đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và Nhân văn
------------------------------
Đào Ngọc Anh
Phân tích hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam
tại thị trường Pháp
Luận văn thạc sĩ du lịch
(chương trình đào tạo thí điểm)
Hà Nội – 2007
đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và Nhân văn
------------------------------
Đào Ngọc Anh
Phân tích hoạt động xúc tiến
du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp
Chuyên ngành: Du lịch học
Mã số:
Luận văn thạc sĩ du lịc
106 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1654 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h
(chương trình đào tạo thí điểm)
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Lưu
Hà Nội, 2007
Danh mục các chữ viết tắt
AFD: Cơ quan phát triển Pháp
ASEAN: Các nước Đông Nam á
CNN: Hãng truyền hình
EU: Cộng đồng châu Âu
EURO: Đồng tiền chung châu Âu
FAMTRIP: Các hãng lữ hành được mời sang du lịch tìmhiểu
FASEP: Quỹ trợ giúp đặc biệt cho doanh nghiệp của Pháp
FDI: Đầu tư nước ngoài
FSP: Quỹ đoàn kết ưu tiên Pháp
GDP: Thu nhập quốc dân tính theo đầu người
JNTO: Cơ quan Du lịch quốc gia Nhật Bản
MICE: Loại hình du lịch hội nghị, hội thảo
NATO: Khối phòg thủ Bắc Đại Tây dương
NTOs: Cơ quan/tổ chức quản lý nhà nước về du lịch
ODA: Viện trợ của nước ngoài...
PR: Quan hệ công chúng
PRESSTRIP: Các nhà báo được mời sang du lịch tìm hiểu
TAT: Cơ quan Du lịch quốc gia TháiLan
TTG: Tạp chí chuyên đề về Du lịch của Thái Lan
TURESPANA: Cơ quan du lịch quốc gia Tây Ban Nha
UEO: Tổ chức phòng thủ của EU
UNESCO: Tổ chức Văn hoá thế giới
USD: Đồng đô la Mỹ
UNWTO: Tổ chức Du lịch Thế giới
Mục lục
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Phần mở đầu
Chương 1. Thị trường Du lịch Pháp với Du lịch Việt Nam
1.1. Thông tin khái quát về nước Pháp
1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu
1.1.2 Dân số và lao động
1.1.3. Điều kiện kinh tế
1.1.4. Thể chế chính trị
1.1.5. Chính sách đối ngoại và quốc phòng
Quan hệ hợp tác Việt Nam – Pháp trong lĩnh vực ngoại giao,
kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật
1.2.1. Quan hệ ngoại giao,
1.2.2. Quan hệ hợp tác kinh tế
1.2.3. Quan hệ hợp tác văn hóa, khoa học kỹ thuật
1.2. 4. Thông tin về Du lịch Pháp
1.3. Đặc điểm thị trường du lịch Pháp
1.3.1. Cách thức đi du lịch của người Pháp
Đặc điểm và xu hướng chung trong tiêu dùng du lịch
của khách du lịch Pháp
1.3.3. Một số đặc điểm của khách Pháp đi Việt Nam du lịch
1.4. Quan hệ hợp tác về du lịch giữa Việt Nam và Pháp
1.4.1. Các hoạt động hợp tác đã triển khai và kết quả
1.4..2. Một số định hướng hợp tác du lịch hai nước thời gian tới
Chương 2. Thực trạng hoạt động xúc tiến của du lịch
việt nam tại thị trường pháp
2.1. Khái quát hoạt động xúc tiến quảng bá của Du lịch Việt Nam
2.1.1. Hệ thống chính sách văn bản pháp lý và bộ máy xúc tiến
quảng bá của Du lịch Việt Nam
2.1.2. Họat động quáng bá xúc tiến của Du lịch Việt Nam
tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm thời gian qua
2.2. Hoạt động quảng bá xúc tiến của Du lịch Việt Nam
vào thị trường Pháp
2.2.1. Mục tiêu của hoạt động quảng bá vào thị trường Pháp
2.2.2. Tổ chức các hoạt động xúc tiến quảng bá
của Du lịch Việt Nam vào thị trường Pháp
