Phân tích những tác động, ảnh hưởng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế

MỞ ĐẦU 1.Vấn đề nghiên cứu: Phân tích những tác động, ảnh hưởng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. 2. Lí do chọn đề tài - Thứ nhất, đây là vấn đề có liên quan đến ngành học. Do vậy, những điều tìm hiểu được trong đề tài này sẽ giúp ích cho việc học cũng như cho nghề nghiệp sau này. - Thứ hai, nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới vào năm 1986. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào 29/12/1987 nhằm tạo ra một nền tảng pháp lý cho việc đầu tư vào Việt Nam của

doc45 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2209 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phân tích những tác động, ảnh hưởng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy, từ khi nước ta mở cửa hội nhập, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một nguồn vốn quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc nghiên cứu những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế giúp ta biết được mức độ đóng góp của FDI đến GDP như thế nào. Thông qua việc tìm hiểu lý thuyết cũng như những chỉ tiêu, hiểu được những đặc điểm, tính chất và xu hướng phát triển để từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm thu hút và sử dụng vốn FDI đạt hiểu quả cao nhất, góp phần vào sự tăng trưởng GDP. Đó là lý do em chọn nghiên cứu đề tài này. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG I. Bản chất của nguồn vốn FDI 1. Khái niệm Theo IMF : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) “là hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi ích lâu dài của nhà đầu tư tại một doanh nghiệp ở nước khác với nước của nhà đầu tư,trong đó nhà đầu tư phải có vai trò có ý nghĩa quyết định trong quản lý doanh nghiệp”. Một số tổ chức quốc tế, như OECD, định nghĩa FDI theo nghĩa rộng hơn: bao gồm các hoạt động kinh tế của các cá nhân và pháp nhân, kể cả việc cho vay dài hạn hoặc sử dụng  nguồn lợi nhuận tại nước sở tại nhằm mục đích tạo dựng các quan hệ kinh tế lâu dài và mang lại khả năng gây ảnh hưởng thực sự về quản lý. Theo pháp luật Việt Nam (Luật đầu tư 2005 và các văn bản pháp luật liên quan ), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để tiến hành các hoạt động đầu tư và nhà đầu tư phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư. 2. Bản chất Tỉ lệ vốn trong vốn pháp định của dự án đạt mức tối thiểu. Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án mà họ bỏ vốn đầu tư. Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia cho các bên theo tỉ lệ góp vốn vào vốn pháp định. Thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới. II. Vai trò của vốn đầu tư nước ngoài Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Các nghiên cứu gần đây đều rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu. Phần dưới đây sẽ khái quát vai trò của FDI tổng thể nền kinh tế. Tính đến nay, cả nước có khoảng 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 98 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt khoảng 40 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 và duy trì ở mức 17-18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ năm 2001 đến nay. Riêng năm 2007, thu hút ĐTNN đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm gần 20% tổng vốn ĐTNN trong 20 năm qua. ĐTNN đã thực sự góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viẽn thông, khí hoá dầu, tin học, ô tô... Trong 20 năm qua, ĐTNN cũng đã đem lại cho Việt Nam những cơ hội được tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Nhờ đó năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam cũng được nâng lên. 1. FDI đối với vốn dầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI. Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này như đã phân tích ở trên, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31 %, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 15,5 % trong tổng đầu tư toàn xã hội. Trong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Năm 2004, khu vực FDI đóng góp 15,2 % vào GDP so với tỷ lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước. 2. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. Như trên đã đề cập, FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp.Nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng v.v. Cùng với việc cung cấp vốn,thông qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu tư,do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ,kỹ thuật tiên tiến hiện đại(thực tế,có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần),những kinh nghiệm quản lý,năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào tạo,rèn luyện về mọi mặt Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% (giá so sánh năm 1994) tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, trong khi tỷ lệ này chỉ là 25,1% năm 1995. Đến nay, khu vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí,ô tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày; 25% thực phẩm đồ uống... Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995-2003, trừ năm 2001. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này tuy cao, đạt 15,7% nhưng thấp hơn mức chung của toàn ngành,chủ yếu do tốc độ tăng rất cao của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước (22,8%). Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6 %13 năm 2004. Cần lưu ý rằng, mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp có qui mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính. 3. FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam so với tỷ trọng này năm1996 là 0,7%. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Hơn nữa, số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dần các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển các qui trình công nghệ hiện đại. Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam. 4. FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục Thuế, năm 2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai đoạn 1996-2002, khu vực này đóng góp (trực tiếp) vào ngân sách trung bình ở mức khoảng 6%16. Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các doanh nghiệp FDI được hưởng chính sách khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm đầu hoạt động. Tuy nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước khoảng 20%. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động thái của cán cân vốn trong thời kỳ 1994-2002 cho thấy có mối quan hệ khá rõ giữa số dư tài khoản vốn và dòng vốn. III. Cơ sở lý thuyết về tác động của FDI đối với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1. Mô hình Harrod- Domar Mô hình này do hai nhà kinh tế học: Forbes Harrod (người Anh) và Evsey Domar (người Mỹ) lập ra vào năm 1940 dựa trên học thuyết của J.M.Keynes. a. Mô hình Harrod- Domar cổ điển Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu vốn đầu tư. Mô hình này cho rằng đầu ra của bất kì đơn vị kinh tế nào hay toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào tổng lượng vốn đầu tư trong quá trình sản xuất và việc bổ sung thêm vốn đầu tư. g = S/ ICOR= 1/Y x 1/ ICOR g: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Y: thu nhập (GDP) S: tỉ lệ tiết kiệm trong GDP ICOR: hệ số sử dụng vốn Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉ lệ thuận với tỉ lệ tiết kiệm, tổng đầu tư và tỉ lệ nghịch với ICOR. Xét về mặt lý thuyết, hệ số ICOR càng thấp thì nền kinh tế hoạt động càng có hiệu quả, vốn đầu tư bỏ ra ít nhưng tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ số ICOR còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như nền kinh tế nước đó đang trong giai đoạn nào? Thường thì, đối với những nước thâm dụng vốn có hệ số ICOR cao, còn đối với những nước thâm dụng lao động thì hệ số ICOR thấp. b. Mô hình Harrod- Domar cải tiến Trong mô hình Harrod- Domar cổ điển chỉ xem xét mối quan hê giữa nhu cầu đầu tư và tăng trưởng kinh tế, như vậy là chưa đầy đủ. Vì nguồn vốn đầu tư gồm phần tiết kiệm trong nước và phần là đầu tư tư bản nước ngoài. Mô hình Harrod- Domar cải tiến có dạng: g = 1/ICOR x (S+ F/Y) g: tốc độ tăng trưởng ICOR: hệ số sử dụng vốn S: tỉ lệ tiết kiệm Y: thu nhập F: dòng tư bản nước ngoài đổ vào. 2. Lý thuyết “vòng luẩn quẩn” của sự nghèo đói Theo lý thuyết này, để tăng trưởng kinh tế, nói chung phải đảm bảo 4 nhân tố là: nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, tư bản và kĩ thuật. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, các nhân tố này đều khan hiếm, do vậy việc kết hợp các nhân tố đã gặp trở ngại lớn, ở trong “vòng lẩn quẩn” của sự nghèo khổ. Để có thể tăng trưởng và phát triển kinh tế, cần có “cú huých” từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” ấy. Điều này có nghĩa là phải có đầu tư từ nước ngoài vào các nước đang phát triển. Muốn vậy, các nước nghèo phải tạo điều kiện thuận lợi, nhằm kích thích sự tích cực đầu tư của tư bản nước ngoài. Thu nhập thấp Tỷ lệ tích luỹ thấp Năng suất thấp Trình độ kỹ thuật thấp Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ 3. Lý thuyết về lợi ích của đầu tư nước ngoài- mô hình Mac Dougall- Kempt Giả định của mô hình: - Nước đầu tư có sự dư thừa và nước nhận đầu tư có sự khan hiếm vốn đầu tư. - Năng suất cận biên sử dụng vốn của nước tiếp nhận đầu tư thấp hơn nước đầu tư. - Điều kiện cạnh tranh ở hai nước là hoàn hảo. - Giá của vốn đầu tư hoạt động theo luật năng suất cận biên giảm dần. Mô hình này phân tích ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Theo Mac Dougall chỉ ra rằng sự tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa làm tăng sản phẩm đầu ra, vừa phân phối lại thu nhập giữa nhà đầu tư trong nước và người lao động dựa trên lý luận về năng suất cận biên của viêc sử dụng vốn. Khi thực hiện công việc đầu tư trực tiếp nước ngoài, năng suất cận biên của việc sử dụng vốn nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư có xu hướng cân bằng. Từ đó, các nguồn lực kinh tế đề được sử dụng có hiệu quả tổng sản phẩm gia tăng và mang lại sự giàu có cho các nước tham gia đầu tư. 4. Học thuyết Kojima Được đưa ra bởi Giáo sư Kojima (người Nhật). Nội dung học thuyết cho rằng việc đầu tư trực tiếp nước ngoài đi kèm với dịch chuyển vốn, chuyển giao công nghệ và chuyển giao kĩ năng từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư. 5. Học thuyết về tổ chức sản xuất Do nhà kinh tế học Stephen Hymer xây dựng năm 1976 và sau đó được phát triển bởi các nhà kinh tế học Kinleber, Caves, Dunning. Nội dung của học thuyết chỉ ra nguyên nhân đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp. Đầu tưnước ngoài chỉ xảy ra khi doanh nghiệp của nước đi đầu tư có lợi thế hơn doanh nghiệp ở nước tiếp nhận đầu tư. CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA FDI Ở VIỆT NAM I. Thực trạng đầu tư trực tiếp tại Việt Nam 1 . Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) : Sau khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời (1987), làn sóng FDI đã nhanh chóng chảy vào Việt Nam. Hoạt động FDI ở VN trong thời gian qua có thể được chia làm các thời kỳ.  * Năm 1988-1990: Thời kỳ khởi đầu của FDI với tổng số vốn đăng ký gần 1,6 tỷ USD còn vốn thực hiện không đáng kể vì các doanh nghiệp FDI phải hoàn thành thủ tục cần thiết ngay cả khi đã được cấp giấy phép đầu tư.  * Năm 1991-1997: FDI tăng trưởng nhanh và bắt đầu có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của VN. Tính trong hai năm 1996 và 1997, FDI đạt đỉnh cao với khoảng 15,8 tỷ USD vốn đăng ký và gần 6 tỷ USD vốn thực hiện.  Vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 khi khu vực tư nhân trong nước còn non yếu thì sự hiện diện của hoạt động FDI giống như một khu vực tư nhân nhập ngoại mà đi kèm với nó là nguồn vốn lớn và khoa học công nghệ hiện đại. Trong quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam có đầy đủ điều kiện để trở thành địa điểm thu hút FDI đầy hấp dẫn, đó là: tiềm năng của nền kinh tế thị trường với hơn 70 triệu dân, tài nguyên đa dạng, giá nhân công thấp, vị trí địa lý thuận lợi…Với điều kiện đó, Việt Nam như một cái “rốn nhỏ” thu các nhà đầu tư quốc tế. Lượng vốn FDI vào Việt Nam tăng dần qua các năm và đạt mức cao nhất vào năm 1996. Vốn FDI trong năm 1997 (5548 triệu USD, giảm gần 50% so với năm 1996, thời điểm cực thịnh về thu hút FDI trong suốt giai đoạn từ 1987 cho tới nay). Sự suy thoái FDI tiếp tục kéo dài và xuống đến mức thấp điểm là 1558 triệu USD trong năm 2002 (xấp xỉ thời điểm 11 năm về trước, năm 1991). Tất nhiên những yếu tố bên ngoài có thể là nguyên nhân chính dẫn đến sự xuống dốc này, bao gồm cuộc khủng hoảng tài chính của châu á và thời kỳ suy thoái kinh tế của khu vực 1997 – 1998, cùng với việc các nhà đầu tư và các ngân hàng giảm bớt việc phân bổ tài sản của họ ở các thị trường mới nổi và các nền kinh tế quá độ. Tuy nhiên sẽ thật