LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay thị trường chứng khoán không còn là một đề tài mới mẻ ở Việt Nam. Sau sự ra đời của Sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, thì đề tài chứng khoán đã thực sự bùng nổ, các công ty chứng khoán, tổ chức bảo lãnh phát hành,…với hàng loạt các dịch vụ liên quan đến chứng khoán xuất hiện. Chỉ trong một thời gian ngắn thị trường chứng khoán đã thực sự phát triển và hầu như ở đâu người ta cũng nói đến chứng khoán.
T
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích kĩ thuật và ứng dụng một số chỉ báo để tính toán đối với một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uy nhiên, đầu tư chứng khoán không phải là một lĩnh vực dễ dàng và nó chứa đựng nhiều rủi ro. Để thành công các nhà đầu tư cần có những kiến thức nhất định về chứng khoán và dự báo được những diễn biến giá trong tương lai. Hiện nay có hai trường phái chính trong phân tích chứng khoán là phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật. Phân tích cơ bản dựa trên việc phân tích hoạt động của tổ chức phát hành chứng khoán trong khi phân tích kĩ thuật dựa trên chuỗi giá cổ phiếu trong quá khứ với một hệ thống các đồ thị và công cụ hỗ trợ. Thông thường người ta áp dụng cả hai phương pháp này để cho kết quả tốt nhất.
Hiện nay các phương pháp phan tích kĩ thuật trên thế giới đã rất phát triển và cho những kết quả phân tích khá chính xác. Hiện nay phương pháp này cũng đã được áp dụng một cách phổ biến ở các công ty chứng khoán ở Việt Nam. Vì vậy, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài:
”Phân tích kĩ thuật và ứng dụng một số chỉ báo để tính tóan đối với một số cổ phiếu trên thị trường chứng khóan Việt Nam.”
Em xin chân thành cảm ơn TS. Hoàng Đình Tuấn cùng các anh chị trong công ty cổ phần công nghệ thông tin tài chính Thiên Lang (SIRIFIN) đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này.
NỘI DUNG
Chương I: Một số vấn đề lý thuyết trong phân tích kĩ thuật
Giới thiệu tổng quan về thị trường chứng khoán và phân tích kĩ thuật
Thị trường chứng khoán đang trở thành một điểm nóng thu hút sự quan tâm rất lớn của mọi đối tượng trong xã hội. Cùng với sự quan tâm đó, giới tham gia thị trường chứng khoán cũng bắt đầu quan tâm đến những kĩ thuật ứng dụng trong phân tích và đánh giá để đưa ra quyết định đầu tư phù hợp. Hai hệ thống kĩ thuật phân tích được nói đến nhiều nhất là phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật. Trong khi đa số chúng ta đều ít nhiều có những kiến thức nhất định về phân tích cơ bản thì số lượng người hiểu và nắm về phân tích kĩ thuật còn hạn chế, hơn thế nữa khả năng ứng dụng và tính chính xác của nó còn là một vấn đề đang bàn cãi hàng trăm năm nay.
Lịch sử hình thành
Lịch sử của Phân tích kỹ thuật bắt nguồn từ cách đây hơn 100 năm, từ một người tên là Charles H. Dow. Ông là người đã sáng lập lên tạp chí phố Wall (The Wall Street Journal). Sau nhiều năm nghiên cứu, năm 1884 ông đưa ra chỉ số bình quân của giá đóng cửa của 11 cổ phiếu quan trọng nhất thị trường Mĩ thời gian đó. William Peter Hamilton là người thực sự mang lại sức sống cho những nghiên cứu của Dow bằng việc tiếp tục nghiên cứu và xuất bản cuốn sách “The Stock Market Barometer” (Phong vũ biểu thị trường chứng khoán) vào năm 1922. Suốt những năm 1920 và 1930, Richard W. Schabacker là người đã đã đi sâu vào những nghiên cứu của Dow và Hamilton, Schabacker là người đã đưa ra khái niệm đầu tiên về Phân tích kỹ thuật. Schabacker từng là chủ biên của tạp chí Forbes nổi tiếng. Ông chỉ ra rằng những dấu hiệu mà lý thuyết Dow đưa ra được với chỉ số bình quân thị trường vẫn giữ nguyên giá trị và tầm quan trọng khi áp dụng vào đồ thị của từng cổ phiếu riêng lẻ. Điều này đã được ông thể hiện và chứng minh trong cuốn sách của mình: “Stock Market Theory and Practice, Technical Market Analysis and Stock Market Profit”. Như vậy những cơ sở đầu tiên của Phân tích kỹ thuật đã xuất hiện từ trong lý thuyết Dow, nhưng phải đến Schabacker – người cha của Phân tích kỹ thuật hiện đại tiếp đó là Edward và Magee với “Technical Analysis of Stock Trend” (cuốn sách đã được tái bản 8 lần) và ngày nay là John Murphy, Jack Schwager, Martin Pring, … thì mới thực sự ra đời cái tên “Phân tích kỹ thuật ” và được nâng cao, tổng kết thành một hệ thống lý luận quan trọng trong phân tích đầu tư trên thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung.