2.3. Đánh giá hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam
tại thị trường Pháp
2.3.1. Kết quả điều tra về tác động của các hoạt động xúc tiến
của Du lịch Việt Nam đối với du khách Pháp đến Việt Nam
2.3..2. Những kết quả đã đạt được
2.3.3. Một số hạn chế và nguyên nhân
Chương 3. một số giải pháp góp phần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam vào thị trường Pháp
3.1. Định hướng, quan điểm chung của Việt Nam
về công tác xúc tiến quảng bá du lịch
Kinh nghiệm tổ chức quảng bá, xúc tiến du lịch của một
số nước trên thế giới và rút ra bài học có thế áp dụng
cho Việt Nam
3.2.1. Kinh nghiệm tổ chức quảng bá, xúc tiến du lịch của một số nước
trên thế giới
Một số bài học rút ra từ công tác quảng bá xúc tiến
du lịch của một số nước có thể áp dụng cho Việt Nam
Một số giải pháp cơ bản góp phần đẩy mạnh hoạt động xúc
tiến du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp
3.3.1. Giải pháp chung
3.3. 2. Một số giải pháp cụ thể
3.4. Một số kiến nghị
3.4. 1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường
3.4. 2. Tăng cường các hoạt động xúc tiến du lịch
tại các thị trường du lịch trọng điểm
3.4. 3. Tạo cơ chế, chính sách nguồn tài chính cho hoạt động
xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam
3.4.4. Tăng cường phối hợp liên ngành trong hoạt động
xúc tiến quảng bá của du lịch Việt Nam
Quảng bá và khai thác hiệu quả trên một số
phương tiện truyền thông
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Mục lục
LờI Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), năm 2006, người dân trên toàn cầu đã thực hiện trên 840 triệu chuyến du lịch. Trong số các nước có du lịch phát triển, Pháp đứng hàng đầu thế giới về đón khách du lịch quốc tế và cũng là một trong nước có số người đi du lịch ra nước ngoài lớn.
Từ lâu, với Du lịch Việt Nam, Pháp luôn được đánh giá là thị trường chiến lược, truyền thống và quan trọng. Chiến lược Phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 đã xác định Pháp là thị trường khách quan trọng. Thực tế Pháp vẫn là một trong những nước có số lượng khách đến Việt Nam du lịch đông. Thủ tướng Chính phủ cũng đã đồng ý về nguyên tắc cho phép thành lập thí điểm Văn phòng đại diện của Du lịch Việt Nam tại Pháp. Tuy nhiên, thị trường du lịch Pháp thời gian qua phát triển chưa mạnh, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Sau một thời gian dài tăng trưởng mạnh về lượng khách (những năm 90), gần đây tập khách này có xu hướng phát triển chậm. Sở dĩ có tình trạng này là do nhiều nguyên nhân, nhưng đáng kể nhất là Du lịch Việt Nam thời gian qua chưa chú trọng đúng mức tới việc nghiên cứu và triển khai xúc tiến một cách toàn diện và có hiệu quả trên thị trường này nhằm thúc đẩy lượng khách nước này và các nước có sử dụng tiếng Pháp.
Bên cạnh vai trò là một nguồn cung cấp khách lớn cho Du lịch Việt Nam, Pháp còn là nước có vị trí quan trọng, nằm ở trung tâm của châu Âu, là nơi tập trung nhiều nhất các hãng lữ hành, các văn phòng đại diện du lịch của các nước trên thế giới. Thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến trên thị trường Pháp, Du lịch Việt Nam có thể tiếp cận một cách thuận lợi đối với thị trường châu Âu và khối các nước có sử dụng tiếng Pháp.
