Phân tích năng lực tài chính của Công ty cổ phần Sông Đà 2

Phần i: mở đầu . Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, các khu vực kinh tế, các quốc gia, các tập đoàn kinh tế, các công ty đa quốc gia và rất nhiều doanh nghiệp được đánh giá trước hết qua tiềm lực tài chính. Những cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và khu vực, những tập đoàn lớn trên thế giới bị phá sản cũng phải kể tới nguyên nhân từ tình hình tài chính. Trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhận thấy rằng mình

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích năng lực tài chính của Công ty cổ phần Sông Đà 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải học hỏi nhiều để không bị tụt hậu. Đứng trước những cơ hội và thách thức không nhỏ, nhìn lại khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, hơn lúc nào hết tình hình tài chính cần phải được coi trọng, đặc biệt là công tác đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp. Một sự thật không thể phủ nhận là để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì phân tích đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp là công cụ hết sức hữu ích. Người xưa có câu” Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”. Trong cơ chế thị trường hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam chính thức bước vào hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thì vấn đề tài chính doanh nghiêp càng trở nên bức xúc hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp cần có vốn để chủ động sản xuất, đầu tư phát triển… Tuy nhiên, hiện nay, do một số cơ quan quản lý vừa đóng vai trò quản lý nhà nước vừa làm chức năng sỡ hữu về vốn nhà nước nên còn can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, do đặc thù của một số ngành, nhiều dự án cần vốn lớn, suất đầu tư lớn nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp và khả năng thu hồi vốn lâu, đã không là điểm hấp dẫn khách hàng, trong khi quỹ hỗ trợ phát triển chỉ có hạn và chính sách ưu đãi của nhà nước chưa đủ sức phát huy hiệu quả. Hiện trạng tài chính của doanh nghiệp nước ta hiện nay nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập. Giải pháp nào để nâng cao năng lực tài chính cho doanh nghiêp là câu hỏi đang được đặt ra? Trong cơ chế thị trường thì tài chính phát huy vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Để tồn tại trên thị trường thì một trong những điều kiện cần thiết là doanh nghiệp phải nắm vững được hoạt động tài chính của mình nhằm đưa ra những quyết định đúng đắn. Công ty cổ phần Sông Đà 2 là đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Trong quá trình hoạt động của mình công ty đã đạt được rất nhiều thành tựu, kết quả sản xuất kinh doanh của công ty luôn đi lên. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế luôn có nhiều biến động phức tạp, chúng ta lại vừa hội nhập với nền kinh tế thế giới và công ty lại tiến hành cổ phần hóa không lâu. Đó vừa là cơ hội nhưng đồng thời cũng là thách thức, khó khăn cho công ty. Nhận thức được được điều này, thấy rõ vai trò của tài chính đối với doanh nghiệp, công ty cần phải thường xuyên tiến hành phân tích đánh giá năng lực tài chính của mình. Phân tích tài chính không những có ý nghĩa trong việc đánh giá nghiên cứu tiềm lực vốn của công ty mà còn xem xét khả năng và thế mạnh trong sản xuất kinh doanh, thông qua đó xác định được xu hướng phát triển của công ty, tìm ra những bước đi vững chắc, hiệu quả. Ngoài ra việc phân tích năng lực tài chính còn có vai trò quan trọng trong việc cung cấp những thông tin kinh tế tài chính cho công ty, cho các nhà đầu tư…để giúp họ có những quyết định đúng đắn trong các vấn đề. Năng lực tài chính là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá hồ sơ dự thầu của bên mời thầu. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề trên, với những kiến thức được trang bị ở nhà trường và kết quả thu được từ thực tế thực tập tại công ty cổ phần Sông Đà 2 chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập là:”Phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2” 1.2. Mục tiêu nghiên cứu: 1.2.1. Mục tiêu chung: Trên cơ sở phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2 trong những năm vừa qua, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty trong những năm tới. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể: Khái quát một số lý luận về tài chính và phân tích năng lực tài chính. Phân tích đánh giá năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty trong những năm tới. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2 Thời gian nghiên cứu: Từ 8/1/2008 đến ngày 22/5/2008 Phần ii: cơ sở lý luận và thực tiễn về phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần sông đà 2 2.1. Vai trò của vốn đối với hoạt động của công ty: 2.1.1. Hoạt động của công ty trong nền kinh tế thị trường: Trong những năm gần đây, với chính sách đẩy mạnh mở cửa và tự do hoá các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã làm cho áp lực cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế nói chung và giữa các đơn vị kinh doanh cùng ngành với nhau nói riêng ngày càng trở nên mạnh mẽ. Trong điều kiện đó, Công ty phải tự tiếp thị kiếm việc làm thông qua cơ chế đấu thầu các công trình và phải tự lo vốn để kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. 2.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động của công ty: Vốn là một trong ba điều kiện tiên quyết của hoạt động sản xuất kinh doanh…Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện rõ trong hàm sản xuất cơ bản: P = F(K,L,T), vốn (K) chính là một trong 3 yếu tố cơ bản của hàm sản xuất, bên cạnh các yếu tố lao động (L) và công nghệ (T). Hơn nữa, trong hàm sản xuất này thì vốn có thể coi là yếu tố quan trong nhất vì lao động và công nghệ có thể mua được khi có vốn. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng cần có vốn, đó là yếu tố cơ bản không thể thiếu được nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động được thường xuyên, liên tục…Thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản mà doanh nghiệp dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản xuất vật chất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng. Cụ thể vốn có các vai trò sau: Một là, vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động, đều cần phải có một lượng vốn nhất định, được quy định trong vốn pháp định của từng ngành nghề kinh doanh. Hai là, vốn kinh doanh là chi tiêu đánh giá quy mô của doanh nghiệp, xác định năng lực tài chính của doanh nghiệp ngoài ra vốn của doanh nghiệp lớn hay nhỏ còn quyết định đến quy mô thị trường và khả năng mở rộng thi trường của doanh nghiệp. Ba là, trong cơ chế thị trường việc có vốn và tập trung vốn được nhiều hay ít vào doanh nghiệp, có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đẩy mạnh kinh doanh. Đồng thời nó cũng là nguồn lực để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp, là điều kiện để thực hiện các chiến lược kinh doanh . Bốn là, đối với các doanh nghiệp mới được thành lập, số vốn ban đầu được dùng để đầu tư vào các loại tài sản cần thiết, tạo ra cơ sở vật chất ban đầu giúp cho doanh nghiệp hoạt động được trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động thì lượng vốn bổ sung thêm cũng được để mua sắm, trang bị các loại tài sản còn thiếu, giúp cho doanh nghiệp điều chỉnh cơ cấu tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh. Năm là, vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Có nhiều cách phân loại vốn nhưng thường vốn được phân loại thành vốn lưu động và vốn cố định Vai trò của vốn cố định: Vốn cố định biểu hiện giá trị của tài sản cố định hữu hình cũng như là vô hình, là cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thể bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh nếu như không có đầy đủ các máy móc thiết bị cần thiết. Kết hợp với trình độ khả năng quản lý, vốn cố định quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và góp phần đáng kể trong việc xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Không những có ý nghĩa trong quá trình sản xuất hiện tại, vốn cố định còn thể hiện khả năng, hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Chúng ta có thể thấy điều này khi so sánh cơ hội phát triển của một doanh nghiệp có máy móc thiết bị lạc hậu với một doanh nghiệp có dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị hiện đại thường xuyên được đổi mới. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khi mà các mục tiêu lâu dài về thị trường, khách hàng…được quan tâm hơn thì vai trò của vốn cố định đối với sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp càng được thể hiện rõ. Vai trò của vốn lưu động: Cũng như một phần vốn, vốn lưu động đảm bảo cho sự thường xuyên, liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu thu mua nguyên vật liệu đến tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đây cũng chính là vốn luân chuyển giúp cho quá trình sử dụng tốt máy móc thiết bị và lao động, để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Vì vốn lưu động chuyển hóa một lần giá trị vào giá trị sản phẩm nên nó là cơ sở để xác định giá thành và giá bán sản phẩm. Ngoài ra, vòng tuần hoàn và chu chuyển của vốn lưu động diễn ra trong toàn bộ các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh nên đồng thời trong quá trình theo dõi sự vận động của vốn lưu động, doanh nghiệp cũng quản lý gần như toàn bộ các hoạt động diễn ra trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. 2.2. Nguồn tài trợ của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường: Trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp có thể huy động vốn theo nhiều phương thưc khác nhau như vay ngân hàng, các công ty tài chính, phát hành cổ phiếu…Vấn đề đặt ra đối với người quản lý tài chính doanh nghiệp là phải hiểu rõ đặc tính, điều kiện của mỗi nguồn tài trợ để huy động được nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp với chi phí thấp nhất để tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Thông thường nguồn tài trợ được chia thành nguồn tài trợ ngắn hạn và dài hạn. 2.2.1. Nguồn tài trợ ngắn hạn: Các nguồn tài trợ ngắn hạn là những khoản tiền mà doanh nghiệp sử dụng phải hoàn trả trong thời hạn một năm kể từ ngày nhận được chúng. Các nguồn tài trợ này đảm bảo tài trợ chủ yếu cho nhu cầu về vốn lưu động của doanh nghiệp, đặc biệt là nhu cầu về vốn lưu động tạm thời. Nguồn tài trợ ngắn hạn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Nhu cầu tài chính của một doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng số tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả. Do tính chu kỳ, những biến động mùa vụ của quá trình hoạt động kinh doanh làm cho nhu cầu tài chính của doanh nghiệp dao động theo thời gian và cũng mang tính mùa vụ, đặc biệt là nhu cầu tài chính cho các khoản vốn lưu động. Tại những thời điểm mùa vụ, những khoảng thời gian mà nhu cầu về vốn lưu động lên cao, vượt quá nhu cầu thường xuyên cần thiết, doanh nghiệp chỉ có thể đáp ứng bằng các nguồn tài trợ ngắn hạn. Nghiên cứu thực tế cho thấy: có tới 40%- 60% khoản nợ của doanh nghiệp là khoản nợ phải trả ngắn hạn. Trong quá trình hoạt động, đối với các doanh nghiệp, các nguồn tài trợ này thường bao gồm 3 nguồn chính: - Nợ tích lũy: gồm nợ lương công nhân chưa đến kỳ trả, nợ thuế của Nhà nước khi chưa đến kỳ nộp, tiền đặt cọc của khách hàng…Đây