Các quan điểm về phân tích kĩ thuật
Nguyên lý thành công trong đầu tư chứng khoán là dựa trên giả định “trong tương lai người ta sẽ tiếp tục lặp lại những sai lầm mà họ mắc phải trong quá khứ” (Edwin Lefevre, Reminiscenses of a Stock Operator)
Thị trường chứng khoán hay bất kì thị trường nào đều không bao giờ phản ánh đúng giá trị thực của một hàng hóa được trao đổi bên trong đó mà nó phản ánh giá trị mà nhà đầu tư nhận thức được và cho rằng nó đáng giá như thế. Giá của bất kì một chứng khoán đã cho nào đều không chỉ ra mối quan hệ thực tế giữa cung và cầu mà là phản ánh kỳ vọng tương lai của cung và cầu.
Vậy “Phân tích kĩ thuật” là gì? Bản thân trong những người sử dụng phân tích kỹ thuật cũng không có một sự thống nhất về quan điểm về bản chất của phân tích kỹ thuật vì phân tích kỹ thuật có thể dược hiểu thuần túy là một khoa học mà cũng có thể được hiểu là một nghệ thuật.
Hiểu một cách rộng nhất thì phân tích kỹ thuật luôn cố gắng nghiên cứu tình trạng “sức khỏe hiện tại của toàn thị trường hay của mỗi chứng khoán với mục đích là nhằm dự báo biến động tương lai của giá bằng cách dựa trên những kinh nghiệm có được với các hình mẫu kĩ thuật (hay mô hình kĩ thuật) thị trường đã xuất hiện trong quá khứ và áp dụng lại khi có mô hình tương tự xuất hiện. Giả thuyết căn bản trong phân tích kỹ thuật là những kiến thức đã có về giá và hình mẫu đồ thị trong quá khứ sẽ được sử dụng “tham khảo” nhằm xác định giá có xu thế như thế nào trong tương lai đối với mỗi thị trường cụ thể.
Nick và Barbara Apostolous định nghĩa về phân tích kĩ thuật là quá trình dự báo biến động giá chứng khoán trong tương lai dựa trên cơ sở phân tích những biến động trong quá khứ của giá và các áp lực cung cầu có ảnh hưởng đến giá”. Tuy nhiên định nghĩa này làm cho Phân tích kỹ thuật dường như trở lên gần tương đương với phân tích cơ bản - là quá trình ước lượng giá trị chứng khoán hay hàng hóa bằng cách phân tích các điều kiện kinh tế tài chính cơ bản mỗi công ty, mỗi ngành,…
Trong cuốn “Stock Market Logic”, Norman Fosback định nghĩa “Nếu như bản chất của phân tích cơ bản là việc xác định giá trị và xác định mua hay bán cổ phiếu khi giá trên thị trường sai lệch khỏi giá trị thực, thì Phân tích kỹ thuật lại dựa trên 2 giả thuyết cơ bản khác hoàn toàn: Thứ nhất, những ước lượng mang tính chủ quan là quá mơ hồ và không thích hợp và thứ hai là dao động giá trong tương lai có thể dự đoán được qua việc phân tích biến động giá trong quá khứ, phân tích mối quan hệ cung - cầu và một số yếu tố khác có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường “
Clifford Pistolese đã đưa ra định nghĩa khá đầy đủ như sau: “Phân tích kỹ thuật là việc sử dụng biểu đồ giá và khối lượng giao dịch làm cơ sở cho các quyết định đầu tư. Cơ sở căn bản cho hướng tiếp cận này là ở chỗ các thông tin về giá và khối lượng trên biểu đồ phản ánh tất cả những gì diễn ra về việc mua hay bán một loại cổ phiếu. Vì biểu đồ cổ phiếu tóm tắt và phản ánh kết quả thực của các giao dịch đã thực hiện nên Phân tích kỹ thuật là cơ sở duy nhất cho việc ra các quyết định đầu tư”
R. W. Schabacker, người cha đẻ của Phân tích kỹ thuật hiện đại đã mô tả Phân tích kỹ thuật như “một môn khoa học mới”. Theo ông “Việc Phân tích kỹ thuật các biến động thị trường là một khía cạnh của phân tích, dựa trên cơ sở những hiện tượng phát sinh từ chính thị trường, bỏ qua những tác động của các yếu tố trong phân tích cơ bản và các yếu tố khác.
