Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung & cái riêng để vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Mục lục A Lời nói đầu Trang 2 B Nội dung I . Phép biện chứng về cái chung và cái riêng Trang 3 1. Phạm trù cái chung và cái riêng Trang 3 2. Mối quan hệ cái chung và cái riêng Trang 3 3. ý nghĩa phương pháp luận Trang 4 II. Vận dụng vào kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa 1. Kinh tế thị trường và đặc điểm chung của kinh tế thị trường Trang 5 2. Kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa Trang 8 C/ Kết luận Trang 10 Tài liệu tham khảo Trang 11 A./ Lời nói đầu Mở đầu

doc11 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2740 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung & cái riêng để vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của bài viết xin được bắt đầu bởi câu nói của Lê-Nin “trước con người ,có màng lưới những hiện tượng tự nhiên .Con người bản năng người man rợ ,không tự tách khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế giới ,Chúng là những điểm nút của màng lưới ,giúp ta nhận thức và nắm vững màng lưới”.Các cặp phạm trù là những bậc thang của quá trình nhận thức ,là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan .Trong số các cặp phạm trù triết học,cặp phạm trù cái riêng- cái chung và cái đơn nhất là cặp phạm trù cơ bản đặc trưng trong hệ thống các phạm trù của phép biện chứng, sự nhận thức thường bắt đầu từ đó.Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng là một trong những vấn đề quan trọng nhất của triết học nói riêng và sự nhận thức bậc thang của nhân loại nói chung . Một trong những nguyên lí cơ bản có ý nghĩa phương pháp luận phổ biến của việc nghiên cứu sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là quan điểm biện chứng duy vật về mối tương quan giữa cái chung và cái riêng .Sự phát triển và xây dựng kinh tế thị trường là qui luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản xuất .Nhưng điều kiện kinh tế ,chính trị và xã hội khác nhau nên mỗi nước có mô hình kinh tế thị trường khác nhau. Đảng ta đã chỉ rõ “vận dụng các hình thức và phương pháp quản lí nền kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Bài tiểu luận trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng để vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Phần đầu bài tiểu luận sẽ đề cập đến khái niệm cặp phạm trù cái chung- cái riêng, mối quan hệ cái chung- cái riêng trên quan niệm của các trường phái triết học .Phần tiếp sẽ phân tích đến những đặc điểm của nền kinh tế thị trường sau đó nêu lên những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .Phần cuối là những nhận xét về sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường hiện nay . Do năng lực chủ quan và tài liệu tham khảo hạn chế nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi những khiếm khuyết .Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn.Em xin chân thành cám ơn . B./ Nội dung : I . Phép biện chứng về cái riêng và cái chung : 1.Phạm trù cái riêng và cái chung : Cái riêng là một phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định . Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật hay quá trình riêng lẻ. Thí dụ : Cuộc cách mạng là cái chung,đó là sự thay đổi từ cái này sang cái khác tiến bộ hơn .Nhưng trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại (cách mạng tư sản ,cách mạng dân tộc dân chủ …) đó là những cái riêng. Trong quá trình tìm hiểu mỗi quan hệ cái chung và cái riêng cần phân biệt cái riêng và cái đơn nhất .Cái đơn nhất là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính ….chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lập lại ở tất cả một kết cấu nào khác .Ví dụ : Mỗi người trong chúng ta có những đặc điểm chung nhất định đó là những đặc điểm riêng của con người nhưng mỗi người lại có những đặc điểm riêng biệt không giống ai đó là những cái đơn nhất . 2. Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. a, Quan hệ của phái duy thực : Cái chung tồn tại độc lập không phụ thuộc cái riêng, còn cái riêng không tồn tại là do cái chung sản sinh ra và chỉ tạm thời .Cái chung tồn tại vĩnh viễn,còn cái riêng sinh ra và tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất đi .Đại biểu của phái duy thực là Platôn . Ông quan niệm rằng cái chung là những ý niệm tồn tại độc lập bên cái riêng . b, Quan niệm của phái duy danh : Ngược hẳn với quan niệm của phái duy thực đã nêu ở trên . Những nhà triết học của phái duy danh cho rằng cái riêng tồn tại thực sự còn cái chung chỉ là tên gọi do lí trí đặt ra , chứ không phản ánh một cái gì trong hiện thực . Trong hiện thực không hề có cái chung, các khái niệm cái chung chỉ làm cho con người lẫn vì con ngừơi tưởng rằng sau các khái niệm ấy là những sự vật hiện tượng thực tế nào đó có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta . Trên hai quan điểm của phái duy danh và duy thực, chúng ta sẽ không thể tìm ra những phương pháp khoa học giải quyết những vấn đề của thực tiễn . Cách giải quyết vấn đề này chỉ có trong chủ nghĩa duy vật biện chứng . c, Quan điểm duy vật biện chứng : Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thể hiện thông qua cái riêng bất cứ cái riêng nào cũng đều mang trong mình nó một cái chung nào đó, tồn tại trong mối liên hệ chung với các hiện tượng và quá trình riêng khác .Cái chung có thể là bản chất của hiện tượng hoặc là một mặt, một bộ phận của hiện tượng . Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung . Nghĩa là cái riêng tồn tại nhưng không có nghĩa là cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác mà cái riêng bao giờ cũng tồn tại trong một môi trường, một hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều phải tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quanh mình .Các mối liên hệ này trải rộng dần,gặp gỡ các mối liên hệ qua lại khác dẫn đến cái chung nào đó .Và bất kì cái riêng nào cũng tồn tại vĩnh viễn . Cái riêng xuất hiện tồn tại trong thời gian nhất định biến thành cái riêng khác, tất cả sự biến hóa này có mối liên hệ với nhau .Các sự vật hiện tượng trong tự nhiên dường như khác hẳn nhau nhưng chúng đều do những nguyên tử ,điện tử tạo nên. Lê-Nin đã khẳng định “cái riêng không tồn tại như thế nào khác ngoài mối liên hệ dẫn tới cái chung ,thông qua hàng nghìn sự chuyển hoá, nó còn liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác”. Cái chung là một bộ phận của cái riêng, cái riêng không gia nhập hết vào cái chung . Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính , những mối liên hệ cơ bản , ổn định , phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại . Vì vậy nó gắn liền với cái bản chất quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật , hiện tượng . Tuy vậy cái riêng phong phú hơn cái chung ngoài đặc điểm cái chung ,cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có – cái đơn nhất .Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau. Nghĩa là cái đơn nhất với tư cách là cái mới trong quá trình phát triển sẽ dần dần mạnh lên trở thành cái phổ biến,cái chung và cái cũ ngày càng mất đi từ chỗ là cái chung nó biến thành cái đơn nhất .Chẳng hạn do quá trình lao động và tiến hóa con người dần dần có những đặc điểm khác biệt động vật và đó đã trở thành đặc điểm chung cho xã hội loài người sau này . Mối tương quan cái chung và cái đơn nhất chịu sự ảnh hưởng của những điều kiện lich sử cụ thể trong đó nó được thể hiện .Ví dụ : Trong bứơc quá độ từ chủ nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa xã hội điều đó quy định bởi sự khác nhau căn bản giữa hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa .Từ sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đó là sự quá độ sang một xã hội kiểu mới về nguyên tắc, nó luôn bao hàm một tính đa dạng về đường đi,phương thức, hình thức còn sự quá độ từ chủ nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa tư bản diễn ra quá trình thay thế