Chính vì những lý do trên, việc phân tích đánh giá các biện pháp xúc tiến mà ngành Du lịch đã thực hiện để làm cơ sở đề xuất giải pháp phát triển thị trường khách quan trọng này có ý nghĩa chiến lược đối với ngành Du lịch Việt Nam cũng như đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Việc phát triển thị trường này không những chỉ góp phần tăng nguồn khách Pháp mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự tăng trưởng khách đến Việt Nam từ các thị trường nói tiếng Pháp và các nước châu Âu. Vì vậy đề tài “ Phân tích hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp ” được chọn để làm luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
ở trong nước, cho đến nay, đã có một số tài liệu nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới nội dung mà luận văn nghiên cứu như đề tài “ Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm “ do Tổng cục Du lịch Việt Nam và Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch chủ trì năm 2006. Đề tài này đã tiến hành phân loại và xác định những thị trường trọng điểm của du lịch Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam nói chung. Trong nội dung nghiên cứu của đề tài này, thị trường Pháp được xác định làm một thị trường trọng điểm. Tuy nhiên các nghiên cứu và giải pháp của đề tài này chỉ mang tính khái quát chung cho du lịch Việt Nam mà chưa đi sâu tập trung vào một thị trường cụ thể nào.
Ngoài ra, cũng đã có một số nghiên cứu, bài báo trong nước viết về đặc tính và xu hướng đi du lịch của khách Pháp. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch (cả cấp trung ương và địa phương) cùng nhiều cơ quan nghiên cứu du lịch đã tổ chức một số hội thảo về hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam. Những nghiên cứu này đều đưa ra những định hướng và giải pháp chung cho hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam.
Các nghiên cứu kể trên đã đề cập nhiều đến đặc điểm thị trường du lịch của Pháp và Việt Nam cũng như đã cung cấp những thông tin cơ bản về đặc điểm và xu hướng ra nước ngoài của thị trường khách Pháp nói chung.
Nhìn chung cho đến nay, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu một cách toàn diện về hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam trên thị trường Pháp. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể thực trạng và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến trên thị trường Pháp có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với du lịch Việt Nam trong giai đoạn này.
3. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là góp phần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến du lịch của Việt Nam đối với thị trường Pháp thông qua đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
3.2. Nội dung nghiên cứu:
Để giải quyết được các mục tiêu đã đề ra, luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung chính như sau:
- Những nét chính về đất nước, con người truyền thống văn hoá, lịch sử của Pháp
- Mối quan hệ về kinh tế, chính trị, văn hoá trong lịch sử và hiện tại giữa Pháp và Việt Nam.
- Quan hệ hợp tác về du lịch giữa Việt Nam và Pháp
- Những đặc điểm tiêu dùng cơ bản của khách du lịch Pháp
- Thực trạng hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam trên thị trường Pháp.
- Đánh giá những thành công và hạn chế trong hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam trên thị trường Pháp trong thời gian qua.
- Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong hoạt động xúc tiến du lịch.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh và tăng cường hiệu quả hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam trên thị trường Pháp trong thời gian tới.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp. Việc điều tra đánh giá tác động của hoạt động xúc tiến đối với du khách Pháp đến Việt Nam được tiến hành tại địa bàn Hà Nội, Quảng Ninh, Hoà Bình, Lào Cai và Hà Tây.
- Về thời gian: Các số liệu thứ cấp đưa vào phân tích được thu thập trong gian đoạn từ 1998 đến 2006. Các số liệu sơ cấp được điều tra trong thời gian 06 tháng từ tháng 11/2006 đến tháng 5/2007. Các định hướng, giải pháp đưa ra nhắm tới giai đoạn từ 2008 đến 2015.