Trên thực tế Phân tích kỹ thuật có thể được giải thích đơn giản chỉ là phát biểu một cách đối lập lại với việc xem xét theo trường phái phân tích cơ bản. Khía cạnh cơ bản của phân tích thị trường nhắm mối quan tâm đặc biệt vào những yếu tố như doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, việc kinh doanh của doanh nghiệp, tiềm năng, họat động trong quá khứ, thu nhập hiện tại và tương lai, bảng cân đối kế toán, sức mạnh tài chính, chất lượng của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp, …Các yếu tố kĩ thuật là những gì có thể được coi là tổng thể các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng biến động về giá cổ phiếu sau khi đã bỏ qua các yếu tố thuộc phân tích cơ bản và những yếu tố không thực sự có ảnh hưởng. ”
Còn theo Edward và Magee tác giả cuốn sách “Technical Analysis of Stock Trend” thì: “Phân tích kỹ thuật là môn khoa học của sự ghi nhận lại, thường là dưới dạng đồ thị, những hoạt động giao dịch diễn ra trong quá khứ gây lên những thay đổi về giá, khối lượng giao dịch, … của một chứng khoán bất kì hay với chung toàn bộ thị trường và sau đó sẽ dựa trên “bức tranh về quá khứ” đó để suy luận ra xu thế có thể xảy ra trong tương lai”
Cuối cùng Steven B. Achelis, tác giả của cuốn sách “Technical Analysis from A to Z”đã định nghĩa một cách ngắn gọn như sau: “Phân tích kỹ thuật là việc nghiên cứu giá, với công cụ cơ bản là biểu đồ, nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư…”
Những giả định cơ sở
Phân tích kỹ thuật là sự nghiên cứu biến động của thị trường, chủ yếu thông qua việc sử dụng các đồ thị nhằm mục đích dự đoán các xu thế biến động của giá trong tương lai.
Thuật ngữ “biến động của thị trường” ám chỉ ba yếu tố biến động chính cung cấp thông tin cho quá trình Phân tích kỹ thuật là giá, khối lượng giao dịch và số lượng hợp đồng chưa tất toán ( open interest).
Có 3 giả định làm cơ sở cho việc tiếp cận Phân tích kĩ thuật:
-Biến động giá thị trường phản ánh tất cả
-Giá thị trường dịch chuyển theo xu thế
- Lịch sử sẽ tự lặp lại
1.3.1. Biến động thị trường phản ánh tất cả
Đây có thể coi là nền tảng của Phân tích kỹ thuật. Mọi lý thuyết, phân tích khác muốn được chấp nhận thì trước tiên phải hiểu và chấp nhận giả định này. Các nhà Phân tích kỹ thuật cho rằng bất cứ yếu tố nào có khả năng ảnh hưởng đến giá như tâm lý, chính trị hay các yếu tố tài chính của doanh nghiệp, tổ chức. . . đều được phản ánh rõ trong giá thị trường. Do đó có người cho rằng việc nghiên cứu biến động của giá là tất cả những gì ta cần và thực sự không thể phản đối lại ý kiến này.
Trên cơ sở nhận thức chung về việc giá phản ánh những biến động trong cung, cầu. Các nhà Phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng khi giá tăng dù vì bất kì lý do gì thì cầu phải vượt cung và thị trường tăng giá. Chúng ta cũng đều biết và đồng ý rằng động lực chính của cung và cầu là những yếu tố kinh tế căn bản, chúng làm hình thành lên Bull Market hay Bear Market, còn đồ thị thì không tự nó làm cho thị trường dịch chuyển lên hay xuống. Đồ thị chỉ có thể phản ánh tình hình thị trường mà thôi.
1.3.2. Giá dịch chuyển theo xu thế chung
Khái niệm về xu thế là khái niệm vô cùng quan trọng trong Phân tích kỹ thuật do đó cần hiểu kĩ về giả định này trước khi muốn tìm hiểu sâu thêm về nó. Mục đích của việc xác lập đồ thị mô tả những biến động giá trên thị trường là nhằm xác định được sớm những xu thế giá, từ đó sẽ tham gia giao dịch trên cơ sở những xu thế này. Trên thực tế những kĩ thuật ở đây đều mang tính lặp lại những xu thế giá có từ trước tức là mục đích của Phân tích kỹ thuật là nhằm xác định sự lặp lại của những dạng biến động của giá đã xuất hiện trong quá khứ để có thể tận dụng kinh nghiệm và đưa ra những quyết định phù hợp.
Từ giả định này chúng ta còn có một hệ quả là “một xu thế giá đang vận động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó và ít khi có đảo chiều”. Hệ quả này rút ra từ định luật 1 về sự vận động của Newton, do đó nó cách phát biểu khác như sau: "một xu thế đang vận động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó cho đến khi nó đảo chiều”. Nhìn chung tất cả những nghiên cứu nhằm tiếp cận theo các xu thế đều nhằm để đi theo những xu thế giá hiện tại cho đến khi có dấu hiệu đảo chiều.
