TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
TRỊNH PHÚC HÒA
Chuyên ngành: Tài Chính Doanh Nghiệp
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Long Xuyên, 5/2009
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Tài chính Doanh nghiệp
Sinh viên thực hiện: TRỊNH PHÚC HÒA
Lớp: DH6TC2 MSSV: DTC 052287
Giáo viên hướng dẫn: Th.s NGUYỄN XUÂN VINH
Long Xuyên, 5/2009
LỜI CẢM ƠN
Sau 04 năm học tập và rèn luyện dưới giảng đường trườ
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2773 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Sacombank Chi Nhánh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Đại Học An Giang, được
quý thầy cô truyền đạt tận tình những kiến thức cùng với gian thời gian thực tập tại Ngân
Hàng Sacombank - Chi Nhánh An Giang, nay em đã hoàn thành xong khóa luận tốt nghiệp.
Qua khóa luận tốt nghiệp, em xin chân thành gửi lời cám ơn đến:
- Thầy Nguyễn Xuân Vinh, giảng viên Đại Học Cần Thơ đã tận tình hướng dẫn em
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
- Các quý thầy cô trường Đại Học An Giang.
- Ban Giám Đốc cùng các anh, chị tại Ngân Hàng Sacombank – Chi Nhánh An
Giang đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian thực tập tại Ngân
hàng.
Kính chúc quý thầy cô được dồi giàu sức khỏe, công tác tốt.
Kính chúc Ban Giám Đốc và các anh, chị tại Ngân Hàng Sacombank – Chi Nhánh An
Giang được nhiều sức khỏe, luôn hoàn thành tốt nhiệm để xây dựng ngân hàng ngày càng
phát triển và đạt hiệu quả cao.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng kiến thức và thời gian nghiên cứu có giới hạn nên
không tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự nhận xét và đóng ý kiến của các thầy cô,
các anh chị tại Ngân hàng và các bạn sinh viên.
Trân trọng kính chào!
Long Xuyên, ngày 30 tháng 05 năm 2009
Sinh viên
Trịnh Phúc Hòa
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 Cơ sở hình thành
Trong năm 2008 vừa qua, tình hình tài chính thế giới có những biến động lớn.
Chính sự biến động tác động tiêu cực đó là sự suy thoái của nền kinh tế thế giới. Việt
Nam là thành viên còn non trẻ trong tổ chức WTO nên cũng gánh chịu những ảnh hưởng
nặng nền chung của cả thế giới. Lĩnh vực chịu tác động nặng nề nhất đó là lĩnh vực Ngân
hàng, mà Ngân hàng là nhân tố góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển nền kinh tế
của quốc gia. Những tác động tiêu cực tiêu biểu nhất trong năm qua đó sự biến động về
lãi suất (lãi suất có thời điểm lên đến 21%/năm). Mà lãi suất được coi là “giá mua bán”
của hoạt động Ngân hàng, khi cái giá đầu vào quá cao, thì để tìm được người chấp nhận
giá cao hơn ở đầu ra sẽ trở nên khó khăn hơn, thêm vào đó là nét riêng của hoạt động
Ngân hàng là yếu tố thời gian, khách hàng chỉ thanh toán sản phẩm của Ngân hàng với
thời hạn được ấn định trước trong tương lai. Nếu khách hàng không thanh toán cho Ngân
hàng đúng với các điều khoản đã ký kết thì Ngân hàng sẽ bị thua lỗ. Đó là một trong
những nguyên nhân gây rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng và cũng là lý tôi chọn đề tài
“Phân tích rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Sacombank Chi Nhánh An Giang”. Ngân hàng
được đánh giá là hoạt động có hiệu quả trong thời gian qua tại An Giang, mặc dù chỉ chi
nhánh mới thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2005.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu những rủi ro mà Ngân hàng Sacombank gặp phải trong hoạt động tín dụng
thời gian qua, nguyên nhân từ đâu dẫn đến những rủi ro đó. Trên thực tế, không có bất kỳ
một quy trình quản lý nào có thể khắc phục hoàn toàn rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Vì
vậy, mục tiêu của đề tài là tìm ra những đề xuất một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng,
giúp hoạt động tín dụng Ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn.
1.3 Phạm vi nghiên cứu.
Do chỉ tiếp cận được hoạt động tín dụng của Ngân hàng đối với khách hàng là cá
nhân và dựa trên kết quả hoạt động từ năm 2006 đến 2008 để phân tích. Phạm vi nghiên
cứu không khái quát hết những rủi ro tín dụng cho nên không thể nêu ra những đề xuất
hạn chế rủi ro cho toàn bộ các đối tượng khách hàng. Nội dung của đề tài chỉ xoay quanh
rủi ro tín dụng đối với khách hàng cá nhân.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
+ Thu thập số liệu thứ cấp: các văn bản của Ngân hàng Nhà Nước, Chính sách tín
dụng Ngân hàng, các báo cáo tài chính công bố gửi trình Hội Sở….
+ Quan sát hoạt động tín dụng tại Ngân hàng, tham khảo ý kiến cán bộ tín dụng.
+ Xử lý thông tin: Phân loại, so sánh, phân tích biểu đồ, biểu bảng, các tỷ số đánh
giá…
+ Đề xuất các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng, các kiến nghị nhầm nâng cao hiệu
quả hoạt động cán bộ nhân viên Ngân hàng.
CHƯƠNG 2: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI – CÁC RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG.
2.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại.
Nghị định của Chính phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 định nghĩa: “Ngân
hàng thương mại là Ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan vì mục đích lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục
tiêu kinh tế của Nhà nước.
2.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại.
Trong điều kiện nên kinh tế thị trường và hệ thống Ngân hàng phát triển các Ngân
hàng thương mại thực hiện 03 chức năng sau:
2.2.1 Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng.
Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại.
Chức năng trung gian tín dụng của Ngân hàng thương mại được minh họa qua sơ đồ
sau:
Sơ đồ 2.1 Chức năng trung gian tín dụng
Thu nhận Cấp
Tiền gửi tín
Tiền tiết kiệm
Phát hành kỳ phiếu dụng
Trái phiếu
Công ty
Xí nghiệp
Tổ chức kinh
tế
Cá nhân
Công ty
Xí nghiệp
Tổ chức
kinh tế
Cá nhân
Trong chức năng này, Ngân hàng thương mại một mặt là người đứng ra huy động
và tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, như vốn nhàn rỗi của các tổ
chức kinh tế, cá nhân, các tầng lớp dân cư….biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho
vay (cấp tín dụng); mặt khác trên cơ sở đã huy động được, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu
vốn kinh doanh, vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội.
Nhờ nguồn vốn tín dụng lớn và luân chuyển liên tục, thông qua việc thưc hiện chức
năng nói trên làm cho nền kinh tế phát triển được cung ứng vốn ngày càng đầy đủ để phát
triển.
2.2.2 Ngân hàng thương mại là trung gian thanh toán:
Đây là chức năng quan trọng cho thấy tính chất “đặc biệt” trong hoạt động của
Ngân hàng thương mại.
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua sơ đồ:
Lệnh Giấy
trả tiền báo
qua tài khoản có
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, Ngân hàng thương mại trở thành người
thủ quỷ và là trung tâm thanh toán của xã hội. Thực hiện chức năng này, Ngân hàng
thương mại đứng ra làm trung gian để thực hiện các khoản giao dịch thanh toán giữa các
khách hàng, giữa người mua, người bán… để hoàn tất các mối quan hệ kinh tế thương
mại giữa họ với nhau.
2.2.3 Ngân hàng thương mại cung ứng các dịch vụ khách hàng.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỷ, Ngân hàng thương mại
có những đặc điểm mà không phải tổ chức nào cũng có như kho quỷ, hệ thống thông tin,
mối quan hệ rộng khắp các doanh nghiệp. Qua đó, Ngân hàng có thể thực hiện tư vấn tài
chính, nhận ủy thác, dich vụ kiều hối.…đê nhận tiền hoa hồng, sẽ vừa tiết kiệm chi phí
vừa đạt hiểu quả cao.
2.3 Những vấn đề cơ bản của tín dụng.
2.3.1 Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và
người cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Tín dụng được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.3 Khái niệm tín dụng
Cho vay vốn có thời hạn
Thế chấp, cầm cố
bảo lãnh
tín chấp
Công ty
Xí nghiệp
Tổ chức kinh
tế
Cá nhân
Ngân
hàng
thương
mại
Công ty
Xí nghiệp
Tổ chức
kinh tế
Cá nhân
Hàng
Khách
hàng đi
vay
Ngân
Hoàn trả vốn gốc và lãi vay khi đến hạn
Mặc dù, tín dụng có quá trình tồn tại và phát triển và phát triển lâu dài qua nhiều
hình thức kinh tế xã hội, với nhiều hình thức khác nhau, song đều có tính chất quan trọng
như sau:
- Tín dụng trước hết là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện kim) hoặc
tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi quyền sở hữu
chúng.
- Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được “hoàn trả”.
- Giá trị tín dụng không những được bảo tồn mà còn nâng lên nhờ lợi tức tín dụng.
2.3.2 Chức năng của tín dụng.
Tín dụng có 03 chức năng cơ bản
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ.
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng mà các
nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử dụng nhằm
phát triển kinh tế
Tập trung và phân phối vốn tiền tệ là 02 mặt hợp thành chức năng cốt lõi của tín
dụng:
- Mặt tập trung của tín dụng thể hiện Ngân hàng là nơi tập trung các nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội.
- Ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn vay này để thực hiện cấp tín dụng cho những
khách hàng có nhu cầu, đây chính là chức năng phân phối lại vốn tiền tệ.
Cả 02 mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc
hòan trả vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn, nó thúc đẩy
việc sử dụng vốn có hiệu quả.
Nhờ chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ mà phần lớn nguồn tiền trong
xã hội tạm thời “nhàn rỗi” một cách tương đối đã đươc huy động và sử dụng cho các nhu
cầu của sản xuất và đời sống, làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội tăng lên.
Tiết kiệm được lượng tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội.
Nhờ hoạt động của tín dụng mà nó có thể phát huy chức năng tiết kiệm tiền mặt
cho xã hội và chi phí lưu thông cho toàn xã hội, điều này thể hiện qua các mặt sau:
- Trước hết tín dụng góp phần tạo điều kiện cho sự ra đời các công cụ lưu thông tiền
tệ như thương phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng, các loại séc, thẻ thanh toán… đã thay thế được
một lượng tiền mặt đang lưu hành, qua đó có thể tiết giảm một số chi phí như in và đúc
tiền, vận chuyển, bảo quản…
- Mặt khác, hoạt động tín dụng cùng với hệ thống thanh toán qua Ngân hàng ngày
càng được mở rộng đã tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế được thúc đẩy, mở ra khả
năng lớn cho việc giao dịch thông qua tài khoản dưới các hình thức chuyển khoản, thanh
toán bù trừ…
- Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của tín dụng thì hệ thống tín dụng thanh toán qua
Ngân hàng ngày càng mở rộng, vừa cho phép giải quyết nhanh chóng các mối quan hệ
kinh tế, vừa thúc đẩy quá trình ấy, tạo điều kiện cho nền kinh tế - xã hội phát triển.
Nhờ hoạt động của tín dụng, mà các nguồn vốn đang nằm trong xã hội được huy
động để sử dụng cho nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa sẽ có tác dụng cho tốc
độ chu chuyển vốn trong phạm vi toàn xã hội.
Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động hoạt động kinh tế.
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của 02 chức năng trên.
- Chính nhờ thông qua công tác huy động và cho vay của Ngân hàng đã phần nào
phản ánh tình hình một số mặt như khối lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn của
các cá nhân và tổ chức kinh tế…, đây là hệ quả rút ra từ chính hoạt động của Ngân hàng.
Bên cạnh, việc Ngân hàng yêu cầu minh bạch tình hình tài chính và giám sát hoạt động
của khách hàng vay vốn giúp cho Ngân hàng có thể phát hiện những bất thường trong
tình hình tài chính, tăng cường kiểm soát bằng tiền đối với các chủ thể kinh tế có sử dụng
vốn vay.
2.3.3 Vai trò của tín dụng.
Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển.
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi các
doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông, nên
hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời luôn xảy ra tại các doanh nghiệp. Tín dụng đã góp
phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị
gián đoạn.
- Với mục tiêu mở rộng sản xuất đối với từng doanh nghiệp thì yêu cầu về vốn là
một trong những mối quan tâm hàng đầu, được đặt ra bởi lẽ để đẩy mạnh tiến độ phát
triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có của doanh nghiệp, mà phải biết tận
dụng các nguồn vốn khác trong xã hội. Từ đó tín dụng mới là nơi tập trung bộ phận lớn
vốn nhàn rỗi và là nơi đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín
dụng vừa giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích lũy vốn nhanh chóng
cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn
cho nền kinh tế.
Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả.
Với vai trò tập trung và tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng
đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt tồn động trong lưu thông. Do đó, trong điều kiện
nền kinh tế bị lạm phát, tín dụng được xem như là một trong những biện pháp hữu hiệu
góp phần làm giảm lạm phát trong nền kinh tế.
Mặt khác, tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền
mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực giảm việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh
tế, là bộ phận lưu thông tiền tệ mà Nhà nước rất khó quản lý và dễ bị tác động của quy
luật lưu thông tiền tệ.
Trong những thập niên gần đây ở hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển,
trong các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền
tệ trong thời kỳ thì lãi suất tín dụng đã trở thành một trong những công cụ điều tiết nhạy
bén với nhu cầu của nền kinh tế.
Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã
hội.
Vai trò này của tín dụng có thể nói là hệ quả tất yếu của hai vai trò trên. Nền kinh tế
phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện nâng cao dần đời sống của
các thành viên trong xã hội, là điều kiện thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội, từ đó rút
ngắn chênh lệch giữa các tầng lớp xã hội.
Hoạt động tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn
phục vụ cho mọi tầng lớp dân cư. Trong nền kinh tế, bên cạnh các Ngân hàng còn có các
hệ thống các tổ chức tín dụng dân cư sẵn sàng cung cấp nhu cầu vay vốn hợp lý của cá
nhân cho phát triển kinh tế gia đình, mua sắm, sinh hoạt…
Tín dụng góp phần phần phát triển các mối quan hệ quốc tê.
Tín dụng có vai trò vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển mở rộng của tín dụng không
những trong phạm vi quốc nội mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, nhờ đó thúc đẩy mở
rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhu
cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên mõi nước, làm cho các nước có điều kiện
xích lại gần nhau hơn và cùng phát triển.
2.4 Các vấn đề cơ bản của tín dụng Ngân hàng.
¾ Các nguyên tắc tín dụng
Khi tham gia vào quan hệ tín dụng, các doanh nghiệp vay vốn và Ngân hàng đều
quán triệt các nguyên tắc của tín dụng. Các nguyên tắc tín dụng được hình thành bắt
nguồn từ bản chất của tín dụng, được khẳng định trong thực tiễn hoạt động của các Ngân
hàng và được pháp lý hoá.
Trong kinh doanh tiền tệ, các Ngân hàng phải dựa trên các nguyên tắc này để xem
xét xây dựng, thực hiện và xử lý những vấn đề liên quan đến tiền vay vốn phải tuân thủ
và bị ràng buộc bởi các yêu cầu đặt ra theo xu hướng mà các nguyên tắc này đòi hỏi.
Hoạt động của tín dụng Ngân hàng tuân thủ các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Tiền vay được sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trên hợp đồng
tín dụng.
Theo nguyên tắc này, tiền vay phải được sử dụng đúng cho các nhu cầu đã được
bên vay trình bày với Ngân hàng và được Ngân hàng cho vay chấp nhận. Đó là các khoản
chi phí, những đối tượng phù hợp với nội dung sản xuất kinh doanh của bên vay. Ngân
hàng có quyền từ chối và hủy bỏ mọi yêu cầu vay vốn không được sử dụng đúng mục
đích đã thoả thuận. Việc sử dụng vốn vay sai mục đích thể hiện sự thất tín của bên vay và
hứa hẹn những rủi ro cho tiền vay. Do đó, tuân thủ nguyên tắc này, khi cho vay Ngân
hàng có quyền yêu cầu buộc bên vay phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết và
thường xuyên giám sát hành động của bên vay về phương diện này.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của bên vay gắn liền với hiệu quả cho vay của Ngân
hàng. Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn là cơ
sở cho sự an toàn của khoản vay. Thiếu yêu cầu này không thể nói đến sự tồn tại và phát
triển của các quan hệ vay vốn. Vì vậy, hiệu quả kinh tế của tiền vay được đưa ra như một
sự đảm bảo, một sự cam kết của bên vay vốn. Việc thỏa thuận và sự cụ thể hóa nguyên
tắc này như một trong những điều kiện cho vay được sử dụng làm cơ sở để Ngân hàng
thiết lập quan hệ tín dụng và giám sát hoạt động của khách hàng vay vốn trong quá trình
hoạt động có sử dụng vốn vay Ngân hàng.
Các bên hữu quan luôn luôn xác định hiệu quả sử dụng tiền vay của Ngân hàng.
Mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của
khách hàng với hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng là tất yếu, nhưng có tính độc
lập tương đối. Căn cứ vào tình trạng các vấn đề đã nêu Ngân hàng sẽ quyết định mức độ
quan hệ hiện tại và định hướng chiến lược cho quan hệ trong tương lai đối với khách
hàng. Điều này lý giải tại sao các khách hàng thành đạt ở các ngành kinh tế mũi nhọn
luôn luôn nhận được sự ủng hộ từ phía các Ngân hàng và các nhà tài trợ.
Nguyên tắc 2: Tiền vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn đã thoả
thuận trên hợp đồng tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tín dụng là
giao dịch cung cấp về vốn, tín dụng chỉ là giao dịch quyền sử dụng vốn trong một thời
gian nhất định. Trong khoảng thời gian cam kết giao dịch, Ngân hàng và bên vay thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng rằng sẽ chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị nhất
định cho bên vay. Khi kết thúc kỳ hạn, bên vay phải hoàn trả quyền này cho Ngân hàng
(trả nợ gốc) với một khoản chi phí (lợi tức và phí) nhất định cho việc sử dụng vốn vay.
Về phương diện hạch toán, nguyên tắc này là nguyên tắc về tính bảo tồn của tín
dụng: Tiền vay phải được bảo đảm không bị giảm giá, tiền vay đảm bảo thu hồi được đầy
đủ và sinh lời. Tuân thủ nguyên tắc này là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế, xã hội
được ổn định, các mối quan hệ của Ngân hàng được phát triển theo xu thế an toàn và
năng động. Nguyên tắc này ràng buộc các Ngân hàng không thể an toàn đối với các
khách hàng làm ăn yếu kém, không trả được nợ, gây khó khăn cho các khách hàng khác.
Những sự sai lệch so với dự kiến của việc hoàn trả nợ vay về mức độ trả nợ, thời
hạn trả nợ đều phản ảnh sự không bình thường trong hoạt động của bên vay ở các mức độ
khác nhau. Nếu sự bất ổn đó không là quá mức thì các bên có thể phối hợp điều chỉnh
được. Nhưng nếu sự bất ổn đó ở mức độ trầm trọng (bên vay bị phá sản) thì việc xử lý
những tình huống xảy ra phức tạp hơn nhiều. Điều này có liên quan đến uy tín và sự tồn
tại của Ngân hàng.
Đối với công việc hạch toán của từng Ngân hàng, việc tuân thủ nguyên tắc này đảm
bảo tạo điều kiện vật chất (thu nhập) cho sự duy trì và phát triển của Ngân hàng, thể hiện
tính kinh doanh của tín dụng. Hơn nữa, do phương thức hoạt động của các Ngân hàng là
“đi vay để cho vay”, nên tính hoàn trả của tín dụng càng khẳng định như một cơ chế tồn
tại của Ngân hàng.
¾ Đối tượng cho vay của Ngân hàng
Đối tượng cho vay của Ngân hàng là phần thiếu hụt trong tổng giá trị cấu thành tài
sản cố định, tài sản lưu động và các khoản chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh của
khách hàng trong một thời gian nhất định.
Ngân hàng cho vay các đối tượng sau:
- Giá trị vật tư, hàng hóa máy móc thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực
hiện các dự án sản xuất, kinh doanh dịch vụ, đời sống và đầu tư và phát triển.
- Số tiền vay trả cho các tổ chức tín dụng trong thời gian thi công chưa bàn giao và
đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay trung hạn và dài hạn để đầu tư tài sản cố
định mà khoản lãi được tính trong giá trị tài sản cố định đó.
Ngân hàng không cho vay các đối tượng sau:
- Số tiền thuế phải nộp (trừ số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu)
- Số tiền để trả nợ gốc và lãi vay cho tổ chức tín dụng khác.
- Số tiền vay trả cho chính tổ chức tín dụng cho vay vốn.
¾ Điều kiện cho vay
Điều kiện cho vay là những yêu cầu của Ngân hàng đối với các bên để làm căn cứ
xem xét quyết định thiết lập quan hệ tín dụng. Nội dung của điều kiện cho vay cũng làm
cơ sở cho việc xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình sử dụng tiền vay.
Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện
sau:
9 Có năng lực pháp lực dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo quy định của pháp luật:
- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:
+ Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;
+ Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự;
+ Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
+ Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
+ Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự;
- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp
nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công nhân, nếu pháp luật nước ngoài được Bộ
Luật Dân Sự của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật
khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định
của pháp luật.
Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của chính phủ và
hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Các điều kiện cho vay có thể được từng Ngân hàng cụ thể hóa tuỳ thuộc vào đặc
điểm hoạt động của từng khách hàng, đặc điểm của từng khoản vay, tuỳ thuộc vào môi
trường kinh doanh…
¾ Các phương thức cho vay
Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng vay việc áp dụng các phương thức cho
vay:
o Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện
thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
o Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
o Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục
vụ đời sống.
o Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án
vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó, có một tổ chức tín dụng làm
đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
o Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn
trong thời hạn cho vay.
o Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín
dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức
phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
o Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín
dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động
hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng
thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ
và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
o Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
2.5 Những vấn đề chung về rủi ro trong ngành Ngân hàng.
2.5.1 Đặc trưng trong ngành Ngân hàng.
Là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt, hoạt động kinh doanh Ngân
hàng thương mại có những đặc trưng cơ bản như sau:
- Ngân hàng thương mại là Ngân hàng kinh doanh tiền gửi.
Trên thị trường tài chính, Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính
quan trọng, chuyển tải những khoản vốn huy động được trong xã hội đến những người có
nhu cầu chi tiêu và đầu tư. Với chức năng ban đầu là nhận tiền gửi của xã hội, sau đó
Ngân hàng chuyển thành các chủ thể chuyên mua bán quyền sở quyền sử dụng vốn.
- Hoạt động của Ngân hàng thương mại có tính nhạy cảm cao và luôn chịu sự giám
sát chặt chẽ của pháp luật
Kinh doanh Ngân hàng dựa trên niềm tin, vì vậy tín nhạy cảm rất cao. Chỉ cần một
biến động nhỏ cũng có thể gây tác động đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng (sự
thay đổi nhỏ của lãi suất cũng có thể dẫn đến sự dịch chuyển khách hàng từ Ngân hàng
này sang Ngân hàng khác).
Nếu Ngân hàng hoạt động tốt, sẽ góp phần tiết kiệm các nguồn lực, giảm thiểu chi
phí cho xã hội, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. Ngược
lại, khi Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người gửi tiền và sự phá sản
của Ngân hàng luôn có hiệu ứng dây chuyền, lây lan rất lớn và có tác động xấu đến nền
kinh tế, cho nên hoạt động kinh doanh của Ngân hàng phải được giám sát chặt chẽ,
thường xuyên bằng các luật định.
- Các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng thương mại mang tín tương đồng, dễ bắt
chước và gắn chặt với yếu tố thời gian.
Các sản phẩm, dịch vụ mà Ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng rất đa
dạng. Song phần lớn các sản phẩm của mỗi Ngân hàng này lại tương đồng với các sản
phẩm của Ngân hàng thương mại khác. Nếu Ngân hàng thương mại vừa thương mại vừa
thực hiện một loại hình dịch vụ nào dịch nào đó có hiệu quả thì ngay lập tức có thể bị các
Ngân hàng khác thực hiện theo. Như vây, khái niệm sản phẩm dịch vụ mới của Ngân
hàng thương mại phải được hiểu là sản phẩm dịch vụ mà Ngân hàng đó đưa ra thị trường
trước đối thủ cạnh tranh.
Mặt khác, thời gian chính là yếu tố quan trọng thực hiện giá trị sản phẩm, đồng
thời cũng là một trong những yếu tố quyết định giá cả của sản phẩm dịch vụ Ngân hàng.
Vì vậy, các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng luôn gắn chặt với yếu tố thời gian.
- Khách hàng của Ngân hàng rất đông đảo và đa dạng.
Khách hàng của Ngân hàng thương mại rất đông đảo và đa dạng, đòi hỏi của khách
hàng đối với sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng cũng rất khác nhau. Vì vậy, mỗi Ngân
hàng phải nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp.
- Kinh doanh Ngân hàng gắn liền với yếu tố rủi ro.
