Phân tích kết quả kinh doanh thương mại của Công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh giai đoạn 2003-2007

MỞ ĐẦU Trong nền sản xuất hàng hóa, sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra là để tiêu thụ trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Chính vì thế tiêu thụ hàng hóa hay hoạt động kinh doanh của một thương nghiệp là một mắt xích quan trọng không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mục đích cuối cùng của bất cứ doanh nghiệp nào trên thị trường cũng là tối đa hóa lợi nhuận. Mà điều này chỉ có thể đạt được khi kết thúc giai đoạn tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp và nó được t

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích kết quả kinh doanh thương mại của Công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh giai đoạn 2003-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hể hiện thông qua các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích thống kê kết quả hoạt động kinh doanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động của một doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh, tự chủ trong quản lý và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình. Một mặt nó cho ta biết được hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp trong một giai đoạn nào đó, mặt khác, nó là công cụ quan trọng để lãnh đạo doanh nghiệp căn cứ vào đó có những điều chỉnh phù hợp và đưa ra những quyết định quan trọng nhằm đạt được kết quả tốt nhất. Trong thời gian thực tập tại công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh, thấy được sự cần thiết của công tác phân tích thống kê kết quả kinh doanh của công ty nên em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Phân tích kết quả kinh doanh thương mại của công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh giai đoạn 2003-2007” làm đề tài cho chuyên đề thực tập. Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm xem xét, đánh giá tổng hợp kết quả kinh doanh của công ty, làm rõ những ưu, nhược điểm, những khó khăn thuận lợi mà công ty gặp phải, từ đó có những đề xuất, đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tế để nâng cao kết quả kinh doanh của công ty. Phạm vi nghiên cứu đề tài là phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh giai đoạn 2003 – 2007 và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kết quả kinh doanh của công ty trong thời gian sắp tới. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và sử dụng các phương pháp thống kê chuyên ngành là phương pháp phân tổ, phương pháp đồ thị, phương pháp dãy số thời gian… trong việc điều tra, nghiên cứu tài liệu sẵn có, khảo sát thực tế, tổng hợp và phân tích tài liệu. Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác phân tích kết quả kinh doanh thương mại Chương 2: Phân tích thực trạng kết quả kinh doanh của công ty Tân Liên Minh giai đoạn 2003 – 2007 Chương 3: Nguyên nhân và các giải pháp nâng cao kết quả kinh doanh thương mại của công ty Tân Liên Minh trong thời gian tới CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH KẾT QUẢ KINH DOANH THƯƠNG MẠI Khái niệm chung về thương mại và hoạt động kinh doanh thương mại. 1.1.1. Khái niệm về thương mại Lịch sử xã hội loài người đã trải qua một thời kỳ không có mua bán, trao đổi hàng hoá. Đó là thời kỳ công xã nguyên thuỷ. Khi có sự phân công lao động xã hội và trên cơ sở đó có sự chiếm hữu tư nhân đối với sản phẩm của lao động thì sản xuất hàng hoá giản đơn đã ra đời thay cho nền sản xuất tự cung tự cấp. Trong nền sản xuất hàng hoá, sản phẩm làm ra chủ yếu là để trao đổi , mua bán. Sự ra đời và ngày càng phát triển của nền sản xuất hàng hoá đã thúc đẩy hoạt động trao đổi hàng hoá và làm xuất hiện một số người chuyên mua hàng hoá rồi lại bán hàng hoá đó đi để kiếm lời. Họ không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nhưng họ lại chiếm toàn quyền chi phối sản xuất và bắt những người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế, họ đứng ra làm người trung gian không thể thiếu được giữa hai người sản xuất và bóc lột cả hai Các Mác gọi đó là sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ ba. Kết quả của sự phân công lao động này là những người trung gian trong hoạt động mua bán hàng hoá xuất hiện và phát triển thành một tầng lớp người mới trong xã hội, họ không chỉ chuyển hàng hoá từ tay người này sang người khác mà còn chuyển hàng hoá từ thị trường này sang thị trường khác. Với sự xuất hiện của tiền tệ, hoạt động mua bán ngày càng phát triển mạnh mẽ, tầng lớp trung gian ngày càng đông đảo và khẳng định được vị trí của mình trong xã hội. Họ chuyên làm chức năng mua bán hàng hoá để kiếm lời. Họ thực hiện chức năng này như một nghề nghiệp để kiếm sống. Nghề đó được gọi là nghề thương mại. Những người làm nghề thương mại đó được gọi là các thương nhân hoặc thương gia. Thuật ngữ “thương mại” ban đầu được dùng để chỉ các hoạt động buôn bán của các thương gia. Chính vì thế, theo nghĩa hẹp khái niệm thương mại được hiểu là hoạt động mua bán hàng hoá với mục đích kiếm lời. Cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường, khái niệm thương mại được mở rộng dần sang các lĩnh vực liên quan đến mua bán hàng hoá, ban đầu là các dịch vụ kèm theo như vận tải, bảo hiểm, thanh toán... Ngày nay khái niệm thương mại được hiểu theo nghĩa “rất rộng”, là tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lời từ đầu tư, sản xuất đến phân phối và cả dịch vụ sau bán hàng... Nhưng cũng vì sự phát triển của thương mại trên phạm vi toàn cầu mà đã nảy sinh nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thương mại trong pháp luật thương mại của nhiều nước. Nhằm mục đích giảm bớt sự khác biệt, từng bước nhất thể hoá cách hiểu về pháp luật thương mại trong quan hệ kinh tế quốc tế, ngày 21/6/1985 Uỷ ban Pháp luật thương mại Liên Hợp Quốc (UNCITRAL: United Nations Commission on International Trade Law) đã thông qua Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế trong đó đưa ra khái niệm về thương mại, theo đó thuật ngữ “thương mại” cần được giải thích theo nghĩa rộng liên quan đến tất cả các mối quan hệ có bản chất thương mại, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Những mối quan hệ thương mại gồm, nhưng không giới hạn ở các giao dịch: Bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng (factoring), cho thuê (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật (engineering); đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ". Đây cũng là khái niệm thương mại theo cách hiểu của WTO và theo tinh thần của Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) mặc dù cách thể hiện có khác nhau. 1.1.2. Hành vi thương mại 1.1.2.1. Bản chất của hành vi thương mại Luật thương mại Việt Nam năm 2005 không dùng khái niệm hành vi thương mại mà dùng khái niệm hoạt động thương mại. Theo Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 thì “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, hoạt động thương mại ở đây được hiểu tương tự nhu hoạt động kinh doanh bởi vì Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005 cũng quy định: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” Biểu hiện cụ thể của hoạt động thương mại cũng như của hoạt động kinh doanh là những hành vi thương mại cụ thể như mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại... Trước đây, người ta quan niệm hoạt động thương mại chỉ là hoạt động của thương nhân trong việc mua bán hàng hoá để kiếm lời, vì vậy, nói đến thương nhân người ta nghĩ ngay đến các nhà buôn. Quan niệm về thương nhân ngày nay đã khác cả về nội dung lẫn hình thức. Hoạt động thương mại ngày nay vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. Do đó