1.3.3. Lịch sử sẽ tự lặp lại
Phần lớn nội dung của Phân tích kỹ thuật và việc nghiên cứu biến động thị trường đều phải nhằm vào nghiên cứu tâm lý con người. Chẳng hạn như những mô hình giá, những mô hình này đã được xác định và chứng minh từ hơn 100 năm nay, chúng giống như những bức tranh về đồ thị biến động giá. Những bức tranh này chỉ ra tâm lý của thị trường đang là lên giá hay xuống giá. Việc áp dụng những mô hình này đã phát huy hiệu quả trong quá khứ và được giả định rằng sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương lai bởi chúng dựa trên phân tích nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý con người thì thường không thay đổi. Như thế giả định này có thể được phát biểu là : “Chìa khóa để nắm bắt tương lai nằm trong việc nghiên cứu quá khứ” hay “tương lai chỉ là sự lặp lại của quá khứ”
Các loại biểu đồ
Hiện nay trên Thị trường chứng khoán các chuyên viên phân tích dùng rất nhiều các loại biểu đồ khác nhau để phân tích, trong đó có 3 loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất đó là: biểu đồ dạng đường (Line chart), biểu đồ dạng then chắn (Bar chart), biểu đồ dạng ống (Candlestick chart).
1.4.1. Biểu đồ dạng đường (line chart)
Dạng biểu đồ này từ trước tới nay thường được sử dụng trên Thị trường chứng khoán, và cũng là loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất trong các ngành khoa học khác dùng để mô phỏng các hiện tượng kinh tế và xã hội…và nó cũng là loại biểu đồ được con người dùng trong thời gian lâu dài nhất. Nhưng hiện nay trên thị trường chứng khoán do khoa học kỹ thuật phát triển, diễn biến của thị trường chứng khoán ngày càng phức tạp, mức độ dao động trong thời gian ngắn với độ lệch khá cao, nếu dùng loại biểu đồ này để phân tích thì thường mang lại hiệu quả thấp trong phân tích cho nên loại biểu đồ này ngày càng ít được sử dụng nhất là trên các thị trường chứng khoán hiện đại. Hiện nay nó chủ yếu được sử dụng trên các thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, khớp lệnh theo phương pháp khớp lệnh định kỳ theo từng phiên hoặc nhiều lần trong một phiên nhưng mức độ giao dịch chưa thể đạt được như thị trường chứng khoán dùng phương pháp khớp lệnh liên tục.Ưu điểm của loại biểu đồ này là dễ sử dụng, lý do chính là vì nó được sử dụng trên tất cả các thị trường chứng khoán trên khắp thế giới từ trước tới nay.
Đồ thị biến động VNIndex
(tính đến ngày 18/01/2007 - bsc.com.vn)
Biểu đồ dạng then chắn (bar chart)
Cổ phiếu General Electric
Trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên thế giới hiện nay các chuyên viên phân tích thường dùng loại biểu đồ này trong phân tích là chủ yếu lý do chính vì tính ưu việt của nó đó là sự phản ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khoán.
Hai kí tự mà dạng biểu đồ này sử dụng đó là:
Loại biểu đồ này thường được áp dụng để phân tích trên các thị trường chứng khoán hiện đại khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh liên tục, độ dao động của giá chứng khoán trong một phiên giao dịch là tương đối lớn.
Biểu đồ dạng ống (candlestick chart)
Đồ thị biến đông giá của YAHOO, 18/1/2007(nguồn:
Đây là dạng biểu đồ cải tiến của biểu đồ dạng then chắn (Bar chart), nó được người Nhật Bản khám phá và áp dụng trên thị trường chứng khoán của họ đầu tiên. Giờ đây nó đang dần được phổ biến hầu hết trên các thị trường chứng khoán hiện đại trên toàn thế giới. Dạng biểu đồ này phản ánh rõ nét nhất về sự biến động của giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh định kỳ.
Hai kí tự mà loại biểu đồ này sử dụng là:
Một số chỉ báo phổ biến trong phân tích kĩ thuật
Moving Average Convergence Divergence (MACD)
Được phát triển bởi Gerald Appel, MACD là 1 trong những chỉ báo đơn giản có độ tin cậy cao nhất. MACD sử dụng các trung bình trượt bằng cách lấy trung bình trượt ngắn hạn trừ đi trung bình trượt dài hạn. Các biểu đồ kết quả dạng đường dao động bên trên hoặc bên dưới đường zero, không có bất cứ giới hạn trên hay dưới nào. MACD là một chỉ báo xung lượng cho biết mức độ dao động của giá cổ phiếu.
2.1.1. Biểu thức MACD
MACD chuẩn là chênh lệch giữa trung bình trượt mũ (EMA) 12 ngày và 26 ngày của chứng khoán. Đây là biếu thức được sử dụng trong rất nhiều chương trình phân tích kĩ thuật, xuất hiện trong rất nhiều các cuốn sách phân tích kĩ thuật. Sử dụng các trung bình trượt ngắn hạn sẽ tạo ra các chỉ báo nhanh hơn và nhạy cảm hơn, trong khi các trung bình trượt dài hạn sẽ tạo ra các chỉ báo chậm hơn. Đế thực hiện các mục tiêu của bài viết này, chúng ta sẽ sử dụng đường MACD truyền thống để giải thích.