là hình thức tài trợ miễn phí nhưng có giới hạn. - Tín dụng thương mại (tín dụng của nhà cung cấp): gồm mua bán chịu, bán trả chậm hay trả góp, thường kèm theo các điều kiện về thời hạn thanh toán và chiết khấu…hình thức này rất hiệu quả, được áp dụng phổ biến nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro nên phải tính toán và cân nhắc thận trọng. - Tín dụng ngắn hạn ngân hàng: đây là nguồn tài trợ quan trọng nhưng phải có đầy đủ những điều kiện theo quy định và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, bao gồm nhiều hình thức như: cho vay thanh toán, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, chiết khấu thương mại… 2.2.2. Nguồn tài trợ dài hạn: Nhìn chung, tài trợ dài hạn của doanh nghiệp là từ 1 năm trở lên. Các doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho việc hình thành TSCĐ và TSLĐ thường xuyên. Trong quá trình hoạt động và phát triển, doanh nghiệp có thể huy động từ các nguồn tài trợ dài hạn khác nhau để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư dài hạn của mình. Sau đây là một số hình thức tài trợ dài hạn: Tự tài trợ: là hình thức doanh nghiệp tự tài trợ cho đầu tư của mình bằng nguồn vốn của chính mình. Đây là nguồn quan trọng nhất trong nguồn tài trợ của doanh nghiệp. Gồm có 2 dạng: + Tự tài trợ duy trì: là số khấu hao lũy kế còn lại của doanh nghiệp, trong lúc chờ việc mua sắm TSCĐ khác thay thế có thể sử dụng vốn khấu hao lũy kế để tài trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh. + Tự tài trợ tăng trưởng: gồm phần lợi nhuận ròng không chia cho các đối tượng góp vốn mà dự phòng mang tính chất dự trữ, trong đó phần lợi nhuận ròng không chia để lại tiếp tục đầu tư là nguồn quan trọng nhất. Phát hành cổ phiếu: đây là nguồn tài trợ quan trọng nhưng chỉ áp dụng với công ty cổ phần. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp: là một công cụ tài chính thông dụng được doanh nghiệp sử dụng để vay dài hạn, là chứng chỉ vay vốn do doanh nghiệp phát hành. Mặt lợi là tạo cơ hội cho doanh nghiệp đạt doanh lợi vốn chủ sỡ hữu cao, không bị phân chia quyền phân phối lợi nhuận, quyền quản lý doanh nghiệp và chi phí phát hành thấp…nhưng doanh nghiệp buộc phải trả lợi tức, vốn vay đúng hạn, làm tăng hệ số nợ… Tín dụng dài hạn và trung hạn ngân hàng: vay dài hạn thường 3 đến 5 năm, vay trung hạn thường 1đến 3 hoặc 5 năm. Doanh nghiệp muốn được tài trợ trung hạn và dài hạn của ngân hàng cần phải thỏa mãn các điều kiện và tiêu chuẩn vay vốn. Đây là nguồn tài trợ quan trọng của các doanh nghiệp. Tín dụng thuê mua: là hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản, máy móc, thiết bị…Đây là một hình thức tín dụng đặc biệt mới được hình thành ở nước ta không lâu và ngày càng phát triển. Quan hệ tín dụng thuê mua được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa người đi thuê tài sản và người cho thuê. Thỏa thuận thuê mua là hợp đồng giữa 2 bên hoặc nhiều bên, liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê chuyển giao tài sản cho người thuê độc quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Đổi lại, người thuê phải trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Hình thức này có 2 phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành và thuê tài chính. Nguồn tài trợ khác: như là huy động vốn góp liên doanh dài hạn, vay vốn dài hạn của nước ngoài hay được Nhà nước hoặc các tổ chức khác trợ cấp đầu tư. 2.3. Khái quát về năng lực tài chính và phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp: Năng lực tài chính của doanh nghiệp là khả năng tạo lập, phát triển và quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp muốn huy động được vốn một cách thuận lợi, muốn tăng trưởng vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả sao cho một đồng vốn sử dụng mang lại nhiều đồng lợi nhuận. Vì vậy để đánh giá năng lực hoạt động tài chính của doanh nghiệp người ta thường xem xét trên các phương diện hiệu quả sử dụng các loại vốn, khả năng sinh lời vốn của doanh nghiệp và khả năng độc lập tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mắt mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khắt khe: sản xuất những cái thị trường cần chứ không phải sản xuất những cái mình có và phải cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp cùng ngành…Vì vậy, để sống sót được thì doanh nghiệp phải sử dụng đồng vốn của mình sao cho tiết kiệm, hiệu quả. Một mặt, phải bảo toàn đồng vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh. Có như vậy mới thể hiện được năng lực tài chính của một doanh nghiệp bởi năng lực tài chính chính là khả năng làm sao để doanh thu ngày càng tăng trong khi chi phí ngày càng giảm. Khi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi thì chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng có hiệu quả đồng vốn. Để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp ta cần phải phân tích sự biến động của các báo cáo tài chính hàng năm thông qua một số chỉ tiêu cơ bản như thông qua kết quả sản xuất kinh doanh cho ta thấy doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hay là lỗ, từ đó cho ta thấy khả năng huy động vốn của doanh nghiệp tốt hay không. Còn thông qua bảng cân đối kế toán cho ta biết được tình hình vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp từ đó thấy được khả năng trả nợ của doanh nghiệp, khả năng thanh toán tức thời, khả năng thanh toán nhanh….Bên cạnh đó, ta kết hợp phân tích một số chỉ tiêu của các báo cáo để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ, VLĐ và khả năng sinh lời vốn của doanh nghiệp. Việc phân tích các yếu tố này sẽ cho ta kết luận chính xác về năng lực tài chính của doanh nghiệp bởi vì qua các chỉ tiêu đó ta sẽ đưa ra được nhận xét về khả năng huy động, phát triển và quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng như khả năng trang trải nợ và các khoản chi phí khác. Một doanh nghiệp có năng lực tài chính sẽ khác hoàn toàn so với doanh nghiệp không có năng lực tài chính vì nếu doanh nghiệp có năng lực tài chính tức là doanh nghiệp đã sử dụng có hiệu quả đồng vốn bỏ ra, đã có khả năng trang trải các khoản chi phí, nợ nần và huy động được vốn khi cần thiết. Lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng, quy mô sản xuất ngày càng phát triển và đa dạng. Do vậy, doanh nghiệp có năng lực tài chính sẽ có tác động tốt đến kết quả sản xuất kinh doanh làm cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng có hiệu quả. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không có năng lực tài chính thì có nghĩa là doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, không có khả năng huy động được vốn trên thị trường, vốn chủ sỡ hữu thì ít mà nợ phải trả thì nhiều. Doanh nghiệp không có khả năng thanh toán cho các chủ nợ, không tạo dược uy tín với các đối tác. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn về vốn dẫn tới kém hiệu quả, thua lỗ. Do đó, nếu doanh nghiệp không có năng lực tài chính sẽ làm cho sản xuất kinh doanh ngày càng xuống dốc và kém phát triển, khiến cho doanh nghiệp có nguy cơ phá sản. Phân tích năng lực tài chính là một vấn đề quan trọng trong phân tích tài chính doanh nghiệp, thông thường, qua hệ thống, phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích giúp cho việc đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát và chi tiết về năng lực tài chính. Trên cơ sở đó, nhận biết, phán đoán và dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ cũng như đầu tư phù hợp. 2.4. ý nghĩa của phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp: Phân tích năng lực tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra và đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Vì vậy phân tích năng lực tài chính doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như: Ban giám đốc, các nhà đầu tư, nhà quản lý, chính phủ người lao động…Mỗi một nhóm người lại quan tâm đến các khía cạnh khác nhau, cần những thông tin khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận, xem xét khả năng trả nợ và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp. Ngoài ra, các nhà quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí... Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện các mục tiêu này nếu họ kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục rút cục sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa, còn nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trả cũng buộc phải ngừng hoạt động. Việc đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp giúp cho nhà quản lí nắm bắt tình hình tài chính doanh nghiệp cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai như: tình hình thu chi khả năng thanh toán, cơ cấu vốn và nguồn vốn, tình hình đầu tư, hiệu suất sử dụng vốn, khả năng sinh lời … Thông qua đó các nhà quản lí kiểm tra kiểm soát vì hoạt động của doanh nghiệp và là cơ sở cho sự dự đoán tài chính. Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ hướng chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng rất quan tâm đến số lượng vốn chủ sở hữu vì đó là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Không mấy ai sẵn sàng cho vay nếu không chắc chắn về lợi ích của việc cho vay và mức sinh lời của đồng vốn và khả năng thu hồi vốn. Vì thế mà khả năng thanh toán và kết quả hoạt động của doanh nghiệp luôn là vấn đề chú ý hàng đầu đối với các nhà đầu tư. Để thấy được điều này chỉ phải thông qua phân tích năng lực tài chính doanh nghiệp. Đối các nhà đầu tư thì để đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào thì nhà đầu tư cũng phải quan tâm tới mức sinh lời của đơn vị và lĩnh vực đó, khả năng hoạt động, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, lợi nhuận bình quân vốn, vòng quay vốn, khả năng phát triển của doanh nghiệp... Điều này là nhằm đảm bảo cho sự an toàn về vốn đầu tư của chủ đầu tư. Từ đó ảnh hưởng tới các quyết định tiếp tục đầu tư vào Công ty trong tương lai. Đối với người lao động thì quyền lợi và cuộc sống của người lao động luôn gắn liền với doanh nghiệp. Vì nguồn thu nhập chính của người lao động là lương và các khoản tiền thưởng. Nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì người lao động sẽ có thu nhập cao và ngược lại. Chính điều này khiến cho người lao động phải quan tâm tới tình hình tài chính doanh nghiệp Bên cạnh những nhóm người trên, các cơ quan tài chính, cơ quan thuế, nhà cung cấp...cũng rất quan tâm đến bức tranh tài chính của doanh nghiệp với những mục tiêu cơ bản giống như các chủ ngân hàng, chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư…bởi vì nó liên quan tới quyền lợi, trách nhiệm và mục tiêu hiện tại, tương lai của họ. 2.5. Nội dung phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp: 2.5.1. Phân tích tình hình tài chính hiện tại: Việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại cho thấy thực trạng về nguồn vốn, tài sản, nguồn hình thành tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp. Từ đó đánh giá được những mặt mạnh mà doanh nghiệp đang có và những mặt yếu kém mà doanh nghiệp đang mắc phải. Thông qua việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ta sẽ thấy được cơ cấu tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp có hợp lý không, tổng tài sản của doanh nghiệp cao hay thấp, doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hay lỗ. Từ đó rút ra là doanh nghiệp có năng lực tài chính hay không, nếu doanh nghiệp có năng lực tài chính thì đang