mà người ta khó có thể liệt kê được hết các hoạt động thương mại. Trong các hiệp định thương mại quốc tế, các hoạt động thương mại được chia thành bốn lĩnh vực là: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và thương mại trong lĩnh vực đầu tư Bản chất của hoạt động thương mại là hoạt động để kiếm lời, ngay từ khi mới ra đời, hoạt động thương mại đã mang bản chất này vì nếu hoạt động thương mại mà không có lợi thì đã chẳng có nghề thương mại, chẳng có thương nhân. Thương nhân sẽ sống bằng gì nếu họ mua một sản phẩm rồi lại bán với đúng giá như thế. Để đảm báo cuộc sống của mình cũng như của gia đình, thương nhân buộc phải tính toán một cách chặt chẽ trong hoạt động kinh doanh sao cho số tiền thu về từ hoạt động kinh doanh phải lớn hơn chi phí mà thương nhân đã bỏ ra cho hoạt động kinh doanh đó. Trong nền kinh tế thị trường, các hành vi thương mại tồn tại một cách khách quan. Người nào thực hiện hành vi đó một cách độc lập, thường xuyên và lấy đó làm nghề nghiệp của mình thì người đó là thương nhân. Như vậy, hoạt động thương mại quyết định tính chất của thương nhân. Hoạt động thương mại xuất hiện kéo theo sự hình thành của tầng lớp thương nhân. Nói đến thương nhân là người ta nghĩ ngay đến hoạt động thương mại, ngược lại, nói đến hoạt động thương mại là người ta liên tưởng ngay đến thương nhân nên chúng ta tưởng rằng hành vi thương mại phải do thương nhân thực hiện. Thực ra không phải như vậy. Luật thương mại Việt Nam năm 1997 có quy định: “hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại...”. Có lẽ quy định này không đúng với bản chất của vấn đề nên Luật thương mại năm 2005 chỉ quy định: “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” mà không quy định là hành vi của thương nhân nữa. 1.1.2.2. Các loại hành vi thương mại Hành vi thương mại có thể được phân loại theo nhiều phương diện khác nhau - Nếu dựa vào tính chất của hành vi thì hành vi thương mại được chia thành hành vi thương mại thuần tuý và hành vi thương mại phụ thuộc. Hành vi thương mại thuần tuý hay còn gọi là hành vi thương mại thuộc về bản chất. Ví dụ mua bán hàng hoá, hoạt động của ngân hàng, đại lý thương mại... Người Đức gọi đó là hành vi thương mại cơ bản. Đây là những hành vi có tính chất thương mại vì bản chất của nó thuộc về công việc buôn bán hoặc hình thức của nó được pháp luật coi là tiêu biểu cho hành vi thương mại. Người nào thực hiện hành vi thương mại thuần tuý hoặc hành vi thương mại thuộc về bản chất một cách độc lập, thường xuyên là thương nhân. Hành vi thương mại phụ thuộc là những hành vi không có bản chất thương mại mà có bản chất là hành vi dân sự nhưng do thương nhân thực hiện theo nhu cầu nghề nghiệp hay nhân lúc hành nghề và do đó nó được coi là hành vi thương mại. Ví dụ một thương nhân kinh doanh bánh kẹo thuê phương tiện để chở hàng hoá đi bán, mua trang thiết bị văn phòng để trang bị cho các phòng làm việc thì những hành vi này là hành vi thương mại phụ thuộc vì chúng được thương nhân thực hiện không phải là để kiếm lời mà chỉ do nhu cầu của nghề nghiệp. Cũng là hành vi thuê phương tiện nhưng nếu thương nhân dùng phương tiện để chuyển nhà ở thì đây lại là hành vi dân sự. Một hành vi dân sự chỉ có thể trở thành hành vi thương mại nếu hành vi này được thương nhân thực hiện trong lúc hành nghề, tức là hành vi phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của thương nhân. Như vậy chỉ có hành vi thương mại phụ thuộc mới bắt buộc phải do thương nhân thực hiện. Trong trường hợp này, thương nhân quyết định tính chất của hành vi, nó làm cho một hành vi vốn không phải là hành vi thương mại trở thành hành vi thương mại. Hay nói cách khác chỉ có hành vi thương mại phụ thuộc mới phụ thuộc vào thương nhân, tức là mới phải do thương nhân thực hiện. - Nếu dựa vào chủ thể của hành vi trong quan hệ pháp luật cụ thể thì hành vi thương mại được chia thành hành vi thương mại song phương và hành vi thương mại hỗn hợp. Khi cả hai chủ thể đều là thương nhân thiết lập quan hệ hợp đồng để phục vụ cho nghề thương mại của họ thì đó là hành vi thương mại song phương (Đối với cả hai bên đều là hành vi thương mại). Khi chỉ có một bên trong quan hệ hợp đồng là thương nhân và thương nhân này tham gia quan hệ hợp đồng do nhu cầu của hoạt động nghề nghiệp, còn một bên không phải là thương nhân thì đó là hành vi thương mại đơn phương hay còn gọi là hành vi thương mại hỗn hợp. Ví dụ A là thương nhân kinh doanh vật liệu xây dựng bán cho B không phải là thương nhân một số gạch men để B sửa nhà. Trong mối quan hệ này, hành vi của thương nhân A là hành vi thương mại, hành vi của B là hành vi dân sự. - Căn cứ vào đối tượng của hành vi thương mại, Điều 3 Luật thương mại năm 2005 chia hành vi thương mại thành các nhóm như sau: “Hành vi mua bán hàng hoá: là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận. Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thoả thuận. Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại. Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại” (Luật thương mại năm 2005). 1.1.3. Thương nhân 1.1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của thương nhân Luật thương mại Việt Nam không những đã đưa ra khái niệm thương nhân mà còn quy định thương nhân bao gồm các chủ thể nào trong khái niệm thương nhân của mình. Theo đó, “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Luật thương mại năm 2005) Từ khái niệm đó, chúng ta thấy thương nhân có những đặc điểm sau đây: - Thứ nhất, thương nhân phải là người (cá nhân, pháp nhân) thực hiện hoạt động thương mại. (Giáo trình luật thương mại - trường Đại học luật Hà Nội) Thuộc tính của thương gia được gắn liền với hoạt động thương mại. Sản xuất hàng hoá ra đời làm cho hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá phát triển và chính sự phát triển của hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá đó đã làm cho nghề thương mại hình thành và kéo theo đó là sự hình thành của tầng lớp thương nhân. Có thể nói, hoạt động thương mại quyết định tính chất thương nhân. Muốn xem một chủ thể nào đó có phải là thương nhân hay không thì trước tiên phải xem chủ thể đó có thực hiện hành vi thương mại hay không. Do đó có thể nói thực hiện hoạt động thương mại là đặc điểm cơ bản của thương nhân. Nếu không thực hiện hoạt động thương mại thì không phải là thương nhân. - Thứ hai, thương nhân phải là người (cá nhân, pháp nhân) thực hiện hành vi thương mại một cách độc lập (giáo trình luật thương mại - trường Đại học Luật Hà Nội) Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại một cách độc lập có nghĩa là thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại cho chính mình, dưới danh nghĩa cảu mình và vì lợi ích của bản thân mình, không phụ thuộc vào một người nào khác, tự mình quyết định nội dung hoạt động và thời gian làm việc, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh. Khi chúng ta đến một cơ sở kinh doanh, chúng ta thấy có rất nhiều người ở đó nhưng không phải họ đều là thương nhân. Họ có thể là người làm công, người giúp việc, người quản lý thuê. Chỉ có chủ cơ sở kinh doanh đó mới là thương nhân. Ví dụ đối với một cửa hàng bán tạp hoá, thì chủ cửa hàng mới là thương nhân, vf chủ của cửa hàng có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của cửa hàng và trực tiếp chịu trách nhiệm về các hành vi liên quan đến giao dịch kinh doanh trong cửa hàng, người bán hàng thuê không phải là thương nhân. Như vậy, muống xem một chủ thể có phải là thương nhân hay không thì phải xem chủ thể đó có thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập hay không. - Thứ ba, thương nhân phải là người (cá nhân, pháp nhân) thực hiện hoạt động thương mại một cách thường xuyên. (Giáo trình luật