Rủi ro có thể xảy ra với bất kỳ loại hình kinh tế nào. Tuy nhiện, rủi ro trong kinh
doanh Ngân hàng có những điểm khác biệt với các lĩnh vực kinh doanh khác về mức độ
và nguyên nhân. Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng có tính lan truyền và để lại hậu quả
nghiêm trọng không chi bao gồm rủi ro nội ngành mà còn bao gồm tất cả các ngành khác
trong nền kinh tế, không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn ảnh hưởng đền nhiều
quốc gia khác.
2.5.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng.
Rủi ro Ngân hàng.
Rủi ro Ngân hàng không chỉ là nổi ám ảnh của của hệ thống Ngân hàng một quốc
gia mà còn là nổi ám ảnh của cả hệ thống Ngân hàng thế giới. Những bất ngờ luôn xảy ra,
ngay cả đối với Ngân hàng giỏi nhất, có nhiều kinh nghiêm nhất cũng khó phỏng đoán.
Và thực tế đã chứng minh đều đó, cuối năm 2008 hàng loạt Ngân hàng hàng đầu thế giới
với lịch sử phát triển cũng phải tuyên bố phá sản, và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng tài
chính của Mỹ và sau đó lan truyền khắp thế giới. Vì vậy, rủi ro Ngân hàng và quản lý rủi
ro Ngân hàng luôn là vấn đề thời sự cho mỗi nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Có nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, có nhiều định nghĩa về rủi ro của các nhà kinh
tế và các nhà kinh doanh. Khó tìm được một định nghĩa nào cho hoàn hảo, song rủi ro
thường có 02 đặc điểm:
- Biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức độ nào đó.
- Tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
Là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng thương mại cũng gánh chịu các rủi
ro do các tác động của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh nghiệp khác.
Phân loại rủi ro.
Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng về cơ bản có thể chia thành 02 loại:
¾ Rủi ro môi trường.
Rủi ro môi trường luôn tồn tại trong tổ chức và ngoài tổ chức. Hay nói các khác, rủi
ro môi trường bao gồm 02 loại: rủi ro môi trường vi mô và rủi ro môi trường cạnh tranh.
- Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường mà Ngân hàng hoạt động chứa đựng muôn
vàn rủi ro, chúng tác động Ngân hàng nhiều cách: hoặc làm suy yếu rủi ro chịu đựng rủi
ro của Ngân hàng, hoặc gây cho Ngân hàng những thiệt hại về mặt tài chính. Những rủi
ro này rất khó kiểm soát nên chúng thường được gọi là “rủi ro không thể kiểm soát
được”. Trong thực tế, người ta có thể kiểm soát chúng ở mức độ nào đó trên cơ sở dự
báo.
Các dạng rủi ro môi trường vĩ mô Ngân hàng thường gặp là:
+ Rủi ro tự nhiên hay rủi ro bất khả kháng: lũ lụt, hỏa hoạn, động đất….
+ Rủi ro về luật pháp liên quan đến sự thay đổi các luật lệ cho Ngân hàng. Ở các
nước đang phát triển, đây là thiệt hại lớn cho nền kinh tế, do thiếu các luật lệ hay các quy
định cần thiết và khả năng ứng cứu kịp thời.
- Rủi ro đối thủ cạnh tranh: Một Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng
chịu tác động của khách hàng hoặc đối thủ cạnh tranh từ nhiều phí. Từ đó, luôn nhận rất
nhiều tác động đầy rủi ro. Ví dụ: khi một Ngân hàng thay đổi lãi suất, ngay sao đó kéo
theo hàng loạt sự dịch chuyển khách hàng từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác, làm
mất cân đối trong huy động và cho vay của Ngân hàng dẫn đến thiệt hại tài chính của
Ngân hàng, làm giảm khả năng cạnh tranh của Ngân hàng….
¾ Rủi ro đặc thù
Luôn tồn tại trong lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. Rủi ro đặc thù là rủi ro do bản
chất của ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh tạo ra. Trong lĩnh vực Ngân hàng, rủi ro
đặc thù bao gồm:
+ Rủi ro về quản lý: Rủi ro có thể bắt nguồn từ ban quản lý ._.của Ngân hàng do thiếu
kiến thức, hay kinh nghiệm hoặc khả năng điều hành. Nó có thể xảy ra do sự yếu kém
năng lực hay đạo đức của nhân viên Ngân hàng
+ Rủi ro cung cấp dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh, bao gồm: Rủi ro về hoạt
động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về công nghệ, rủi ro đòn cân nợ, rủi ro do thiếu nổ lực
nghiên cứu và phát triển…
+ Rủi ro thích ứng: Nó thể hiện Ngân hàng có quy mô vốn nhỏ thường ít an toàn
hơn Ngân hàng có vốn lớn. Ngoài ra, rủi ro này còn do khả năng nhạy cảm của Ngân
hàng đối với môi trường, và khả năng phỏng đoán của Ngân hàng về tình hinh kinh tế
chung. Ví dụ : Đầu năm 2008, thị trường chứng khoáng luôn đạt chỉ số VN - INDEX trên
1000 điểm, hàng loạt cổ phiếu tăng giá dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư chứng tăng cao, Ngân
hàng không nhận thức được yếu tố rủi ro trong đầu tư chứng khoán đẩy mạnh hoạt động
cho vay đầu tư chứng khoán… thì cho đến hôm nay chỉ số VN - INDEX chỉ còn dưới
300 điểm thì ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động tài chính của Ngân hàng.
+ Rủi ro tài sản thế chấp: Tài sản thế chấp tuy chỉ được xếp là yếu tố sau cùng để
đánh giá tư cách vay của khách hành tuy nhiên, tài sản thế chấp là phương án tốt nhất để
Ngân hàng thu hồi vốn từ khách hàng. Cho nên, viêc định giá tài sản thế chấp sao cho
phù hợp và đảm bảo khoản vay đòi hỏi Ngân hàng phải đầy đủ cơ sở và khả năng nắm
bắt giá cả thị trường một cách nhanh chóng. Một tài sản đáp ứng đủ khoản thanh toán cho
Ngân hàng, tuy nhiên để thanh lý được tài sản đó và thời gian thu hồi vốn từ tài sản cũng
là một vấn đề phức tạp đối với hoạt động Ngân hàng.
2.5.3 Ảnh hưởng của rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng.
Cũng như các doanh nghiệp, Ngân hàng cũng có thể có bị mất vốn. Nhưng do kinh
doanh trong lĩnh vực đặc biệt, nên rủi ro trong lĩnh vưc kinh doanh Ngân hàng không chỉ
ảnh hưởng đến bản thân Ngân hàng thương mại mà còn tác động xấu đến nền kinh tế - xã
hội.
¾ Rủi ro xảy ra tạo cho Ngân hàng tổn thất về mặt tài chính:
Bất kỳ rủi ro nào xảy ra cũng nên những tổn thất về tài chính cho Ngân hàng; hoặc
làm tăng chi phí hoạt động của Ngân hàng, hoặc làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Nếu
thu không đủ chi Ngân hàng sẽ bị thua lỗ, nghiệm trong hơn Ngân hàng có thể bị phá sản.
Rủi ro và tổn thất tài chính là điều khó tránh khỏi trong việc tìm kiếm lợi nhuận,
hoạt động nào mang lại lợi nhuận cao thì khả năng xảy ra rủi ro càng lớn. Điều đó, đặt ra
cho Ngân hàng cần phải cân nhắc trong việc lựa chọn phương án kinh doanh nhằm đạt sự
cân bằng hợp lý giữa lơi nhuận vơi rủi ro và tổn thất.
¾ Rủi ro xảy ra làm giảm uy tín của Ngân hàng.
Những thiệt hại về uy tín của Ngân hàng, làm tổn hại lòng tin của công chúng là
những tổn thất lớn hơn nhiều so với tổn thất về mặt tài chính. Các thua lỗ trong hoạt động
Ngân hàng luôn có ảnh hưởng bất lợi đến niềm tin của công chúng vào Ngân hàng. Khi
dân chúng mất niềm tin và khả năng kinh doanh của Ngân hàng, họ đồng loạt rút tiền gửi
ra khỏi Ngân hàng, dẫn đến việc khủng hoảng tài chính Ngân hàng hoặc phá sản của
Ngân hàng. Không phải tất cả tiền Ngân hàng huy động được đều đươc giữ lại trong
Ngân hàng, mà nó đươc Ngân hàng quay vòng liên tục cho các nhu cầu đầu tư hay tiêu
dùng của xã hội… Khi tất cả khách hàng gửi tiền đồng loạt rút tiền thì Ngân hàng, Ngân
hàng sẽ không đủ khả năng thanh toán. Điều này đã từng xảy ra đối với Ngân hàng ACB
năm 2005 khi có tin đồn không tốt về Ngân hàng, ngay lập tức hàng loạt khách hàng đến
yêu cầu rút tiền. Phải nhờ đến sự bảo lãnh của Ngân hàng nhà nước mới lấy lại được
niềm tin của khách hàng.
¾ Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng còn gây tác động xấu đến nền kinh tế - xã hội:
Các thua lỗ của Ngân hàng không những làm các cổ đông mất vốn đàu tư vào Ngân
hàng, mà còn là lượng vốn nhà rõi tạm thời của các doanh nghiệp, nhà đầu tư…. Khi
Ngân hàng phá sản, đồng nghĩa lượng vốn đầu tư vào nền kinh tế không hiệu, làm chậm
tốc độ phát triển của cả nền kinh tế.
2.6 Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
2.6.1 Rủi ro tín dụng.
Là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay của Ngân hàng biểu hiện trên thực
tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn.
2.6.2 Biểu hiện, nguyên nhân và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
¾ Biểu hiện
Biểu hiện của rủi ro tín dụng rất đa dạng. Tuy nhiên trên thực tế nó thường được
biểu hiện qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn, là việc
xuất hiện những biến cố không bình thường trong quan hệ tín dụng từ đó tác động xấu
đến hoạt động của Ngân hàng, có thể làm cho Ngân hàng thiệt hại hay mất khả năng
thanh toán cho khách hàng.
Một Ngân hàng giỏi là Ngân hàng có khả năng phát hiện các bất thường xảy ra đối
với khách hàng trước khi đến hạn thanh toán nợ. Nhưng để nhận biết được điều này đòi
hỏi Ngân hàng phải thường xuyên tìm hiểu thông tin cũng như tình hình hoạt động kinh
doanh của khách hàng. Như vậy, đòi hỏi Ngân hàng phải có nguồn nhân sự dồi giàu, hệ
thống thông tin cập nhật thường xuyên, nắm bắt những biến động của thị trường để có
những biện pháp kịp thời .
¾ Nguyên nhân
Rủi ro tín dụng có thể không chỉ do nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng cho
vay mà còn do nguyên nhân khách quan từ chính khách hàng vay vốn hay ảnh hưởng của
môi trường kinh tế:
Nguyên nhân
o Nguyên nhân về môi trường kinh tế:
Các thiên tai: bão lụt, hạn hán, dịch bệnh…
Nền kinh tế bị suy thoái, việc xuất nhập khẩu, tiêu thụ hàng hóa bị hạn chế, giá cả
sụt giảm… do đó việc thu nợ gặp rất nhiều khó khăn.
Nguyên nhân khách quan về phía khách hàng:
- Có sự biến động trong gia đình của khách hàng.
- Khách hàng không thực hiện đúng phương án sản xuất kinh doanh.
- Khách hàng không có ý thức trong việc trả nợ.
- Phương án sản xuất kinh doanh không mang lại hiệu quả.
o Nguyên nhân chủ quan về phía Ngân hàng:
- CBTD chưa nắm vững, chưa chấp hành quy chế cho vay.
- CBTD lập tờ trình cho vay không trung thực.
- Thiếu sự quan tâm theo dõi thu nợ khách hàng.
- Công tác quản lý tín dụng chưa sâu sắc và toàn diện ở cấp phòng.
- Chủ quan, hời hợt, sai sót khi thẩm định.
Các rủi ro tín dụng thường gặp liên quan đến thẩm định:
- CBTD bị khách hàng lừa đảo, qua mặt.
- CBTD còn non kém, thiếu kinh nghiệm hoặc thẩm định không theo quy định do
Ngân hàng ban hành.
- CBTD cố ý báo cáo thẩm định sai sự thật.
¾ Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng ở mức cao chứng tỏ hoạt động cấp tín dụng không hiệu quả:
Nếu nghiệp vụ cấp tín dụng phát sinh rủi ro cũng tức là phát sinh nợ quá hạn trong
tổng dư nợ tại Ngân hàng, mà tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ càng cao thì thể hiện chất
lượng tín dụng càng thấp. Mặt khác khi nợ quá hạn gia tăng thì theo quyết định
493/2005/QĐ-NHNN, dự phòng cho các nhóm nợ là:
a) Nhóm 1: 0%
b) Nhóm 2: 5%
c) Nhóm 3: 20%
d) Nhóm 4: 50%
đ) Nhóm 5: 100%. Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì
được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.1
Theo Quyết định trên, một khoản dự phòng chung cũng được lập nhằm duy trì mức
dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ ngoại trừ nợ có khả năng mất
vốn. Mức dự phòng chung này được yêu cầu phải đạt được trong vòng 5 năm kể từ ngày
Quyết định có hiệu lực.