- Về nội dung: Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu và tập hợp các thông tin về thị trường du lịch Pháp với Việt Nam; phân tích thực trạng hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp trong giai đoạn từ 1998 đến nay và qua đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến Du lịch Việt Nam tại Pháp cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu chính vào các hoạt động xúc tiến của du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp luận cho quá trình phân tích kết luận các vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: tổng hợp, phân tích các thông tin, số liệu thứ cấp được khai thác từ các tài liệu của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các nghiên cứu Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch, mạng internet...; điều tra xã hội học các số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phương pháp điều tra chọn mẫu; ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp và lấy ý kiến chuyên gia.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1. Thị trường du lịch Pháp với Du lịch Việt Nam
Chương 2. Thực trạng hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp
Chương 3. Một số giải pháp góp phần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến Du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp
Chương 1
Thị trường Du lịch Pháp với Du lịch Việt Nam
1.1. Thông tin khái quát về nước Pháp
1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu
Nước Cộng hoà Pháp, Thủ đô là Paris, nằm ở Tây châu Âu, có diện tích 551,602 km2, là cầu nối giữa các nước Bắc Âu, địa Trung Hải và Trung Âu. Về phía Tây, nước Pháp giáp với Đại Tây Dương; phía Bắc giáp biển Măng Sơ; phía Đông giáp Bỉ, Đức, Thụy sỹ, Italia; phía Nam giáp biển Địa Trung Hải và Tây Ban Nha.
Nước Pháp có hình dáng sáu cạnh: ba cạnh giáp biển và ba cạnh giáp đất liền, có chiều dài và chiều rộng khá cân đối (trong vòng 1.000km). Chính vì lý do đó Pháp còn được gọi là đất nước mang hình lục lăng. Đường biên giới nước Pháp trải dài trên 5.500km, trong đó có khoảng 3.000 km biên giới trên bộ và gần 30.000 km biên giới giáp biển.
Địa hình của nước Pháp rất đa dạng, có đủ ba loại hình cơ bản của châu Âu, với miền Bắc là địa hình đồng bằng rộng lớn; miền Trung là các bình nguyên, cao nguyên có độ cao ở mức trung bình và thấp; miền Nam là địa hình núi thuộc dãy Aples. Độ cao trung bình của nước Pháp là 342m. Gần 2/3 lãnh thổ của Pháp nằm ở độ cao dưới 20m so với mực nước biển. Khí hậu nằm trong vùng khí hậu ôn đới, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Núi chiếm 1/5 diện tích lãnh thổ nước Pháp. 3/5 diện tích là đồng bằng, cao nguyên thấp và đồi. Nước Pháp có một mạng lưới sông ngòi dày đặc, hình rẻ quạt. Hầu như không có vùng nào ở Pháp là không có sông chảy qua. Một số sông chính là: sông Loire (1010 km) dài nhất ở Pháp, sông Seine (776 km), sông Rhône (520km)... Ngoài ra còn phải kể đến con sông Rhin dài 195km tạo thành đường biên giới Pháp - Đức, đồng thời còn là nguồn cung cấp thuỷ điện quan trọng.
Khí hậu của Pháp khá ôn hoà do vị trí địa lý nằm trong vành đai khí hậu ôn đới, đồng thời lại nằm kề bên biển Đại Tây Dương và địa Trung Hải với nhiệt độ trung bình từ 15-200C. Khí hậu nước Pháp được chia làm 3 vùng chính là khí hậu lục địa (ở phía Đông đất nước), khí hậu đại dương (ở phía Tây đất nước) và khí hậu địa Trung Hải (ở phía Nam đất nước). Ngoài ra nước Pháp còn có vùng khí hậu ôn đới ở khu vực vùng núi có nơi độ cao trên 1.500m. Tại những khu vực này, mùa đông thường kéo dài và rất lạnh, có nhiều tuyết còn mùa hè ngắn, hay có mưa. Những nơi ở độ cao trên 3.000m có tuyết phủ quanh năm.
1.1.2. Dân số và lao động
Nước Pháp là nước có lịch sử lâu đời ở Châu Âu. Tổ tiên của người Pháp là người Gô Loa 1.000 năm trước Công nguyên. Tới năm 59 trước Công nguyên xứ Gôn bị đế chế La Mã chinh phục và đô hộ trong 400 năm và chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa La Mã. Thế kỷ 18, nền văn minh Pháp và tiếng Pháp phát triển rực rỡ ở Châu Âu với kỷ nguyên ánh sáng và các nhà triết học nổi tiếng như Mông téc xki ơ, Vôn te, Rút xô... Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đi vào lịch sử với Bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Năm 1871, Công xã Paris - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên thắng lợi ở Pháp, nhưng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Nước Pháp trải qua nhiều nền Cộng hòa, nay là nền Cộng hòa thứ 5.