thương mại - trường Đại học Luật Hà Nội) Thương nhân phải thực hiện hoạt động thương mại một cách thường xuyên có nghĩa là thương nhân phải thực hiện hoạt động thương mại trên cơ sở có kế hoạch lâu dài, lấy việc thực hiện hoạt động thương mại làm nghề nghiệp chính của mình. Nếu ai đó không lấy việc thực hiện hoạt động thương mại làm nghề nghiệp của mình thì không phải là thương nhân. Theo quy định của Luật thương mại Việt Nam, thương nhân không chỉ phải thực hiện hoạt động thương mại một cách thường xuyên mà còn phải thực hiện hoạt động thương mại một cách liên tục. Nếu thương nhân dừng hoạt động trong một thời gian nhất định mà không thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh thì có thể bị mất tư cách thương nhân, vì theo pháp luật thương mại Việt Nam, thương nhân phải đăng ký kinh doanh để có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mà nếu thương nhân dừng hoạt động thì có thể bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Do vậy, thực hiện hoạt động thương mại một cách thường xuyên, liên tục là một trong các dấu hiệu pháp lý quan trọng để xác định tư cách thương nhân. Một người thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập, nhân danh chính mình, vì lợi ích cảu mình nhưng không thường xuyên, tức là không mang tính nghề nghiệp thì người đó cũng không phải là thương nhân. - Thứ tư, thương nhân phải là người có đăng ký kinh doanh (giáo trình luật thương mại - trường Đại học Luật Hà Nội) Đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý bắt buộc đối với thương nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các chủ thể (cá nhân) muốn trở thành thương nhân thì phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kinh doanh. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kinh doanh sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho người có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Sau khi có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, người có tên trong đăng ký đó mới trở thành thương nhân và mới được thực hiện hoạt động thương mại. Như vậy, có đăng ký kinh doanh là một đặc điểm của thương nhân, đồng thời, có đăng ký kinh doanh cũng là điều kiện bắt buộc đối với chủ thể muốn trở thành thương nhân. Thông qua việc đăng ký kinh doanh, nhà nước công nhận tư cách thương gia của người đăng ký kinh doanh, đồng thời nhà nước nắm được những thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động thương mại của thương nhân đó như ngành nghề kinh doanh, vốn kinh doanh, nơi kinh doanh, ... để thực hiện chức năng quản lý của mình. Người nào cần biết thông tin về thương nhân cụ thể nào đó, có thể đến nơi thương nhân đã đăng ký kinh doanh để được cung cấp những thông tin cần thiết. 1.1.3.2. Các loại thương nhân Theo Điều 6 Luật thương mại Việt Nam năm 2005, thương nhân gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và cá nhân. Theo Điều 36 Nghị định 88 ngày 29 – 8 – 2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh thì một cá nhân, một hộ gia đình và một “nhóm người” có thể đăng ký kinh doanh để trở thành hộ kinh doanh và như vậy thì hộ kinh doanh cũng có thể là thương nhân. Như vậy, chúng ta có các loại thương nhân sau đây: - Thương nhân là cá nhân Cá nhân hay còn gọi là thể nhân là một con người cụ thể khi đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định của Luật Thương mại, cá nhân đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc các trường hợp pháp luật cấm kinh doanh có quyền đăng ký kinh doanh và khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện của thương nhân thì trở thành thương nhân. Kể từ khi nền kinh tế nước ta được phát triển theo cơ chế thị trường, nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, hàng triệu người dân đã bỏ vốn đầu tư để kinh doanh làm giàu cho mình và cho xã hội. Cá nhân có thể kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh, thành lập doanh nghiệp tư nhân, thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hoặc góp vốn với các chủ thể khác để thành lập công ty kinh doanh. Khi cá nhân thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì công ty này sẽ là chủ thể kinh doanh và có tư cách thương gia vì công ty có đủ tư cách pháp nhân, cá nhân này là chủ sở hữu công ty và là người đầu tư. Nhưng khi cá nhân này thành lập doanh nghiệp tư nhân thì cá nhân này là người kinh doanh trực tiếp nên cá nhân này là thương nhân. Trong trường hợp cá nhân đăng ký kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh cũng vậy, cá nhân này cũng vẫn là người kinh doanh trực tiếp vì vậy, cá nhân này là thương nhân. - Thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp Tuy Luật thương mại năm 2005 có quy định tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp là thương nhân, nhưng tổ chức kinh tế là gì thì luật lại không quy định. Do đó có thể suy đoán tổ chức kinh tế là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân như các loại hình công ty theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 như các loại công ty TNHH, công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty nhà nước theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2003. Với tư cách là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, các doanh nghiệp nói trên thực hiện hoạt động thương mại với danh nghĩa riêng của pháp nhân, chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của pháp nhân. Pháp nhân là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các quan hệ tố tụng . Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân này là thương nhân chứ không phải là những người làm việc trong doanh nghiệp. - Thương nhân là hộ kinh doanh Theo chương VI Nghị định 88 ngày 29-8-2006, cá nhân, một nhóm người hoặc một hộ gia đình có thể kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh. Đặc biệt là hộ kinh doanh cũng phải có tên thương mại. Do đó mà hộ kinh doanh này cũng có thể trở thành thương nhân sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Khái niệm chung về phân tích thống kê kết quả kinh doanh thương mại Khái niệm phân tích thống kê kết quả kinh doanh Sản xuất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Sản xuất xã hội đã trải qua nhiều phương thức, nhiều thời đại khác nhau nhưng đều chịu sự tác động bởi rất nhiều nhân tố chủ quan, khách quan đến hoạt động này của con người. Mặc dù đặc điểm kinh tế cũng như trình độ phát triển sản xuất xã hội ở mỗi nơi mỗi thời đại một khác, nhưng dù ở đâu và lúc nào con người cũng luôn luôn tìm kiếm một phương thức hoạt động có trí tuệ hơn, đem lại nhiều lợi ích hơn nhằm hướng đến một đời sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn. Từ nhu cầu đó, con người trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phải quan sát thực tế, phải tư duy, phải tổng hợp và phân tích các mặt hoạt động của mình. Mặt khác, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học kỹ thuật, bản thân các mối quan hệ kinh tế trong xã hội cũng phát triển ngày càng phức tạp và đa dạng, đòi hỏi con người cần phải nhận thức chúng một cách đầy đủ và chính xác để hoạt động sản xuất kinh doanh của mình được tốt hơn. Phân tích, theo nghĩa chung nhất thường được hiểu là sự chia nhỏ sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng đó (Nguyễn Thị My – Phân tích hoạt động kinh doanh). Trong lĩnh vực tự nhiên, sự chia nhỏ này được tiến hành với các phương tiện cụ thể như phân tích các loại vi sinh vật bằng kính hiển vi, phân tích các chất hoá học bằng các phản ứng... Trái lại trong các lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng, do đó việc phân tích phải tiến hành bằng những phương pháp trừu tượng. Để tìm hiểu khái niệm phân tích kết quả kinh doanh, trước tiên, ta