Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Khu vực Hai Bà Trưng

Lời mở đầu Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước theo hướng mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đảng ta thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam phát triển với

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Khu vực Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy mô ngày càng lớn, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ vươn lên cạnh tranh với hàng hoá, dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế ngày càng tăng. Bên cạnh nguồn vốn tự có (thường không lớn) các doanh nghiệp phải tìm mọi cách huy động lượng vốn lớn hơn nhiều để đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất- kinh doanh. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) là những địa chỉ cung cấp nguồn vốn chủ yếu để các doanh nghiệp thực hiện chiến lược sản xuất- kinh doanh. Vì vậy, sự phát triển của các NHTM có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Do đó Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến sự phát triển của ngành Ngân hàng nói chung, sự phát triển của các NHTM nói riêng, đặc biệt đối với các NHTM Nhà nước được xếp loại doanh nghiệp đặc biệt. NHTM hoạt động kinh doanh vừa với danh nghĩa là một doanh nghiệp tổ chức hạch toán kinh tế- kinh doanh, vừa với vai trò trung gian tài chính, trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Với vai trò trung gian tài chính, NHTM tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối chúng cho các nhu cầu hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp và doanh nhân theo nguyên tắc tín dụng. Chất lượng hoạt động kinh doanh – dịch vụ của các NHTM tác động đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của các khách hàng, đồng thời kết quả sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng có tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của NHTM. Các rủi ro của tất cả các khách hàng vay vốn đều ít nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của NHTM. Vì thế, để huy động được nhiều vốn và cho vay đảm bảo an toàn, có hiệu quả, đúng pháp luật có ý nghĩa sống còn đối với mỗi NHTM. Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCT) là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng Ngân hàng. Chi nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng là một đơn vị thành viên của NHCT Việt Nam - một chi nhánh lớn được xếp doanh nghiệp hạng I. Bởi vậy, nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng: huy động vốn và cho vay vốn tại một Ngân hàng cơ sở để từ đó rút ra nhận xét về những thành công và những hạn chế, tồn tại, vướng mắc, trên cơ sở đó đề suất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng Ngân hàng là điều cần thiết. Vì lẽ đó em chọn đề tài nghiên cứu: “Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Khu vực Hai Bà Trưng” làm luận văn tốt nghiệp. Nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động tín dụng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng tại chi nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng của chi nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng Em xin chân thành cảm ơn GS .TS. Lương Trọng Yêm, các thầy cô giáo và ban giám đốc cùng các cô chú cán bộ chi nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng đã tận tình giúp đỡ hướng dẫn em trong quá trình học tập, thực tập cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Chương I những vấn đề chung về hoạt động tín dụng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 1.1.1.Khái niệm và bản chất của tín dụng Ngân hàng a. Khái niệm Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo các điều kiện đảm bảo thoả thuận giữa hai bên, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. b.Bản chất của tín dụng ngân hàng Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua các ngân hàng. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình thức huy động vốn khác nhau huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này để đem cho vay với lãi suất lớn hơn lãi suất tiền gửi. Là trung gian nên ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế nói chung được ngân hàng điều hoà sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như vậy, ngân hàng bằng hoạt động của mình đã góp phần vào việc nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội, thông qua chức năng tạo tiền ngân hàng có thể nhân nguồn tiền gửi tăng trưởng theo bội số tạo tiền. Qua đó, ngân hàng sẽ được hưởng phần chênh lệch giữa lãi cho vay và lãi trả tiền gửi. 1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Nó thúc đẩy sản xuất và lưu thông phát triển, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Tín dụng ngân hàng là công cụ điều hoà lưu thông tiền tệ và thông qua đó điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng có chức năng huy động vốn và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi để đưa vào sử dụng. Cụ thể: Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục và ngày càng mở rộng. Sự thiếu vốn là quá trình xảy ra thường xuyên ở các doanh nghiệp. Chính trong quá trình tập trung và phân phối vốn, tín dụng ngân hàng huy động vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng của tất cả các thành phần kinh tế và trong dân cư thành nguồn vốn để cho vay, đã góp phần tích luỹ và điều hoà vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bù đắp được nhu cầu vốn tạm thời, giúp cho quá trình sản xuất - kinh doanh được liên tục. Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế và góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong môi trường cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh luôn luôn phải chủ động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tìm kiếm thị trường mới nhằm làm cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Để thực hiện được những việc làm này đòi hỏi phải có một khối lượng lớn về vốn. Chính tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn tài trợ cho các nhu cầu này. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển hoạt động kinh doanh từ ngành này sang ngành khác và chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn lớn đến như vậy cho việc thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh. Các nhà sản xuất kinh doanh sẽ dễ dàng chuyển từ những ngành có lợi nhuận thấp sang những ngành có lợi nhuận cao, tạo điều kiện cho việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế nhằm hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành kinh tế kém phát triển và những ngành kinh tế mũi nhọn. Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi đối với những ngành kinh tế mũi nhọn cũng như những ngành kinh tế kém phát triển nhưng cần thiết cho quốc kế dân sinh, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy những ngành kinh tế này phát triển. Mặt khác với đặc trưng hoàn trả cả vốn lẫn lãi, tín dụng ngân hàng đã giúp cho việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp có hiệu quả. Chính điều này đã thể hiện sự ưu việt hơn của tín dụng ngân hàng so với việc ngân sách đầu tư vào lĩnh vực đó, vì khi được cấp vốn ngân sách người sử dụng thường ít quan tâm tới việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả bởi lẽ nguồn vốn này được cấp phát mà không phải hoàn trả. Tín dụng ngân hàng có vai trò quyết định đến sự ổn định lưu thông tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường, việc chú trọng phát triển lưu thông hàng hoá phải luôn gắn liền với việc ổn định lưu thông tiền tệ. Do tính ưu việt của mình tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự ổn định lưu thông tiền tệ. Trước hết ngân hàng là kênh quan trọng để đưa tiền vào lưu thông, có khả năng kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với lưu thông hàng hoá. Nếu tín dụng ngân hàng được thực hiện một cách có hiệu quả sẽ đảm bảo khối lượng tiền cung ứng phù hợp vì khi cho vay, ngân hàng đã đưa tiền vào lưu thông. Mặt khác, với chức năng tạo tiền, các ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng tiền gửi làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Vì vậy các ngân hàng trung ương phải sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ để thực hiện việc điều tiết hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tín dụng… Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nước ngoài thúc đẩy quá trình mở rộng, tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay,với xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế của một quốc gia luôn gắn liền với nền kinh tế thế giới. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế thông dụng giữa các nước. Vốn là yếu tố quyết định đầu tiên cho sự hợp tác này, do đó ngân hàng với khả năng đặc biệt của mình là huy động vốn và cung cấp vốn cho các hoạt động này, thông qua đó góp phần mở rộng và tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế với các nước. Như vậy, với những nước đang phát triển như nuớc ta thì tín dụng ngân hàng đóng vai trò mở rộng xuất khẩu hàng hoá đồng thời cũng nhờ nguồn tín dụng bên ngoài đầu tư phát triển các thành phần kinh tế góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tín dụng ngân hàng có vai trò kiểm soát nền kinh tế Xuất phát từ chức năng phân phối vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được hoạt động kinh tế trong quá trình huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay. Thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong xã hội và việc tổ chức thanh toán cho khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình sản xuất cũng như khả năng chi trả của khách hàng thông qua biến động số dư trên tài khoản. Trong quá trình cho vay, ngân hàng phải luôn đề phòng nguy cơ rủi ro có thể xảy ra, phải thường xuyên phân tích khả năng tài chính của khách hàng và thường xuyên giám