thiếu sớt nếu không kể đên các nguyên nhân bên trong của chúng ta. Những cản trở lớn nhất đó là luật pháp thiếu đồng bộ, chính sách hay thay đổi, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, quy trình triển khai thực hiện các dự án chưa phù hợp, thủ tục hành chính quá phiền hà. * Năm 1998-2000: FDI suy giảm mạnh do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, tụt xuống mức thấp nhất vào năm 1999. Vốn FDI thực hiện trong thời gian này chỉ đạt bình quân trên 2,3 tỷ USD/năm . * Năm 2001-2005: FDI phục hồi và bắt đầu tăng tốc. Tổng FDI (gồm cả vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm) đạt 4,2 tỷ USD năm 2004; và 6,34 tỷ USD năm 2005, cao nhất kể từ 1998 đến nay. FDI đăng ký tăng bình quân một năm trong giai đoạn 2001-2005 gần 18,8%/năm, FDI thực hiện tăng bình quân 6,4%/năm. Có nhiều dự án đầu tư vào ngành công nghệ cao, dự án công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại tạo nên nét mới cho chất lượng của dòng FDI vào VN. UNCTAD (2005a, tr25) xếp VN vào nhóm nước có cả chỉ số FDI performance và chỉ số FDI potential đều cao (nhóm Front-runners), cùng nhóm với Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore; còn Philippines, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Myanmar, Malaysia không được vào nhóm này.  Bảng cơ cấu FDI theo lĩnh vực Ngành Cơ cấu FDI 1988-2005 Dự kiến FDI thực hiện 2006-2010 Dự kiến tổng FDI thực hiện 2006-2010 (tỷ USD) Công nghiệp và xây dựng 67,3% số dự án 60,7% số vốn đăng kí 68,5% vốn thực hiện 55% 13,2 – 13,75 Dịch vụ 19,6% số dự án 31,9% số vốn đăng kí 24,8% số vốn thực hiện 37% 8,88 – 9,25 Nông, lâm, ngư nghiệp 13,1% số dự án 7,4% số vốn đăng kí 6,7% số vốn thực hiện 8% 1,92 – 2,0 Tổng 100% 100% 24-25 * Năm 2006: Năm 2006, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có sự tăng trưởng vượt bậc, lượng vốn đầu tư đã vượt xa mức dự báo (6,5 tỷ USD) của cả năm và đạt mức kỷ lục 12tỷ USD , tăng 52% so với năm 2005, đạt mức cao nhất kể từ năm 1987 khi Việt Nam công bố Luật đầu tư nước ngoài. Đồng thời, tổng vốn đầu tư thực tế của nước ngoài vào Việt Nam năm 2006 cũng lập kỷ lục cao mới, đạt 4,6 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm 2004. - Về tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất: trong 6 tháng có 182 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn tăng thêm 585 triệu USD, bằng 85,4% về số dự án và 67,8% về vốn so với cùng kì năm ngoái. - Về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI: Tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao trong tháng 6/2006 nhiều dự án đã được cấp phép tích cực triển khai thực hiện. Vốn thực hiện của các doanh nghiệp FDI đạt khoảng 360 triệu USD, đưa tổng vốn thực hiện trong 6 tháng đầu năm 2006 lên 1,85 tỷ USD, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm 2005, bằng 50% kế hoạch ban đầu (3,7 tỷ USD).Doanh thu của các doanh nghiệp này trong tháng 6/2006 đạt khoảng 2,65 tỷ USD, đưa tổng doanh thu trong 6 tháng đầu năm đạt 12,45 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước. Biểu đồ tăng trưởng FDI trong nước cho thấy sau giai đoạn 1988-2004, những năm 2005, 2006 có tăng trưởng đột biến về FDI. FDI năm 2006 đã vượt rất nhanh, cao hơn đỉnh 1996 và cao nhất trong 19 năm gần nhất. Tăng trưởng FDI 1988 – 2006   (Nguồn: Vietpartners) Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê * Năm 2007 là năm đạt kỷ lục về thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký là 21,3 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 8,03 tỷ USD.  1. Tổng vốn thực hiện đã đạt hơn 8 tỷ USD (trong đó dầu khí đạt 2,89 tỷ USD), vượt 4 tỷ USD so với báo cáo ban đầu (4,6 tỷ USD). 2. Tổng vốn đăng ký đạt 21,3 tỷ USD vượt 1 tỷ USD so với báo cáo ban đầu (20,3 tỷ USD): a) Theo ngành nghề: Trong năm 2007, vốn đầu tư đăng ký (cấp mới và tăng vốn) tiếp tục tập trung trong lĩnh vực công nghiệp, chiếm 54,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 44,5%. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.