có xu hướng tăng lên hay giảm đi để biết cách đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp trong những năm tới. 2.5.1.1. Phân tích tình hình vốn của doanh nghiệp: Phân tích bảng cân đối kế toán nhằm cung cấp những thông tin về tài chính của doanh nghiệp cho các nhà quản lý, kế toán trưởng và các đối tượng quan tâm khác, cần phải xem kết cấu vốn và nguồn vốn để từ đó có thể đối chiếu với những kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản đó tăng hay giảm là do nguyên nhân nào gây ra? Tùy theo từng loại hình sản xuất kinh doanh cụ thể để xem xét tỷ trọng từng khoản vốn chiếm trong tổng số tài sản là cao hay thấp. Nếu là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần phải có dự trữ về nguyên vật liệu đầy đủ nhằm đáp ứng cho nhu cầu sản xuất sản phẩm, nếu là doanh nghiệp thương mại, cần có lượng hàng đầy đủ để cung cấp cho nhu cầu bán kịp thời…Ví dụ như đối với các khoản phải thu, tỷ trọng so với tổng vốn càng cao thể hiện doanh nghiệp bị chiếm vốn càng nhiều, đây là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp và ngược lại. 2.5.1.2. Phân tích tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp: Cũng như phân tích tài sản, nhà phân tích cũng lấy số liệu từ bảng cân đối kế toán để phân tích tình hình biến động nguồn vốn. Chúng ta phải phân tích rõ sự biến đổi này là do nguyên nhân từ đâu, nó ảnh hưởng tốt hay xấu tới tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ta phải đi sâu vào phân tích từng biến động cụ thể xem nguồn vốn chủ sỡ hữu, các khoản phải trả biến động như thế nào? Ngoài ra cần xác định tỷ trọng của từng loại so với tổng thể là bao nhiêu qua các năm và có hợp lý không. Nếu hợp lý có nghĩa là tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp rất khả quan, có năng lực tài chính. 2.5.2. Phân tích khả năng huy động vốn trên thị trường: Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào thì vốn bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau với phương thức huy động khác nhau. Tuy nhiên khả năng huy động vốn của doanh nghiệp cao hay thấp, tăng hay giảm phụ thuộc chủ yếu vào năng lực hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, để phân tích khả năng huy động vốn của doanh nghiệp thì cần phải phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời mà doanh nghiệp đạt được trong một số năm gần đây. Từ đó có thể đánh giá được khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trên thị trường là cao hay thấp, ảnh hưởng của nó tới năng lực tài chính của doanh nghiệp. 2.5.2.1. Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Việc phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giúp cho ta thấy được doanh nghiệp hoạt động có lãi hay không. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp sẽ có khả năng huy động được vốn trên thị trường khi cần, từ đó dẫn tới năng lực tài chính của doanh nghiệp tốt hơn. Còn nếu doanh nghiệp hoạt động không có lãi thì gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn cho sản xuất từ đó làm giảm năng lực tài chính của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mỗi kỳ là kết quả tổng hợp của nhiều hoạt động trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Kết quả hoạt động đó vừa được biểu hiện dưới hình thức giá trị vừa được biểu hiện dưới hình thức tỷ lệ thông qua các chỉ tiêu khác. Để phân tích ta cần lập bảng phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh qua 3 năm, sử dụng kỹ thuật so sánh theo cột dọc kết hợp so sánh theo hàng ngang để thấy được sự biến động giữa chúng, việc đánh giá phải dựa trên sự biến động cả các chỉ tiêu. Từ đó sẽ thấy được các thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sự biến động của từng khâu trong quá trình sản xuất. Trên cơ sở đó ta có thể đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là mạnh hay yếu, doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hay lỗ, ảnh hưởng của kết quả kinh doanh tới năng lực tài chính của doanh nghiệp. Sau khi phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ta tiến hành phân tích hiệu quả kinh doanh. Thông qua việc phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ giúp cho ta đưa ra những kết luận chính xác xem doanh nghiệp hoạt động có thực lãi hay không, hoạt động có hiệu quả hay không. Thể hiện thông qua biến động của các chỉ tiêu: Tỷ lệ giá vốn / Doanh thu(%) = Giá vốn/DT *100 Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng giá vốn. Tỷ lệ chi phí quản lý(chi phí bán hàng) / Doanh thu = Chi phí quản lý(chi phí bán hàng) / Doanh thu * 100 Chỉ tiêu này cho thấy chi phí quản lý( chi phí bán hàng) chiếm bao nhiêu trong tổng doanh thu. Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế / Doanh thu(%) = Lợi nhuận sau thuế / DT*100 Chỉ tiêu này cho ta biết cứ 1 đồng lợi nhuận sau thuế thì cần bao nhiêu đồng doanh thu. 2.5.2.2. Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp: Khi chúng ta tiến hành phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp thì chúng ta phải dùng rất nhiều hệ thống chỉ tiêu, mỗi một chỉ tiêu phân tích phản ánh một nét riêng biệt, một góc độ khác hẳn nhau với những mục đích riêng của những người sử dụng thông tin. Trong đó nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp là một nhóm chỉ tiêu rất quan trọng phục vụ cho nhiều đối tượng có liên quan đến doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là thước đo để đánh giá xem khả năng có thể trả nợ trong niên hạn của doanh nghiệp. Do đó nếu doanh nghiệp thực hiện thanh toán tốt thì sẽ ảnh hưởng rất tốt đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp vì đây là một căn cứ quan trọng để các đối tác, ngân hàng đưa ra quyết định cho doanh nghiệp vay vốn hay không. Bởi vậy, khi chúng ta tiến hành phân tích khả năng huy động vốn trên thị truờng nhằm đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp thì một nhóm chỉ tiêu không thể thiếu trong hệ thống chỉ tiêu để tiến hành phân tích là nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hệ số thanh toán tạm thời = Tổng TSLĐ/ Tổng nợ ngắn hạn Hệ số này là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty, nó cho biết tỷ lệ các khoản nợ ngắn hạn của công ty được trả bằng các tài sản tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Tỷ số này phản ánh việc công ty có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn của công ty. Nếu hệ số này thấp cho thấy khả năng thanh toán của công ty giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xẩy ra. Còn nếu hệ số này cao phản ánh công ty luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá cao sẽ giảm hiệu quả hoạt động vì công ty đã đầu tư quá nhiều vào TSCĐ. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Đây là chỉ tiêu biểu hiện mối quan hệ giữa tổng tài sản mà hiện nay doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng với tổng số nợ mà doanh nghiệp phải trả (bao gồm cả nợ ngắn hạn và nợ dài hạn). Chỉ tiêu này được tính bằng công thức sau: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng tài sản/(Nợ ngắn hạn + nợ dài hạn) Chúng ta tiến hành phân tích, so sánh qua các năm để xem xét sự thay đổi của nó như thế nào, nguyên nhân tại sao. Chỉ tiêu này càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao nghĩa là nếu nguồn vốn chủ._. sỡ hữu qua các năm ngày càng cao và tổng số nợ giảm thì khả năng thanh toán tổng quát lớn và ngược lại. Vì vậy, hệ số này càng cao càng tốt. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay: Chỉ tiêu này cho chúng ta biết sẵn sàng trả tiền lãi vay tới mức nào vì tiền lãi vay là một khoản chi phí cố định hàng năm của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là số vốn mà doanh nghiệp đi vay được sử dụng như thế nào để đem lại một khoản lợi nhuận là bao nhiêu và có đủ bù đắp tiền lãi vay hay không? Hệ số này dùng đo lường mức độ mà lợi nhuận phát sinh do sử dụng vốn để đảm bảo trả lãi vay như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi đến gây sức ép lên công ty, thậm chí khiến công ty phá sản. Hệ số thanh toán khả năng thanh toán lãi vay = LN trước thuế + lãi vay/Chi phí lãi vay Hệ số khả năng thanh toán nhanh Hệ số khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - hàng tồn kho/Nợ ngắn hạn Hệ số này nói lên công ty có nhiều khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn vì công ty dễ dàng chuyển từ các tài sản lưu động khác về tiền mặt. Thông thường khả năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ số này >0.5 lần vì công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần đến nguồn thu hay doanh số bán. Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Vốn bằng tiền / Nợ ngắn hạn - Hệ số khả năng thanh toán tạm thời = TSNH/Nợ ngắn hạn -Tỷ lệ nợ phải thu so với nợ phải trả: Chỉ tiêu này cho chúng ta biết được về mối quan hệ giữa nợ phải thu và nợ phải trả. Nếu tỷ lệ này >1 thì doanh nghiệp đang bị doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn và ngược lại. Tỷ lệ nợ phải thu/ nợ phải trả = Nợ phải thu / Nợ phải trả 2.5.2.3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một vấn đề rất quan trọng trong phân tích năng lực tài chính vì trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp muốn huy động được vốn một cách thuận lợi thì doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả sao cho một đồng vốn đem lại nhiều đồng lợi nhuận nhất, từ đó mới thu hút được sự đầu tư từ bên ngoài. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn không hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn dẫn tới năng lực tài chính của doanh nghiệp kém hiệu quả. Do vậy, đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp ta tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện thông qua việc phân tích các chỉ tiêu sau: Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định: Vốn cố định là biểu hiện về mặt giá trị của tài sản cố định trong doanh nghiệp sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh để mang lại hiệu quả kinh tế. Để phân tích ta sử dụng hệ thống chỉ tiêu gồm: Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu thuần (hoặc lợi nhuận thuần) trong kỳ/Vốn cố định bình quân Trong đó: Số VCĐ bình quân trong kỳ = VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ/2 Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận thuần trong kỳ. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định: Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ(trước thuế hoặc sau thuế)/Số vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn cố định bình quân trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Hiệu suất sử dụng TSCĐ: phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ. Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Doanh thu thuần(doanh thu)/Nguyên giá TSCĐ bình quân So sánh chỉ tiêu này qua các kỳ phân tích và với tiêu chuẩn chính của ngành để đánh giá hiệu quả sử dụng các loại vốn của doanh nghiệp là cao hay thấp, xu hướng tăng lên hay giảm đi, từ đó tìm nguyên nhân và các quyết định trong sản xuất kinh doanh cũng như biện pháp quản lý sử dụng các loại vốn tốt hơn. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cung cấp cho các nhà quản lý, các chủ đầu tư, đối tác kinh doanh những thông tin quan trọng trong việc ra các quyết định chiến lược lâu dài. Ngoài ra phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho ta biết doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu quả không, nguồn vốn lưu động có dồi dào không. Từ đó đánh giá được năng lực tài chính của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp có thể sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau: -Tốc độ luân chuyển vốn lưu động: phản ánh số vòng quay của vốn được thực hiện trong một thời kỳ nhất định thường là một năm. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm thể hiện hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cao hay thấp. Vốn lưu động luân chuyển càng nhanh chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Thể hiện qua công thức: L = M/Vlđ Trong đó: L: là số lần luân chuyển(số vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ M: là tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ Vlđ : là vốn lưu động bình quân trong kỳ - Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động: Chỉ tiêu này nói lên khả năng sinh lời của vốn lưu động, phản ánh 1đồng vốn lưu động tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. Được tính: Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động(%) = Lợi nhuận(trước thuế hoặc sau thuế)/VLĐ bình quân)*100 2.5.2.4. Phân tích khả năng sinh lời vốn của doanh nghiệp: Lợi nhuận là mục tiêu của doanh nghiệp đồng thời thể hiện hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp người ta thường tính và so sánh tỷ số giữa lợi nhuận thuần với doanh thu thuần, tổng vốn sử dụng(tổng tài sản có) và vốn chủ sỡ hữu(hoặc vốn cổ phần thường) của doanh nghiệp. Các tỷ số này có thể có các tên gọi khác nhau như tỷ suất lợi nhuận vốn hay doanh lợi vốn…nhưng chúng đều có chung một cách tính và thể hiện khả năng sinh lời vốn của doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp đều rất quan tâm đến các chỉ tiêu này để ra quyết định đầu tư, cho vay hay cho thuê tài sản… -Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu: chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu % lợi nhuận hay nói cách khác chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ lợi nhuận thuần trong tổng doanh thu. Công thức là: Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận thuần/ Doanh thu thuần*100 -Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn: phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn doanh nghiệp sử dụng. Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn = Lợi nhuận thuần/Tổng vốn bình quân*100 - Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản: ROA= LN sau thuế/ Tổng tài sản Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lời trên 1 đồng vốn đầu tư vào công ty hay nói cách khác nó cho biết khi đầu tư vào 1 đồng vào tài sản sẽ có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. ROA cho biết cứ 1 đồng tài sản thì công ty tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận và nó đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản của công ty. Hệ số này càng cao càng tốt vì nó cho thấy khả năng sinh lợi từ chính tài sản hoạt động của công ty. - Tỷ suất sinh lời trên vốn cổ phần: ROE = LN sau thuế/Vốn chủ sỡ hữu Đây là chỉ tiêu mà nhà đầu tư quan tâm vì nó cho thấy khả năng tạo lãi của 1 đồng vốn họ bỏ ra để đầu tư vào công ty. ROE cho biết 1 đồng vốn tự có tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh của công ty càng mạnh và cổ phiếu của công ty càng hấp dẫn vì chỉ tiêu này cho thấy khả năng sinh lời và tỷ suất LN của công ty, hơn nữa tăng mức doanh lợi vốn chủ sỡ hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính của công ty 2.5.2.5. Phân tích khả năng độc lập tài chính của doanh nghiệp: Để có kết luận chính xác về năng lực hoạt động tài chính của doanh nghiệp chúng ta tiến hành phân tích chỉ tiêu độc lập tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích trên sẽ giúp chúng ta đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp cũng như mức độ tự chủ trong kinh doanh đồng thời xem xét khả năng huy động vốn vay và có thể vay thêm là bao nhiêu, từ đó khẳng định doanh nghiệp có năng lực tài chính hay không. Thông thường, những doanh nghiệp có khả năng độc lập tài chính là những doanh nghiệp có khả năng tự tài trợ về mặt tài chính cho nên khả năng tạo lập, phát triển, huy động vốn là rất cao. Chính vì vậy, việc phân tích khả năng độc lập tài chính của doanh nghiệp sẽ giúp chúng ta đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiẹp có khả năng độc lập tài chính là doanh nghiệp có tổng nợ và vốn chủ sỡ hữu thõa mãn đồng thời 2 tiêu chuẩn sau: Tổng nợ/Vốn chủ sỡ hữu<=2 Vốn chủ sỡ hữu/ Nợ dài hạn>=1 Doanh nghiệp có khả năng vay chắc chắn trong giới hạn chỉ tiêu độc lập tài chính. Ngoài ra, qua công thức có thể nó lên khả năng huy động vốn vay dài hạn của doanh nghiệp. Các chủ doanh nghiệp thường nhìn vào chỉ tiêu này để quyết định có nên cho vay dài hạn hay không. Phần III: đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu: 3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu: 3.1.1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của công ty: Công ty xây dựng Sông Đà 2 tiền thân là công ty xây dựng dân dụng được thành lập ngày 1.2.1980 : theo quyết định số 218/BXD-TCLĐ của bộ trưởng bộ xây dựng. Đến ngày 7.8.1992 theo quyết định số 393 BXD-TCLĐ Của Bộ trưởng bộ xây dựng thành lập công ty xây dựng dân dụng và công nghiệp Sông Đà trên cơ sở sát nhập hai đơn vị : công ty xây dựng dân dụng và công nghiệp số 2 với công ty xây dựng công nghiệp . Ngày 26.3.1993, theo theo quyết định số 131A/BXD-TCLĐ của bộ trưởng bộ xây dựng quyết định lại doanh nghiệp nhà nước lấy tên là Công ty xây dựng Sông Đà số 2 Ngày 30.1.1995 theo quyết định số 591TCT-TCLĐ của tổng giám đốc tổng công ty xây dựng Sông Đà hợp nhất toàn bộ chi nhánh công ty xây lắp và thi công cơ giới tại Hòa Bình vào công ty Sông Đà 2. Ngày 24.10.1997 theo quyết định số 10TCT-TCLĐ của hội đồng quản trị tổng công ty xây dựng Sông Đà về việc tách xí nghiệp lắp máy, sửa chữa gia công, gia công cơ khí Sông Đà 201 trực thuộc công ty xây dựng Sông Đà 2 thành trung tâm cơ khí lắp máy. Ngày 20.3.2005 theo quyết định số 7TCT-TCLĐ của HĐQT tổng công ty xây dựng Sông Đà về việc cổ phần hóa công ty Sông Đà 2 trở thành Công ty cổ phần Sông Đà 2. Kể từ khi thành lập công ty xây dựng Sông Đà 2 đã có rất nhiều bước tiến trong việc xây dựng và phát triển công ty. Ngay từ khi mới thành lập công ty đã có 7 đơn vị sản xuất trực thuộc, địa bàn hoạt động ở khắp các tỉnh: Hà Nội, Hoà Bình, Bắc Ninh... cho đến nay để phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và địa bàn hoạt động. Công ty đã sát nhập còn 5 đơn vị trực thuộc. Trụ sở của công ty hiện đang ở tại km số 10 đường Nguyễn Trãi thị xã Hà Đông tỉnh Hà Tây. Công ty được cấp giấy phép hành nghề xây dựng số 84 BXD/CXD của Bộ Trưởng Bộ xây dựng - số TK73010012E tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hà Tây. Các công trình công ty đã và đang thi công rất đa dạng. Công ty được phép hành nghề trên các lĩnh vực: dân dụng, công nghiệp thuỷ điện, thuỷ lợi, giao thông, sân bay bến cảng, xây lắp đường dây điện... Công ty có 1148 cán bộ công nhân viên hành nghề giàu kinh nghiệm, trong các lĩnh vực thuộc về xây dựng. Trong quá trình hoạt động của mình công ty đã tham gia xây dựng rất nhiều công trình quan trọng như: nhà máy thuỷ điện Thác Bà, nhà máy giấy Bãi Bằng Việt Trì, nhà máy thuỷ điện Selapam-Lào khách sạn thủ đô, ngân hàng công thương Việt Nam, làng chuyên gia Liên Xô, nhà máy xi măng Bút Sơn, nhà máy kính nổi Đáp Cầu, nhà máy đường Hoà Bình, nhà máy bia Tiger, đường cao tốc Láng- Hoà Lạc, quốc lộ 1A và hàng trăm công trình có quy mô khác. Các công trình do công ty thi công vận hành hiệu quả và được đánh giá là những công trình có chất lượng cao. Hiện nay công ty đang tập trung nâng cao mọi mặt năng lực máy móc thiết bị đầu tư chiều sâu để thực hiện và sẵn sàng nhận thầu xây lắp thi công các công trình xây dựng khác trong cũng như ngoài nước. Qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển, nhìn chung công ty đã từng bước được củng cố và phát triển toàn diện. Đặc biệt công ty đã có một đội ngũ kỹ sư giàu kinh nghiệm, công nhân giỏi nghề có các trang thiết bị tiên tiến hiện đại của nhiều nước trên thế giới. Từ đó, công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ của tổng công ty giao cho và luôn sẵn sàng đáp ứng, nhận làm các công trình quan trọng như xây dựng các công trình công nghiệp dân dụng, đường giao thông. 3.1.2. Tình hình tổ chức của công ty: 3.1.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý sản xuất: Do mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động gắn trách nhiệm hành chính vào các đơn vị trực thuộc bộ xây dựng. Bộ xây dựng với chức năng quản lý nhà nhà nước về ngành xây dựng công ty xây dựng Sông Đà 2 là doanh nghiệp nhà nước về xây dựng giúp các đơn vị hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, hoạt động chủ yếu về chuyên nghành xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng. Khái quát bộ máy quản lý công ty. Là một doanh nghiệp nhà nước công ty xây dựng Sông Đà 2 thuộc công ty xây dựng Sông Đà tổ chức quản lý theo môi cấp đứng đầu công ty là Giám Đốc chịu trách nhiệm điều hành hoạt động chủ yếu của công ty. Giúp việc cho Giám Đốc là bốn Phó Giám Đốc và các phòng ban chức năng. - Giám Đốc công ty: do chủ tịch hội đồng quản trị tổng công ty bổ nhiệm, chịu trách nhiệm trước tổng công ty trong việc điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện kế hoạch được giao. - Phó Giám Đốc phụ trách thi công: Gồm hai người giúp Giám Đốc công ty tổ chức các biện pháp thi công theo dõi kỹ thuật, chất lượng các công trình. - Phó Giám Đốc phụ trách thiết bị: Giúp Giám Đốc tổ chức theo dõi, quản lý tình trạng máy móc, vật tư thiết bị toàn công ty đề xuất mua sắm kịp thời các thiết bị vật tư. - Phó Giám Đốc kinh tế giúp Giám Đốc trong việc lập kế hoạch sản xuất công tác đơn giá định mức tiền lương, đấu thầu các công trình, nghiệm thu thanh toán, quyết toán các công trình. - Phòng tổ chức lao động: Có chức năng nhiệm vụ giúp Giám Đốc công ty tổ chức bộ máy điều hành quản lý của công ty cũng như các đơn vị trực thụôc đáp ứng các nhu cầu sản xuất về công tác tổ chức các cán bộ lao động. Đồng thời giúp Giám Đốc nắm được trình độ kỹ thuật của cán bộ công nhân viên. Đề ra chương trình đào tạo cán bộ công nhân để kịp thời phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. - Phòng kỹ thuật chất lượng- an toàn có nhiệm vụ theo dõi kiểm tra giám sát về kỹ thuật chất lượng các công trình, đồng thời đề ra các biện pháp sáng kiến, thay đổi biện pháp thi công. - Phòng kinh tế kế hoạch có nhiệm vụ lập kế hoạch ngắn hạn và dài hạn báo cáo về tổng công ty đồng thời lập kế hoạch giao cho các đơn vị theo dõi thực hiện kế hoạch. - Phòng vật tư cơ giới có nhiệm vụ quản lý vật tư thiết bị toàn công ty lập kế hoạch mua sắm và giám sát tình hình sử dụng dự trữ vật tư thiết bị của các đơn vị, theo dõi hiện trạng máy móc thiết bị của các đơn vị để giúp Giám Đốc có quyết định bổ sung, mua sắm kịp thời tính toán sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả. - Phòng kế toán tài chính có nhiện vụ giúp Giám Đốc công ty quản lý về mặt tài chính để công ty cũng như các đơn vị trực thuộc thực hiện đầy đủ chính sách chế độ của nhà nước thường xuyên kiểm tra các đơn vị đảm bảo thực hiện tiết kiệm và kinh doanh có lãi. Về công tác tổ chức sản xuất: Công ty xây dựng Sông Đà 2 tổ chức sản xuất theo từng xí nghiệp từng chi nhánh. Trong đó: 1. Chi nhánh Hà Nội: Thi công các công trình công nghiệp, dân dụng cao tầng. 2. Xí nghiệp sản xuất kinh doanh vật liệu Sông Đà 201. 