Trong 2 đường MA tạo nên MACD, thì đường EMA12 ngày là đường nhanh hơn còn EMA 26 ngày là đường chậm hơn. Giá đóng cửa được sử dụng để tính các MA. Thông thường, đồ thị EMA 9 ngày của đường MACD được sử dụng như một đường tín hiệu. Điểm giao cắt tăng giá xuất hiện khi MACD di chuyển bên trên đường EMA 9 ngày của nó, và điểm giao cát giảm giá xuất hiện khi MACD di chuyển bên dưới đường EMA 9 ngày của nó.
2.1.2. Cách sử dụng
MACD đo lường chênh lệch giữa 2 đường EMA. MACD dương chỉ ra rằng EMA 12 ngày ở trên EMA 26 ngày. Nếu MACD dưong và đang tăng, thì khoảng cách giữa 2 đường EMA ngày càng mở rộng. Điều này chỉ ra tỉ lệ thay đổi của MA nhanh cao hơn của MA chậm. Momentum dương đang tăng thể hiện một chu kì tăng giá. Nếu MACD âm và đang đi xuống, thì khoảng cách giữa MA nhanh và MA chậm dang mở rộng. Đường momentum âm đang ngày càng giảm thì báo hiệu một chu kì giảm giá.Các điểm giao cắt giữa MACD và đường zero xuất hiện khi đường MA chậm cắt đường MA nhanh.
2.1.3. Lợi ích của MACD
Một trong những lợi ích cơ bản của MACD là nó kết hợp các khía cạnh của momentum và đường xu thế vào trong một chỉ báo. Giống như một chỉ báo xu thế, nó đúng cho cả trong thời gian dài . Việc sử dụng các MA đảm bảo rằng các chỉ báo cuối cùng sẽ tuân theo sự dịch chuyển của tài sản cơ sở. Không giống với trung bình trượt giản đơn(SMA), bằng cách sử dụng các trung bình trượt mũ (EMA), một số yếu tố trễ sẽ không được tính đến.
Giống như chỉ báo mometum, MACD có khả năng để dự báo các biến động của tài sản cơ sở. Sự phân kì của MACD có thể là nhân tố quan trọng cho việc dự báo sự thay đổi của xu thế. Dấu hiệu phân kì âm báo hiệu momentum tăng giá(bullish), và có thể có khả năng xu thế thay đổi từ tăng giá thành giảm giá. Dấu hiệu này có thể cung cấp một công cụ cảnh báo cho nhà đầu tư để kiếm lợi nhuận ở vị thế mua, hoặc cho những nhà đầu tư mạo hiểm xem xét việc bắt đầu một vị thế bán.
MACD có thể được ứng dụng để vẽ các đồ thị theo ngày , tuần hoặc tháng. MACD biẻu diễn sự hội tụ và phân kì của 2 trung bình trượt. MACD chuẩn được tính bằng chênh lệch giữa EMA 12 và 26 ngày. Tuy nhiên, chúng ta có thể sử dụng bất cứ sự kết hợp nào giữa các đường MA. Tập hợp các đường MA được sử dụng trong MACD có thể phù hợp cho từng chứng khoán riêng lẻ. Đối với đồ thị từng tuần, tập hợp các MA nhanh hơn có thể là fù hợp. Đối với các cổ phiếu không ổn định, những đường MA chậm hơn có thể giúp ích cho việc làm trơn số liệu. Lưu ý rằng mỗi cá nhân cần hiệu chỉnh MACD cho phù hợp với cách kinh doanh , mục tiêu và khả năng chịu rủi ro của mình.
2.1.4. Hạn chế cuả MACD
Một trong những ưu điểm và cũng là mặt hạn chế của MACD đó là các MA hoặc là giản đơn, hoặc hàm mũ hoặc có trọng số đều là các chỉ báo có độ trễ. Mặc dù MACD thể hiện sự chênh lệch giữa 2 MA, có thể còn có một số yếu tố trễ trong chính chỉ báo đó. Điều này thường đúng với các đồ thị theo tuần hơn đồ thị theo ngày.Một cách giải quyết vấn đề này là sử dụng biểu đồ MACD.
MACD không fải là một chỉ báo đặc biệt tốt để phân biệt giữa bán siêu (oversold) và mua siêu (overbought). Mặc dù nó có thể nhận biết những mức độ nào thể hiện sự bán siêu và mua siêu, MACD không có bất cứ giới hạn trên hay dưói nào ràng buộc sự biến động của nó. MACD có thể tiếp tục mở rộng vượt quá cực điểm trong quá khứ.
MACD tính toán sai lệch tuyệt đối giữa 2 trung bình trượt và không thể hiện sai lệch tương đối. MACD được tính toán bằng cách lấy một trung bình trượt trừ đi cái còn lại. Khi một chứng khoán tăng giá, chênh lệch (cả âm và dương) giữa 2 trung bình trượt được dự tính sẽ tăng. Điều này gây khó khăn cho việc so sánh các MACD trong những chu kì thời gian dài, đặc biệt là các chứng khoán biến động theo hàm mũ.