[1] b) Theo đối tác đầu tư: Trong năm 2007 có 55 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó Hàn Quốc tiếp tục giữ vị trí đứng đầu với số vốn đăng ký (cấp mới và tăng vốn) 5,3 tỷ USD, chiếm 25,2% về tổng vốn đăng ký. British Virgin Islands đứng thứ 2, chiếm 20,6%; Singapore đứng thứ 3, chiếm 12,04%; Đài Loan đứng thứ 4, chiếm 11,6%; Nhật Bản đứng thứ 5, chiếm 6,4%; Malaysia đứng thứ 6, chiếm 5,5% ; Trung Quốc đứng thứ 7, chiếm 2,6% (cộng cả Hồng Kông sẽ chiếm 5,5%) và Hoa Kỳ (không tính các dự án đầu tư qua nước thứ 3) đứng thứ 8, chiếm 1,8%; Thái Lan đứng thứ 10 chiếm 1,3% tổng vốn đăng ký. c) Về cơ cấu vùng: Trừ dầu khí, trong năm 2007 cả nước có 56 địa phương thu hút được dự án ĐTNN, trong đó 10 địa phương dẫn đầu. Đó là: Hà Nội đứng đầu với số vốn đăng ký 2,5 tỷ USD, chiếm 11,8% tổng vốn đầu tư đăng ký; Đồng Nai đứng thứ 2, chiếm 11,3%; TP Hồ Chí Minh đứng thứ 3, chiếm 10,6% ; Bình Dương đứng thứ 4, chiếm 10,5% về tổng vốn đầu tư đăng ký; Phú Yên đứng thứ 5, chiếm 7,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu đứng thứ 6, chiếm 5,2%; Vĩnh phúc đứng thứ 7, chiếm 4,9%; Đà Nẵng đứng thứ 8, chiếm 4,4%; Long An đứng thứ 9 chiếm 3,8% và Hậu Giang đứng thứ 10, chiếm 2,9%. Nguồn: www.saga.vn Trong giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/2007, đã có 8.058 dự án FDI được triển khai ở Việt Nam. Lượng vốn đầu tư trong gần 20 năm đạt đến con số 72,86 tỉ USD nhưng cho đến thời điểm 9/2007 mới chỉ thực hiện được khoảng 42,5% – một hiệu suất không hề cao. Nếu bổ ra theo các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì càng thấy rõ. Bảng trên cho thấy có rất ít vốn đổ vào ngành nông nghiệp, nhiều nhất và vượt trội là vốn đầu tư vào ngành công nghiệp. Lượng vốn đầu tư vào mảng dịch vụ chỉ bằng một nửa. Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam – góc nhìn từ thị trường tài chính Nguồn: www.saga.vn Trong biểu đồ tình hình sử dụng vốn của ngành dịch vụ, ta thấy rất rõ hiệu suất sử dụng thấp thể hiện qua các cột xanh rất thấp so với các cột da cam. Có một điểm tương phản: lĩnh vực tài chính-ngân hàng tuy có lượng vốn đầu thấp nhưng hiệu suất thực hiện rất cao, đạt xấp xỉ 91% - trái ngược với hầu hết các lĩnh vực khác của ngành dịch vụ và cả nền kinh tế. Tuy nhiên lượng FDI đổ vào hoạt động tài chính – ngân hàng chỉ khoảng 840 triệu USD. Trong khi chỉ riêng lượng vốn của các quỹ đầu tư đang hoạt động ở Việt Nam đã đạt mức xấp xỉ 6 tỉ USD. * Năm 2008: Căn cứ các yếu tố thuận lợi và khó khăn trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới, trên cơ sở tổng hợp một số dự án lớn đang trong quá trình đàm phán từ các địa phương (xin đính kèm) và tình hình triển khai nhanh các dự án được cấp trong vài năm vừa qua (từ năm 2005 đến nay) dự kiến tình hình thu hút vốn ĐTNN trong 2 năm 2008 và 2009 sẽ thu hút vốn đầu tư mới (bao gồm cả tăng vốn mở rộng sản xuất) tương tự như kết quả năm 2007, trong đó chú trọng thu hút các dự án lớn, trọng điểm, sử dụng công nghệ cao và có khả năng tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh. - Vốn thực hiện: đạt 10 tỷ USD vượt 25%năm 2007 (8 tỷ USD). - Lao động: 16 vạn người, tăng 6,7% so với năm 2007; - Nộp ngân sách Nhà nước: 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007. Tình hình ĐTNN 9 tháng đầu năm 2008: 1. Tình hình vốn thực hiện và sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp: Trong 9 tháng đầu năm 2008, ước các doanh nghiệp ĐTNN đã góp vốn đầu tư thực hiện đạt 8,1 tỷ USD, tăng 37,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, bên Việt Nam chiếm từ 10-12%. Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong 9 tháng đầu năm 2008 ước đạt 35,35 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 18,1 tỷ USD, tăng 29,0% so với cùng kỳ. Nhập khẩu ước đạt 21,6 tỷ USD, tăng 39,8% so với cùng kỳ năm trước, nộp ngân sách ước đạt 1,5 tỷ USD, tăng 30,4% so với cùng kỳ. Trong 9 tháng đầu năm 2008, khối doanh nghiệp ĐTNN thu hút thêm khoảng 17.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn ĐTNN tính đến thời điểm này là 1,41 triệu lao động, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. 2. Cấp mới: Trong tháng 9/2008, cả nước có 113 dự án được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 9,9 tỷ USD, đưa tổng số dự án cấp mới trong 9 tháng đầu năm 2008 lên 885 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 56,2 tỷ USD, bằng 80% về số dự án và tăng hơn 5 lần về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. 