tìm hiểu khái niệm phân tích hoạt động kinh doanh thương mại. Phân tích hoạt động kinh doanh hiểu theo nghĩa chung nhất là quá trình nghiên cứu tất cả các hiện tượng, các sự vật có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Quá trình phân tích được tiến hành từ bước khảo sát thực tế đến tư duy trừu tượng, tức là từ việc quan sát thực tế, thu thập thông tin số liệu, xử lý phân tích các thông tin số liệu, tìm nguyên nhân, đến việc đề ra các định hướng hoạt động và các giải pháp thực hiện các định hướng đó (Nguyễn Thị My – Phân tích hoạt động kinh doanh). Việc phân tích hoạt động kinh doanh được tiến hành với nhiều công việc khác nhau, bao gồm phân tích kết quả sản xuất kinh doanh, phân tích các yếu tố sản xuất kinh doanh, phân tích chi phí hoạt động kinh doanh, phân tích tài sản và vốn hoạt động của doanh nghiệp... Như vậy thì phân tích kết quả kinh doanh gắn liền với việc phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và là một khâu trong quá trình phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm lớn nhất của phân tích thống kê kết quả kinh doanh thương mại là lấy con số thống kê làm tư liệu, lấy phương pháp thống kê làm công cụ, phải dựa trên cơ sở phân tích lý luận toàn bộ sự kiện. Quá trình phân tích cũng như kết luận rút ra từ phân tích một trường hộp cụ thể nào cũng đều thể hiện tính khoa học và tính nghệ thuật. Sự đúng đắn của nó được xác nhận bằng chính thực tiễn. Vì vây, trong quá trình phân tích con người phải nhận thức được thực tế khách quan với những quy luật của nó, phải có những hiểu biết đầy đủ để đề ra những định hướng phù hợp với thực tế khách quan và đạt được hiệu quả trong thực tế. Nhiệm vụ, vai trò của phân tích thống kê kết quả kinh doanh Nhiệm vụ của phân tích thống kê kết quả kinh doanh thương mại là nêu lên xu hướng, mức độ biến động trong thời gian, không gian, so mục tiêu, các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố (giáo trình thống kê thương mại - trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội). Phân tích kết quả kinh doanh chiếm một vị trí rất quan trọng trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đó là một công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả mà các doanh nghiệp đã sử dụng từ trước đến nay. Tuy nhiên, trong cơ chế bao cấp cũ, phân tích hoạt động kinh doanh chưa phát huy đầy đủ tác dụng bới các doanh nghiệp hoạt động trong sự đùm bọc bao che của nhà nước. Nhà nước quyết định từ khâu sản xuất, đảm bảo nguyên vật liệu, giá cả đến địa chỉ tiêu thụ sản phẩm. Nếu hoạt động bị thua lỗ đã có nhà nước lo, doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm vẫn ung dung tồn tại. Trong điều kiện đó, kết quả sản xuất kinh doanh chưa được đánh giá đúng đắn, hiện tượng lời giả lỗ thật thường xuyên xảy ra. Giám đốc cũng như nhân viên không phải động não nhiều trong hoạt động, không cần tìm tòi sáng tạo, không quan tâm đầy đủ đến kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Phân tích kết quả kinh doanh thương mại có vai trò quan trọng đối với hoạt động của một doanh nghiệp: Thứ nhất, phân tích kết quả kinh doanh là nhằm đánh giá, xem xét việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế như thế nào, những mục tiêu đặt ra được thực hiện đến đâu, rút ra những tồn tại, tìm nguyên nhân khách quan, chủ quan và đề ra biện pháp khắc phục để tận dụng một cách triệt để thế mạnh của doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa rằng phân tích kết quả kinh doanh không chỉ là điểm kết thúc một chu kỳ kinh doanh mà còn là điểm khởi đầu của một hoạt động kinh doanh mới Thứ hai. phân tích kết quả kinh doanh có tác dụng giúp doanh nghiệp chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua phân tích kết quả kinh doanh theo thời gian như quý, tháng, năm đặc biệt theo từng thời điểm giúp doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh những bất hợp lý xảy ra. Điều này hết sức quan trọng vì nhiều doanh nghiệp do không phân tích cụ thể kết quả kinh doanh trong từng giai đoạn đã dẫn đến nhiều đơn vị xảy ra thua lỗ từ lâu mà không phát hiện ra. Đó cũng là do đơn vị chưa nhận thức, chưa coi trọng hết ý nghĩa của hoạt động phân tích thống kê kết quả kinh doanh. Thứ ba, hoạt động kinh doanh của bất cứ đơn vị nào cũng đều được tiến hành trong một môi trường nhất định với những chế độ chính sách pháp luật do nhà nước ban hành, với những môi trường kinh tế xã hội và điều kiện tự nhiên nhất định. Chính trong cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước, nhà nước phải tạo ra một môi trường kinh doanh thích hợp, thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là thước đo tính đúng đắn, hợp lý cảu các chế độ chính sách. luật pháp cũng như những quy định của nhà nước về các lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Như vậy, phân tích kết quả kinh doanh là một công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế và hoàn thiện chức năng đó. Nội dung, phạm vi phân tích thống kê kết quả kinh doanh Nội dung của phân tích thống kê kết quả kinh doanh thương mại là tiến hành phân tích theo các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh thương mại (tức hệ thống chỉ tiêu kết quả kinh doanh thương mại sẽ được phản ánh ở mục 1.3) Kết quả sản xuất kinh doanh có thể là kết quả của từng khâu riêng biệt như kết quả mua hàng, kết quả sản xuất, kết quả bán hàng... hay có thể là kết quả tổng hợp của quá trình kinh doanh: kết quả tài chính. Khi phân tích kết quả kinh doanh người ta hướng vào kết quả thực hiện các định hướng, mục tiêu kế hoạch, phương án đặt ra. Trong phân tích, kết quả kinh doanh được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế. Đó là sự xác định về nội dung và phạm vi của kết quả kinh doanh. Nội dung chủ yếu của phân tích là các chỉ tiêu kết quả kinh doanh như: doanh thu bán hàng, giá trị sản xuất, giá thành, lợi nhuận... Tuy nhiên, các chỉ tiêu kết quả kinh doanh luôn luôn được phân tích trong mối quan hệ với các yếu tố của quá trình kinh doanh như lao động, vật tư, tiền vốn... Khi phân tích cần hiểu rõ ranh giới giữa chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu chất lượng. Chỉ tiêu số lượng phản ánh lên quy mô kết quả hay điều kiện kinh doanh như: doanh thu, lao động, vốn, diện tích... Ngược lại, chỉ tiêu chất lượng phản ánh lên hiệu suất kinh doanh hoặc hiệu suất sử dụng các yếu tố kinh doanh như: giá thành đơn vị, tỷ suất chi phí, loanh lợi, năng suất lao động... Tuỳ mục đích phân tích, cần sử dụng các loại chỉ tiêu khác nhau: chỉ tiêu tuyệt đối, chỉ tiêu tương đối, chỉ tiêu bình quân... Chỉ tiêu tuyệt đối dùng để đánh giá quy mô kết quả kinh doanh hay điều kiện kinh doanh, chỉ tiêu tương đối dùng trong phân tích các mối quan hệ giữa các bộ phận, các quan hệ kết cấu, quan hệ tỷ lệ và xu hướng phát triển... Chỉ tiêu bình quân phản ánh trình độ phổ biến của các hiện tượng. Tuỳ mục đích và nội dung phân tích có thể dùng các chỉ tiêu hiện vật, chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu thời gian. Ngày nay, trong._. kinh tế thị trường các doanh nghiệp thường dùng chỉ tiêu giá trị, tuy nhiên các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp chuyên kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có quy mô lớn... vẫn sử dụng chỉ tiêu hiện vật bên cạnh chỉ tiêu giá trị. Trong phân tích cũng cần phân biệt chỉ tiêu với trị số chỉ tiêu. Chỉ tiêu có nội dung kinh tế tương đối ổn định, còn trị số chỉ tiêu luôn luôn thay đổi theo thời gian và địa điểm cụ thể. Không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả kinh doanh thông qua các chỉ tiêu kinh tế mà còn đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh biểu hiện trên các chỉ tiêu đó. Một cách chung nhất, nhân