Có một lựa chọn đó là sử dụng dao động giá, thể hiện chênh lệch tương đối giữa 2 trung bình trượt:
(EMA 12 ngày –EMA 26 ngày )/EMA 26 ngày
Kết quả chênh lệch tương đối có thể được so sánh trong chuỗi thời gian dài hơn. Đối với các thời kì ngắn hạn, MACD và phương pháp dao động giá về cơ bản là tương tự nhau. Hình dáng đường,sự fân kì các điểm cắt giữa các đường trung bình trượt và các điểm cắt đường hướng tâm đối với MACD và phương pháp dao động giá là hoàn toàn đồng nhất.
2.1.5. Những ý kiến tán thành và phê phán MACD
Khi Appel phát triển mô hình MACD, có hàng trăm chỉ báo phân tích kĩ thuật mới được giới thiệu. Trong khi rất nhiều chỉ báo kĩ thuật ra đời và bị loại bỏ, MACD vẫn tồn tại với thời gian. Các tư tưởng cơ bản phía sau cách sử dụng của nó rất rõ ràng, và cách xây dựng của nó rất đơn giản, nó vẫn là một trong những chỉ báo đáng tin cậy. Tính hiệu quả của MACD sẽ rất khác nhau với rất nhiều chứng khoán và thị trường khác nhau. Tuỳ theo từng chứng khoán và thị trường khác nhau cần lựa chọn độ trễ của MA cho thích hợp. Như đối với tất cả các chỉ báo, MACD không phải là không thể sai được và nên được sử dụng cùng với các công cụ phân tích kĩ thuật khác.
2.1.6. MACD- biêủ đồ (MACD-Histogram)
Năm 1986, Thomas Aspray đã phát triển MACD-biểu đồ (MACD-H). Aspray lưu ý rằng trễ của MACD đôi khi bỏ lỡ những biến động của chứng khoán, đặc biệt là được ứng dụng trong đồ thị theo tuần. Ông bắt đầu thử nghiệm bằng cách thay đổi các trung bình trượt và nhận thấy các trung bình trượt ngắn hạn có thể đưa ra các tín hiệu nhanh hơn.Tuy nhiên ông đang tìm kiếm các công cụ để dự đoán các điểm giao cắt của MACD. Một trong những đáp án mà ông đã tìm ra đó là MACD-H.
2.1.6.1. Định nghĩa và cách xây dựng
MACD-H thể hiện chênh lệch giữa MACD và đường tín hiệu của nó-EMA 9 ngày. Đồ thị của chênh lệch này được thể hiện dưới dạng biểu đồ hình cột, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự giao cắt với đường trung tâm và sự phân kì. Điểm giao cắt giữa đường trung tâm đối với biểu đồ MACD tương tự như điểm giao cắt giữa một đường trung bình trượt và MACD. Đường trung bình trượt sẽ xuất hiện khi MACD dịch chuyển lên trên hoặc xuống dưới đường tín hiệu.
Nếu giá trị của MACD lớn hơn giá trị của EMA 9 ngày, thì giá trị của MACD-H sẽ dương. Ngược lại, nếu giá trị của MACD nhỏ hơn EMA 9 ngày, thì giá trị của MACD-H sẽ âm. Ngoài ra, sự gia tăng hoặc giảm đi trong khoảng cách giữa MACD và đường tín hiệu của nó sẽ được thể hiện trong MACD-H. Độ nhọn của MACD-H tăng chỉ ra rằng MACD tăng nhanh hơn EMA 9 ngày của nó. EMA và momentum tăng giá(bullish) ngày càng nhanh. Độ nhọn của MACD-H chỉ ra rằng MACD giảm nhanh hơn EMA 9 ngày của nó và sự giảm của momentum đang tăng.
Trong đồ thị trên đây, chúng ta có thể thấy biến động MACD-H độc lập với MACD thực tế. Đôi khi, MACD tăng trong khi MACD-H giảm. Ở thời điểm khác MACD giảm trong khi MACD-H tăng. MACD-H không đề cập đến giá trị tuyệt đối của MACD nhưng nó thể hiện mối quan hệ giữa đường MACD và EMA 9 ngày của nó. Thông thường, nhưng không phải luôn luôn , biến động của MACD xuất hiện trước sự phân kì tương đương trong biểu đồ MACD.
Điểm đầu tiên biểu diễn độ nhọn của phân kì dương trong MACD-H xuất hiện có trước điểm giao cắt trung bình trượt tăng giá (bullish).
Trên điểm thứ 2, đường MACD tiếp tục đạt các đỉnh mới nhưng MACD-H thể hiện 2 đỉnh bằng nhau. Mặc dù không fải là một trường hợp lý thuyết của phân kì dương, điểm đáy bằng nhau chứng tỏ thất bại trong khả năng dự báo của đường MACD.