Mặt khác theo Quyết định trên, một khoản dự phòng chung cũng được lập nhằm
duy trì mức dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản bảo lãnh, cam kết cho
vay và chấp nhận thanh toán. Mức dự phòng chung này được yêu cầu phải đạt được trong
vòng 5 năm kể từ ngày Quyết định này có hiệu lực.
Như vậy,Ngân hàng sẽ phải thực hiện việc trích lập dự phòng theo từng nhóm nợ
quá hạn tương ứng, sẽ phải tăng các khoản chi để đốc thúc, thu hồi nợ, từ đó làm cho lợi
1 Phân nhóm nợ: sẽ được trinh bày muc dưới đây.
nhuận thấp hơn dự kiến. Trong trường hợp phát sinh nợ quá hạn lớn còn có thể làm Ngân
hàng mất cân đối trong việc thanh toán bởi phần lớn nguồn vốn hoạt động của Ngân
hàng là vốn huy động, khi Ngân hàng không thể đảm bảo thu hồi nợ vay đúng hạn thì khả
năng thanh toán sẽ đồng thời giảm xuống, ảnh hưởng uy tín của Ngân hàng, sức cạnh
tranh bị hạn chế.
2.6.3 Các thuật ngữ tín dụng hoạt động tín dụng.
Doanh số cho vay
Là chỉ tiêu phản ánh các khoản tín dụng mà Ngân hàng đã cho khách hàng vay,
không xét đến việc khoản tín dụng đó đã được thu về hay chưa, thường được xác định
theo tháng, quí hay năm.
Doanh số thu nợ
Là chỉ tiêu phản ánh các khoản thu nợ gốc mà Ngân hàng đã thu về từ các khoản
cho vay của Ngân hàng kể cả các khoản vay của năm nay và những năm trước đó, kể cả
thanh toán dứt điểm hợp đồng và thanh toán một phần.
Dư nợ
Là toàn bộ số tiền Ngân hàng đã cho vay nhưng chưa thu hồi nợ, dư nợ được tính
tại một thời điểm xác định.
Nợ quá hạn
Là chỉ tiêu phản ánh những khoản nợ vay (bao gồm vốn gốc và lãi) không trả nợ
đúng hạn, được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không
chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì toàn bộ số dư nợ vay của hợp đồng tín dụng
đó được coi là nợ quá hạn.
Không trả đúng hạn: là việc khách hàng trả lãi hoặc gốc trễ hạn từ 1 ngày trở lên so
với ngày trả nợ được thỏa thuận.
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ: là việc khách hàng gia hạn nợ hoặc điều chỉnh lại kỳ hạn
trả nợ.
Gia hạn nợ vay: là việc Ngân hàng chấp nhận kéo dài thêm một khoảng thời gian
trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay vượt quá thời hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong
hợp đồng tín dụng.
Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: là việc Ngân hàng chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc
và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong hợp
đồng tín dụng, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không thay đổi.
Nợ quá hạn làm cho lợi nhuận của Ngân hàng bị giảm sút, đôi khi dẫn đến thua lỗ,
Ngân hàng bị mất khả năng thanh toán cho khách hàng…Nợ quá hạn càng cao thể hiện
chất lượng tín dụng càng thấp và ngược lại.
Phân nhóm nợ
Căn cứ theo Quyết định số 493/2005QD – NHNN ngày 22/04/2006 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng, của Tổ chức tín dụng.
Quyết định số 18/2007 QĐ –NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN thì có các nhóm nợ sau:
+ Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày mà các tổ chức Tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn còn lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định:
Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối
thiểu trong vòng một (01) năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba (03) tháng đối
với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả đầy đủ
nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại, tổ chức tín dụng có thể phân
loại lại khoản nợ đó vào nhóm 1.
+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh
nghiệp, tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ
gốc và lãi được điều chỉnh lần đầu).
- Các khoản nợ khác được phân được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại phần
(*) bên dưới:
+ Nhóm 3(Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn
trả nợ lần đầu phân loại và nhóm 2 theo quy định.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng.
- Các khoản nợ khác được phân được phân loại vào nhóm 3 theo quy định phần (*)
bên dưới:
+ Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả gian trả nợ ban đầu dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định phần (*) bên dưới:.
+ Nhóm 05 (Nợ có khả năng mất vôn)
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Các khoản nợ cơ cấu đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời
hạn đã được cơ cấu lại;
Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định phần (*) bên dưới:
(*) Ngòai ra Tập đoàn phải chuyển khoản nợ vào nhóm có rủi ro cao hơn trong các
trường hợp sau:2
¾ Tòan bộ dư nợ của một khách hàng tại một Tập đoàn phải được phân loại vào
cùng một nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ hai khoản nợ trở lên tại một Tập đoàn mà
có bất cứ một khoản nợ bị phân loại theo qui định phía trên vào nhóm có rủi ro cao hơn
các khoản nợ khác, Tập đoàn phải phân loại lại các khoan nợ còn lại của khách hàng vào
nhóm nợ có rủi ro cao nhất;
¾ Đối với khoản vay hợp vốn, Tập đoàn là đầu mối phải thực hiện phân loại nợ
đối với khoản vay cho vay hợp vốn theo các qui định trên và phải thông báo kết quả phân
loại nợ cho các Tập đoàn tham gia cho vay hợp vốn. Trường hợp khách hàng vay hợp
vốn có một hoặc một số các khoản nợ khác tại Tập đoàn tham gia cho vay hợp vốn đã
phân loại vào nhóm nợ không cùng nhóm nợ của khoản vay hợp vốn do Tập đoàn làm
đầu mối phân loại, Tập đoàn tham gia cho vay hợp vốn phân loại tòan bộ dư nợ do Tập
đoàn đầu mối phân loại hoặc do Tập đoàn tham gia cho vay hợp vốn phân loại tùy theo
nhóm nợ nào có rủi ro cao hơn.
¾ Tập đoàn phải chủ động phân loại các khoản nợ được phân loại vào các nhóm
nợ theo qui định tại nhóm 1 vào các nhóm nợ có rủi ro cao hơn theo đánh giá của Tập
đoàn khi xảy ra một số trường hợp sau đây:
Có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến môi trường, lĩnh vực kinh doanh
của khách hàng;
Các khoản nợ của khách hàng bị các Tập đoàn khác phân loại vào nhóm nợ có
mức rủi ro cao hơn (nếu có thông tin);
Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,
tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm liên tục
hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm;
Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin tài chính
theo yêu cầu của Tập đoàn để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
2.7 Vai trò công tác thẩm định trong việc hạn chế rủi ro.
2.7.1 Khái niệm thẩm định tín dụng
Thẩm định tín dụng là tiến hành xem xét và phân tích những yếu tố có liên quan
đến khách hàng vay vốn trên cơ sở hồ sơ xin vay và các thông tin có liên quan để làm căn
cứ quyết định cho vay đối với khách hàng.
2.7.2 Vai trò công tác thẩm định trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
Giúp Ngân hàng xác định được khả năng và ý muốn của người vay trong việc hoàn
trả tiền vay, phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng, qua đó thấy được rủi ro
có thể có trong mỗi trường hợp, thỏa thuận được mức cho vay và thu nợ hợp lý.
Ngân hàng có thể tham gia góp ý với khách hàng nhằm tạo tiền đề đảm bảo hiệu
quả cho vay, thu được cả lãi và gốc đúng hạn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất.
2.8 Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
2 Trích thuyết minh báo cáo tài chính Ngân hàng Sacombank.
Tỷ lệ thu nợ
Doanh Số Thu Nợ
Tỷ Lệ Thu Nợ = x 100%
Doanh Số Cho Vay
Đánh giá hiệu quả trong hoạt động thu nợ của Ngân hàng, phản ánh trong thời kỳ
nhất định với doanh số cho vay nhất định thì Ngân hàng sẽ thu về đựơc bao nhiêu đồng
vốn, tỷ lệ này càng cao càng tốt.
Tỷ lệ rủi ro tín dụng
Tổng Dư Nợ
Tỷ Lệ Rủi Ro Tín Dụng = x 100%
Tổng Tài Sản có
Nếu tỷ lệ này càng cao thì mức độ rủi ro Ngân hàng gặp phải càng lớn vì khi đó các
khoản mục tín dụng chiếm một tỷ trọng lớn trong tài sản có của Ngân hàng. Khi tỷ lệ này
càng cao lợi nhuận của Ngân hàng có thể cao hơn đồng thời với mức độ rủi ro cũng sẽ
lớn hơn.
Trong đó, Tổng tài sản có bao gồm: Ngân quỹ (tiền mặt và hiện kim), Các khoản
cho vay khách hàng, Đầu tư chứng khoán, Tài sản cố định. Loại tài sản có thể chuyển hoá
nhanh để thanh toán của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ Quá Hạn
Tỷ Lệ Nợ Quá Hạn/Dư Nợ = x 100%
Tổng Dư Nợ
Thể hiện chất lượng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, tỷ lệ này càng thấp
thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại.
Vòng quay vốn tín dụng:
Doanh số cho vay
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Chỉ số này phản ánh tốc độ lưu chuyển vốn của Ngân hàng, tốc độ thu hồi nợ của
Ngân hàng nhanh hay chậm. Số vòng quay vốn tín dụng càng cao, đồng vốn Ngân hàng
tạo ra lợi nhuận càng nhiều và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ số này chỉ đúng trong trường
hợp nền kinh tế ổn định.
Tóm tắt chương:
Nôi dụng chương trình bày khái quát về Ngân hàng thương mại, chức năng Ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế. Các vấn đề về tín dụng: khái niệm, nguyên tắc và
chức năng của tín dụng, phương thức cấp tín dụng, các quy định của Ngân hàng Nhà
nước đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng thương mại… Các dạng rủi ro tín dụng và
các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại. Các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng.
CHƯƠNG 3: KHÁI QUÁT VỀ SACOMBANK CHI NHÁNH AN
GIANG
3.1 Giới thiệu về Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) có trụ sở chính
đặt tại 266 – 268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, TPHCM, được thành lập theo quyết định
số 005/GP-UB ngày 03/01/1992 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh và hoạt động theo
quyết định số 006/NH-GP ngày 05/12/1991 của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Chính
thức đi vào hoạt động ngày 21/12/1991 trên cơ sở chuyển thể từ Ngân hàng phát triển
kinh tế Gò Vấp và sáp nhập 3 hợp tác xã tín dụng Tân Bình – Lữ Gia – Thành Công.
Lịch sử về Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín:
Năm 1991, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên được thành lập từ việc hợp
nhất ba hợp tác xã Tín dụng Tân Bình – Thành Công - Lữ Gia với Ngân hàng Phát triển
Kinh tế Gò Vấp đang có nguy cơ đổ vỡ trong bối cảnh lạm phát phi mã trong những năm
1989 – 1990.
Năm 1993, Sacombank là Ngân hàng TMCP miền Nam đầu tiên mở chi nhánh tại
Thủ đô Hà Nội. Đồng thời Sacombank cũng là Ngân hàng TMCP đầu tiên phát hành kỳ
phiếu để huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng và thực hiện dịch vụ chuyển tiền nhanh
giữa Hà nội và TP.HCM.
Năm 1995, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên xây dựng Chiến lược phát
triển giai đoạn 15 năm (1996 – 2010) và các mục tiêu phát triển cụ thể trong thời kỳ 1996
– 2000. Trong đó, định hướng Ngân hàng bán lẻ với thị trường mục tiêu là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ thông qua phương châm hành động trong hoạt động tín dụng là “cho
vay phân tán theo đề án, kết hợp với cho vay tập trung có trọng điểm” đã được xác định.
Năm 1996, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên phát hành cổ phiếu đại chúng
với mệnh giá 200.000 đồng/cổ phần để tăng vốn điều lệ từ 23,5 tỷ đồng lên 47,7 tỷ đồng,
mở ra một phương thức mới trong việc tăng vốn điều lệ nhằm đảm bảo đủ vốn pháp định
70 tỷ đồng theo quy định của Chính phủ trong bối cảnh chung của các Ngân hàng TMCP
lúc bấy giờ.
Năm 1997, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên liên kết với Trường đại học
Nông Lâm TP.HCM tuyển dụng gần 20 kỹ sư kinh tế nông nghiệp để đào tạo, chuẩn bị
nguồn lực cho chiến lược mở rộng mạng lưới đến các tỉnh nông nghiệp trọng điểm miền
Đông và Tây Nam bộ. Hiện nay, 50% trong số họ là các Giám đốc Chi nhánh xuất sắc và
các Trưởng Phòng nghiệp vụ giỏi.