những hình thái kinh tế xã hội cùng một kiểu như nhau . Sự tác động lẫn nhau của cái chung và cái riêng có những giai đoạn hoặc thời kì khác nhau. Trong những giai đoạn nhất định cái riêng có thể được đưa lên hàng đầu không những với ý nghĩa nhận thức mà còn với ý nghĩa thực tiễn .Dĩ nhiên vai trò quyết định của cái chung đối với cái riêng vẫn không hạ thấp . Ví dụ : Trên những qui luật chung về xây dựng chủ nghĩa xã hội ,nước ta trong thời điểm hiện nay đang chú trọng vào việc phát triển kinh tế .Phát triển kinh tế nhưng dựa trên cơ sở những qui luật chung đó hướng vào mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội 3. ý nghĩa phương pháp luận : Cái chung và cái riêng thống nhất với nhau và khác biệt nhau ở cái đơn nhất .Do vậy để nhận thức một cách sâu sắc và thấu đáo một đối tượng nào đó không thể dừng lại ở những thuộc tính chung mà cần phải nắm vững cả những nét đặc trưng riêng của từng sự vật, hiện tượng như thế hoạt động nhận thức mới đạt hiệu quả cao. Giữa cái chung và cái đơn nhất có sự chuyển hóa lẫn nhau, từ đó sự vật mới dần dần được ra đời. Nếu yếu tố mới phù hợp điều kiện khách quan thì chúng sẽ mở rộng dần phạm vi tồn tại nghĩa là cái đơn nhất trở thành cái phổ biến .Chính vì vậy trong quá trình phát triển chúng ta không chỉ nhận biết cái mới mà còn phải duy trì, bảo vệ, tạo điều kiện đáp ứng cho khả năng tồn tại và phát triển của nó . Cái riêng gắn bó với cái chung, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới cái chung. cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một cách đúng đắn thì không thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung .Nếu không giải quyết những vấn đề lí luận chung thì sẽ không tránh khỏi tình trạng mò mẫn, tuỳ tiện, vô nguyên tắc . Nhưng để phát hiện ra cái chung cần xuất phát từ cái riêng ,từ những sự vật hiện tượng riêng lẻ chứ không xuất phát từ muốn chủ quan của con người . II./ Vận dụng vào kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : 1, Kinh tế thị trường và đặc trưng chung của kinh tế thị trường : Trong quá trình phát triển xã hội, nền kinh tế thị trường giữ vai trò đặc biệt quan trọng . Kinh tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh nhân loại nó tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất làm thay đổi cung cầu theo huớng có lợi cho sản xuất,cải thiện đời sống .Kinh tế thị trường là cơ hội để cộng đồng mở cửa tiếp xúc với bên ngoài ,nó tạo ra những mối quan hệ hợp tác các bên cùng có lợi tạo đIều kiện nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm cho toàn xã hội. Cốt lõi của kinh tế thị trường là sản xuất, trao đổi mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi . Quá trình sản xuất và trao đổi xảy ra khi các chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị trường ý thức rõ về sở hữu vật đem trao đổi cũng như lợi ích từ sự trao đổi đó Các chủ thể tham gia phải cạnh tranh với nhau, cạnh tranh là môi trường tồn tại của cơ chế kinh tế thị trường. Nó có tác động tăng năng suất lao động nâng cao chất lượng sản phẩm ,khuyến khích tính năng động sáng tạo từ đó tạo ra hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao . Quan hệ kinh tế thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt của các chủ thể tham gia cơ chế vận hành kinh tế thị trườngkhông thể không nói đến vai trò của pháp luật .Pháp luật là môi trường pháp lí cá tác dụng hướng dẫn ,hỗ trợ và xử lí tranh chấp trong hoạt động sản xuất kinh doanh .Bất kì một vấn đề nảy sinh trong hoạt động và sản xuất đều được quốc hội và chính phủ nghiên cứu giải quyết .Hệ thống luật pháp các nước thường xuyên thay đổi dưới sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng trong và ngoài nước .Các hoạt động kinh tế có sự điều chỉnh của nhà nước nhằm tạo ra môi trường thuận lợi sản xuất kinh doanh ,ổn định xã hội .Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì sự can thiệp của nhà nước thông qua hệ thống luật pháp ngày càng được hình thành hoàn thiện và phát triển . Chẳng hạn trong quá trình hình thành và phát triển quốc hội Mỹ đã luôn luôn đề ra những luật định phù hợp từng điều kiện của mỗi giai đoạn thời kì .Năm 1890 quốc hội thông qua đạo luật chống Trust Sherman nhằm phục hồi cạnh tranh và doanh nghiệp tự do bằng cách chia nhỏ các tổ hợp kinh doanh lớn .Năm 1906,chính phủ đề ra đạo luật về dán nhãn để kiểm tra thực phẩm và dược phẩm trước khi bán .Năm 1913, chính phủ đã thành lập hệ thống ngân hàng liên bang mới để điều chỉnh cung tiền và đưa ra các đạo luật ,quy chế kiểm soát các hoạt động của ngân hàng . Những đạo luật này góp phần làm thay đổi nền kinh tế nước Mỹ .Người tiêu dùng được đảm bảo lợi ích bởi các quy chế điều tiết của chính phủ , mọi nhà sản xuất đều phải tuân theo . Kinh tế thị trường vận động trên cơ sở tồn tại đa dạng các quan hệ sản xuất từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế khác nhau .Sự vận động, biến đổi của cấu trúc sở hữu tư liệu sản xuất là nền tảng kinh tế, ngày càng theo xu hướng liên kết các loại hình sở hữu khác nhau trong một cơ cấu vận động này dựa trên các cơ sở khách quan. Quan hệ sản xuất phải được xem xét và xây dựng trong mối tương quan với trình độ phát triển của lực lượng và trình độ xã hội hóa nền kinh tế . Trình độ lực lượng sản xuất phát triển ở mức độ xã hội hóa ngày càng cao. Với những thành tựu cách mạng khoa học kĩ thuật hệ thống tư liệu lao động và đối tượng lao động được hiện đại hóa . Lao động thủ công với năng suất lao động thấp được thay thế bởi lao động máy móc và công nghệ hiện đại, lao động trí tuệ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong lực lượng lao động xã hội Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở , trong xu hướng hiện nay-xu hướng tự do hóa thương mại, mở cửa hội nhập, chính sách đa phương hóa , đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại .Đặc tính mở này bắt buộc các quốc gia phải tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ với nhau của thị trường trong nước đó là chỉnh thể thị trường thống nhất đồng thời phải nhìn rộng ra mối quan hệ với thị trường thế giới .Các nước luôn tạo mọi điều kiện mở rộng thị trường ,thu hút sự đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật của các quốc gia khác .Các hoạt động sản xuất kinh doanh chịu tác động sâu sắc của tiến trình quốc tế hoá nền kinh tế .Và như vậy chính phủ của các nước sẽ có những chính sách quản lí đIều hành nền kinh tế của nước mình thích ứng với đIều kiện thực tế phù hợp sự phát triển chung của toàn thế giới, tăng năng lực cạnh tranh hàng hóa dịch vụ nước mình trên thị trường .Tác động toàn cầu hóa, xu hướng thị trường hoá nền kinh tế đòi hỏi các thị trường quốc gia hội nhập tích cực vào hệ thống thị trường toàn cầu . Quá trình hợp tác kinh tế trên nền tảng kết cấu sở hữu hàng hóa xuất hiện hình thức ,phương thức tích chất sản xuất kinh doanh theo chế độ hợp tác và công ty cổ phần xuyên quốc gia ngày càng phát triển và chứng tỏ sức mạnh kinh tế của mình .Đó là cơ sở trực tiếp hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế trong khu vực và toàn thế giới . Kinh tế thị trường vận động và phát triển dựa trên các quy luật kinh tế : quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu và nó có các phạm trù kinh tế vốn có như hàng hóa, tiền tệ, thị trường, lợi nhuận . Thị trường là môi trường để hoạt động kinh doanh, giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm .Sự biến động giá cả thị trường thông qua tác động của quan hệ cung cầu, nó sẽ kích thích đIều tiết hoạt động kinh tế các chủ thể tham gia thị trường .Mối quan hệ tác động giữa cung cầu và giá cả thị trường hình thành cơ chế thị trường-đó là cơ chế đương nhiên vốn có và là lực lượng chi phối ý chí và hoạt động của cả người sản xuất,nguời tiêu dùng ,người mua người bán thông qua giá cả thị trường . Kinh tế thị trường ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội mỗi quốc gia đặc biệt phải nói đến đặc điểm văn hóa đạo đức .Nguyên