tố là những yếu tố bên trong của mỗi hiện tượng, quá trình... và mỗi biến động của nó tác động trực tiếp hay gián tiếp đến kết quả biểu hiện trên các chỉ tiêu. Ví dụ: doanh thu bán hàng phụ thuộc vào lượng hàng bán ra, giá cả bán ra và cơ cấu mặt hàng có giá bán ra khác nhau. Đến lượt mình khối lượng hàng hoá bán ra, giá cả hàng hoá bán ra, kết cấu hàng hoá bán ra lại chịu tác động bởi nhiều yếu tố khách quan, chủ quan khác nữa. Các nhân tố ảnh hưởng có thể chia thành nhiều loại khác nhau trên các góc độ khác nhau. - Trước hết theo tính tất yếu của nhân tố có thể phân thành 2 loại: nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Nhân tố chủ quan là nhân tố tác động đến đối tượng nghiên cứu như thế nào tuỳ thuộc vào nỗ lực chủ quan của chủ thể tiến hành kinh doanh. Những nhân tố như: trình độ sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn, trình độ khai thác các nhân tố khách quan của doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến giá thành, mức chi phí, thời gian lao động, lượng hàng hoá, cơ cấu hàng hoá... sản xuất kinh doanh. Nhân tố khách quan là loại nhân tố thường phát sinh và tác động như một yêu cầu tất yếu, không phụ thuộc vào chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Kết quả hoạt động của một doanh nghiệp có thể chịu tác động bởi các nhân tố khách quan như: sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, luật pháp chế độ chính sách kinh tế xã hội của nhà nước, môi trường vị trí kinh tế xã hội, tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng. Các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá, giá cả chi phí, giá cả dịch vụ thay đổi, thuế suất, lãi suất, suất tiền lương tối thiểu hay trung bình... cũng thay đổi theo. - Theo tính chất của nhân tố có thể chia nhân tố thành nhân tố số lượng và nhân tố chất lượng. Nhân tố số lượng phản ánh quy mô kinh doanh như: số lượng lao động, vật tư, lượng hàng hoá sản xuất, tiêu thụ... Ngược lại, nhân tố chất lượng thường phản ánh hiệu suất kinh doanh như: giá thành một sản phẩm, tỷ suất chi phí, năng suất lao động... Phân tích kết quả kinh doanh theo các nhân tố số lượng và chất lượng vừa giúp ích cho việc đánh giá chất lượng, phương hướng kinh doanh, vừa giúp cho việc xác định trình tự sắp xếp và thay thế các nhân tố khi tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh. - Để xác định rõ xu hướng tác động của nhân tố, người ta phân biệt những nhân tố tích cực (tác động tốt hay làm tăng độ lớn của hiệu quả kinh doanh) và nhân tố tiêu cực (có tác động xấu hay làm giảm quy mô kết quả kinh doanh). Trong phân tích cần xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng tổng hợp của các nhân tố tích cực và tiêu cực. Cần chú ý rằng khi phân loại các nhân tố phải tuỳ thuộc vào mối quan hệ cụ thể của nhân tố với chỉ tiêu phân tích. Chẳng hạn có những nhân tố trong mối quan hệ với chỉ tiêu này là loại nhân tố này, nhưng trong mối quan hệ với chỉ tiêu khác trở thành nhân tố khác Như vậy, tính phức tạp đa dạng của nội dụng phân tích được thể hiện qua hệ thống các chỉ tiêu kinh tế đánh giá kết quả kinh doanh. Việc xây dựng tương đối hoàn chỉnh hệ thống các chỉ tiêu với các phân hệ chỉ tiêu khác nhau, việc phân loại các nhân tố ảnh hưởng theo các góc độ khác nhau, không những giúp cho doanh nghiệp đánh gí một cách đầy đủ kết quả kinh doanh, sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp mà còn tìm ra được nguyên nhân của mặt mạnh, mặt yếu để có biện pháp tăng hiệu quả kinh doanh. Các phương pháp phân tích thống kê kết quả kinh doanh Khi phân tích, kết quả kinh doanh biểu hiện thành các chỉ tiêu kinh tế dưới sự tác động của các nhân tố mới và chỉ là quá trình “định tính”, cần phải lượng hoá các chỉ tiêu và nhân tố ở những trị số xác định với độ biến động xác định. Để thực hiện được các công việc cụ thể đó, cần nghiên cứu khái quát các phương pháp phân tích kết quả kinh doanh. Phương pháp luận của phân tích thống kê kết quả kinh doanh: Một môn khoa học ra đời bao giờ cũng có đối tượng nghiên cứu riêng và phương pháp nghiên cứu riêng, thích ứng với đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Để nhận thức và cải tạo được chúng phù hợp với thực tế khách quan và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đòi hỏi phải có phương pháp nghiên cứu khoa học. Đó là phương pháp luận và các phương pháp tính toán kỹ thuật dùng trong phân tích. Phương pháp luận của phân tích kết quả kinh doanh là cách nhận thức đối với việc nghiên cứu kết quả kinh doanh trong mối quan hệ biện chứng với các sự kiện, các hiện tượng kinh tế bao quanh. Cơ sở phương pháp luận của phân tích này là phép duy vật biện chứng của C.Mác và F. Ăngghen. Ngoài ra cơ sở lý luận của phân tích kết quả kinh doanh còn là các môn khoa học về kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô, kinh tế học chuyên ngành. Khi nghiên cứu một hiện tượng, một quá trình kinh tế nào đó cần nắm vững những đặc trưng kinh tế chung nhất, đồng thời phải nắm được đặc điểm của ngành của nơi mà đối tượng đó được hình thành và phát triển. Các phương pháp đặc thù: - Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng lâu đời phổ biến nhất. So sánh trong phân tích là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hoá có cùng một nội dung, một tính chất tương tự để xác đinh xu hướng mức độ biến động của các chỉ tiêu. Nó cho phép ta tổng hợp được những nét chung, tách ra được những nét riêng của các hiện tượng được so sánh, trên cơ sở đó đánh giá được các mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả để tìm ra các giải pháp quản lý tối ưu trong mỗi trường hợp cụ thể. Ưu điểm của phương pháp này là không đòi hỏi số liệu của nhiều năm mà chỉ cần số liệu của ít nhất hai năm. Chính vì vậy mà chuyên đề này đã sử dụng phương pháp so sánh một cách rộng rãi, kết hợp với phương pháp dãy số thời gian nhằm phân tích những biến động của kết quả kinh doanh, so sánh kết quả kinh doanh giữa các năm liền kề nhau cũng như giữa năm đầu tiên và năm cuối cùng của số liệu. - Phương pháp chỉ số: Chỉ số trong thống kê là số tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của một hiện tượng nghiên cứu. (Giáo trình lý thuyết thống kê - Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội) Chỉ số là phương pháp phân tích thống kê không những phân tích các hiện tượng kinh tế đơn giản một cách hiệu quả thông qua các chỉ số đơn mà còn có tác dụng nghiên cứu sự biến động của những hiện tượng kinh tế phức tạp, bao gồm nhiều phần tử mà các đại lượng biểu hiện không thể trực tiếp cộng được với nhau thông qua các chỉ số tổng hợp. Chỉ số thống kê được xác định bằng cách thiết lập quan hệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng ở hai thời gian hoặc không gian khác nhau nhằm nêu lên sự biến động qua thời gian hoặc sự khác biệt về không gian đối với hiện tượng nghiên cứu. Tùy theo những góc độ nghiên cứu khác nhau, chỉ số có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau như: chỉ số đơn, chỉ số tổng hợp, chỉ số phát triển, chỉ số kế hoạch, chỉ số không gian… Vận dụng tính toán trong thực tế đối với các chỉ số đơn sau khi đã tổng hợp được nguồn dữ liệu, có thể dễ dàng thiết lập quan hệ so sánh để phân tích cho từng đơn vị phần tử trong tổng thể. Tuy nhiên, các chỉ số thống kê sử dụng phổ biến trong kinh tế và kinh doanh lại là những chỉ số tổng hợp phản ánh cho các hiện tượng phức tạp như chỉ số giá tiêu dùng CPI, chỉ số giá xuất nhập khẩu, chỉ số chứng khoán, … Khi tính các chỉ số này cần tổng hợp theo chỉ tiêu nghiên cứu cho một nhóm đơn vị được lựa chọn hoặc toàn bộ tổng thể và trên cơ sở đó thiết lập quan hệ so sánh. Xuất phát từ yêu cầu so sánh các mức độ của hiện tượng phức tạp khi thiết lập