Năm 1998, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên mở Tổ Tín dụng ngoài địa
bàn (Lai Uyên – Bình Dương), nơi chưa có chi nhánh Sacombank trú đóng để cho vay
đối với nông dân - nông nghiệp – nông thôn. Đây chính là một thực tiễn sinh động để sau
đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các Ngân hàng thương mại được mở tổ
tín dụng ngoài địa bàn nhằm giúp các Ngân hàng thương mại có điều kiện đưa vốn nhàn
rỗi huy động được ở các đô thị về phục vụ nông dân – nông nghiệp – nông thôn.
Năm 1999, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên thu hút cổ đông chiến lược
nước ngoài là tập đoàn Tài chính Dragon Financial Holdings (Anh Quốc) để trong những
năm sau đó tiếp tục thu hút thêm 2 cổ đông chiến lược nước ngoài là Công ty Tài chính
quốc tế (IFC) và Ngân hàng ANZ.
Năm 2002, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên xúc tiến kế hoạch tái cấu
trúc Ngân hàng với đồng bộ 4 nội dung: (i) mô hình tổ chức; (ii) hành lang pháp lý; (iii)
nội dung hoạt động; (iv) danh mục tài sản và cơ cấu tài chính. Nhờ đó mà Sacombank
từng bước tiếp cận, ứng dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất dành cho một
Công ty cổ phần đại chúng và một Ngân hàng bán lẻ - đa năng – hiện đại.
Năm 2003, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên tham gia thành lập Công ty
liên doanh Quản lý quỹ, góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời
kỳ mới phôi thai.
Năm 2006 Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Đến thời điểm hiện nay, cổ phiếu STB luôn giữ được tính
thanh khoản cao và ổn định nhất tại Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM. Đồng thời năm
2006, Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên thành lập Công ty cho thuê tài chính. Với
số vốn điều lệ 200 tỷ đồng.
Năm 2007 Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên thành lập Văn phòng đại
diện tại Thành phố Nam Ninh – Trung Quốc, mở ra cơ hội để Sacombank góp phần nâng
cao mối quan hệ giao thương truyền thông giữa hai nước láng giềng.
Năm 2008 Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên đầu tư xây dựng và đưa vào sử
dụng trung tâm dữ liệu (Data Center) chuyên biệt, hiện đại trong hệ thống các Ngân hàng
TMCP Việt Nam.
Năm 2008 Sacombank là Ngân hàng TMCP công bố thành lập Tập đoàn Tài
chính tư nhân đầu tiên tại Việt Nam (16/5/2008). Tuy chưa có các văn bản dưới Luật
hướng dẫn cụ thể, nhưng với các Công ty trực thuộc và các Công ty liên doanh – liên kết
sẵn có, Tập đoàn Tài chính Sacombank bước đầu đã phát huy lợi thế về mạng lưới và sản
phẩm dịch vụ đa dạng, để qua đó cung cấp cho thị trường các giải pháp tài chính trọn gói
bởi một đầu mối.
Năm 2008 Sacombank là Ngân hàng thương mại Việt Nam đầu tiên khai trương
hoạt động Chi nhánh tại nước ngoài; Sacombank – Chi nhánh tại Lào (12/12/2008) và
đang chuẩn bị để có thể khai trương hoạt động của chi nhánh Sacombank tại Campuchia
vào năm 2009. Định hướng thiết lập mạng lưới khu tam giác Đông Dương của
Sacombank đang dần hiện thực hoá.
Năm 2008 Sacombank là Ngân hàng TMCP và là công ty niêm yết đầu tiên xin thay
đổi niên độ kế toán từ 01/4 năm trước và kết thúc 31/3 năm sau, thay vì từ 01/01 và kết
thúc 31/12 như mọi năm nhằm giảm bớt khó khăn về kiểm toán do tất cả các Công ty
niêm yết và Công ty cổ phần đại chúng thường tập trung kiểm toán vào Quý I hằng năm;
đồng thời cũng góp phần giảm bớt lượng cung cổ phiếu trên thị trường chứng khoán do
việc phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ của các Công ty niêm yết thường diễn ra cùng
một thời điểm. Hy vọng chủ trương này sẽ được Đại hội cổ đông phiên họp thường niên
vào đầu năm 2009 đồng tình và Ngân hàng nhà nước cho phép.
Qua hơn 17 năm hoạt động, Sacombank là một trong những Ngân hàng thương mại
cổ phần có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam, tăng từ 190 tỷ đồng năm 2001 lên
1.899.472.990.000 đồng tháng 3/2006, và hiện nay (2009) là 5.116 tỷ đồng. Mạng lưới
hoạt động trên 250 chi nhánh và phòng giao dịch tại 45/63 tỉnh thành trong cả nước, quan
hệ đại lý với 10.644 chi nhánh của 278 Ngân hàng tại 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, đội
ngũ nhân viên gồm hơn 6.000 cán bộ trẻ, năng động, sáng tạo, có hơn 60.000 cổ đông đại
chúng. Được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngày 06/06/2006
Sacombank đã tiến hành niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh.
Vào ngày 16/5/2008, Sacombank tạo nên một bước ngoặc mới trong lịch sử hình
thành và phát triển Ngân hàng với việc thành lập Tập đoàn tài chính Sacombank.
Bên cạnh những thành quả đạt được, Sacombank đang hướng đến mục tiêu trở
thành một Ngân hàng bán lẻ - đa năng - hiện đại - tốt nhất tại Việt Nam và có quy mô
trung bình trong khu vực.
Chi nhánh cấp 1 An Giang được thành lập theo công văn thứ 143/NHNN ngày
22/5/2005 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, chính thức đi vào hoạt động
ngày 03/08/2005 theo công văn số 66 của Chủ Tịch hội đồng quản trị trên cơ sở chuyển
thể và nâng cấp từ Tổ tín dụng An Giang trực thuộc chi nhánh Cần Thơ và Văn phòng đại
diện An Giang trực thuộc Hội Sở.
Sacombank An Giang là chi nhánh thứ 3 áp dụng hệ thống Corebanking (T24), là
một trong những phương tiện hiện đại trong việc quản lý Ngân hàng. Sacombank cũng đã
tiến hành thực hiện việc xếp hạng tín dụng, đánh giá phân loại các khoản vay để ngay từ
đầu có thể ngăn ngừa những khoản vay có thể phát sinh rủi ro.
Trong cùng xu thế phát triển của toàn hệ thống Sacombank, Sacombank An Giang
cũng đặt mục tiêu phát triển là trở thành Ngân hàng bán lẻ đa năng trên địa bàn tỉnh, do
vậy nhóm khách hàng trọng tâm mà Chi nhánh hướng đến là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, đẩy mạnh công tác tín dụng nhằm đầu tư vốn để tài trợ cho các phương án sản xuất
kinh doanh, phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
3.2 Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín – Chi nhánh An Giang
3.2.1 Quá trình hình thành và phát triển
Chi nhánh cấp 1 An Giang được thành lập theo công văn thứ 143/NHNN ngày
22/5/2005 của Thống Đốc NHNN VN, chính thức đi vào hoạt động ngày 03/08/2005 theo
công văn số 66 của Chủ Tịch hội đồng quản trị trên cơ sở chuyển thể và nâng cấp từ Tổ
tín dụng An Giang trực thuộc Chi nhánh Cần Thơ và Văn phòng đại diện An Giang trực
thuộc Hội Sở.
Sacombank An Giang là chi nhánh thứ 3 áp dụng hệ thống Corebanking (T24), là
một trong những phương tiện hiện đại trong việc quản lý Ngân hàng. Sacombank cũng đã
tiến hành thực hiện việc xếp hạng tín dụng, đánh giá phân loại các khoản vay để ngay từ
đầu có thể ngăn ngừa những khoản vay có thể phát sinh rủi ro.
Trong cùng xu thế phát triển của toàn hệ thống Sacombank, Sacombank An Giang
cũng đặt mục tiêu phát triển là trở thành Ngân hàng bán lẻ - đa năng - hiện đại trên địa
bàn tỉnh, do vậy nhóm khách hàng trọng tâm mà Chi nhánh hướng đến là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, đẩy mạnh công tác tín dụng nhằm đầu tư vốn để tài trợ cho các
phương án sản xuất kinh doanh, phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
3.2.2 Cơ cấu tổ chức
Hình __: Sơ đồ tổ chức tại Sacombank An Giang
Căn cứ quyết định số 654/2007/QĐ-HĐQT về việc ban hành quy chế về tổ chức
hoạt động của chi nhánh, sở giao dịch và các đơn vị trực thuộc, tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ cuả các đơn vị trực thuộc Sở giao dịch và chi nhánh cấp 1 được hội đồng quản
trị ban hành gồm: Phòng Doanh nghiệp, Phòng Cá nhân, Phòng Hỗ trợ, Phòng Kế toán và
Quỹ và Phòng Hành chính.
Sơ đồ bộ máy quản lý Sacombank chi nhánh An Giang
Giám Đốc
P.Giám Đốc
Chức năng, nhiệm vụ các phòng ban
Phòng doanh nghiệp
− Thực hiện công tác tiếp thị để phát triển khách hàng, phát triển thị phần và chăm
sóc khách hàng hiện hữu.
− Hướng dẫn khách hàng về tất cả các vấn đề có liên quan đến cho vay, bảo lãnh.
− Nghiên cứu hồ sơ, xác minh tình hình sản xuất kinh doanh, phương án vay vốn,
khả năng quản lý, tài sản đảm bảo của khách hàng.
− Phân tích, thẩm định, đề xuất cho vay và gia hạn hồ sơ cho vay bảo lãnh.
Phòng Giao Dịch
P
K
hòng
ế toán &
P
H
hòng
ỗ trợ
P
C
hòng
á nhân
P
D
hòng
oanh
B
ti
ộ phận
ếp thị DN
B
th
ộ phận
ẩm định
B
ti
ộ phận
ếp thị CN
B
th
ộ phận
ẩm định
B
q
ộ phận
uản lý
B
T
ộ phận
TQT
B
k
ộ phận
ế toán
B
Q
ộ phận
uỹ
P
H
hòng
ành
B
X
ộ phận
ử lý giao
Hướng dẫn khách hàng bổ túc hồ sơ, tài liệu để hoàn chỉnh hồ sơ.
− Thông báo quyết định cho vay hoặc không cho vay của Ngân hàng đến khách
hàng.
− Thực hiện thủ tục công chứng các hợp đồng cầm cố thế chấp và đăng ký giao dịch
bảo đảm.
− Tham gia tiếp nhận tài sản cầm cố.
− Lập chứng thư bảo lãnh đối với ghiệp vụ bảo lãnh nội địa.
− Kiểm tra sử dụng vốn định kỳ, đột xuất sau khi cho vay.
− Đôn đốc khách hàng trả vốn và lãi đúng kỳ hạn.
− Đề xuất các biện pháp xử lý các khoản nợ trễ hạn, quá hạn trong phạm vi trách
nhiệm theo quy địng của Ngân hàng.
− Xây dựng kế hoạch tháng, năm; theo dõi đánh giá tình hình thực hiện và đề xuất
cho Giám đốc Chi nhánh các biện pháp khắc phục các khó khăn trong công tác.
Phòng cá nhân
Cũng giống như bộ phận tín dụng doanh nghiệp, ngoại trừ chức năng thứ 3 được bổ
sung như sau: nghiên cứu hồ sơ, xác minh nhân thân, nguồn thu nhập dùng để trả nợ, tài
sản đảm bảo… của khách hàng cho vay bất động sản và tiêu dùng; tham gia thực hiện
việc giải ngân, thu nợ đối với nghiệp vụ cho vay cán bộ công nhân viên và góp chợ theo
quy định của Ngân hàng.
Ngoài ra, cán bộ quan hệ khách hàng còn phụ trách thêm các chiến lược Marketing,
thăm dò thị trường, tư vấn tài chính…
Phòng hỗ trợ
Bộ phận quản lý tín dụng
− Kiểm soát các hồ sơ tín dụng đã được phê duyệt trước khi giải ngân.
− Hoàn chỉnh hồ sơ, lập thủ tục giải ngân, thanh lý và lưu trữ hồ sơ tín dụng.
− Quản lý danh mục dư nợ và tình hình thu hồi nợ.
− Hướng dẫn, hỗ trợ, kiểm soát về mặt nghiệp vụ đối với các đơn vị trực thuộc.
Bộ phận thanh toán quốc tế
− Thực hiện công tác tiếp thị, thu thập ý kiến đóng góp của khách hàng, đề xuất cho
Giám đốc chi nhánh các biện pháp cải tiến nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh và páht
triển thị phần.
− Hướng dẫn khách hàng tất cả các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán quốc tế.