3. Xí nghiệp xây dựng Sông Đà 202 4. Xí nghiệp xây dựng Sông Đà 203 thi công đào đắp công trình thủy. 5. Xí nghiệp xây dựng Sông Đà 204 thi công các công trình dân dụng công nghiệp, đường dây và trạm điện cao thế, hạ thế. 6. Xí nghiệp xây dựng cầu đường 205. 7. Đội sản xuất vật liệu. Ngoài ra còn có các liên danh, liên doanh như: 1. Liên doanh cảng Bích Hạ 2. Liên danh Sông Đà - Cienco 1 Các liên danh liên doanh có nhiệm vụ: Thực hiện nghĩa vụ theo quy chế liên doanh và các quy chế ban điều hành tổng công ty và công ty xây dựng Sông Đà 2. * Sơ đồ tổ chức công ty cổ phần Sông đà 2: Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Ban kiểm soát Phó tổng giám đốc phụ trách thi công Phó tổng giám đốc phụ trách kinh tế Phó tổng giám đốc phụ trách vật tư cơ giới Phó tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật Phòng quản lý kỹ thuật thi công Phòng kinh tế kế hoạch Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính kế toán Phòng quản lý vật tư cơ giới xí nghiệp sông đà 206 xí nghiệp sông đà 208 đội công trình giao thông đội sản xuất bt thương phẩm đội sản xuất asphalt Ban ql các dự án đtxd 3.1.2.2. Tổ chức bộ máy kế toán: Xuất phát từ tình hình thực tế, đặc điểm sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý, xuất phát từ điều kiện và trình độ quản lý. Công ty Sông Đà 2 tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức nửa tập trung nửa phân tán. Phòng kế toán được đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Giám đốc công ty và toàn bộ nhân viên kế toán được đặt dưới sự lãnh đạo của kế toán trưởng. Hiện nay phòng kế toán có 14 nhân viên kế toán. Mỗi người đều có chức năng nhiệm vụ riêng nhưng giữa họ đều có mối quan hệ khăng khít với nhau bổ trợ cho nhau giúp cho cả bộ máy kế toán hoạt động đều đặn, phục vụ kịp thời cho công tác quản lý của công ty. 3.1.3. Cơ sở vật chất của công ty: Công ty cổ phần Sông Đà 2 là đơn vị sản xuất kinh doanh có quy mô lớn. Trong những năm qua, công ty đã đạt được hiệu quả kinh tế cao, được khách hàng đặt nhiều công trình lớn và ngày càng có uy tín trên thương trường. Để đạt được kết quả như vậy là do công ty đã trang bị cho mình nhiều trang thiết bị hiện đại, phần lớn là tự mua sắm và một phần là được đầu tư. Thể hiện trong bảng 1: Bảng 1: Một số trang thiết bị của công ty năm 2007 STT Tên thiết bị ĐVT Số lượng 1 Máy đào Komatsu Máy 07 2 Máy đào Kobeco Máy 02 3 Ô tô vận tải Huyndai Máy 10 4 Trạm trộn bê tông Asphalt Máy 01 5 Trạm trộn 75% Máy 01 6 Dây chuyền sản xuất đá dăm và cát nghiền Máy 02 Nguồn: Phòng tài chính kế toán 3.1.4. Tình hình lao động của công ty: Lao động là một trong 3 yếu tố cơ bản của một quá trình sản xuất, có thể coi nó là yếu tố căn bản nhất, là điều kiện cần thiết hàng đầu của một quá trình sản xuất. Đối với doanh nghiệp thì đây lại chính là nguồn lực lớn thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Với đặc thù riêng của công ty cổ phần Sông Đà 2 là xây dựng thì yêu cầu đặt ra đối với lực lượng lao động là rất đa dạng, nó đòi hỏi cả về lao động chuyên nghiệp và lao động không chuyên nghiệp, việc tổ chức lao động cho sản xuất là cả một vấn đề lớn phải theo dõi nghiên cứu và đánh giá. Tình hình lao động của công ty được thể hiện qua bảng 2: Bảng 2: Tình hình lao động của công ty qua 3 năm(2005-2007) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh(%) SL(Ngời) CC(%) SL(Ngời) CC(%) SL(Ngời) CC(%) 2006/2005 2007/2006 Tổng số lao động 523 100 594 100 689 100 113,58 116 -Phân theo trình độ + Đại học và cao đẳng 136 26 151 25 191 27,72 111,03 126,5 + Trung cấp 19 3,63 15 3 14 2,03 78,95 93,33 + Công nhân kỹ thuật 368 70,37 428 72 484 70,25 116,3 113,1 - Phân theo tính chất lao động + Trực tiếp 445 85 501 84,34 578 83,9 125,58 115,37 + Gián tiếp 78 15 93 15,66 111 16,1 119,23 119,35 Thu nhập BQ 1 lao động 1991012 2085000 2174000 104,72 104,27 Qua bảng 2 ta thấy: lao động của công ty qua 3 năm đều tăng, cả về chất lượng và số lượng. Cụ thể: Tổng số lao động tăng, năm 2005 là 523 người, đến năm 2007 là 689 người, tăng 168 người. Xét theo trình độ lao động thì nói chung lao động có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp của công ty chiếm tỷ trọng không cao (gần 30%) do những người này thường làm ở bộ phận quản lý nhưng công ty có chức năng chính là sản xuất nên tỷ lệ công nhân kỹ thuật chiếm phần lớn(hơn 70%). Qua 3 năm thì trình độ của lao động được nâng lên trông thấy, lao động có trình độ đại học, cao đẳng tăng lên, từ 136 người( chiếm 26% so tổng số) năm 2005 tăng lên 191 người(chiếm 27,72%) năm 2007. Còn lao động có trình độ trung cấp thì lại giảm đi, từ 19 người(chiếm 3,36%) năm 2005 xuống còn 14 người(chiếm 2,03%) năm 2007. Có sự thay đổi này là do công ty thường xuyên cử cán bộ đi học để nâng cao trình độ tay nghề và chú trọng hơn trong công tác tuyển chọn, đòi hỏi cao hơn về trình độ. Điều này chứng tỏ sự quan tâm của lãnh đạo công ty đối với nguồn nhân lực. Xét theo tính chất lao động: Lao động trực tiếp nhiều hơn lao động gián tiếp nhiều lần cả về số lượng và cơ cấu, điều này là phù hợp vì công ty chủ yếu là xây dựng, lao động ở công trường nhiều. Qua 3 năm, số lượng lao động trực tiếp và gián tiếp của công ty đều tăng lên, năm 2005 có 445 lao động trực tiếp (chiếm 85%) và 78 lao động gián tiếp (chiếm 15%), năm 2007 có 578 lao động trực tiếp (chiếm 83,9%) và 111 lao động gián tiếp (chiếm 16,1%). Còn về thu nhập bình quân của 1 lao động cũng tăng lên qua từng năm, năm 2004 là 1991012 đồng/người, năm 2006 là 2085000 đồng/người và năm 2007 là 2174000 đồng/ người. Qua đó cho thấy công ty ngày càng làm ăn có hiệu quả, làm cho thu nhập của lao động trong công ty ngày càng cao, góp phần cải thiện đời sống của người lao động. 3.1.5. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty: Công ty cổ phần Sông Đà 2 là một công ty có quy mô lớn, kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau…Mục tiêu đặt ra là công ty phải làm ăn có hiệu quả, sử dụng đồng vốn sao cho có hiệu quả nhằm thu hút được sư đầu tư từ bên ngoài, công ty đã có nhiều cố gắng trong công tác tiếp thị tìm kiếm việc làm, mở rộng thị trường đa dạng hoá sản phẩm và được sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Tổng công ty, sự giúp đỡ của các phòng ban chức năng Tổng công ty nên công ty đã đạt được những kết quả nhất định, thể hiện qua bảng 3: Bảng 3: Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty Chỉ tiêu Năm So sánh 2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006 1. DTT 262,208,710,043 248,602,368,194 271,061,017,038 94.81 109.03 2.LN sau thuế 3,256,452,587 5,598,723,471 27,795,927,697 171.93 496.47 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Qua bảng ta thấy doanh thu thuần của công ty năm 2006 giảm đi 5.19% so với năm 2005 nhưng đến năm 2007 lại tăng 9.03% so với năm 2006 và tỷ lệ tăng nhanh hơn tỷ lệ giảm doanh thu. Còn về lợi nhuận sau thuế thì đều tăng qua các năm, năm 2006 tăng 71.93% so với năm 2005 , năm 2007 tăng tới 396.47% so với năm 2006. Như vậy, có thể xem là doanh thu và lợi nhuận của công ty ngày càng tăng thể hiện quy mô hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng phát triển. 3.2. Phương pháp nghiên cứu: 3.2.1. Phương pháp chung: Để thực hiện nội dung của đề tài, chúng tôi đã vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét và phân tích các hiện tượng kinh tế một cách khoa học và khách quan. Đây là phương pháp cơ bản làm nền tảng, xuyên suốt quá trình nghiên cứu nội dung đề tài. 3.2.2. Phương pháp cụ thể: * Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: Thu thập tài liệu từ nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp, từ sổ sách kế toán và từ các văn bản có liên quan. Từ đó phải xử lý phù hợp nhằm phục vụ đề tài của mình bằng máy tính cá nhân hay bằng Excel. * Phương pháp phân tích số liệu: - Phương pháp thống kê: + Thống kê mô tả: + Thống kê so sánh: Các chỉ tiêu đem ra so sánh phải thống nhất về không gian, thời gian, đơn vị …Nội dung so sánh gồm: So sánh giữa thực hiện kỳ này với thực hiện kỳ trước để thấy được khuynh hướng biến động qua thời gian, tốc độ phát triển…qua đó thấy được xu hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu giữa các doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, của các doanh nghiệp khác nhằm đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp như thế nào, tương quan so với các doanh nghiệp khác... So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự thay đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua niên độ kế toán liên tiếp. Phương pháp tỷ số: Phương pháp xây dựng trên ý nghĩa chuẩn mực của tỷ lệ đại lượng tài chính, trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu xác định được các ngưỡng, các định mức đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân tích thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời của vốn, nhóm tỷ lệ về cơ cấu và nguồn vốn. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tùy theo gó độ phân tích người phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu của mình. * Phương pháp chuyên gia: Là phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở thu thập ý kiến của các nhà chuyên môn, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực mình tìm hiểu. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã tiến hành tham khảo ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ tài chính kế toán của công ty và một số ý kiến liên quan khác. Phần iv : kết quả nghiên cứu 4.1. Phân tích tình hình tài chính hiện tại Thông qua việc phân tích tình hình tài chính của công ty tại thời điểm hiện tại giúp cho ta thấy thực trạng về nguồn vốn, tài sản, nguồn hình thành tài sản, các khoản nợ của công ty. Từ đó đánh giá được những mặt mạnh mà công ty đang có và những mặt hạn chế mà công ty đang mắc phải. Bên cạnh đó cũng giúp cho ta thấy được cơ cấu tài sản, nguồn vốn của công ty có hợp lý không, tổng tài sản của công ty cao hay thấp, công ty đang kinh doanh có lãi hay lỗ. Từ thực trạng tài chính của công ty giúp cho ta có cái nhìn khách quan về khả năng huy động vốn của công ty và đưa ra những kết luận về năng lực tài chính của công ty. 4.1.1. Phân tích tình hình vốn và cơ cấu vốn của công ty: Việc phân tích tình hình vốn và cơ cấu vốn qua các năm giúp cho chúng ta thấy được tình hình tài chính hiện tại cũng như sự ảnh hưởng của nó đến năng lực tài chính của công ty vì nếu số vốn tăng giảm qua các năm thì có nghĩa là khả năng huy động vốn, hoàn vốn của công ty cũng bị ảnh hưởng theo dẫn tới năng lực tài chính của công ty bị biến động. 4.1.1.1. Phân tích tình hình vốn của công ty: Vốn của doanh nghiệp là một bộ phận vô cùng quan trọng, doanh nghiệp muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có vốn. Để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành một cách bình thường, liên tục và có hiệu quả thì doanh nghiệp phải có đủ vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Tiến hành phân tích biến động vốn của doanh nghiệp chính là xem xét sự tăng giảm tài sản của doanh nghiệp qua các năm như thế nào, sự biến động này là do nguyên nhân nào, có hợp lý không, có ảnh hưởng gì đến năng lực tài chính của công ty không. Dựa vào một số chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán của công ty ta có bảng 4: Qua bảng 4 ta thấy: tổng số vốn của năm 2006 tăng 25.01% so với năm 2005 nhưng năm 2007 lại giảm 7.69% so với năm 