chỉ số, phương pháp chỉ số có hai đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất: xây dựng chỉ số đối với hiện tượng kinh tế phức tạp thì biểu hiện về số lượng của các phần tử được chuyển về dạng chung để có thể trực tiếp cộng được với nhau, dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa nhân tố nghiên cứu với các nhân tố khác. Thứ hai: khi có nhiều nhân tố tham gia trong công thức chỉ số, việc phân tích biến động của một nhân tố được đặt trong điều kiện giả định các nhân tố khác không thay đổi. Việc giả định như vậy tạo khả năng loại trừ ảnh hưởng đến biến động của nhân tố không nghiên cứu đối với kết quả so sánh. Vận dụng phương pháp chỉ số trong phân tích thống kê có vai trò rất quan trọng. Nó có thể biểu hiện biến động của hiện tượng nghiên cứu qua những điều kiện thời gian, không gian khác nhau, nó có thể biểu hiện nhiệm vụ kế hoạch và phân tích tình hình thực hiện kế hoạch đối với các chỉ tiêu nghiên cứu hay phân tích vai trò ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của hiện tượng kinh tế được cấu thành từ nhiều nhân tố. Thực chất đây cũng là phương pháp phân tích mối liên hệ nhằm nêu lên các nguyên nhân quyết định sự biến động của hiện tượng phức tạp và tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của mỗi nguyên nhân này. Tuy nhiên, trong thực tế thực tập tại công ty Tân Liên Minh, việc thu thập số liệu nhằm phân tích kết quả kinh doanh của công ty bằng phương pháp chỉ số là rất khó khăn do bị hạn chế bởi trình độ của người làm chuyên đề. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới một chỉ tiêu kết quả kinh doanh, và việc đưa ra được số liệu về các nhân tố đó đòi hỏi phải có sự tổng hợp từ rất nhiều số liệu phức tạp khác nhau, chẳng hạn, để phân tích sự ảnh hưởng của nhân tố quy mô hàng hóa bán ra và giá cả của sản phẩm, đòi hỏi phải tổng hợp số liệu từ gần một nghìn sản phẩm với nhiều chủng loại khác nhau và đôi khi người viết chuyên đề cũng không tìm được số liệu của lượng hàng nhập, xuất kho. Chính vì vậy mà trong chuyên đề này, phương pháp chỉ số đã không được vận dụng cho việc phân tích kết quả kinh doanh thương mại của công ty. - Phương pháp phân tích dãy số thời gian: Mặt lượng của hiện tượng thường xuyên biến động qua thời gian, việc nghiên cứu sự biến động này được thực hiện trên cơ sở phân tích dãy số thời gian. Dãy số thời gian là dãy các số liệu thống kê của hiện tượng nghiên cứu được sắp xếp theo thứ tự thời gian. (Giáo trình lý thuyết thống kê - trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội) Để phân tích dãy số thời gian được chính xác thì yêu cầu cơ bản khi xây dựng dãy số thời gian là phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Cụ thể: + Nội dung và phương pháp tính chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất + Phạm vi hiện tượng nghiên cứu qua thời gian phải thống nhất + Các khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau, nhất là đối với các dãy số thời kỳ Trong thực tế, do những nguyên nhân khác nhau, các yêu cầu trên có thể bị vi phạm, khi đó đòi hỏi có sự chỉnh lý phù hợp để tiến hành phân tích. Việc phân tích dãy số thời gian cho phép nhận thức các đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian, tính quy luật của sự biến động, từ đó tiến hành dự đoán về mức độ của hiện tượng trong thời gian tới. Phương pháp phân tích dãy số thời gian là phương pháp được sử dụng chủ yếu để phân tích kết quả kinh doanh của công ty Tân Liên Minh. Một phần vì việc vận dụng phương pháp này đơn giản, dễ thực hiện, nhưng phần lớn là do công tác thu thập số liệu cho việc phân tích này tương đối thuận lợi đối với người viết chuyên đề trong quá trình thực tập tại công ty. Phương pháp này đã được vận dụng qua việc tính toán các tiêu thức như lượng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (δi), tốc độ phát triển liên hoàn (ti), tốc độ tăng (giảm) (ai), cũng như các chỉ tiêu bình quân… nhằm đánh giá đặc điểm biến động của các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh của công ty qua các năm, từ đó nhận thức được những kết quả mà công ty đã đạt được, những tồn tại mà công ty gặp phải và cần giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. - Phương pháp phân tích hồi quy tương quan: Đây là phương pháp phân tích thường được sử dụng trong thống kê để nghiên cứu mối liên hệ giữa các hiện tượng, như mối liên hệ giữa các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với kết quả sản xuất, mối liên hệ giữa thu nhập và tiêu dùng, mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội… Ngoài các phương pháp trên, trong thực tế người ta còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp đồ thị, phương pháp phân tổ… Nguồn tài liệu và yêu cầu của công tác phân tích kết quả kinh doanh Nguồn tài liệu để phân tích kết quả kinh doanh Khi thực hiện phân tích kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cần phải thu thập những tài liệu sau đây: - Bảng cân đối kế toán - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh - Bảng thuyết minh báo cáo tài chính - Các bảng báo cáo đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh và định hướng phát triển của doanh nghiệp qua các năm hoạt động Yêu cầu của công tác phân tích kết quả kinh doanh Muốn công tác phân tích kết quả kinh doanh mang ý nghĩa thiết thực, làm cơ sở tham mưu cho các nhà quản lý đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình, thì công tác phân tích kinh tế phải đáp ứng các yêu cầu sau: - Tính đầy đủ: Nội dung và kết quả phân tích phụ thuộc rất nhiều vào sự đầy đủ nguồn tài liệu sưu tập. Tính đầy đủ còn thể hiện phải tính toán tất cả các chỉ tiêu cần thiết thì mới đánh giá đúng được đối tượng cần nghiên cứu - Tính chính xác: chất lượng của công tác phân tích phụ thuộc rất nhiều vào tính chính xác về nguồn số liệu khai thác; phụ thuộc vào sự chính xác lựa chọn phương pháp phân tích, chỉ tiêu dùng để phân tích. - Tính kịp thời: sau mỗi thương vụ hoặc chu kỳ sản xuất kinh doanh phải kịp thời tổ chức phân tích đánh giá kết quả kinh doanh để nắm bắt được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tìm ra những mặt mạnh, mặt tồn tại trong kinh doanh để đề xuất những giải pháp cho thời kỳ kinh doanh tiếp theo có hiệu quả hơn. Để đạt được những yêu cầu trên cần tổ chức tốt công tác phân tích phù hợp với loại hình, điều kiện, quy mô kinh doanh và trình độ quản lý ở doanh nghiệp. Tổ chức công tác phân tích thường được tiến hành theo 3 bước sau: - Chuẩn bị cho quá trình phân tích. - Tiến hành phân tích. - Tổng hợp, đánh giá kết quả phân tích. Các bước này có những nội dung, vị trí riêng nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, do đó cần tổ chức tốt từng bước để không ảnh hưởng đến quá trình phân tích chung. Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả kinh doanh 1.3.1. Tổng doanh số kinh doanh “Tổng doanh số kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là chỉ tiêu bằng tiền biểu hiện toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong kỳ nghiên cứu, bao gồm cả dịch vụ hoàn thành và dịch vụ chưa hoàn thành ở các mức độ khác nhau, tức là gồm kết quả hoạt động mua (qm), chuyển bán (qcb) và tiêu thụ (qb)” (giáo trình thống kê thương mại - trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội). ∑pq = ∑pqm + ∆∑pqcb Trong đó: ∑pqm - Tổng giá trị hàng mua trong kỳ (có thể theo giá mua…) ∑pqb - Tổng giá trị hàng hóa bán ra (theo các loại giá mua vào, bán ra…) ∆∑pqcb – Giá trị hàng hóa chuyển bán chưa thanh toán Trong thực tế, nhiều khi chỉ tiêu mua vào ít được chú ý đúng mức mặc dù tự thân nó có ý nghĩa quan trọng trong việc cân đối mua bán và dự trữ cũng như trong việc xác định kết quả hoạt động của các bộ phận (thậm chí do một số điều kiện, có tổ chức thương mại chủ yếu làm nhiệm vụ mua vào như thu mua nông sản). 