− Kiểm tra về mặt kỹ thuật, thẩm định và đề xuất phát hành, tu chỉnh, thanh toán,
thông báo L._.àm hạn chế hiệu quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Đến
năm 2008 tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ còn 3%, tổng tài sản Ngân hàng tăng 413 triệu
đồng nhưng tỷ lệ rủi ro tín dụng vẫn giảm xuống còn 86%, chính là do sự bất ổn của tình
hình kinh tế chung. Ngân hàng hạn chế cho vay một số lĩnh vực cho vay nên tốc độ tăng
dư nợ không cao.
Tỷ lệ rủi ro tín dụng thấp là điều mà bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào cũng mong
muốn, nhưng sự tăng lên mức độ an toàn thì kéo theo là sự giãm xuống lợi nhuận Ngân
hàng. Tuy theo thời kỳ nhất định mà Ngân hàng điều chỉnh cho mình một tỷ lệ an toàn
phù hợp.
4.5.2 Rủi ro trong quy trình tín dụng.
Để nhận dạng được những rủi ro tín dụng Ngân hàng xuất phát từ đâu và nguyên
nhân của từng thời điểm được cụ thể hóa qua sơ đầu mô tả quy trình tín dụng tổng quát
sau:
Sơ đồ quy trình tín dụng ngắn hạn
Thẩm định hồ sơ pháp lý, tài chính, hồ sơ
vay vốn, hồ sơ đảm bảo, khả năng trả nợ
của phương án
Xét duyệt ra quyết định cho vay, ký Hợp
đồng tín dụng
Thu nợ, lãi, phí và xử lý phát sinh
Ngoài trừ các nguyên nhân khách quan các nguyên nhân ngoài tầm kiểm soát của
Ngân hàng không được trình bày ở đây, nội dung của phần này tập trung chủ yếu vào các
nguyên nhân mà Ngân hàng có thể hoặc có khả năng kiểm soát và phát hiện để ngăn ngừa
hay hạn chế rủi ro khi cấp tín dụng.
Thông qua sơ đồ tín dụng trên, có thể thấy rủi ro tín dụng Ngân hàng xuất phát
trong các giai đoạn sau:
Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ vay vốn
Đây là giai đoạn tiếp xúc đầu tiên giữa ngân hàng (cán bộ quan hệ khách hàng) với
khách hàng. Thông qua trao đổi và tiếp nhận thông tin ban đầu, Ngân hàng có thể tìm
hiểu mục đích vay vốn và đánh giá tư cách vay khách hàng, rủi ro có thể xảy ra ở đây là
tư cách của khách hàng không đạt tiêu chuẩn để được sự hỗ trợ cho vay vốn của Ngân
hàng. Nguyên nhân đó xuất phát từ các nguyên nhân sau:
+ Khách hàng cố ý không cung cấp đầy đủ thông tin, cũng như cung cấp thông tin
không minh bạch để đánh lừa Ngân hàng. Thông qua trao đổi khách hàng Ngân hàng có
thể phát hiện được tư cách không tốt của khách hàng. Tuy nhiên, để phát hiện được tính
cách khách hàng ngay từ giai đoạn này rất khó, phụ thuộc vào kinh nghiệm trong giao
tiếp, và sự cảm nhận chủ quan của cán bộ giao tiếp. Ngoài ra, thêm một rủi ro nữa là
khách hàng bị cán bộ đánh giá không tốt và tư chối cho vay, đây là điều mà Ngân hàng
không mong muốn, vì rủi ro này có tính lan truyền nhanh từ khách hàng bị từ chối.
Khách hàng bị từ chối có thể chuyển sang vay ở Ngân hàng khác và truyền miệng với
nhau về tính chuyên nghiệp của Ngân hàng từ không phải chỉ môt khách hàng Ngân hàng
bị mất. Rõ ràng đây là tổn thất không nhỏ đối với Ngân hàng.
+ Thông tin khách hàng thiếu được cập nhật: ở nguyên nhân này, một phần do hệ
thống thông tin chung của cả nền kinh tế, chỉ có những thông tin của khách hàng đã từng
được cấp tín dụng thông qua mua thông tin từ Thông Tin Tín Dụng Khách Hàng (gọi tắt
là CIC). Như vậy tính cách hay độ tin cậy của khách hàng chỉ được biết đầy đủ đối với
khách hàng cũ. Còn đối với khách hàng mới (chưa từng thực hiện quan hệ với Ngân
hàng) thì nguồn thông tin sơ cấp thông qua khách hàng chưa đủ cơ sở để đưa ra kết luận
đánh giá tư cách vay của khách hàng.
Thẩm định hồ sơ pháp lý, tài chính, hồ sơ vay vốn, hồ sơ đảm bảo, khả năng trả
nợ của phương án
Ở giai đoạn thứ nhất có thể Ngân hàng không đủ cơ sở để đánh giá tư cách khách
hàng, thì ở giai đoạn này, có thể khắc phục cũng như tìm ra được lý do (cơ sở) để từ chối
những khách hàng không đủ tiêu chuẩn để được cấp tín dụng. Tuy nhiên, giai đoại này
cũng có những khuyết điểm của nó, khách hàng có thể vượt qua được sự đánh giá của
Ngân hàng để nhận được sự đồng ý của Ngân hàng cấp tín dụng. Nguyên nhân đó là:
+ Trong thẩm định hồ sơ pháp lý Ngân hàng chỉ tiếp nhận những giấy tờ thông tin
khách hàng từ bản sao (bản copy) nên tính chất pháp lý hồ sơ không đủ. Bên cạnh đó, khi
có sự đối chiếu tính minh bạch hồ sơ phải tốn nhiều thời gian và công sức.
+ Trong công tác thẩm định giá trị tài sản đảm bảo, cơ sở thứ nhất thông qua biểu
giá của cơ quan nhà Nước để định giá, bên cạnh đó là nhận định của cán bộ có kinh
nghiêm hay thông qua nghiên cứu giá cả thị trường. Tại đây có 2 vấn đề cần đề cập:
Thứ nhất: giá trị tài sản bảo đảm không đủ để bảo đảm cho khoản vay của Ngân
hàng, có thể giá trị đúng với giá mà Cơ quan nhà Nước quy định nhưng cái mà Ngân
hàng quan tâm đó là khả năng thanh lý nhanh của tài sản, thời gian và mức giá mà tài sản
đó có thể được thanh lý để chi trả khoản vay cho Ngân hàng.
Thứ hai: tài sản đảm bảo còn trong cuộc tranh chấp chưa xác định được quyền sở
hữu hợp pháp đươc khách hàng đem là tài sản đảm bảo cho khoản vay. Hay tài sản bên
thứ 3 bảo lãnh khoản vay cho khách hàng (bên vay)!
Xét về khía cạnh thẩm định nguồn thu nhập thực tế của khách hàng, cán bộ tín dụng
chỉ có thể xác định được nguồn thu nhập cơ bản, nguồn thu nhập chính thông báo cáo
lương, các bảng phụ cấp… các nguồn thu nhập này thường được báo cáo thấp hơn so với
nguồn thu nhập thực tế của khách hàng (để trách những thuế…) các khoản thu nhập này
có tính ổn định cao. Một số trường hợp, nguồn thu nhập này không đảm bảo đủ khoản
vay của Ngân hàng nhưng nếu chấp nhận các nguồn thu nhập phụ của khách hàng thì tính
pháp lý không cao, kèm theo đó là sự không ổn định của các nguồn thu nhập phụ. Nên
khi xét nguồn thu nhập của khách hàng cần hạn chế những nguồn thu nhập không thường
xuyên để đảm bảo độ an toàn cho khoản vay.
Trong phương án vay của khách hàng, ngoại trừ các phương án phục vụ đời sống.
Phương án này rất ít chịu sự biến động của thị trường và thực hiện phương án thì ngắn
hơn so với thời hạn vay nên việc giám sát cung dễ dàng hơn so với các phương án sản
xuất kinh doanh (SXKD) hay đầu tư của khách hàng. Các phương án dài hạn có độ rủi ro
cao hơn và chịu sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố thị trường và năng lực của chủ đầu
tư. Một số lĩnh vực vượt ngoài khả năng kiểm soát của Ngân hàng làm cho công tác thẩm
định gặp khó khăn. Việc áp dụng chỉ mã số khách hàng (CIF) để chấm điểm tín dụng của
khách hàng còn nhiều điểm không phù hợp với việc chấm điểm khách hàng. Ví dụ như:
các thông tin về lý lịch của khách hàng cũng được chấm điểm thông qua tên, số CMND,
số điện thoại… về phương án SXKD hay đầu tư của khách hàng cũng chỉ là phần ước
lượng các chỉ số của hiện tại nên độ chính xác không cao, thông thường các phương án
được cung cấp có tỷ suất sinh lợi rất tốt (lợi nhuận trên doanh thu và lợi nhuận trên chi
phí) nên việc đưa vào cho chấm điểm khách hàng thông qua các phương án trên không đủ
cơ sở để đánh giá khách hàng.
Xét duyệt ra quyết định cho vay, ký Hợp đồng tín dụng
Việc duyệt ra quyết định cho vay, ký hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền cao hơn.
Tuy nhiên toàn bộ hồ sơ được bộ phận thấp hơn cung cấp, nên có thể xảy ra những
nguyên nhân dẫn đến rủi ro từ phía khách hàng các cấp dưới không trình bày rõ ràng
trong báo cấp để cấp trên ra quyết định phù hợp. Các nguyên nhân đó là:
+ Khách hàng có mối quan hệ riêng (người thân, quan hệ tình cảm, cho hoa
hồng…) để được cấp tín dụng.
+ Khách hàng được giới thiệu từ bộ phận cấp cao trong đơn vị Ngân hàng, dẫn đến
cán bộ cấp dưới không dám loại bỏ khách hàng ra vì sự kính nể câp trên, hay để tạo thiện
cảm với lãnh đạo.
+ Các chỉ tiêu, các phần thưởng … có giá trị cao để khuyến khích nhân viên năng
động trong công việc dẫn đến chay theo dư nợ, hay các phần tiền bồi dưỡng của khách
hàng cho nhân viến nếu được cấp tín dụng. Các nguyên nhân này là cho nhân viên Ngân
hàng cố tình bỏ qua những điểm không tốt của khách hàng để báo cáo cấp trên xét duyệt
ký Hợp đồng tín dụng cho khách hàng.
Thu nợ, lãi, phí và xử lý phát sinh.
Đây là giai đoạn rất khó kiểm soát nhất đối với một khoản vay, có nhiều lý do để lý
giải cho vấn đề này là: ngân hàng không phải chỉ có môt khách hàng và các khách hàng
không phải ai cũng dễ liên lạc… việc theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn của khách hàng
càng trở nên khó khăn hơn. Chưa kể, những biến động xấu của tình hình thị trường kinh
kế ảnh hưởng đến mục phương án vay vốn của Ngân hàng, thiên tai, lũ lụt cũng là
nguyên nhân gây ra những tổn thất không mong muốn…Hiện nay, chính sách giám sát
lần đầu 30 ngày kể từ ngày giải ngân, các lần giám sát tiếp theo có độ thời gian cách nhau
xa hơn. Chính sự không liên tục này, có thể xảy ra rủi ro. Vì vậy, Ngân hàng không
những giám sát mà cần có những dự báo dựa trên sự kiện kinh tế, ngành nghề, lĩnh vực
đầu tư của khách hàng để dự báo được những rủi ro có thể xảy ra cho khách hàng, từ đó
có những biện pháp kịp thời vừa giúp khách hàng vừa giảm rủi ro tín dụng cho Ngân
hàng.
Kết thúc Hợp đồng: tất toán, thanh lý giải chấp tài sản, lưu hồ sơ.
Một quy trình tín dụng chấm dứt khi Ngân hàng thu lại được khoản vốn và lãi của
mình đối với một khoản vay, nhưng đó cũng là lúc bắt đầu một quy trình tín dụng mới.
Khi kết thúc Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng cần phải đánh giá và chấm điểm lại tư cách
khách hàng, để có thể tiếp tục quan hệ với khách hàng nếu khách hàng có nhu cầu vay
vốn từ Ngân hàng. Có thể khách hàng không có dư nợ tại Ngân hàng nhưng uy tín của
khách hàng trong thời gian quan hệ khách hàng. Trong quá trình thực hiện giao dịch với
Ngân hàng, Ngân hàng cần đánh giá tư cách khách hàng, nếu những khách hàng tốt thì có
những chính sách để giữ chân khách hàng.
4.6. Ảnh hưởng của tình hình thị trường, môi trường hoạt động của khách hàng.
4.6.1 Nguyên nhân từ phía bản thân khách hàng
Người vay đang gặp khó khăn về mặt tài chính, bị biến động hoặc bị xáo trộn tình
hình tài chính (người vay bị tai nạn: người thân bị bệnh hay qua đời…) dẫn đến không
thực hiện trả nợ đúng hạn. Chuyện tình cảm gia đình khách hàng có biến động xấu (ly
hôn, không chung thủy một vợ một chồng…) khách hàng lâm vào tình trạng chán nản bỏ
bê công việc hay không đủ khả năng chi trả nợ đúng hạn.