Phân kì dương được hình thành khi MACD-H thể hiện một điểm đáy cao hơn và MACD tiếp tục thấp hơn nữa.
Phân kì âm được hình thành khi MACD-H biểu diễn một đỉnh thấp hơn và MACD tiếp tục tăng lên.
1. 6 .2. Cách sử dụng
T. Aspray tạo ra MACD-H như một công cụ để dự đoán các điểm giao cắt giữa các MA trong mô hình MACD. Sự phân kì giữa MACD và MACD-H là công cụ chính được sử dụng để dự đoán các điểm giao cắt giữa các MA. Phân kì dương trên MACD-H chỉ ra rằng MACD đang gia tăng và có thể gần tới điểm giao cắt trung bình trượt tăng giá. Phân kì âm trong biểu đồ MACD-H chỉ ra rằng MACD đang suy yếu, và nó báo trước một điểm cắt trung bình trượt giảm giá trên MACD.
Trong cuốn sách Technical analysis of financial markets, J.Murphy đã khẳng định lợi ích lớn nhất của MACD-H đó là nhận biết được trong những thời kì nào khoảng cách giữa MACD và EMA 9 ngày hoặc mở rộng hoặc thu hẹp. Nói rộng ra, khoảng cách được mở rộng chỉ ra rằng momentum tăng và khoảng cách thu hẹp chỉ ra rằng momentum giảm. Thường thì một sự thay đổi trên MACD-H sẽ xuất hiện trước bất cứ sự thay đổi nào trong đường MACD.
2.1. 6 .3. Các dấu hiệu
Dấu hiệu chính được khái quát bởi biểu đồ MACD là sự phân kì xuất hiện trước điểm giao cắt giữa các đường MA. Một dấu hiệu tăng giá được dự báo khi xuất hiện 1 phân kì dương và khi có 1 điểm cắt đường trung tâm bullish (làm tăng giá). Một dấu hiệu giảm giá được dự báo khi có một phân kì âm và điểm cắt đường trung tâm bearish(làm giảm giá). Cần nhớ rằng một điểm cắt đường trung tâm của MACD-H tương đương một điểm cắt giữa các đường MA trên MACD.
Sự phân kì có thể có nhiều dạng và nhiều góc độ khác nhau. Khái quát lại 2 dạng phân kì có thể nhận biết được đó là : đường phân kì xiên (slant divergence) và đường phân kì lồi lõm (peak-trough divergence).
Slant divergence- Phân kì xiên
Một đường phân kì xiên xuất hiện khi có một sự biến động trơn tương đối và liên tục theo 1 hướng (lên hoặc xuống) tạo thành sự phân kì. Đường phân kì xiên bao hàm những khoảng thời gian ngắn hơn là các phân kì được hình thành từ 2 đỉnh hoặc 2 đáy. Những đường phân kì xiên có thể chứa một số biến động nhỏ bất thường (lồi hoặc lõm) dọc theo đường đó. Môi trường của phân tích kĩ thuật là không hoàn hảo và có những trường hợp ngoại lệ đối với hầu hết các quy tắc và có sự phối hợp giữa rất nhiều dấu hiệu.
Peak trough divergence- phân kì lồi lõm.
Đường phân kì lồi lõm xuất hiện khi ít nhất 2 đỉnh hoặc 2 đáy xuất hiện theo cùng 1 hướng tạo ra sự phân kì. Một chuỗi của 2 hoặc nhiều đáy tăng lên (điểm đáy cao hơn) có thể tạo ra một phân kì dương và một chuỗi 2 hoặc nhiều đỉnh giảm xuống (điểm đỉnh thấp hơn) có thể tạo ra một phân kì âm. Đường phân kì lồi lõm thường bao hàm cả một cấu trúc thời gian khoảng 2 tuần hoặc lâu hơn là vài tháng.
Thông thường, đường phân kì càng dài và nhọn, thì các dấu hiệu dự báo càng tốt. Những đường phân kì ngắn và hời hợt có thể dẫn đến các dấu hiệu sai. Ngoài ra, nó cũng cho thấy đường phân kì lồi lõm đáng tin hơn đường phân kì xiên. Đường phân kì lồi lõm có xu hướng nhọn hơn và bao hàm cấu trúc thời gian dài hơn đường phân kì xiên.
2.1. 6 .4. Lợi ích của MACD-Histogram
Ưu điểm chính của MACD-H là khả năng dự báo các dấu hiệu MACD. Các đường phân kì thường xuất hiện trong MACD-H trước các điểm giao cắt giữa các đường MA. Với những kiến thức này, các nhà kinh doanh và nhà đầu tư có thể chuẩn bị tốt hơn trước những thay đổi có tính chất xu thế có thể xảy ra trong tương lai.
