và gắn với nó là một phương thức phân phối lợi nhuận (hay chính là giá trị thặng dư) mới. Để thấy rõ được nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận độc quyền,ta sẽ nghiên cứu, xem xét những lý luận của Lênin, người đã kế thừa và phát triển tiếp tục học thuyết của Mác trong giai đoạn độc quyền của CNTB.
Trong lý luận của mình,Lênin đã chỉ ra rằng,với sự xuất hiện của Tư bản độc quyền mà đặc biệt là Tư bản tài chính, đã dẫn tới sự hình thành nên lợi nhuận độc quyền. Tư bản tài chính, được hình thành từ sự kết hợp giữa tư bản Công nghiệp và tư bản Ngân hàng, đã dần dần khống chế toàn bộ hoạt động của nền kinh tế và chính trị trong nước, giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lưu thông. Chính vì vậy mà ngoài việc sử dụng các phương pháp bóc lột giá trị thặng dư như trong giai đoạn tự do cạnh tranh, các nhà Tư bản độc quyền còn sử dụng phương pháp “cưỡng bức kinh tế” nhằm tạo ra lợi nhuận độc quyền. Lênin đã chỉ rõ rằng lợi nhuận độc quyền, thực chất, là một hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư hình thành trong giai đoạn Chủ nghĩa Tư bản độc quyền, nó bao gồm lợi nhuận bình quân cộng với lợi nhuận độc quyền siêu ngạch có được do địa vị thống trị của độc quyền mang lại. Nguồn gốc và cơ cấu của lợi nhuận độc quyền bao gồm giá trị thặng dư của công nhân làm việc trong các tổ chức độc quyền, một phần giá trị thặng dư của công nhân làm việc ngoài tổ chức độc quyền, một phần giá trị mới do người sản xuất hàng hoá nhỏ trong nước tạo ra, lợi nhuận thu được do xuất khẩu tư bản và sản xuất hàng hoá cho các nước kém phát triển, lợi nhuận thu được do lợi dụng việc quân sự hoá nền kinh tế...
Sự hình thành của lợi nhuận độc quyền đã dẫn tới sự hình thành tương ứng của giá cả độc quyền, bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Thông thường thì các tổ chức độc quyền, dựa trên sức mạnh độc quyền, để mà ép giá mua vào thấp hơn giá trị của hàng hoá mua vào và nâng giá trị của hàng hoá bán ra lớn hơn giá trị của nó.
Nói tóm lại, trong mục này, chúng ta đã tiến hành nghiên cứu những lý luận của học thuyết kinh tế Mác-Lênin và thông qua những lý luận đó, chúng ta đã phần nào thấy được các biểu hiện khác nhau của lợi nhuận. Các hình thức này, hầu hết là được hình thành nên do nhu cầu chuyên môn hoá, hợp tác hoá của giai cấp tư sản. Sự phân biệt lợi nhuận thành các hình thức khác nhau cũng chính là sự chia nhỏ giá trị thặng dư thành các phần lợi nhuận khác nhau ứng với các bộ phận tư bản khác nhau. Tuy nhiên,điều đó không có nghĩa là phần giá trị thặng dư mà mỗi bộ phận có được sẽ ít đi mà trên thực tế, nhờ sự phân công, hợp tác trong quá trình bóc lột giá trị thặng dư, giai cấp tư bản đã ngày càng hoàn thiện các thủ đoạn bóc lột giá trị thặng dư làm cho toàn bộ khối lượng giá trị thặng dư nói chung cũng như phần giá trị thặng dư mà mỗi bộ phận tư bản nhận được không ngừng tăng lên. Chính vì vậy mà,với việc giải thích được sự hình thành và tồn tại của các hình thái khác nhau của lợi nhuận, Mác đã thể hiện sự khoa học và tiến bộ hơn so với các nhà lý luận trước Mác cũng như sau này. Hơn thế nữa, thông qua việc vạch rõ bản chất bóc lột của các hình thái khác nhau của lợi nhuận, Mác đã vạch rõ bản chất bóc lột của giai cấp tư bản cũng như của PTSX TBCN.
Như vậy là, ở phần I này, thông qua cá._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25666.doc