2.1. Về lĩnh vực đầu tư: Trong 9 tháng đầu năm 2008, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 484 dự án với tổng vốn đăng ký 32,3 tỷ USD, chiếm 54,68% về số dự án và 57,48% về vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực dịch vụ có 361 dự án với tổng vốn đăng ký 23,7 tỷ USD, chiếm 40,7% về số dự án và 42,15% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư. 2.2. Về cơ cấu vùng: trừ 2 dự án thăm dò, khai thác dầu khí (chiếm 21,9% tổng vốn đăng ký), trong 9 tháng đầu năm 2008 tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên đứng đầu do có liên doanh sản xuất thép giữa tập đoàn Lion Malaysia với Vinashin tổng vốn đăng ký 9,79 tỷ USD, Bà Rịa-Vũng Tàu đứng thứ 2 trong số 43 địa phương của cả nước, có 4 dự án, tổng vốn đăng ký 9,3 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng vốn đăng ký. Tiếp theo là Thành phố Hồ Chí Minh 7,99 tỷ USD, chiếm 14,2% tổng vốn đăng ký, Hà Tĩnh 7,8 tỷ USD, chiếm 14%. Thanh Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 11%; (5) Phú Yên 4,3 tỷ USD chiếm 7,7%; Kiên Giang 2,3 tỷ USD chiếm 4,09%; (7) Đồng Nai 1,78 tỷ USD chiếm 3,1%. II. Tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế 1. Đối với tăng trưởng kinh tế Trong gần 20 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá thuyết phục về kinh tế và xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 7,3% giai đoạn 1990-2004, GDP thực bình quân đầu người tăng trung bình 5,7% hàng năm và tỷ lệ nghèo giảm từ gần 80% năm 1986 xuống còn 24% vào năm 2004. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời có thành tích giảm nghèo nhanh trên thế giới. Thành tựu trên đây là dấu hiệu tốt của quá trình chuyển đổi kinh tế và là kết quả của các chính sách mà Việt Nam đã và đang thực hiện trước những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là xu thế toàn cấu hóa. Bên cạnh mở cửa cho thương mại, cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam đã và đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư, trước hết là khung khổ pháp luật nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã ký hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 45 nước và vùng lãnh thổ, trong đó phạm vi điều chỉnh của các hiệp định đều mở rộng hơn so với những qui định hiện hành của Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam. Các nỗ lực của Chính phủ Việt Nam đã đem lại những kết quả đáng khích lệ về thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Tính đến 20/12/2004, Việt Nam đã thu hút được 6.072 dự án với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 49,2 tỷ USD. Đến nay, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài được công nhận là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế với đóng góp vào GDP ngày càng tăng, ước đạt 14% vào năm 2004. Ngoài ra, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn tạo thêm việc làm, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước và đóng góp cho Ngân sách Nhà nước. Đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ vọng lớn nhất của việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Kỳ vọng này dường như được thể hiện trong tư tưởng của các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách với ba lý do chính: Một là, FDI góp phần vào tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung và ổn định kinh tế vĩ mô. Hai là, các nước đang phát triển thường có tỷ lệ tích lũy vốn thấp và vì vậy, FDI được coi là một nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn đầu tư trong nước nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ba là, FDI tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn, dễ dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc đẩy quá trình phổ biến kiến thức, nâng cao kỹ năng quản lý và trình độ lao động v.v. Tác động này được xem là các tác động tràn về năng suất của FDI, góp phần làm tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nói chung. Trên thực tế không phải nước nào cũng đạt được cùng một lúc hai mục tiêu này. Một số nước thu hút được dòng vốn FDI khá lớn nhưng tác động tràn hầu như không xảy ra. Ở một tình thế khác, vốn FDI đổ vào một nước có thể làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế nhưng đóng góp của nguồn vốn này vào tăng trưởng là thấp. Cả hai._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6008.doc
Tài liệu liên quan