MACD-H có thể được ứng dụng trong các đồ thị theo ngày, tuần, tháng.(Chú ý: Việc này có thể đòi hỏi việc kết hợp một số thời kì để xây dựng đường MACD gốc: các đường MA ngắn hơn và nhanh hơn có thể là cần thiết đối với các đồ thị theo tuần hoặc theo tháng). Sử dụng đồ thị theo tuần có thể xác định đường xu thế cơ bản một cách rõ ràng. Khi đường xu thế đã được xác định rõ ràng thì có thể sử dụng đồ thị theo ngày để xác định thời điểm chiến lược để gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường.
Trong cuốn Technical Analysis of the financial markets, J.Murphy tán thành phương pháp đầu tư 2 bước này để loại trừ những hoạt động kinh doanh đi ngược lại xu thế chính. Biểu đồ MACD theo tuần có thể được sử dụng để khái quát dấu hiệu theo chu kì dài để thiết lập xu hướng kinh doanh. Sau đó chúng ta sẽ chỉ xem xét những dấu hiệu ngắn hạn phù hợp với xu thế chính. Nếu xu thế dài hạn là bullish, thì chỉ những phân kì âm cắt đường trung tâm bearish là có ý nghĩa với MACD-H. Nếu xu thế dài hạn là bearish, chỉ những phân kì dương cắt đường trung tâm bullish được xem xét là có giá trị.
2.1.6.6 . Hạn chế của MACD histogram
MACD-H là một chỉ báo của một chỉ báo hoặc một phái sinh của một phái sinh. MACD là phái sinh bậc một của giá chứng khoán, và biểu đồ MACD là phái sinh bậc 2 của giá chứng khoán. Là phái sinh bậc 2, MACD-H khác biệt nhiều hơn so với đường giá thực của chứng khoán. Chỉ báo sai khác càng lớn so với giá chứng khoán thực, các dấu hiệu sai lệch càng lớn.Cần nhớ rằng đây là một chỉ báo của một chỉ báo. MACD-H không nên so sánh trực tiếp với giá thực của chứng khoán.
Do MACD-H được xây dựng để dự đoán trước các dấu hiệu của MACD, sẽ dẫn đến việc bắt đầu trước khi sự việc xuất hiện. MACD-H nên được sử dụng cùng với những công cụ khác trong phân tích kĩ thuật. Việc này giúp cho việc phản ứng kịp thời trước những yếu tó môi trường để gia nhập sớm vào thị trường. Những công cụ khác để ngăn cản sự gia nhập sớm là kết hợp các dấu hiệu theo ngày và theo tuần. Tất nhiên là sẽ có dấu hiệu theo tuần nhiều hơn là theo ngày. Tuy nhiên, bằng cách chỉ sử dụng các dấu hiệu theo ngày tương thích với các dấu hiệu theo tuần, chúng ta sẽ chỉ còn phải làm việc với ít dấu hiệu theo ngày hơn. Bằng cách đó, đồng thời bạn cũng có thể được bảo vệ bằng cách kinh doanh với xu thế dài hạn hơn và không đi ngược lại với nó.
Cần cẩn thận với các đường phân kì nhỏ và nông. Trong khi những đường này đôi khi đưa ra những dấu hiệu tốt, chúng cũng dễ tạo ra những dấu hiệu sai lầm hơn. Một phương pháp để loại trừ những đường phân kì nhỏ là tìm kiếm những đường phân kì lớn hơn với 2 hoặc nhiều hơn những đỉnh và đáy rõ ràng. So sánh những đỉnh và đáy từ những dấu hiệu trong quá khứ. Chỉ những đỉnh và đáy là các dấu hiệu mới đáng quan tâm.
Relative Strength Index (RSI)
Được phát triển bởi J.Wilder và được giới thiệu trong cuốn sách New Concepts in Technical Trading Systems của ông năm 1978, , RSI là 1 chỉ báo momentum đặc biệt hữu ích và thông dụng . RSI so sánh các mức lãi với các mức lỗ gần đây của cổ phiếu và chuyển các thông tin đó thành các số từ 0 đến 100. Sử dụng chu kì thời gian là tham số để tính toán. Trong cuốn sách này, J.W đề xuất việc sử dụng 14 thời kì.
Cách gọi đầy đủ của RSI không may là dễ gây nhầm lẫn với các dạng phân tích mức độ tương quan khác như đồ thị RS của J.M và dãy RS của IBD. Hầu hết các loại RS khác sử dụng nhiều hơn 1 cổ phiếu trong việc tính toán. Như hầu hết các chỉ báo chính xác, để tính toán RSI chỉ cần 1 cổ phiếu. Thêm vào đó để tránh sự rắc rối, nhiều người không sử dụng cách gọi đầy đủ của RSI mà chỉ gọi là RSI.
2.2.1. Công thức tính:
Để đơn giản công thức, RSI đ ược phân tích thành các thành phần cơ sở của nó là mức lãi trung bình_AG , mức lỗ trung bình_AL, RS gốc, và tiếp theo là RS hiệu chỉnh.
Cho._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32989.doc