tắc của kinh tế thị trường là cạnh tranh mà sự cạnh tranh lúc nào cũng có những tính toán được thua, lỗ lãi. Mọi hoạt động của con người trong kinh tế thị trường đều hướng tới lợi ích cá nhân ,mọi chủ thể đều muốn tìm mọi cách kiếm lợi nhuận tối đa. Đồng tiền chi phối quan hệ người với người .Sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội tăng lên, tinh thần bị băng hoại xuống cấp ,con ngừơi dần mất đi ý niệm về đạo đức sẵn sàng chấp nhận tất cả để kiếm lợi nhuận . II./ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Trong thời kì đi lên chủ nghĩa xã hội kinh tế thị trường là xu thế phát triển khách quan và tất yếu đối với cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Đảng ta đã chỉ rõ “vận dụng các hình thức và phương pháp giải quyết kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ việc xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Việt Nam từ giữa những năm 80 của thế kỉ 20 đã tiến hành công cuộc đổi mới và nền kinh tế của đất nước được xây dựng theo mô hình “kinh tế thị trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa” Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên những nguyên tắc,bản chất của chủ nghĩa xã hội . Nó vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường vừa mang đặc thù-định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng đặc thù định hướng chủ nghĩa xã hội làm chủ đạo.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ,nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lí và phân phối . Mô hình kinh tế thị trường ở nước ta xây dựng với những đặc trưng về quan hệ sản xuất .Xu hướng sở hữu hàng hóa là xu hướng vận động chủ đạo hình thức tổ chức kinh tế phổ biến là chế độ hợp tác và công ty cổ phần phương thức phân phối theo hiệu suất và hiệu quả cho quá trình sản xuất là phương thức cơ bản.Khác hẳn với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu nhưng các tư liệu sản xuất thuộc các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển toàn bộ nền kinh tế . Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu ( sở hữu toàn dân và nhà nước,sở hữu tập thể,sở hữu tư nhân ….) nhưng chế độ sở hữu công cộng đóng vai trò nền tảng . Từ những hình thức sở hữu hình thành nhiều thành phần kinh tế, Đảng chủ trương phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen nhau ,hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu ,giữa các thành phần kinh tế với nhau . Kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác được củng cố và phát triển trở thành nền tảng thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo.“Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế ,tâp trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng .Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế,đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ”.( Trích :Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX ) Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước .Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thị trường không tự điều tiết hoàn toàn mà chịu sự điều chỉnh quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa .Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường. Nhà nước tạo môi trường pháp lí thuận lợi cho các doanh nghiệp cạnh tranh để phát triển bằng các chiến lựơc, quy hoạch, kế hoạch và chính sách .Ngoài ra nhà nước còn thường xuyên kiểm tra, thanh tra ,giám sát mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. Quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không những làm tăng trưởng kinh tế mà gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay từng bước phát triển đồng thời giữ gìn nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc .Nhà nước thực hiện nguyên tắc phân phối thu nhập, kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc kinh tế thị trường :phân phối theo lao động ,theo vốn theo tài năng ….nhưng theo lao động là chính .Nhà nước cò có những chính sách ưu đãi xã hội đảm bảo cuộc sống cho mọi thành viên cộng đồng .Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế nhà nước còn có những chính sách vừa phát triển văn hoá truyền thống vừa tiếp thu tinh hoa của nước ngoài góp phần làm phong phú thêm văn hoá nước nhà .Văn hóa là nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách,nước ta có nền văn hóa lâu đời gắn liền với những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Tuy rằng phát triển kinh tế thị trường nhưng các vấn đề thuộc về giáo lí, đạo đức, và lối sống của người Việt Nam luôn được gìn giữ,coi trọng.Trong điều kiện phát triể thị trường ngoài yếu tố tài năng và trí tuệ chúng ta luôn phải trau dồi đạo đức như vậy thì sẽ hoàn thành được mục tiêu xây dựng một nhà nước của dân do dân vì dân . Quan điểm xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường thể hiện ở tính gương mẫu của cán bộ ,đảng viên và nhất là sự nghiêm minh của chế độ hiện hành . Khác hẳn với chủ nghĩa tư bản bản chất cố hữu của xã hội đó là sự cạnh tranh phi đạo đức. Các nhà tư bản bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê tước hết các quyền tự do dân chủ của họ ,họ sẵn sàng làm tất cả để thu được lợi nhuận tối đa. C./ Kết luận : Những vấn đề của cuộc sống đặt ra bao giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ thể nhưng để giải quyết những vấn đề đó không thể tránh khỏi những vấn đề chung .Bất cứ hiện tượng, quá trình nào cũng là sự thống nhất và tác động lẫn nhau giữa cái chung và cái riêng .Trong thực tiễn cuộc sống chúng ta phải biết vận dụng khéo léo mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội .Dựa trên những nguyên khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh , chúng ta phải bổ sung hoàn thiện về lí luận phù hợp với điều kiện khách quan của từng giai đoại từng thời kì Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế chung phổ biến ,nó có những mặt tích cực nhất định nhưng bên cạnh đó có những mặt tiêu cực, hạn chế ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Vì trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải biết vận dụng khéo léo những đặc điểm chung của kinh tế thị trường và đặc điểm đặc thù của chủ nghĩa xã hội để phát triển đất nước tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội. Chúng ta coi việc phát triển kinh tế không phải là mục đích mà là một phương tiện cần thiết cho mục tiêu lí tưởng xã hội chủ nghĩa .Phát triển kinh tế phải gắn liền với chr nghĩa xã hội ,nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc ,thực hiện “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh ”. Hơn 10 năm xây dựng kinh tế nhà nước theo cơ chế thị trường nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể (mức độ tăng trưởng cao,cơ cấu kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực ,vấn đề mâu thuẫn xã hội dần được giải quyết …). Tuy vậy nền kinh tế Việt Nam còn tồn đọng nhiều vấn đề cần phải được giải quyết (nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu ,quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp ,kinh tế vĩ mô còn có nhiều yếu tố thiếu vững chắc ….). Trên những điều kiện thực tế của nước mình và dựa trên những kinh nghiệm của các nước phát triển ,trên những đặc điểm phù hợp kinh tế thị trường mà nước ta cần đưa ra những giải pháp cụ thể ,hợp lí để phát triển nhanh nền kinh tế nước nhà ./ Tài liệu tham khảo Phép biện chứng của sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa VE.KÔZLÔPXKI – NXB khoa học xã hội Giáo trình triết học – NXB chính trị quốc gia Hà Nội Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Tạp chí triết học số 2( 129 ) – tháng 2/ 2002 Tạp chí khoa học xã hội số 2( 48 ) –2001 Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 2(70) và số 4(72) –2001 Tạp chí kinh tế và phát triển số 61 và 54 – 2001 Tạp chí lí luận chính trị số 5 –2001 Tạp chí nghiên cứu trao đổi –số 5 (3/2000) Tạp chí triết học số 9(127) - tháng 12/2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0285.doc
Tài liệu liên quan