2006. Điều đó có thể đánh giá rằng qua 3 năm quy mô về vốn của công ty có sự giảm đi. Sự biến động đó là do ảnh hưởng của các yếu tố sau: Giá trị tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn năm 2006 tăng27.67% so với năm 2005, năm 2007 giảm 19.68 % so với năm 2006. Cụ thể: + Vốn bằng tiền năm 2006 tăng 7.799 tỷ đồng, tương ứng tăng 128.63% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 5.886 tỷ đồng, tương ứng tăng 42.46% so với năm 2006. Vốn bằng tiền tăng qua các năm chủ yếu là do thu được tiền từ khách hàng sau khi bàn giao sản phẩm công trình hoàn thiện, thu tiền từ người mua sản phẩm của công ty…Như vậy, việc vốn bằng tiền tăng lên cho thấy khả năng thanh toán tức thời của công ty tăng lên, đây là yếu tố thuận lợi giúp công ty có thể huy động vốn nhanh nếu cần thiết nhưng không nên để vốn bằng tiền nhiều quá so với tổng vốn vì có thể làm giảm khả năng sinh lợi của đồng tiền. + Các khoản phải thu ngắn hạn là chỉ tiêu phản ánh công nợ phải thu hay phần vốn của công ty bị chiếm dụng. Qua bảng ta thấy các khoản phải thu ngắn hạn của công ty năm 2006 tăng 15.557 tỷ, tương ứng với 17.51% nhưng đến năm 2007 đã giảm 34.125 tỷ đồng, tương ứng với 32.69%. Điều này chứng tỏ công ty đã tích cực thu hồi các khoản phải thu, giảm bớt được sự ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, góp phần làm tăng năng lực tài chính của công ty. + Hàng tồn kho cũng thay đổi, đây là một tài sản dự trữ với mục đích đảm bảo cho sản xuất được tiến hành một cách bình thường, liên tục và bao gồm cả thành phẩm, hàng hóa của công ty sản xuất ra hay mua về kinh doanh...Qua bảng ta thấy: hàng tồn kho năm 2006 tăng 28.331 tỷ tương ứng với tăng 28.92% nhưng năm 2007 lại giảm so với năm 2006 là 23.705 tỷ đồng tương ừng giảm 18.77%. Điều này là do năm 2006 công ty nhận được nhiều hợp đồng và dự báo có khả năng NVL sẽ tăng giá nên công ty đã mua sắm khá nhiều để dự trữ. Việc tăng lên này cũng dễ hiểu, đó là do quá trình sản xuất của công ty đã vượt mức kế hoạch, công ty đã có sự chuẩn bị tốt trong khâu dự trữ, nhờ đó mà hoạt động kinh doanh của công ty không bị phụ thuộc mà luôn chủ động. Còn năm 2007 thì công ty đã sử dụng số vật tư dự trữ trong sản xuất nên lượng hàng tồn kho giảm, bên cạnh đó còn do công ty đã tiêu thụ tốt những sản phẩm làm ra nên hàng tồn kho cũng giảm xuống, điều này góp phần chứng tỏ sản phẩm của công ty ngày càng có chất lượng cao và có sức cạnh tranh trên thị truờng. + Còn về tài sản lưu động khác thì qua 3 năm đều có sự tăng lên với tỷ lệ khá cao, đây là một phần vốn chi tạm ứng cho cán bộ công nhân viên đi công tác, chi cho các dịp lễ, tết…Việc này cho thấy việc thu hồi tạm ứng chưa tốt. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn thì tăng đều qua 3 năm. Cụ thể: + Khi phân tích chúng ta không thể không quan tâm tới một lượng lớn TSCĐ của công ty. Đây là một loại chi phí cố định không thay đổi lớn trong một thời gian ngắn, sự thay đổi của tài sản cố định này chỉ do thanh lý, nhượng bán hay mua sắm thêm. Qua bảng ta thấy: Tài sản cố định năm 2006 tăng 19.857 tỷ tương ứng với 29.01% so với năm 2005 và năm 2007 cũng tăng 16.717 tỷ đồng tương ứng với 18.93% so với nam 2006. Điều này cho thấy công ty đã và đang có sự chú trọng đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình._. phải trả công nhân viên phải trả nội bộ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nợ ngắn hạn và tăng giảm không đều, tùy theo từng năm. Các khoản này là khoản vốn công ty chiếm dụng mà không phải trả chi phí, do đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty có thể trả lương theo tháng hoặc mấy tháng trả một lần hoặc theo từng đợt nên công ty đã chiếm dụng khoản vốn này trong thời gian chưa phải thanh toán. + Các khoản phải trả, phải nộp khác chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ ngắn hạn, đây là các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công ty. Năm 2006 tăng hơn khá nhiều so với ăm 2005, ảnh hưởng không tốt tới năng lực tài chính của công ty nên năm 2007 công ty đã có sự điều chỉnh làm cho khoản này giảm xuống một cách hợp lý hơn. Nhìn chung, vốn kinh doanh của công ty chủ yếu hình thành từ nợ phải trả, mà nợ ngắn hạn là chủ yếu. Đặc biệt công ty khôngc ó khoản nợ nào quá hạn chứng tỏ công t y có năng lực tài chính có vốn sẵn để trang trải các khoản nợ, đạt được điều này là do trong năm công ty đã thực hiện tốt chế độ thanh toán với các tổ chức, đơn vị cá nhân khác. Đây thực sự là cố gắng và là thành thích đáng ghi nhận của công ty tong việc thanh toán nợ. Song với cơ cấu vốn mà nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn như hiện nay của công ty sẽ làm cho chi phí sử dụng vốn tăng lên làm cho lợi nhuận giảm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Bên cạnh đó, công tác thu hồi nợ của công ty vẫn còn nhiều khó khăn, yêu cầu thanh toán của công ty ngày càng tăng. Điều này ảnh hưởng tới năng lực tài chính của công ty do đó công ty cần phải có biện pháp hạn chế các khoản bị chiếm dụng bằng cách khuyến khích trả nợ. Công ty phải tìm ra giải pháp tối ưu trong qua trình sản xuất kinh doanh của mình để các khoản phải thu, phải trả ở mức hợp lý sao cho vừa có thể huy động vốn được cho kinh doanh đồng thời đảm bảo được khả năng chi trả các khoản nợ khi đến hạn. Để xem xét kỹ hơn tình hình tài chính của công ty ta phân tích thêm chỉ tiêu nợ phải thu so với nợ phải trả: ta thấy năm 2005 tỷ lệ nợ phải thu so với nợ phải trả là 38.79%n năm 2006 là 34.39% và năm 2007 là 26.17%. tỷ lệ này giảm dần qua 3 năm. Điều này cho thấy công ty đang chiếm dụng vốn của các đơn vị khác nhiều hơn rất nhiều so với lượng vốn mà công ty bị các đơn vị khác chiếm dụng chứng tỏ khả năng huy động vốn của công ty khá tốt tuy nhiên cũng làm cho các khoản phải thanh toán tăng lên. Do đó công ty không nên vay quá nhiều mà nên giảm bớt nguồn nợ vay và tăng nguồn vốn tự có, có như vậy thì khả năng thanh toán của công ty đối với các khoản nợ đến hạn sẽ tốt hơn, công ty có khả năng độc lập về mặt tài chính và sẽ khong phụ thuộc vào các khoản nợ. 4.2.2.2. Phân tích khả năng thanh toán của công ty: Năng lực tài chính của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp vì vậy khả năng thanh toán cũng là một trong những yếu tố quan trọng phản ánh năng lực tài chính của công ty. Công ty có khả năng thanh toán tốt thì sẽ có khả năng huy động được vốn từ các đối tác dẫn đến nâng cao năng lực tài chính của công ty. Để đánh giá và phân tích khả năng thanh toán của công ty ta sử dụng các chỉ tiêu về hệ số khả năng thanh toán được thể hiện ở bảng 12: Bảng 12: Một số chỉ tiêu thể hiện khả năng thanh toán của công ty Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 2006 2007 1. Tổng giá trị tài sản Trđ 288,428,619,504 360,578,481,257 332,860,832,094 2. Tài sản ngắn hạn Trđ 196,496,018,273 250,864,770,298 201,496,706,192 3. Vốn bằng tiền Trđ 6,063,435,047 13,862,652,942 19,748,821,070 5. Hàng tồn kho Trđ 97,978,214,651 126,309,686,546 102,604,271,179 6. Tổng nợ phải trả Trđ 251,818,591,196 323,078,681,101 268,516,114,125 7. Nợ ngắn hạn Trđ 192,779,641,385 243,807,050,206 186,238,637,474 8. LN trớc thuế Trđ 5,117,238,713 7,461,105,056 27,795,927,697 9. Lãi vay phải trả Trđ 9,470,480,361 9,537,988,267 11,495,675,784 10. Hệ số TT tổng quát đ 1.15 1.12 1.24 11. Hệ số TT tạm thời đ 1.02 1.03 1.08 12. Hệ số TT nhanh đ 0.51 0.51 0.53 13. Hệ số TT lãi vay đ 1.54 1.78 3.42 14. Hệ số TT tức thời đ 0.03 0.06 0.11 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Qua bảng ta thấy: Hệ số thanh toán tổng quát hay còn gọi hệ số thanh toán toàn bộ, hệ số thanh toán ngắn hạn cho ta cái nhìn chung về khả năng thanh toán toàn bộ số công nợ công ty đi vay đi chiếm dụng. Nhìn chung, hệ số này qua 3 năm đều lớn hơn 1 và không có sự biến động lớn cho thấy khả năng thanh toán tổng quát của công ty vẫn đủ đảm bảo thanh toán các khoản nợ phát sinh. Hệ số thanh toán tổng quát của công ty năm 2005 là 1.15, năm 2006 là 1.12 và năm 2007 tỷ số này là 1.24. Hệ số thanh toán tổng quát cho ta biết 1 đồng vốn vay được bảo trợ thanh toán bởi bao nhiêu đồng tài sản của công ty, ví dụ: năm 2005 hệ số này là 1.12 tức là cứ 1 đồng vốn vay thì có 1.13 đồng thanh toán khoản vốn vay này hay nói cách khác tổng tài sản của công ty gấp 1.13 lần lượng vốn vay. Hệ số thanh toán tạm thời: Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn phát sinh tăng năm bằng giá trị tài sản ngắn hạn. Qua 3 năm hệ số này đã có sự tăng lên và giá trị đều lớn hơn 1 cho thấy mức độ thanh toán tạm thời các khoản nợ ngắn hạn vẫn ổn định. Cụ thể năm 2005 hệ số này là 1.02 đồng thể hiện sẽ có 1.02 đồng tài sản ngắn hạn đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn, năm 2006 hệ số này là 1.05 và năm 2007 là 1.08 đồng. Nhìn chung, công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong kỳ nhưng hệ số này chưa cao, trong tương lai công ty nên có biện pháp để nâng cao hệ số này. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: là thước đo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn mà không phải dựa vào việc phải bán hàng hóa trong kho. Hệ số thanh toán nhanh của công ty có sự tăng lên qua các năm mặc dù sự tăng lên này không đáng kể : năm 2005 là 0.51, năm 2006 cũng là 0.51 đồng và năm 2007 tăng lên là 0.53 đồng. Các hệ số này thấp hơn 1 chứng tỏ khả năng thanh toán nhanh của công ty chưa cao, nguyên nhân là do lượng hàng tồn kho cũng như các khoản vay ngắn hạn của công ty qua các năm vẫn tăng, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Công ty cần cố gắng giảm bớt các khoản nợ ngắn hạn và tăng lượng vốn bằng tiền sao cho hợp lý để có thể đáp ứng ngay cho việc thanh toán giá trị nợ phát sinh nếu không công ty rất có thể lâm vào khó khăn tài chính. Hệ số thanh toán lãi vay: là khoản lợi nhuận mà công ty dùng để trả lãi vay. Vì lãi vaylà một khoản chi phí cố định của công ty, do vậy lãi vay được trả trong khả năng như thế nào là vấn đề được nhiều đối tượng quan tâm. Hệ số thanh toán lãi vay năm 2005 là 1.54 đồng, năm 2006 là 1.78 đồng và năm 2007 là 3.42 đồng. Hệ số này có sự tăng lên đáng kể mặc dù lãi vay phải trả tăng lên nhưng lợi nhuận truớc thuế cũng tăng nhanh nên hệ số ngày vẫn tăng qua các năm. Hệ số này đều lớn hơn 1 chứng tỏ công ty có khả năng thanh toán lãi vay từ lợi nhuận hay nói cách khác khả năng sinh lời của các khoản nợ có chiều hướng tốt. Hệ số thanh toán tức thời là dùng tiền mặt tại quỹ để trang trải các khoản nợ đến hạn của công ty, hệ số thanh toán tức thời có sự tăng lên qua các năm: năm 2005 hệ số này là 0.03, năm 2006 là 0.06 đồng và năm 2007 là 0.11 đồng. Hệ số này có tăng lên nhưng hệ số này lại quá nhỏ, nhỏ hơn 0.5 nhiều nên ảnh hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ trong năm. Tóm lại, hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán tức thời của công ty là chưa cao, còn các hệ số thanh toán khác đều lớn hơn 1. Như vậy, công ty không sợ mất khả năng thanh toán song công ty vẫn phải có các biện pháp nâng cao khả năng thanh toán hơn nữa đặc biệt là các khoản phải trả để chủ động hơn về tài chính của mình. 4.2.3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty: Vốn trong doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng các loại vốn trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa chi phí. Bởi vậy, phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh để thấy được năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và từ đó phát hiện ra khả năng tiềm tàng hay năng lực tài chính của công ty nhằm nâng cao hơn nữa kết quả sản xuất kinh doanh cũng như sử dụng tiết kiệm đồng vốn. 4.2.3.1. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty: Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong kỳ. Từ việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty ta sẽ có được những căn cứ chính xác phục vụ cho việc ra các quyết định về mặt tài chính, điều chỉnh quy mô, cơ cấu đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hóa lại hệ thống tài sản cố định hiện có qua đó sẽ nâng hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty lên cao hơn nữa. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty cao hay thấp chúng ta đi vào phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty thông qua bảng 14: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định phản ánh 1 đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định đem lại mấy đồng doanh thu thuần. Năm 2005 hiệu suất sử dụng của tài sản cố định là 4.03 đồng tức là một đồng tài sản cố định sẽ tạo ra 4.03 đồng doanh thu thuần, đến năm 2006 hiệu suất sử dụng tài sản cố định lại giảm xuống còn 2.06 đồng hay cứ 1 đồng tài sản cố định sẽ tạo ra 2.06 đồng doanh thu thuần và đến năm 2007 là 1.66 đồng tức là 1 đồng tài sản cố định sẽ tạo ra 1.66 đồng doanh thu thuần. Như vậy, hàng năm sức sản xuất của tài sản cố định của công ty ngày càng giảm xuống hay nói cách khác 1 đồng tài sản cố định ngày càng tạo ra ít đồng doanh thu hơn. Điều này chứng tỏ hiệu qủa sử dụng tài sản cố định của công ty ngày càng kém. Hiệu suất sử dụng vốn cố định: có sự giảm đi qua 3 năm, năm 2005 là 3.37 đồng tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra 3.37 đồng doanh thu thuần, năm 2006 là 3.36 tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra được 3.36 đồng doanh thu và năm 2007 hiệu suất sử dụng vốn cố định là 2.8 tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra được 2.8 đồng doanh thu. Ta thấy sự giảm đi này chứng tỏ công ty sử dụng vốn cố định chưa được hiệu quả, trong thời gian tới cần phải lưu ý khắc phục. Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định: thể hiện 1 đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua bảng ta thấy tỷ suất lợi nhuận vốn cố định của công ty có sự tăng lên qua các năm: năm 2005 là 0.04 đồng tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra 0.04 đồng lợi nhuận, năm 2006 tăng lên là 0.08 tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra 0.08 đồng lợi nhuận và năm 2007 tăng lên 0.29 tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra được 0.29 đồng lợi nhuận. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn cố định của công t y chưa cao nhưng tỷ lệ này qua các năm đã có sự tăng lên nhanh chóng, nguyên nhân là do lợi nhuận sau thuế tăng lên, đây là một biểu hiện khả quan và trong những năm tới công ty nên có biện pháp để giảm chi phí một cách tối đa nhằm đưa lợi nhuận tăng cao hơn nữa. Tóm lại, qua việc phân tích các chỉ tiêu về hiệu quả vốn cố định của công ty đã cho chúng ta thấy công ty đã sử dụng vốn cố định chưa thật sự hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình. 4.2.3.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Vốn lưu động của công ty là toàn bộ giá trị tài sản lưu động mà công t y đang quản lý, sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động của doanh nghiệp vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình sản xuất. Sau mỗi chu kỳ vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị một lần vào giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và hoàn thành một vòng tuần hoàn. Vì vậy, bên cạnh việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định ta cần tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động qua các chỉ tiêu. Việc phân tích sẽ cung cấp những thông tin quan trọng cho các nhà đầu tư, đối tác kinh doanh trong việc ra những chiến lược lâu dài. Ngoài ra còn cho ta biết được công ty sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hay không từ đó đánh giá dược năng lực tài chính của công ty cao hay thấp. Để phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty ta tiến hành phân tích một số chỉ tiêu thể hiện qua bảng 15: Số vòng quay của vốn lưu động: trong năm 2005, vốn lưu động của công ty thực hiện 1.41 vòng quay, năm 2006 là 1.11 vòng quay giảm 0.3 vòng tương ứng với giảm 21.28%. Như vậy vốn lưu động của công ty trong năm 2006 sử dụng kém hiệu quả hơn so với năm 2005. Sang năm 2007, vốn lưu động của công ty thực hiện 1.2 vòng quay, tăng so với năm 2006 là 0.09 vòng tương ứng với tăng 8.11% nhưng vẫn kém hơn so với năm 2005. Từ đó chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động năm nay cao hơn so với năm ngoái và có chiều hướng tăng lên nhưng vẫn chậm. Ngược với xu hướng biến động của vòng quay vốn lưu động là biến động về thời gian của một vòng luân chuyển vì số vòng quay của vốn lưu động tăng làm thời gian một vòng luân chuyển giảm và ngược lại. Qua bảng ta thấy thời gian của một vòng luân chuyển vốn lưu động của công ty là khá cao: năm 2005 là 256 ngày, năm 2006 là 324 ngày, năm 2007 là 300 ngày. Số vòng quay vốn lưu động của công ty thấp và số ngày để một vòng luân chuyển vốn lưu động của công ty cao là do đặc điểm kinh doanh của công ty chuyên xây dựng các công trình dân dụng, thủy điện nên phải mất thời gian rất dài để hoàn thành một công trình, do đó quá trình thu hồi vốn sẽ lâu hơn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Tuy nhiên, vì vốn lưu động qua 3 năm tăng chủ yếu do tăng các khoản phải thu, hàng tồn kho mà giá trị các khoản này thường có mức luân chuyển chậm. Do đó số vòng quay của vốn lưu động cũng bị hạn chế vì vậy công ty cần có biện pháp hợp lý đối với khoản phải thu và hàng tồn kho để số vòng quay của vốn lưu động ngày càng tăng theo đó thời gian luân chuyển ngày càng giảm. Song để xác định chính xác các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ luân chuyển của vốn lưu động ta dùng phương pháp số chênh lệch. Từ công thức: Vòng quay của vốn lưu động= Doanh thu thuần/VLĐ bình quân Thời gian của 1 vòng luân chuyển= Thời gian của kỳ phân tích/Số vòng quay VLĐ trong kỳ Ta có: Thời gian của 1 vòng luân chuyển= Thời gian của kỳ phân tích* VLĐ bình quân/DT thuần + Năm 2006: Anh hưởng của vốn lưu động bình quân tăng đến số ngày tăng của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động là: 360*223,680/262,209 – 360*186537/262209= 51( ngày) ảnh hưởng của doanh thu thuần tăng đến số ngày tăng của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động là: 360*223,680/248,602 – 360*223,680/262,209 =16.8(ngày) Tổng cộng: 51 ngày + 16.8 ngày = 67.8 ngày Như vậy, trong năm 2006 do vốn lưu động tăng lên làm tăng thời gian 1 vòng luân chuyển lên 51 ngày và doanh thu thuần giảm làm tăng thời gian 1 vòng luân chuyển lên 16.8 ngày + Năm 2007: Anh hưởng của vốn lưu động tăng đến số ngày tăng giảm của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động là: 360*226,181/248,602- 360*223,680/248,602= 3(ngày) ảnh hưởng của doanh thu thuần giảm đến số ngày tăng giảm của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động là: 360*223680/271061- 360*223680/248602=-27(ngày) Tổng cộng: 3 ngày – 27 ngày = 24 ngày Như vậy, trong năm 2007 do lượng vốn lưu động tăng lên đã làm tăng thời gian một vòng luân chuyển vốn tăng thêm 3 ngày, doanh thu thuần tăng làm giảm thời gian 1 vòng luân chuyển vốn là 27 ngày. Sức sinh lời của vốn lưu động: năm 2005 là 0.029 tức là một đồng vốn lưu động sinh ra 0.029 đồng lợi nhuận, năm 2006 là 0.03 tức là một đồng vốn lưu động sinh ra 0.03 đồng lợi nhuận và năm 2007 sức sinh lời vốn lưu động là 0.12 hay một đồng vốn lưu động sinh ra 0.12 đồng lợi nhuận. Như vậy, sức sinh lời của công ty là chưa cao nhưng đã có sự tăng lên đáng kể, nhất là vào năm 2007. Cùng với việc phân tích tình hình tài chính qua bảng cân đối kế toán của công ty cũng đã cho ta thấy giá trị và tỷ trọng vốn lưu động chiếm phần lớn trong tổng tài sản của công ty, điều này cho thấy công ty chưa thực sự sử dụng hiệu quả lượng vốn lưu động của công ty mình. Số vòng quay của vốn lưu động thấp đồng nghĩa với số ngày luân chuyển cao vì vậy công ty phải có biện pháp quản lý và sử dụng vốn lưu động của mình hiệu quả hơn nữa để tránh tình trạng thất thoát, lãng phí nguồn vốn nhằm phát huy tối đa hiệu quả của vốn vào quá trình hoạt động sản xuất của công ty. Để đánh giá đầy đủ về năng lực tài chính của công ty dưới góc độ sử dụng vốn, chúng ta cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ sinh lời. Đây là một trong những nội dung phân tích được bản thân doanh nghiệp và các chủ đầu tư rất quan tâm để ra quyết định cho vay hay cho thuê tài sản…vì nó gắn liền với lợi ích của họ trong hiện tại và tương lai. 4.2.3.3. Phân tích khả năng sinh lời vốn của công ty: Việc phân tích khả năng sinh lợi vốn sẽ cho ta biết khả năng huy động vốn của doanh nghiệp có cao hay không từ đó đánh giá năng lực tài chính của công ty dưới góc độ sử dụng vốn. Dựa vào báo cáo tài chính ta có bảng 16: Qua bảng ta thấy các chỉ tiêu đều tăng lên qua 3 năm, đặc biệt là tăng mạnh trong năm 2007. Cụ thể: Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu thuần: cứ 100 đồng doanh thu thuần thì năm 2005 thu được 2.31 đồng lợi nhuận, năm 2006 thu được 2.91 đồng lợi nhuận và năm 2007 thu được 10.22 đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn: cứ 100 đồng vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì năm 2005 thu được 2.18 đồng lợi nhuận, năm 2006 thu được 2.23 đồng lợi nhuận, năm 2007 thu được 7.99 đồng lợi nhuận. Việc tỷ suất tổng vốn tăng lên cho thấy sự cố gắng và phấn đấu của toàn công ty về quản lý chi phí sản xuất, quản lý nhân sự. Tỷ suất sinh lời tổng tài sản: Cho ta thấy 100 đồng tài sản năm 2005 thì tạo ra 1.13 đồng lợi nhuận, năm 2006 thì 100 đồng tài sản tạo ra 1.55 đồng lợi nhuận và năm 2007 là 8.35 đồng lợi nhuận được tạo ra bởi 100 đồng tài sản. Hệ số này ngày càng cao và tăng lên cho ta thấy năng lực của công ty, thấy được khả năng sinh lợi từ chính tài sản hoạt động của công ty. Tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần: năm 2005 là 8.85% tức là 100 đồng vốn chủ sỡ hữu thì tạo ra 8.85 đồng lợi nhuận, năm 2006 là 100 đồng vốn chủ sỡ hữu tạo ra 14.93 đồng lợi nhuận và năm 2007 thì 100 đồng vốn chủ sỡ hữu tạo ra tới 43.2 đồng lợi nhuận. Điều này cho thấy khả năng sinh lời vốn chủ sỡ hữu qua các năm tăng lên rất nhều chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của công ty rất tốt, công ty đã cố gắng nhiều trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để xác định chính xác xem khả năng sinh lợi của vốn tăng lên là do yếu tố nào ta tiến hành phân tích chỉ tiêu sau: + Năm 2006: Anh hưởng của lợi nhuận sau thuế đến tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần là: 5.598/36.810-3.256/36.810=0.1521-0.0885=0.0636 ảnh hưởng của vốn chủ sỡ hữu đến tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần là: 5.559/37.499-5.598/36810=0.1493-0.1521=-0.0028 Vậy năm 2006 do lợi nhuận sau thuế tăng làm cho tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần tăng 0.0636 lần và vốn chủ sỡ hữu tăng làm tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần giảm 0.0028 lần. + Năm 2007: ảnh hưởng của lợi nhuận sau thuế đến tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần là: 