sát, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của họ để có thể điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết. Từ đó, ngân hàng có khả năng tập hợp được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời đóng góp những ý kiến để điều chỉnh kịp thời khi có sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế. 1.2. Hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng 1.2.1. Hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân hàng nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro nhất, ngay cả với các khoản vay có tài sản thế chấp, cầm cố thì rủi ro vẫn có khả năng xảy ra với tỷ lệ cao. Hiệu quả hoạt động tín dụng được thể hiện bởi chất lượng hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng là tổng hoà những thành tựu hoạt động tín dụng thể hiện ở sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế quốc dân, của ngân hàng và của khách hàng. Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn vay ngân hàng đáp ứng kịp thời đầy đủ cho doanh nghiệp và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất, nhằm tạo ra một lượng tiền lớn hơn để trang trải đủ chi phí, có lợi nhuận và hoàn trả nợ cho ngân hàng đầy đủ cả gốc lẫn lãi. Đề cập đến hiệu quả hoạt động tín dụng phải xem xét đến 3 khía cạnh: a. Hiệu quả tín dụng xét từ góc độ ngân hàng thương mại: Hiệu quả tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế tới mức thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra. b. Hiệu quả tín dụng xét từ góc độ doanh nghiệp: Tín dụng ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ kịp thời yêu cầu hợp lý của doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không gây phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc, quy định của tín dụng và phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế xã hội, đảm bảo được sự tồn tại và phát triển của ngành ngân hàng, góp phần đẩy mạnh tài chính doanh nghiệp. c. Hiệu quả tín dụng xét từ góc độ nền kinh tế xã hội: Tín dụng ngân hàng trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự tăng trưởng, sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tín dụng đầu tư cho nền kinh tế tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần tăng trưởng nền kinh tế và khai thác khả năng tiềm tàng cho nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển. Tín dụng ngân hàng có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng làm cho hệ thống ngân hàng lớn mạnh đáp ứng yêu cấu quản lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hoà nhập với cộng đồng quốc tế. 1.2.2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả kinh doanh tín dụng ngân hàng. Để xem xét hiệu quả hoạt động của một ngân hàng ta sử dụng rất nhiều các chỉ tiêu khác nhau nhưng có thể sử dụng 3 chỉ tiêu cơ bản sau: Tốc độ luân chuyển vốn Vòng quay vốn tín dụng được tính theo công thức sau: Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số vòng quay vốn tín dụng trong một thời gian nhất định. Vòng quay vốn tín dụng lớn chứng tỏ vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với số lượng vốn nhất định, nhưng do tốc độ vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng không những đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà còn có thêm nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp khác thực hiện phát triển sản xuất kinh doanh. Vòng quay tín dụng tăng phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng Ngân hàng tốt, khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng kinh doanh có hiệu quả, thường trả nợ đúng hạn và trước hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau: Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100 Tổng dư nợ Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả và ngược lại. Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc rất lớn vào phương thức, cách thức hoạt động của ngân hàng. Nợ quá hạn thường chia làm hai loại: + Nợ quá hạn do định kỳ hạn nợ ngắn hơn chu kỳ sản xuất - kinh doanh hoặc vì một lý do nào đó chưa thu được tiền bán hàng nên đến kỳ hạn trả nợ khách hàng chưa có tiền trả, Ngân hàng buộc phải chuyển nợ quá hạn, loại nợ quá hạn này khả năng Ngân hàng thu được nợ cao. + Nợ quá hạn do khách hàng vay vốn bị phá sản hoặc kinh doanh thua lỗ, hoặc bị lừa đảo, hoặc bị chết không còn khả năng trả nợ Ngân hàng, buộc Ngân hàng phải chuyển sang nợ quá hạn chờ sử lý. Loại nợ quá hạn này gọi là nợ quá hạn khó đòi, khả năng thu hồi rất ít. Thường các NHTM dùng quỹ rủi ro để xử lý giảm hoặc xoá nợ theo tình hình thực tế từng món vay để giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc vào tổng số nợ đã chuyển sang nợ quá hạn và tổng dư nợ tại một thời điểm, thường là ngày cuối quý hoặc ngày cuối năm. Để giảm nợ quá hạn các NHTM thường giảm số tuyệt đối nợ quá hạn nếu dư nợ tín dụng tăng không đáng kể hoặc vừa giảm nợ quá hạn vừa tăng dư nợ tín dụng. Trường hợp không thể giảm được nợ quá hạn hoặc giảm không đáng kể các NHTM thường tăng tổng dư nợ tín dụng tức là tăng quy mô dư nợ tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ có thể chấp nhận được. Tỷ lệ này càng thấp càng tốt. c. Hệ số sử dụng vốn vay Tổng dư nợ Hệ số sử dụng vốn vay = Tổng nguồn vốn huy động Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn để đầu tư của NHTM. Hệ số này luôn nhỏ hơn 1. Nếu hệ só sử dụng vốn gần bằng 1 thì NHTM phải chú ý tăng trưởng nguồn vốn để đề phòng mất khả năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp cần phải tăng trưởng dư nợ hoặc giảm huy động vốn bằng cách hạ lãi suất huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến hiệu quả kinh doanh. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả ngân hàng luôn luôn phải quan tâm đến 3 chỉ tiêu trên, có những chính sách điều chỉnh phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân hàng mình đồng thời tránh được rủi ro trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng. 1.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng 1.3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh tín dụng ngân hàng. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Hoạt động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh chứa nhiều rủi ro nhất, bởi đặc tính của nó là loại hình kinh doanh quyền sử dụng hàng hoá tiền tệ và có quan hệ với tất cả các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Tiền tệ là loại hàng hoá đặc biệt, nó rất nhạy cảm với những sự thay đổi của nền kinh tế và những biến đổi về xã hội, chính trị… Do vậy, nghiên cứu và đánh giá hiệu quả kinh doanh tín dụng ngân hàng đã trở thành yêu cầu bức thiết đối với hệ thống ngân hàng và đối với nền kinh tế . Ngân hàng có chức năng “đi vay để cho vay” do vậy, đồng tiền qua hoạt động của ngân hàng là đồng tiền có giá (vì được hưởng lãi suất). Khi đồng vốn tín dụng gặp rủi ro dưới hình thức nợ khó đòi hoặc mất vốn thì ngay lập tức ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng. Nếu ngân hàng không đáp ứng được yêu cầu chi trả thanh toán và rút tiền của khách hàng thì nguy cơ phá sản của ngân hàng là điều tất yếu. Vì vậy, hiệu quả kinh doanh tín dụng quyết định đến sự sống còn của mỗi ngân hàng. Xét trên góc độ nền kinh tế, sự năng động của hệ thống tín dụng là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế tăng trưởng vững chắc. Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại có hiệu quả sẽ làm cho mức cung ứng tiền luôn được điều chỉnh ở mức cần thiết tương ứng với cầu về tiền tệ trong nền kinh tế. Điều đó đã góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế lành mạnh, tạo công ăn việc làm cho người lao động. 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng. a. Môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên là yếu tố gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng và các tổ chức tín dụng hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, xuất nhập khẩu…Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên xảy ra lũ lụt gây thiệt hại về người và tài sản do đó, việc đầu tư vào lĩnh vực này có thể gặp rủi ro làm giảm hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng . b. Môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý là cơ sở để cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách hợp pháp và có hiệu quả. Hệ thống pháp luật chi phối các hoạt động kinh tế, đưa các doanh nghiệp vào hoạt động theo khung pháp lý đã quy định. Vì vậy phải có sự đồng bộ, thống nhất và hợp lý giữa các bộ luật và các văn bản pháp quy nhằm tạo ra sự chặt chẽ và hiệu lực của pháp luật. Hiện nay môi trường pháp lý cho ngành ngân hàng còn nhiều vấn đề đang được tranh cãi nhất là về việc cấp chứng nhận sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và xử lý tài sản thế chấp tại ngân hàng. Chính những bất cập này là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khó khăn khi xử lý tài sản thế chấp và giải toả các khoản nợ khó đòi của ngân hàng, tạo kẽ hở để khách hàng vay vốn Ngân hàng chây ỳ không chịu trả nợ Ngân hàng khi kinh doanh gặp rủi ro. c. Môi trường kinh tế. Mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh tế luôn chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc chịu sự chi phối của quy luật cung – cầu, quy luật giá trị,… trên thị trường. Do vậy, việc tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh cho hoạt động của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như sự ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát là những yếu tố tích cực góp phần cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng. Các yếu tố thuộc về ngân hàng Đối với bản thân ngân hàng, hiệu quả hoạt động tín dụng phụ thuộc rất lớn vào cơ chế hoạt động và chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng. Cơ chế hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng, Đây là yếu tố thuộc về nội bộ ngân hàng. Tuy nhiên, xét một cách khách quan, cần phải xây dựng được một cơ chế hoạt động hợp lý, nhịp nhàng; giữa các bộ phận, các phòng ban luôn có sự ăn khớp với nhau đồng thời sự chỉ đạo của các cấp lãnh đạo luôn kịp thời và có hiệu lực cao. Một cơ chế hoạt động tốt chính là điều kiện cơ bản cho sự thành công trong hoạt động của mỗi ngân hàng. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực cũng là yếu tố quan trọng, nó thể hiện rõ trình độ năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ nhân viên ngân hàng. Sự hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực kéo theo một loạt các hoạt động không có hiệu quả như việc thẩm định dự án đầu tư, phản ánh kinh doanh thiếu chặt chẽ, không tuân thủ đúng quy trình nghiệp vụ, lơi lỏng quản lý giám sát vốn vay,… dẫn đến tình trạng đọng vốn và mất vốn tín dụng, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Mặt khác, chất lượng nguồn thông tin khách hàng, thông tin tín dụng, thông tin thương mại khác cũng góp phần rất lớn vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Điểm yếu của hệ thống ngân hàng thương mại nước ta là thiếu hệ thống thông tin khách hàng một cách đầy đủ, kịp thời. Điều này đã phần nào làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng. Các yếu tố khách hàng. Khi cho vay, ngân hàng thường quan tâm đến năng lực tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng. Khách hàng phải có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu tư khả thi, thực hiện đầy đủ các quy định về bảo đảm tiền vay. Đây là những điều kiện cơ bản nhất để ngân hàng xem xét có nên cho khách hàng vay vốn hay không. Tuy nhiên, trên thực tế có một tỷ trọng khá lớn người đi vay không có đủ điều kiện để thực hiện các nguyên tắc tín dụng, đặc biệt là tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật. Thực trạng hiện nay nhiều khách hàng đi vay nhưng năng lực quản lý kinh doanh còn hạn chế, sử dụng vốn không đúng mục đích, lấy vốn ngắn hạn để đầu tư trung dài hạn. Đối với doanh nghiệp nhà nước, khi vay không cần thế chấp tài sản chỉ cần có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, chứng từ thương mại hợp lý. Chính vì lẽ đó nên đã phát sinh nhiều tiêu cực như lập hoá đơn chứng từ giả mạo, không đúng thực tế… để vay vốn ngân hàng nhằm phục vụ các mục đích bất chính khác. 1.3.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tín dụng ngân hàng. Ngoài các nguyên tắc cơ bản của tín dụng là: cho vay có mục đích, hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn, khoản vay phải có bảo đảm thì định hướng và các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng còn phải dựa trên những nguyên tắc và biện pháp sau: Nguyên tắc sàng lọc và giám sát. Theo nguyên tắc sàng lọc, các ngân hàng sẽ lựa chọn ra các khách hàng có triển vọng nhất trong số các khách hàng, trên cơ sở nắm vững các thông tin về tình hình tài chính, tình hình chi trả, thanh toán qua các tài khoản của khách hàng, các thông tin về lĩnh vực hoạt động của khách hàng… Với nguyên tắc giám sát, ngân hàng phải theo dõi xem khoản vay có được sử dụng đúng mục đích xin vay không. Nếu sai thì phải đề ra các biện pháp uốn nắn việc sử dụng vốn của khách hàng. Trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng ngân hàng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, thu hồi khoản cho vay trước thời hạn. Chuyên môn hoá việc cho vay Chuyên môn hoá việc cho vay là hình thức tổ chức phòng tín dụng thành các tổ, bộ phận chuyên môn phụ trách một ngành hay một lĩnh vực nào đó. Như thế các cán bộ tín dụng có điều kiện đi sâu, nắm bắt tình hình thực tế lĩnh vực chuyên môn của mình. Từ đó, khi phát sinh các quan hệ tín dụng, ngân hàng có cơ sở vững chắc để quyết định có thực hiện khoản cho vay hay không. Quan hệ khách hàng lâu dài: Đây là nguyên tắc vừa có lợi cho ngân hàng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Đối với Ngân hàng, qua việc theo dõi thu chi trên tài khoản khách hàng giúp cho Ngân hàng thu thập được thông tin nhanh nhất, chính xác nhất về khách hàng mà lại không tốn quá nhiều chi phí tìm hiểu khách hàng. Đây là những khách hàng truyền thống thường xuyên có giao dịch với Ngân hàng nên Ngân hàng có điều kiện nắm được những thông tin chi tiết cần thiết, Vì vậy, Ngân hàng cần có những chính sách đặc biệt hơn các khách hàng khác như được hưởng những ưu đãi về lãi suất, về thời hạn về lượng vốn được vay,…Việc thiết lập quan hệ khách hàng lâu dài gắn bó với Ngân hàng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh tạo được sự chủ động trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Hạn chế tín dụng: Khách hàng phải có vốn tự có tham gia vào dự án. Ngân hàng chỉ cho vay phần vốn lưu động thiếu của doanh nghiệp. Ngân hàng tránh tập trung quá lớn vốn vào hoạt động của một khách hàng. Đồng thời với khoản cho vay nhỏ khách hàng sẽ dễ dàng hoàn trả hơn. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc cho vay theo tiến độ dự án. Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng công tác của cán bộ hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng. Con người là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của tất cả các hoạt động, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Trình độ nghiệp vụ, kiến thức về pháp luật, về xã hội, về kinh tế ngành, về phân tích tài chính doanh nghiệp, khả năng thẩm định dự án, phân tích đánh giá hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh ,… kỹ năng tác nghiệp, tính nhạy bén, năng động của cán bộ tín dụng ngân hàng quyết định sự thành công của các NHTM trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng. f. Tăng cường công tác kiểm tra trong hoạt động kinh doanh tín dụng. Trong hoạt động tín dụng Ngân hàng phải tuân thủ nguyên tắc kiểm tra theo 3 bước: Kiểm tra trước, trong và sau khi phát tiền vay. Đặc biệt là hoạt động kiểm tra, kiểm soát của cơ quan chuyên trách về kiểm tra của Ngân hàng có tác dụng quan trọng chấn chỉnh hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng đảm bảo hạn chế rủi ro, an toàn và hiệu quả. Kinh doanh tín dụng Ngân hàng là hoạt động kinh doanh đặc biệt bởi thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng đáp ứng được nhu cầu tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, đảm bảo vốn để các doanh nghiệp và doanh nhân hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả. Mọi rủi ro của khách hàng vay vốn có tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nên kinh doanh tín dụng Ngân hàng có khả năng rủi ro cao nhất. Bởi vậy kinh doanh tín dụng Ngân hàng hoạt động có hiệu quả, tín dụng lành mạnh, góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chương II thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng tạI chi nhánh nhct kv hai bà trưng 2.1. Khái quát chung về chi nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng 2.1.1. Quá trình hình thành và sự phát triển của Chi Nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng CN NHCT KV Hai Bà Trưng là một chi nhánh của NHCT Việt Nam. Sau khi thực hiện nghị định số 53/HĐBTngày 26/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng về tổ chức bộ máy Ngân hàng nhà nước Việt Nam chuyển sang cơ chế ngân hàng hai cấp, từ một chi nhánh Ngân hàng nhà nước cấp quận và một chi nhánh Ngân hàng kinh tế quận thuộc địa bàn quận Hai Bà Trưng, trực thuộc Ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội chuyển thành các chi nhánh NHCT khu vực I và II quận Hai Bà Trưng trực thuộc chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thuộc NHCT Việt Nam. Tại quyết định số 93/ NHCT- TCCB ngày 1/4/1993 của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức NHCT trên địa bàn Hà Nội theo mô hình quản lý hai cấp của NHCT Việt Nam, bỏ cấp thành phố, hai chi nhánh NHCT KV I và II Hai Bà Trưng là những chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam được tổ chức, hạch toán kinh tế và hoạt động như các chi nhánh NHCT cấp tỉnh, thành phố. Kể từ ngày 1/9/1993, theo quyết định của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, sáp nhập chi nhánh NHCT KV I vào chi nhánh NHCT KV II Hai Bà Trưng. Như vậy, kể từ ngày 1/9/1993 trên địa bàn quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) chỉ còn duy nhất một chi nhánh NHCT. Hiện nay, CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã vượt qua những khó khăn ban đầu và đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh tiền tệ. Mặt khác, Ngân hàng còn thường xuyên tăng cường việc huy động vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện chiến lược đa dạng hoá các phương thức, hình thức giải pháp huy động vốn, đa dạng các hình thức kinh doanh và đầu tư, từ năm 1993 trở lại đây, CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã thu được nhiều kết quả trong hoạt động kinh doanh, từng bước khẳng định mình trong môi trường kinh doanh mới đầy tính cạnh tranh. CN NHCT KV Hai Bà Trưng là một trong những chi nhánh lớn được xếp doanh nghiệp nhà nước hạng I, kinh doanh liên tục có hiệu quả của NHCT Việt Nam. Có được vị thế và kết quả trên, bên cạnh những kinh nghiệm quý báu của lớp lớp cán bộ ngân hàng kế tiếp nhau với những khách hàng truyền thống qua hơn 45 năm hoạt động trên địa bàn khu vực quận Hai Bà Trưng- một quận lớn với những khu công nghiệp quan trọng phía đông nam thủ đô Hà Nội – là lợi thế và thị trường tốt để CN NHCT KV Hai Bà Trưng hoạt động kinh doanh có hiệu quả và phát triển. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của CN NHCT KV Hai Bà Trưng: Là một chi nhánh chịu sự quản lý trực tiếp của NHCT Việt Nam, hiện nay CN NHCT KV Hai Bà Trưng có biên chế gồm hơn 300 cán bộ công nhân viên trong đó hơn 65% có trình độ cao đẳng , đại học. Bộ máy tổ chức NHCT Hai Bà Trưng bao gồm ban giám đốc, 8 phòng chức năng, 2 phòng giao dịch và 12 quỹ tiết kiệm được thể hiện qua sơ đồ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36743.doc