4.6.2 Nguyên nhân từ phía bản thân Ngân hàng
Một số nhân viên biến chất lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý chiếm dụng vốn
của để sử dụng vào mục đích các nhân, sau đó nộp trả dần cho Ngân hàng theo lịch trả nợ
phân kỳ của Ngân hàng (đa số nhân viên sau khi chiếm dụng vốn mất khả năng thanh trả
nợ) bao gồm:
+ Khách hàng có nhu cầu xin vay (đã hoàn thiện hồ sơ) nhưng không nhận được
tiền vay, từ đó nhân viên Ngân hàng nhận tiền vay (dùm) của khách hàng (trường hợp
giải ngân tại địa bàn)
+ Khách hàng tất toán hồ sơ nợ trước hạn nhưng không đến trụ sở (tất toán tại địa
bàn) nhân viên Ngân hàng thu nợ nhưng không thự hiện tất toán hồ sơ vay theo quy định.
+ Trình độ nhân viên non kém, do lo sợ quá hạn phát sính sẽ bị khiển trách nên sử
dụng tiền của mình trả trước hạn để nộp cho khách hàng trễ hạn từ đó mất khả năng kiểm
soát (có thể dẫn đến thưa kiện).
+ Một số nhân viên mượn tiền của khách hàng hay vay ké từ người vay (người
thân) hoặc dùng tài sản cá nhân để vay, sau đó đem đi cho vay lại bị khách hàng dựt hay
không trả nợ dẫn đến không thực hiện trả nợ đúng hạn.
+ Ban lãnh đạo đơn vị cố tình xác nhận cho nhân viên vay ở nhiều Ngân hàng khác
nhau hoặc ép nhân viên vay cho mình để lấy tiền từ đó làm mất khả năng thanh toán nợ
cho Ngân hàng.
+ Một số trường hợp người vay thuộc tính giảm biên chế, hay sắp nghỉ việc hoặc đã
nghỉ việc mà chưa tất toán Hợp đồng….
4.6.3 Nguyên nhân xuất phát từ tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo là khâu cuối cùng của một khoản vay khi đã không còn biện pháp
nào để Ngân hàng thu hồi vốn vay, tuy nhiên việc thẩm định tài sản cũng có thể gây ra
những rủi ro trong tín dụng. Giá trị của tài sản không đảm bảo cho khoản vay, hay tài sản
đang tranh chấp hoặc tài sản bảo lãnh của bên thứ 03 những không hợp pháp.
4.7 Thực trạng triển khai và quản lý rủi ro tại Ngân hàng Sacombank Chi Nhánh
An Giang.
Công tác thẩm định khách hàng.
+ Nhận định đúng về tư cách và thái độ khách hàng đi vay.
+ Tính chính xác của thông tin khách hàng cung cấp.
+ Phân tích đánh giá khả năng của khách hàng về kinh nghệm sản xuất kinh doanh,
tình hình tài chính.
+ Có thể tiên đoán những tình hình xấu có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của khách hàng, từ đó có những đề xuất, ý kiến kịp thời về việc cho
vay hay không cho vay đối với khách hàng.
+ Báo cáo thực tế về tình trạng thực tế của khách hàng.
+Luôn đề cao cảnh giác nhằm tránh khách hàng lừa đảo, qua mặt cán bộ tín dụng.
Công tác quản lý nợ.
+ Tình hình sử dụng vốn vay thực hiện phương án vay vốn của khách hàng. Thời
gian tối thiểu 30 ngày kể từ ngày giải ngân. Ngoài các đợt kiểm tra định kỳ còn có những
lần kiểm tra đột xuất khi đi công tác hay có những thông tin về khách hàng cần xác minh
lại.
+ Tình hình trả nợ gốc, lãi vay cho Ngân hàng.
+ Tình hình tài chính của khách hàng sau thời gian được giải ngân.Thông qua thu
thập phân tích thông tin tài chính của khách hàng do khách hàng nộp cho Ngân hàng
hàng tháng, quý….
+ Tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh của khách hàng. Thông qua
những biến động của nền kinh tế và các đối cạnh tranh trong địa bàn khách hàng hoạt
động. Thông qua đối thủ cạnh tranh khách hàng để biết được khả năng kinh doanh của
khách hàng.
+ Các thông tin về tình hình thị trường mà khách hàng hoạt động.
+ Lập các bản báo cáo, biên bản kiểm tra xác định rõ tình hình sử dụng vốn vay và
trả nợ vay của khách hàng. Tùy theo mức vay mà biên bản kiểm tra cần được thẩm quyền
các cấp phê duyệt và nhận xét.
Tóm tắt chương:
Trình bày thực trạng hoạt động tín dung Ngân hàng Sacombank – Chi nhánh An
Giang trong 03 năm qua, thông qua các số liệu phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng
những năm qua. Bên cạnh đó, phân tích các mối rủi ro có thể ảnh hưởng xấu tới hiệu quả
hoạt động của Ngân hàng, các nguyên nhân dẫn tới những rủi ro trong hoạt động cấp tín
dụng.
CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG
5.1 Mục đích.
- Nhằm xây dựng chính sách tín dụng hoàn thiện hơn, hạn chế rủi ro tín dụng đối
với Ngân hàng. Trên cơ sở vẫn đảm bảo mục tiêu đạt được trong năm kế hoạch đề ra của
Ngân hàng trong năm 2009.
- Tạo ra sự cân đối trong công tác quản lý nợ, lợi nhuận và sự phát triển của Chi
Nhánh.
- Dự đoán được những rủi ro mà Ngân hàng có thể gặp phải trong công tác thẩm
định quản lý nợ của Ngân hàng.
- Hình thành phương pháp quản lý nợ và theo dõi khách hàng hiệu quả hơn.
5.2 Ý nghĩa.
Làm cơ sở để thực hiện công tác tín dụng mang tính khoa học và hiệu quả hơn và
phù hợp với các quy định pháp luật. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm của từng thành
viên, tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Phòng ban để thực hiện công việc thuận lợi.
Dựa vào quy trình cho vay để Ngân hàng thiết lập các thủ tục hành chính, thiết lập
các thủ tục cho vay phù hợp với quy định của Pháp luật, thích ứng với từng nhóm khách
hàng, từng loại hình cho vay của Ngân hàng cũng như kỹ thuật nghiệp vụ tín dụng. Vừa
tạo ra tính chặt chẽ của pháp lý vừa mang lại sự hài lòng của khách hàng, cởi mở của
khách hàng.
5.3 Nội dung của giải pháp.
5.3.1 Công tác thẩm định.
Trong công tác thẩm định khách hàng.
Việc tiếp xúc đầu tiên với khách hàng là cơ sở đầu tiên để đánh giá thái độ và sự
sẵn lòng trả nợ vay của khách hàng. Vì vậy trong công tác thẩm định đạo đức của khách
hàng, để khai thác được một số đức tính của khách hàng, chúng ta cần phân rõ các nội
dung để khai thác từ khách hàng nhằm đưa ra những nhận định đúng đắn hơn. Như phân
tích 5C.
Character – Tư cách của khách hàng vay.
Được thể hiện qua mục đích vay, ý định trả nợ được thể hiện trên một phương án
nhất định, có các chứng từ minh bạch đảm bảo cho khả năng chi trả của mình. Sự trung
thực trong cung cấp các tư liệu liên quan đến tình hình tài chính. Trong cách cư xử, hay
thái độ cử chỉ của khách hàng trong giao tiếp được thể qua tư thế, giọng nói, và nhất quán
trong nội dung trả lời các vấn đề của Ngân hàng đề ra. Ngoài ra, Ngân hàng cần khảo sát
tình hình nợ của khách hàng trong quá khư, thông qua mua thông tin từ CIC1. Việc thăm
dò ý kiến người xung quanh nơi cư trú của khách hàng hay cơ quan nhà nước quản lý nơi
cư trú của khách hàng cũng là những nguồn thông tin bổ ích cho công tác đánh giá tư
cách khách hàng.
1 Credit Information Center //www.creditinfo.org.vn
Capacity - Khả năng vay vốn của khách hàng.
Ngoài những yêu cầu pháp luật quy định đối với năng lực đi vay của khách hàng
(năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự…) Đòi hỏi khách hàng phải có năng
lực về tài chính như tài sản đảm bảo, vốn tự có…Hiện nay, có những trường hợp bảo lãnh
bên thứ 03, công tác thẩm định bảo lãnh bên thứ 03 cũng cần được thẩm định theo đúng
trình tự thẩm định đối với khách hàng vay vốn.
Ngoài ra, trình độ chuyên môn, kiến thức, khả năng am hiểu lĩnh vực ngành nghề
kinh doanh, phân tích thị trường và các kiến thức cập nhật thường xuyên trên: truyền
hình, báo, đài… cũng góp phần thể hiện năng lực đi vay của khách hàng.
Cash – Khả năng tạo ra tiền của khách hàng.
Các nguồn thu nhập tạo ra tiền của khách hàng bao gồm:
+ Nguồn thu từ dự án đầu tư, ngành nghề kinh doanh; đối với các loại hình vay vốn
mở rộng quy mô, cần đánh giá sự phát triển tình hình từ quá khứ, những biến động thị
trường tại thời điểm hiện tại và dự đoán tương lai.
Trong việc thẩm định phương án, Ngân hàng nên xét các dòng tiền vào và các dòng
tiền ra của phương án. Thông qua đó sẽ xác định dòng tiền ròng (dòng tiền vào trừ dòng
tiền ra), Ngân hàng sẽ xác định được thời gian phương án có thể đảm bảo được khoản
vay. Như vậy, có thể giảm bớt được gánh nặng giám sát phương án khách hàng, thời gian
giám sát việc sử dụng vốn vào phương án chi trong thời gian đầu cho đến khi phương án
tạo ra được dòng tiền ròng có thể thanh toán nợ cho Ngân hàng. Khoản thời gian sau đó
nhân viên Ngân hàng có thể giãn lịch trình kiểm tra đối với các phương án đã tạo ra được
dòng tiền ròng lớn hơn khoản vay Ngân hàng. Đối với những phương án mang tính thời
vụ, cần xác định sau bao nhiêu vụ khách hàng đã có thể thanh toán khoản vay. Thông qua
đó, sẽ xác định được thời hạn tín dụng khách hàng phù hợp hơn.
+ Thu nhập từ lương đây là nguồn đảm bảo quan trọng nhất của khách hàng. Ngoài
ra cần tìm hiểu thu nhập, sự sẵng lòng trả thay của người thân trong gia đình khách hàng
hay người bảo lãnh.
+ Giá trị tài sản thanh lý, các tái sản thuộc quyền sở hữu khách hàng nhưnơ không
được đem bảm đảm trong họp đồng vay như: nhà, xe, phương tiện sinh hoạt… Thông qua
các giá trị tài sản để đánh giá được đức tính của khách hàng, khách hàng sử dụng vốn của
mình như thế nào, đúng mục đích, tiết kiêm hay phung phí….
Collateral – Khả năng đảm bảo tín dụng bằng tài sản thế chấp.
Trong công tác thẩm định giá trị tài sản ngoài việc xác minh tính chính xác và hợp
pháp về quyển sở hữu tài sả, việc định giá tài sản cần dựa trên yếu tố giá trị thị trường
của tài sản như nhu cầu tài sản đó ngoài thị trường đó như thế nào, giá cả cao hay thấp
hơn so với giá trị còn lại của tài sản hay giá trị của nhà nước định ra…. Đảm bảo tài sản
đủ đảm bảo khoảng vay, vừa có tính thanh khoản cao hơn. Giúp Ngân hàng thu hồi vốn
nhanh hơn khi có rủi ro nảy sinh từ khả năng thanh toán nợ của khách hàng.
Conditions – Điều kiện môi trường có khả năng ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ của khách hàng.
Ngân hàng đánh giá ngành nghề của khách hàng hoạt động, những điều kiện môi
trường, môi trường kinh tế có thể ảnh hưởng đến khoản vay, những ngành nghề chịu
nhiều yếu tố của sự thay đổi môi trường như: dịch bênh, sâu rầy…. và cả những ngành
nghề xuất khẩu chịu sự cạnh tranh, bảo hộ của Chính phủ các nước nhập khẩu, cũng cần
có những điều chỉnh hạn mức cho vay hay giảm tỷ đảm bảo tài sản để giảm rủi ro.
5.3.2 Công tác quản lý nợ.
Mục đích: nhằm ràng buộc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích và thực hiện
đúng theo hợp đồng.