27.796/37.499-5.598/37.499=0.7412-0.1493=0.5919 ảnh hưởng của vốn chủ sỡ hữu đến tỷ suất sinh lợi vốn chủ sỡ hữu là: 27.796/64.345-27.796/37.499=0.4320-0.7412=-0.3092 Vậy năm 2007 do lợi nhuận sau thuế tăng làm tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần tăng 0.5919 lần và vốn chủ sỡ hữu tăng làm tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần giảm 0.3092 lần. Nhìn chung, khả năng sinh lời vốn của công ty có xu hướng ngày càng tăng lên, điều này chứng tỏ khả năng và năng lực tài chính của công ty đang có chiều hướng thay đổi thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư. 4.2.3.4. Phân tích chỉ tiêu độc lập tài chính của côngt y: Mục tiêu của phân tích khả năng độc lập tài chính nhằm đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính cua doanh nghiệp cũng như mức độ tự chủ trong kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu, đồng thời xem xét khả năng huy động vốn của công ty như thế nào từ đó có thể khẳng định doanh nghiệp có năng lực tài chính hay không. Thông thường, những doanh nghiệp có khả năng độc lập tài chính là những doanh nghiệp có năng lực tài chính và ngược lại. Để xác định khả năng độc lập tài chính của công ty ta lập bảng 16: Bảng 16: Khả năng độc lạp tài chính của công ty: Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 2006 2007 1. Tổng nợ phải trả đồng 251,618,591,196 323,078,681,101 268,516,114,125 2. Nợ dài hạn đồng 58,838,949,811 79,271,630,895 82,277,476,651 3. Vốn chủ sỡ hữu đồng 36,810,028,308 37,499,800,156 64,344,717,969 4. Tổng nợ/ VCSH 6.84 8.62 4.17 5. VCSH/Nợ dài hạn 0.63 0.47 0.78 Theo lý thuyết những doanh nghiệp có khả năng độc lập tài chính khi: Tổng nợ/ VCSH=1. Như vậy công ty đều không đạt cả 2 chỉ tiêu này chứng tỏ khả năng độc lập tài chính chưa cao, vốn hoạt động chủ yếu là đi chiếm dụng của các đơn vị khác. Do đó, để phát triển lâu dài công ty cần phải có biện pháp giảm các khoản nợ nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và khả năng độc lập tài chính của mình. 4.3. Đánh giá chung về năng lực tài chính của công ty: Mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đều có mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển kinh doanh ngày càng lớn, không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cổ phần Sông Đà 2 cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Muốn tồn tại và phát triển thì mục tiêu số một có tính chất bao trùm nhất đó là lợi nhuận. Nhưng để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi công ty phải có vốn, khả năng huy động vốn hay nói cách khác là năng lực tài chính tốt vì nó xuyên suốt quá trình sản xuát kinh doanh để tạo ra lợi nhuận. Qua quá trình phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2, chúng tôi có một số đánh giá về năng lực tài chính của công ty như sau: Mặt mạnh: + Sau khi cổ phần hóa năng lực quản lý của công ty ngày càng được nâng cao đã giúp công ty kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn. + Tuy các công trình thi công phân tán ở nhiều địa bàn khác nhau song công ty đã có sự bố trí nhân sự hợp lý để luôn đảm bảo tiến độ thi công và các chứng từ sổ sách từ các đội thi công luôn được báo cáo về công ty kịp thời và nhanh chóng. Việc này thực hiện dược là nhờ đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và có trách nhiệm cao của phòng tài chính kế toán của công ty nói riêng và của toàn công ty nói chung. + Với kinh nghiệm lâu năm chuyên thi công các công trình thủy điện nên công ty luôn chiếm được niềm tin của các nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Đây là một thế mạnh lớn của công ty vì thế mấy năm gần đây công ty đã được giao trọng trách thi công nhiều công trình thủy điện lớn trong cả nước như: Công trình thủy điện Sơn La, công trình thủy điện Tuyên Quang, công tình thủy điện Bản Vẽ… + Tuy tổng nguồn vốn biến động không đều qua các năm nhưng vốn chủ sỡ hữu tuy chiếm tỷ lệ thấp nhưng lại tăng đều qua 3 năm chứng tỏ năng lực tài chính của công ty đã tốt hơn. + Về kết quả sản xuất kinh doanh của công ty đã tăng lên đáng kể biểu hiện thông qua doanh thu thuần và lợi nhuận trong kỳ tăng lên. Công ty đã tạo được cho mình mô hình kinh doanh đa dạng, quy mô hoạt động ngày càng mở rộng và có uy tín đối với bạn hàng. Đây là một thuận lợi giúp công ty có khả năng huy động vốn dễ dàng hơn từ đó dẫn tới năng lực tài chính khả quan hơn. + Về khả năng thanh toán của công ty qua các năm khá tốt cho thấy năng lực tài chính khá tốt. + Về khả năng sinh lời của công ty cho thấy mức sinh lợi trên một đồng vốn của công ty khá cao à có xu hướng tăng lên, năng lực tài chính có chiều hướng thay đổi tốt. Mặt hạn chế: + Về khả năng độc lập tài chính của công ty vẫn có nhưng chưa cao, điều này là do nguồn vốn chủ sỡ hữu của công ty vẫn còn thấp. Hơn nữa, để tiếp tục phát triển sản xuất, việc đi vay chưa thể dừng lại dẫn đến tổng nợ tăng nhanh hơn vốn chủ sở hữu, cần phải thực hiện các dự án đầu tư theo chiều sâu làm cho công ty có khả năng vay dài hạn. + Công tác thu hồi vốn, công tác hoàn chỉnh hồ sơ sau thi công chậm làm cho tiến độ thu hồi vốn và công nợ không hiệu quả và gây tồn đọng do đó công ty bị chiếm dụng vốn nhiều. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định của công ty chưa tốt, vòng quay của vốn chậm khiến cho lợi nhuận của công ty thu về chưa cao và gây lãng phí vốn. + Các dự án xây hạ tầng phân lô, căn hộ của công ty đã hoàn thành nhưng do công tác kinh doanh chưa hiệu quả nên chưa bán được khiến lượng hàng tồn kho của công ty tăng cao dẫn đến ứ đọng vốn trong kinh doanh. + Việc triển khai công tác hạch toán kinh doanh hiện nay của công ty là một nhiệm vụ quan trọng và có tác dụng lớn trong quản lý chi phí sản xuất nhưng việc thực hiện còn chậm nên việc khoán thi công theo dự toán chi phí ở một số hạng mục công trình chưa được triển khai. + Việc xây dựng các định mức, đơn giá nội bộ để làm cơ sở xây dựng giá thành chưa đồng bộ do giám đốc công ty, giám đốc xí nghiệp và các phòng ban chức năng chưa thực hiện triệt để. + Công tác nghiệm thu thanh toán ở một số xí nghiệp chưa được quan tâm,thể hiện là chưa chủ động hoàn thiện hồ sơ nghiệm thu, khắc phục sữa chữa các tồn tại để nghiệm thu thanh toán. + Bên cạnh đó, công tác tiếp thị đấu thầu nhằm tìm kiếm công trình chưa bảo đảm được kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra. Một số công trình có sản lượng lớn chủ đầu tư thay đổi thiết kế và dự toán nhưng phê duyệt chậm nên tiến đọ thi công công trình chậm, gặp nhiều khó khăn.Do đó ảnh hưởng đến quá trình quyết toán công trình làm ảnh hưởng đến doanh thu chung của công ty từ đó ảnh hưởng đến năng lực tài chính. 4.4. Một số đề xuất về biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty: Qua việc đánh giá năng lực tài chính của công ty ở trên, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau: Thứ nhất: Công ty cần tăng cường khả năng huy động từ các nguồn vốn một cách hợp lý. Có thể huy động từ các nguồn như: + Huy động vốn nội bộ vì qua bảng … chúng tôi thấy nguồn vốn từ nội bộ còn rất hạn chế, công ty cần tận dụng tối đa nguồn này. Khi huy động đựoc nguồn vốn này cũng sẽ kích thích được sự sáng tạo, năng động và có trách nhiệm hơn của mỗi cán bộ công nhân viên của công ty. + Huy động vốn từ công ty liên doanh, liên kết. Thứ hai: Tổ chức tốt công tác quản lý và sử đụng nguồn vốn: + Cần phải có những biện pháp hữu hiệu để tiết kiệm vốn trong sản xuất. + Thanh toán kịp thời, đúng hạn, có như vậy mới tạo được uy tín đối với bạn hàng. + Giảm tối thiểu mọi chi phí để hạ giá thành sản phẩm như quản lý chặt chẽ và hiệu quả hơn các khoản chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí sữa chữa lớn, chi phí bất thường…hạn chế những thất thoát xảy ra trong quá trình kinh doanh. + Công tác hạch toán cần phải được chú trọng và đầu tư thỏa đáng vì nó là điều kiện cần thiết đối với vấn đề tăng doanh thu, lợi nhuận của công ty. Thứ ba: Công tác tổ chức cán bộ, lựa chọn đúng người, đúng việc để có thể hoàn thành tốt các công việc được giao. Việc sử dụng vốn năng động, có hiệu quả cũng phải kể đến sự năng động sáng tạo của người quản lý. Thứ tư: Nhanh chóng triển khai thực hiện các dự án đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất và nâng cao giá trị tài sản cố dịnh trên tổng tài sản để cơ cấu tài sản hợp lý hơn, hạn chế được việc thuê thiết bị bên ngoài. Thứ năm: Công ty cần tích cực hơn nữa trong công tác thu hồi nợ phải thu. Để là được điều đó công ty cần có kế hoạch thu hồi nợ một cách cụ thể, chi tiết cho từng khoản nợ và cho những năm tiếp theo để tránh tình trạng ứ đọng vốn gây ảnh hưởng xấu đến năng lực tài chính. Hàng năm công ty nên trích lập các khoản dự phòng, đặc biệt là dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi và dự phòng hàng tồn kho. Tuy các khoản phải thu của công ty đã giảm đi trong năm qua chứng tỏ công ty đã tích cực trong việc thu hồi nợ nhưng công ty vẫn nên lập các khoản dự phòng này vì nó làm tăng tính thận trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho công ty tránh được những rủi ro đáng tiếc. Thứ sáu: Vốn chủ sỡ hữu của công ty chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn và nợ phải trả chiếm tỷ lệ cao nên công ty cần cố gắng nâng cao nguồn vốn chủ sỡ hữu để cơ cấu này hợp lý từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và giúp công ty chủ động hơn về mặt tài chính. Công ty cần tăng cường hơn nữa trong việc sử dụng các loại vốn. Thứ bảy: Tăng doanh thu là cơ sở để tăng lợi nhuận. Để có được lợi nhuận cao nhất trước hết công ty cần phải có những kế hoạch thiết thực cho việc tăng doanh thu. Thứ tám: Bên cạnh việc thi công các công trình thủy điện, công ty cần tăng cường đẩy mạnh thêm các lĩnh vực xây dựng khác, làm đa dạng hóa kinh doanh của mình để thu được lợi nhuận nhiều hơn cũng như tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho cán bộ trong công ty. Thứ chín: Thường xuyên phân tích năng lực tài chính của công ty để từ đó có những biện pháp kịp thời đối với những phát sinh trong quá trình hoạt động của công ty. Phần v: kết luận và kiến nghị Phân tích năng lực tài chính có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty có phân tích năng lực tài chính thì mới đánh giá đúng tình hình tài chính và khả năng huy động vốn của mình từ đó đưa ra các phương hướng giải pháp phù hợp. Qua phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2 cho thấy: năng lực tài chính của công ty là chưa cao nhưng rất khả quan và có xu hướng tăng lên. Qua quá trình tìm hiểu và phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2, chúng tôi có kiến nghị sau: Thứ nhất: về sự phân bố tài sản cần có sự cân đối hơn, công ty cần nâng cao hơn nữa việc nghiên cứu thị trường, cần có các chiến lược để tiêu thụ sản phẩm nhanh và nhiều, hạn chế lượng sản phẩm tồn kho. Thứ hai: Công ty cần thích cực hơn nữa trong công tác thu hồi nợ phải thu, đặc biệt là các khoản phải thu từ khách hàng để giúp công ty chủ động trong quan hệ thanh toán với chủ nợ. Thứ ba: Công ty cần huy động vốn vay, đặc biệt là vay dài hạn vì trong thời gian dài nó đóng vai trò như nguồn vốn chủ sỡ hữu của công ty, các khoản vay dài hạn này sẽ giúp công ty chủ động hơn trong việc thanh toán các khoản nợ. Thứ tư: Công ty cần tăng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn chủ sỡ hữu nói riêng để năng lực tài chính của công ty được nâng cao. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32976.doc
Tài liệu liên quan