1.3.2. Doanh thu Doanh thu nói chung là số tiền thu được nhờ tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp các dịch vụ. Doanh thu của doanh nghiệp thương mại là gì? Hiện chưa có quan niệm rõ ràng về vấn đề này. Theo quan điểm thứ nhất: Đồng nhất doanh thu và doanh số bán hàng, coi doanh số mua vào chỉ là một bộ phận chi phí kinh doanh như các chi phí khác. Theo quan niệm thứ hai: Đồng nhất doanh thu với chiết khấu thương mại, coi doanh thu là số tiền thu được do cung cấp dịch vụ hoàn thành, không tính đến sản phẩm chưa hoàn thành. Đây chính là quan điểm cần phân biệt giữa doanh thu hay chiết khấu với giá trị sản xuất thương mại. Quan niệm này gần gũi với quan niệm chung hơn. (Giáo trình thống kê thương mại - trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội). Nhìn chung, có thể nói, doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ số tiền bán sản phẩm, hàng hóa, cung ứng dịch vụ sau khi trừ các khoản thuế thanh toán, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ) và được khách hàng chấp nhận thanh toán (không phân biệt đã thu hay chưa thu tiền) Doanh thu phát sinh từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ là phần doanh thu phát sinh từ giao dịch được xác định bởi thoả thuận giữa doanh nghiệp với bên mua hoặc bên sử dụng tài sản. Doanh thu = Giá trị hợp lý từ các khoản thu được hoặc sẽ thu được– CK thương mại - giảm giá hàng bán – DT hàng bán trả lại Doanh thu hoạt động tài chính: Phát sinh từ các giao dịch mà DN tiến hành thuộc hoạt động tài chính như tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia, các khoản liên quan đến HĐ đầu tư tài chính khác Chi phí HĐ bán hàng và cung cấp dịch vụ: là những khoản chi phí phát sinh liên quan đến giá vốn của lượng sản phẩm tiêu thụ và lượng dịch vụ đã cung cấp cùng chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN phân bổ cho lượng SP, DV, HH đã tiêu thụ trong kỳ Chi phí HĐ tài chính: là những khoản chi phí phát sinh từ các giao dịch mà DN tiến hành thuộc hoạt động tài chính như lãi tiền vay, chi phí SD bản quyền, số lỗ đầu tư chứng khoán và đầu tư tài chính khác và các khoản chi phí liên quan. Chi phí khác: là những chi phí phát sinh liên quan đến hoạt động xảy ra không thường xuyên, ngoài các hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính. VD: chi phí thanh lý TSCĐ, chi phí môi giới, dịch vụ… Phù hợp với doanh thu, thu nhập và chi phí là Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. KQ BH = DT thuần về BH và CC dịch vụ - Giá vốn hàng tiêu thụ - CP BH, QLDN KQ HĐ tài chính = DT HĐ tài chính – CP HĐ tài chính KQ khác =TN khác – CP khác Giá trị sản xuất thương mại là phần giá trị sản phẩm vật chất tăng thêm trong lưu thông nhờ hoạt động thương mại. Đó là kết quả hoạt động thương mại do lao động thương mại tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Cũng như các ngành khác, giá trị sản xuất thương mại được tính theo giá thị trường theo một trong hai loại gí cụ thể: giá chưa và đã tính cả thuế sản xuất. Giá trị sản xuất thương mại được tính theo một trong hai công thức : GOTM = (Doanh số bán ra – giá vốn của hàng hóa bán ra) – phí vận tải thuê ngoài = ∑(pb – pm – n*)qb = ∑pbqb - ∑pmqb – ∑n*qb = Chi phí lưu thông – phí vận tải thuê ngoài ± lãi, lỗ kinh doanh thương mại + thuế sản xuất Trong đó, n* là tỷ suất chi phí lưu thông hoàn toàn (tính cả thuế) 1.3.3. Giá trị tăng thêm thương mại (VATM) Giá trị tăng thêm của thương mại là bộ phận giá trị mới do lao động thương mại tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm (Giáo trình thống kê thương mại - trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội). Nói cách khác, giá trị tăng thêm thương mại là bộ phận giá trị sản xuất thương mại còn lại sau khi trừ đi chi phí trung gian (ICTM). Phù hợp với chỉ tiêu giá trị sản xuất thương mại, giá trị tăng thêm thương mại được tính theo giá thị trường. Giá trị tăng thêm thương mại được tính theo một trong hai phương pháp sau: Phương pháp sản xuất và phương pháp phân phối Theo phương pháp sản xuất ta có: VATM(SX) = GOTM - ICTM Với GOTM: Giá trị sản xuất thương mại ICTM: Chi phí trung gian thương mại Trong đó, chi phí trung gian thương mại là toàn bộ chi phí sản phẩm vật chất và dịch vụ cho nhu cầu sản xuất thường xuyên của doanh nghiệp, không kể chi phí khấu hao. Chi phí sản xuất dịch vụ ở đây bao gồm cả cho nhu cầu trực tiếp, thường xuyên của sản xuất và cho nhu cầu văn hóa tinh thần của lao động thương mại liên quan trực tiếp đến sản xuất, do sản xuất gây ra. Theo phương pháp phân phối ta có: VATM(pp) = ∑TNI Trong đó, TNI là thu nhập lần đầu, là thu nhập nhờ sản xuất mà có. Thu nhập lần đầu của lao động thương mại gồm: thù lao lao động và các khoản thu nhập khác có tính chất lương, bảo hiểm xã hội thay lương, tiền ăn trưa, ca ba… Thu nhập lần đầu của doanh nghiệp thương mại là lợi nhuận còn lại (hay còn gọi là số dư kinh doanh thuần), có thể bao gồm toàn bộ hay một phần chi phí khấu hao TSCĐ. Thu nhập lần đầu của nhà nước (xã hội) gồm thuế gián thu. Đó là thuế kinh doanh và các loại phí gián thu. Nó cũng có thể gồm toàn bộ hay một phần chi phí khấu hao TSCĐ. 1.3.4. Tổng mức lợi nhuận kinh doanh thương mại Tổng mức lợi nhuận kinh doanh thương mại là bộ phận giá trị thặng dư do lao động thương mại tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Đó là phần tăng thêm của kết quả kinh doanh thương mại so với chi phí lưu thông, tức là doanh thu còn lại sau khi trừ đi chi phí lưu thông (Giáo trình thống kê thương mại - trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội). Chỉ tiêu này cũng phản ánh kết quả kinh doanh của thương mại trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tổng mức lợi nhuận kinh doanh thương mại được xác định theo công thức: ∑L = Doanh thu (C) – Chi phí lưu thông hoàn toàn hay mở rộng (F) = Doanh thu – (Chi phí lưu thông + thuế) =∑ ( pb – pm – n)qb =∑ (c – n)qb hoặc = Doanh thu bán hàng – chi phí lưu thông toàn bộ =∑ pbqb –∑ (pm + n)qb Trong đó: pb – đơn giá bán Pm – đơn giá mua n- tỷ suất chi phí lưu thông hoàn toàn qb - lượng hàng hóa bán ra c - tỷ suất chiết khấu, là chênh lệch giữa giá bán và giá mua một đơn vị hàng hóa 1.3.5. Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận là mức lợi nhuận thu được trên một đơn vị hàng hóa lưu chuyển, một đơn vị chi phí lưu thông hay một đơn vị vốn. (giáo trình thống kê thương mại - trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội) Phù hợp với khái niệm đó, tỷ suất lợi nhuận có thể được xác định theo một trong các công thức sau đây: l = (1) l = (2) l = (3) l = (4) l = c – n* (5) Trong đó: l: Tỷ suất lợi nhuận q: lượng hàng hóa lưu chuyển L: lợi nhuận của công ty p: giá của hàng hóa lưu chuyển V: Lượng vốn lưu chuyển c: tỷ suất chiết khấu CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY TÂN LIÊN MINH GIAI ĐOẠN 2003-2007 2.1. Một số nét sơ lược về công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh Công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh là công ty TNHH có hai thành viên trở lên, được thành lập theo quyết định số 0102000064 của Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội. Vốn đăng ký kinh doanh là 15.000.000.000 (mười lăm tỷ đồng), trụ sở chính đặt tại số 346 Trần Khát Chân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tên giao dịch quốc tế: TAN LIEN MINH TECHNOLOGY AND TRADING COMPANY LIMETED Tên viết tắt: TAN LIEN MINH.CO.,LTD Các chi nhánh và văn phòng đại diện: - CHI NHÁNH CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ KỸ THUẬT TÂN LIÊN MINH Địa chỉ: 19/3 Bình Thới, phường 11, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh - CHI NHÁNH CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ KỸ THUẬT TÂN LIÊN MINH TẠI ĐÀ NẴNG Địa chỉ: 48 đường Trần Cao Vân, phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng -Văn phòng đại diện: CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ KỸ THUẬT TÂN LIÊN MINH- VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN TẠI HẢI PHÒNG - Địa chỉ: số 41 Văn Cao, phường Đổng Quốc Bình, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Sự ra đời và phát triển của công ty có thể được đánh dấu bởi những mốc thời gian sau: - Năm 1995, Tân Liên Minh mới chỉ hoạt động như một cửa hàng kinh doanh đồ nội thất và là nhà phân phối của hãng nội thất văn phòng GODREJ (Ấn Độ). Đây là những năm đầu Việt Nam bắt đầu hội nhập kinh tế nên hoạt động của cửa hàng đã gặp phải không ít thách thức và khó khăn. Tuy nhiên, với phương châm hoạt động của mình, Tân Liên Minh đã dần dần tạo được uy tín với nhiều đối tác trong và ngoài nước. - Tháng 2 năm 2000, với mong muốn mở rộng phạm vi hoạt động và đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước, công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh được thành lập. Cùng với việc là nhà phân phối của hãng GODREJ, Tân Liên Minh cũng trở thành nhà phân phối máy hàn và cắt của hãng DAIDEN (Nhật Bản). - Năm 2001, Tân Liên Minh trở thành nhà phân phối độc quyền tại Việt Nam thiết bị hàn và cắt hơi TANAKA (Nhật Bản). - Năm 2002, thành lập văn phòng đại diện của công ty tại thành phố Hải Phòng. - Năm 2004, chi nhánh của công ty được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh và trở thành nhà phân phối ống thuỷ lực của hãng SSANGMA (Hàn Quốc). - Năm 2005, thành lập chi nhánh của công ty tại Đà Nẵng và trở thành nhà phân phối độc quyền ống thuỷ lực BRIDGESTONE (Nhật Bản) - Năm 2007, thành lập chi nhánh công ty tại thành phố Cần Thơ, phân phối thiết bị điện NGK (Nhật Bản) - Năm 2008 trở thành nhà phân phối chính thức sản phẩm dụng cụ cầm tay MAKITA (Nhật Bản) Hệ thống tổ chức và chức năng của công ty Tân Liên Minh Tân Liên Minh là công ty TNHH hai thành viên trở lên, cơ cấu tổ chức nhân sự bao gồm: - Hội đồng thành viên gồm các thành viên (3 người), là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Hội đồng thành viên họp định kỳ mỗi năm 1 lần, ngoài ra, Hội đồng thành viên có thể được triệu tập họp bất thường khi có đủ điều kiện theo quy định của điều lệ công ty hoặc theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. - Giám đốc kiêm chủ tịch hội đồng thành viên do Hội đồng thành viên bầu ra Bộ máy quản lý của công ty được xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác giữa các bộ phận, đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ thống nhất tạo ra sự thông suốt trong công việc. Ngoài ra, tổ chức công ty còn gồm các chi nhánh và văn phòng đại diện: - Chi nhánh công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh tại Thành Phố Hồ Chí Minh - Chi nhánh công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh tại Đà Nẵng - Chi nhánh công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh tại Cần Thơ - Văn phòng đại diện: công ty TNHH thương mại và kỹ thuật Tân Liên Minh – Văn Phòng đại diện tại Hải Phòng Riêng tại trụ sở của công ty hiện nay, đội ngũ nhân viên của công ty là 34 người, trong đó 14 người có trình độ đại học, 20 người đã qua các trường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn. Công ty được tổ chức thành 3 bộ phận chính: - Bộ phận quản lý hành chính kế toán - số 346, Trần Khát Chân, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. - Bộ phận kinh doanh thiết bị hàn và dụng cụ cơ khí cầm tay - số 346, Trần Khát Chân, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. - Bộ phận kinh doanh thiết bị nội thất và thiết bị văn phòng - số 7, Ngõ Giáp Bát, Phường Giải Phóng, Quận Hoàng Mai, Hà Nội. - Xưởng sản xuất nội thất tại Thanh Xuân- Hà Nội Chức năng kinh doanh chính của công ty là: - Cung cấp và lắp đặt các sản phẩm, trang thiết bị nội thất văn phòng. - Buôn bán tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng (chủ yếu là thiết bị nội thất văn phòng, thiết bị hàn cắt kim loại, dụng cụ điện cầm tay, điện, điện tử, điện lạnh, thiết bị văn phòng, thiết bị hàn và các loại máy móc công nghiệp, dân dụng): - Đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hoá: - Dịch vụ sửa chữa, lắp đặt, bảo hành sản phẩm công ty kinh doanh. Một số kết quả mà công ty đã đạt được trong thời gian qua: Từ việc xuất phát là một cửa hàng kinh doanh đồ nội thất cho đến nay, Tân Liên Minh đã trở thành một trong những công ty thương mại và kỹ thuật có uy tín với thị trường trong nước và là đối tác tin cậy của nhiều nhà sản xuất nổi tiếng trên thế giới, có chi nhánh và văn phòng đại diện ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam. 2.1.3.1. Hiện nay công ty là đại lý phân phối chính thức của các sản phẩm sau: * Thiết bị cơ khí: - Đại lý độc quyền tại Việt Nam thiết bị hàn và cắt hơi TANAKA - Nhật Bản. - Đại lý độc quyền tại Việt Nam thiết bị hàn và cắt DAIDEN của nhà sản xuất OSAKA DENKI thuộc tập đoàn DAIHEN Corporation (OTC) - Nhật Bản - Nhà phân phối que hàn và vật liệu hàn cắt HUYNDAI – Hàn Quốc - Nhà phân phối cáp hàn TRIANGLE - Australia - Nhà phân phối độc quyền ống thuỷ lực BRIDGESTONE - Nhật Bản. - Nhà phân phối phía Bắc que hàn và vật liệu hàn YAWATA của tập đoàn NIPPON SYEEL - Nhật Bản. - Nhà phân phối chính thức sản phẩm dụng cụ cầm tay MAKITA - Nhật Bản. * Sản phẩm nội thất văn phòng: - Nhà phân phối phía Bắc sản phẩm nội thất văn phòng GODREJ - Việt Nam. - Nhà phân phối sản phẩm nội thất cao cấp Viêtchin (Đài Loan) - Nhà phân phối sản phẩm nội thất cao cấp YATOMO (Nhật Bản) - Nhà phân phối sản phẩm ghế văn phòng DINHPHU tiêu chuẩn Đài Loan. - Đại lý sản phẩm nội thất FAMI tiêu chuẩn Hàn Quốc. - Đại lý sản phẩm nội thất Hoà Phát. - Kinh doanh các sản phẩm nội thất cao cấp nhập khẩu… 2.1.3.2. Các khách hàng truyền thống của công ty Với hơn 10 năm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh cung cấp và lắp đặt trang thiết bị nội thất văn phòng, 3 năm hoạt động trong lĩnh vực thiết bị hàn và cắt kim loại, công ty đã xây dựng được một hệ thống khách hàng truyền thống như: * Khối văn phòng TW Đảng - Nhà lưu trữ TW Đảng số 9, Nguyễn Cảnh Trân, Hà Nội. - Ban văn hóa tư tưởng TW số 10, Nguyễn Cảnh Trân, Hà Nội. - Văn Phòng Đảng uỷ Khối các doanh nghiệp TW số 308, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội. - Văn Phòng Website Đảng Cộng Sản Việt Nam số 202, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội * Tổng công ty hàng không Việt Nam - Trung tâm dịch vụ và quản lý bay – Gia Lâm, Hà Nội. - Xí nghiệp máy bay A 76 – sân bay quốc tế Nội Bài. * Tổng công ty vận tải Hà Nội - Văn phòng tổng công ty vận tải Hà Nội số 32, Nguyễn Công Trứ, Hà Nội. - Xí nghiệp xe buýt Hà Nội số 9, Lạc Trung, Hà Nội. * Tổng Công ty lắp máy Việt Nam - Công ty lắp máy và xây dựng số 10 - Công ty lắp máy và xây dựng số 3 - Công ty lắp máy và xây dựng số 5 - Công ty lắp máy và xây dựng số 69-1 - Công ty lắp máy và xây dựng số 69-3 * Tổng công ty cơ khí xây dựng - Công ty cơ khí xây dựng Đại Mỗ - Công ty cơ khí xây dựng số 7 (Liên Ninh) - Công ty thi công cơ giới và lắp máy * Tổng công ty xi măng - Công ty xi măng Bút Sơn - Công ty xi măng Nghi Sơn - Công ty xi măng Bỉm Sơn - Công ty xi măng Hoàng Thạch * Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ - Nhà máy đóng tàu Bến Kiền - Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng - Nhà máy đóng tàu Hạ Long * Các công ty liên doanh: - Công ty FORD Việt Nam - Công ty MITSUI Th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2199.doc
Tài liệu liên quan