Ngoài việc phân nhóm nợ theo từng loại hình, trong công tác quản lý nợ cần theo
nguyên tắc phân chia địa bàn quản lý và định kỳ kiểm tra các địa bàn phải cùng lúc, tức
trong cùng địa bàn một nhân viên phụ trách tiếp nhận hồ sơ vay, theo dõi giám sát nợ,
trong hợp đồng tín dụng cố gắng thuyết phục khách hàng thanh toán lãi, vốn trong cùng
khoảng thời gian cho tất cả các khách hàng trong địa bàn.
Việc thỏa thuận không thống nhất thời điểm trả nợ Ngân hàng theo đúng định kỳ,
một cán bộ quan hệ khách hàng có thể tốn nhiều thời gian để liên lạc hay đi công tác
nhiều lần trên một địa bàn để thu nợ. Sự xuất hiện nhiều lần của nhân viên Ngân hàng
trên cùng địa bàn quản lý trong thời gian ngắn sẽ khiến khách hàng tưởng rằng Ngân
hàng không tin tưởng mà giám sát chặt chẽ. Ngoài ra, việc sếp thời gian thu nợ một nhóm
khách hàng trên cùng địa bàn có thể giúp công tác quản lý nhanh chóng hơn, tiết kiệm
thời gian.
Thông qua việc đi thu nợ một nhóm khách hàng trên cùng địa bàn việc thu thập
thông tin của khách hàng này thông qua khách hàng khác cung cấp thông tin, đây sẽ là
những thông tin đáng tin cậy và hữu ích,
Thời điểm chuyện nợ quá hạn sau 09 ngày kể từ ngày đến hạn. Cần phân nhóm
khách hàng vào các nhóm báo nợ đến hạn theo từng địa bàn thuận lợi hay khó khăn để
thông báo cho khách hàng vào từng thời gian thích hợp. Có những khách hàng có thể
thông báo trong phạm vi 09 ngày sau ngày đến hạn, nhưng cũng có những khách hàng
cần thông báo ngay ngày đến hạn hoặc sớm hơn.
Vì vậy, đối với các khoản nợ là tín chấp thì cần thông báo thường xuyên hơn cho cơ
quan chủ quản (nơi khách hàng đang công tác) khách hàng hàng tuần (07 ngày) về tình
hình nợ của khách hàng. Và trao đổi thông tin từ cơ quan quản lý khách hàng, để xem
tình hình công tác của khách hàng nơi công tác có những biến động xấu hay không, có
khả năng khách hàng bị sa thải hay chuyển công tác do thiếu trách nhiệm hay không sử
dụng vốn đúng mục đích.
5.3.3 Quản lý nhân viên Ngân hàng.
Thực hiên thưởng phạt phân minh, chính sách thưởng công khai kích thích nhân
viên phấn đấu trong làm việc, cần thiết lập hệ thống thưởng theo mô hình bật thang. Cấp
trên giám sát chấm điểm xếp hạng cấp dưới, giải thưởng phân ra nhiều cấp độ khác nhau.
Xếp hạng khen thưởng đảm bảo khoảng 70% nhân viên được xếp hạng khen thưởng. Tuy
nhiên, hạn chế khen thưởng bằng vật chất có giá trị lớn, điều đó sẽ khiến nhân viên chạy
theo phần thưởng mà bỏ quên công tác thẩm định hạn chế rủi ro tín dụng. Lập nên danh
sách khen thưởng hàng quý, thông báo công khai các Phòng thành quy chế của từng bộ
phận.
Bên cạnh khen thưởng thì công tác phạt cũng được phân theo mức độ xử lý. Theo ý
kiến đề xuất, không nên khiển trách công khai, từng Phòng ban không nên khiển trách
công khai trước tất cả các Phòng ban, hạn chế công bố những sai sót nhân viên gặp phải.
Hình thức phạt, nợ quá hạn phát sinh sẽ bị trừ điểm trong xếp hạng khen thưởng và thi
đua.
Trong chỉ tiêu tín dụng được các cấp đề xuất, nên chia theo từng mục tiêu cụ thể và
thời gian thực hiện từng mục tiêu đó, như định hướng phát triển năm 2009 mục tiêu phấn
đấu doanh số cho vay đạt 909 tỷ đồng, theo ý kiến nên chia ra các con số cụ thể cho từng
nhóm khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp, loại hình vay…. Trong từng quý, các mục
tiêu phù hợp với nhu cầu vốn từng quý, không nên chia để thúc đẩy thực hiện toàn bộ chỉ
tiêu đề ra trong một thời gian ngắn. Thông qua báo cáo tình hình cho vay của năm 2008
và năm 2007 (báo cáo Chi Nhánh và phỏng vấn trực tiếp) thì doanh số cho vay cao nhất
thường diễn ra trong Quí 2 (tháng 4-5-6) nên theo tôi cần phân định doanh số cho vay
thời gian này cao hơn từ 2-3% doanh số cho vay so với các Quí khác!
Điều đó không phù hợp với thị trường hay khả năng của nhân viên, có thể trong 01
năm thời điểm thị trường cần vốn nhiều nhất vào Quý 1 để bổ sung vốn hay mở rộng thì
trường theo kế hoạch năm mới, thì nên đặt mục tiêu doanh số cho vay cao trong thời
điểm quý 1 và phân bổ phù hợp các Quý còn lại.
Ngoài ra, cần chú ý đến năng lực cũng như địa bàn nhân viên quản lý, những địa
bàn chưa có điều kiện kinh tế cao không nên đặt ra chỉ tiêu cao mà cần đưa ra các mức
phù hợp. Năng lực khả nhân viên cần được rèn luyện và đảm bảo sức khỏe, khi đặt ra các
chỉ tiêu cao, nhân viên phải là việc với cường độ quá cao, ảnh hưởng đến khả năng sức
chịu đựng cũng như khả năng quản lý giám sát cũng không đảm bảo an toàn cho khoản
vay. Như vậy, rủi ro chính từ chính sách tín dụng của Ngân hàng.
5.3.4 Chuyển rủi ro cho bên thứ ba
Hiện nay, có một số sản phẩm bảo hiểm tiền vay Ngân hàng thông qua kết hợp với
các Công ty Bảo Hiểm. Như sản phẩm cho vay được bảo hiểm đến 500 triệu của Ngân
hàng Techcombank kết hợp với Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ đã được áp dụng từ năm
20072. Khai thác sản phẩm này có mặt hạn chế, lãi suất cho vay thực của Ngân hàng
giảm, phần giảm đó được chuyển thành khoản phí Bảo Hiểm Ngân hàng phải trả thay cho
khách hàng. Tuy nhiên, sản phẩm này nếu áp dụng đối với các khoản vay lớn, thì phần
mất đi của lãi suất so với phần bù đắp rủi ro của Ngân hàng thì rõ ràng Ngân hàng có lợi
hơn. Để giảm chi phí thấp nhất, thời hạn bảo hiểm trùng với thời hạn vay của Ngân hàng.
Với hạn mức cấp tín dụng ứng với Chi Nhánh là có hạn, nếu triển khai được sản
phẩm “ Cho vay được bảo hiểm” có thể giúp Chi nhánh nâng cao được hạn mức cấp tín
dụng cao hơn nhưng rủi ro và trách nhiệm của Ngân hàng cũng giảm đi.
Tóm tắt chương:
Trình bày thực trạng quản lý rủi ro của Ngân hàng. Đề ra biện pháp nhằm hạn chế rủi
ro trong hoạt động cấp tín dụng trong suốt quá trình từ thẩm định đến hoàn tất một Hợp
đồng tín dụng.
2 ín/6780/index.aspx
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
6.1 Kết luận.
Trong thời gian thực tập thực hiên đề tài “Phân tích rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Sacombank Chi Nhánh An Giang”. Đã giúp tôi hiểu rõ thêm những vấn đề xung quanh
kiến thức đã học và những kinh nghiệm ban đầu trong việc ứng dụng những kiến thức
vào thực tế. Cụ thể như sau:
Về lý luận:
+ Hệ thống hóa các kiến thức về Ngân hàng, như chức năng, vai trò của Ngân hàng
trong nền kinh tế.
+ Hiểu được các vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng, quy trình tín dụng, nguyên
tắc tín dụng, các yêu cầu pháp lý cho một Hợp đồng tín dụng. Làm thế nào để hoàn tất
một Hợp đồng tín dụng
+ Các loại rủi ro tín dụng, các nguyên nhân, ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động
Ngân hàng.
Về thực tiễn:
Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng Sacombank Chi Nhánh An Giang. Thông qua
các báo cáo về tình hình hoạt động tín dụng. Làm cơ sở cho những phân tích rủi ro tín
dụng.
Hiểu được công tác thực tế quản lý nợ tại Ngân hàng và các kinh nghiệm truyền đạt
trong công việc.
Theo tôi hiện tại công tác tín dụng Ngân hàng rất tốt, doanh số cho vay Ngân hàng
luôn tăng trưởng tốt trong thời gian qua, cho thấy Ngân hàng đã từng bước nắm được thị
trường và mở rộng thị trường. Góp phần thúc đẩy nền kinh tế Tỉnh An Giang phát triển.
Trong công tác thu nợ, thể hiện tính hiệu quả của công tác này, doanh số thu nợ
trong thời gian qua rất khả quản, giúp Ngân hàng tạo được vòng quay vốn hiệu quả. Công
tác thu nợ còn phản ánh hiệu quả công tác thẩm định của Ngân hàng, chính hiệu quả công
tác thẩm định nên giúp việc thu nợ dễ dàng và đạt hiệu quả cao. Vì vậy, đây là những mặt
mạnh mà Ngân hàng luôn giữ vững và phát huy. Nhằm giúp Ngân hàng có được những
khách hàng tốt nhất.
Trong số liệu nợ quá hạn, tuy có những thời điểm có dấu hiệu không tốt, tuy nhiên
việc duy trì tỷ lệ nợ quá hạn thấp, cho thấy sự nỗ lực rất lớn của Ngân hàng trong thời
điểm khó khăn của thị trường.
Từ những cơ sở lý luận đã nêu và phần thực tế tiếp thu được có những đề xuất sau:
- Nâng cao công tác thẩm định, đánh giá khách hàng. Thông qua công tác nghiên
cứu giá thị trường tài sản đảm bảo.
- Thực hiện việc quản lý nợ theo không gian và thời gian thống nhất
- Tăng cường thu thập thông tin khách hàng từ nhiều nguồn: hàng xóm, cơ quan
Nhà nước quản lý địa bàn cư trú của khách hàng.
- Luôn quan tâm đế nhân viên, thực hiện thưởng phạt và rèn luyện chuyên môn.
- Phấn đấu, thực hiện nghiêm chỉnh các mục tiêu Ngân hàng đặt ra.
- Thực hiên liên kết với các Công ty bảo hiểm để chia sẽ rủi ro, tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi và an toàn hơn.
6.2 Kiến nghị.
Trong suốt thời gian được thực tập tại Ngân hàng Sacombank chi nhánh An Giang
thông qua những số liệu và kết quả đạt được của Ngân hàng trong thời gian qua cho thấy
sự hoạt động vững chắc của Ngân hàng. Để Ngân hàng ngày một phát triển hơn nữa, tôi
xin có một số kiến nghị sau:
Về phía thị trường:
- Cần phát triển mạnh hơn nữa công tác tiếp thị, mở rộng thị trường nhằm năng cao
sức ảnh hưởng của Ngân hàng trên địa bàn Tỉnh An Giang. Nâng cao khả năng giao tiếp,
tư vấn để đến thu hút lôi kéo khách hàng.
Về phía Ngân hàng.
Giữ thái độ, nét mặt thân thiện khi tiếp xúc khách hàng, tạo không khí vui tươi
trong công việc.
Nâng cao và hoàn thiện trang thiết bị phục vụ công việc, giảm thiểu sự quá tải góp
phần đưa tốc độ công việc nhanh hơn, hiệu quả hơn. Nếu mỗi nhân viên được bố trí riêng
một chiếc máy vi tính riêng giúp tiến hành công việc nhanh hơn. Hạn chế được rủi ro
đánh mất tài liệu hay là xáo trộn tài liệu khách hàng của nhân viên quản lý.
Xây dựng thời gian biểu cho nhân viên đi địa bàn để công việc quản lý nhân viên,
cũng như phục vụ khách hàng thuận tiện hơn. Thực hiên thống nhất thời điểm thu nợ (lãi
và vốn) cho tất cả các khách hàng có cùng nơi cư trú. Hạn chế việc nhân viên đi kiểm tra
địa bàn nhiều lần trong tháng.
Định kỳ thực hiện nghiên cứu khách hàng về sự phục vụ của Sacombank. Từ đó có
chính sách nâng cao công tác phục vụ, sẽ thu hút khách hàng nhiều hơn.
Triển khai thực hiện một số sản phẩm có liên kết bảo hiểm với Công ty bảo hiểm
chuyển rủi ro, nâng cao hiệu quả tín dụng.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1117.pdf