Dân số nước Pháp là trên 60 triệu, đứng thứ 2 trong EU, sau Đức (82 triệu). Tuổi thọ bình quân là 79 tuổi. GDP đầu người đứng thứ 4 châu Âu sau Hà Lan, Ireland và Đức. Tôn giáo chủ yếu là Thiên Chúa giáo.
Dân cư của Pháp phân bố tập trung ở khu vực Paris (chiếm 18% tổng dân số); miền Tây (chiếm 14%); miền đông (chiếm 10%); bờ biển Địa Trung Hải (chiếm 12%). Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX, dân số ở nông thôn có xu hướng chuyển ra thành thị để sinh sống, làm ăn nên thành thị là nơi có mật độ dân cư cao.
Ngày nay, người Pháp có xu hướng rời xa các trung tâm công nghiệp để về sống ở các vùng lân cận và ngoại ô các thành phố lớn, khu công nghiệp lớn. ở Pháp, hơn 70% dân số sống ở thành phố; trong đó 57 thành phố có số dân trên 100.000 dân và có 3 thành phố trên 1 triệu dân (Paris, Lyon, Marseille).
Sự phân bố lao động trong các ngành nghề của Pháp không cân đối, chiếm tỷ lệ cao nhất là công nhân khoảng 28%, nhưng số lượng công nhân đang có chiều hướng giảm đi và nhân viên văn phòng tăng lên. Lao động nam ở Pháp chiếm tỷ trọng cao hơn lao động nữ và số người làm việc trong khu vực dịch vụ chiếm khoảng 65%.
1.1.3. Điều kiện kinh tế
Nước Pháp giàu quặng sắt, than, bô xít, potate, với 2/3 diện tích là đồng bằng và cao nguyên, đất đai phì nhiêu, khí hậu ôn đới thuận lợi cho canh tác và chăn nuôi.
Pháp là cường quốc kinh tế thứ 5 của thế giới với GDP đạt 1.654 USD, đứng thứ 4 trong EU sau Hà Lan, Ailen và Đức; là cường quốc nông nghiệp đứng thứ 2 thế giới (sau Mỹ) và thứ nhất ở châu Âu (tỷ trọng 6% GDP Pháp), là cường quốc thương mại thứ 4 trên thế giới (chiếm 5,2% thị phần xuất khẩu và 5% thị phần nhập khẩu). Pháp cũng là cường quốc khoa học - công nghệ với nhiều lĩnh vực nổi tiếng như hàng không vũ trụ, vô tuyến viễn thông, y tế, vi sinh, hoá chất... Đồng thời Pháp đứng thứ 4 thế giới về thu hút FDI và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Cơ cấu kinh tế của Pháp với nông nghiệp chiếm khoảng 4%, công nghiệp chiếm khoảng 24,5%, dịch vụ chiếm khoảng 71%. Xuất khẩu của Pháp đứng thứ 4 thế giới, chiếm 5,3% thị trường thế giới, chủ yếu là xe hơi, thiết bị văn phòng, thiết bị giao thông vận tải, xây dựng sân bay, máy móc... Nhập khẩu cũng đứng thứ 4 thế giới, sau Mỹ, Đức, Nhật. 63% trao đổi mậu dịch của Pháp là với các đối tác trong EU.
Về nông nghiệp, Pháp là nước đứng đầu Châu Âu về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Tuy chỉ có 6% lao động làm việc trong nông nghiệp, hàng năm Pháp xuất siêu khoảng 6,6 tỷ USD hàng nông sản gồm lúa mỳ, rượu nho, các sản phẩm thịt và sữa. năng suất lao động nông nghiệp cao, công nghiệp chế biến rất phát triển. Công nghiệp thực phẩm chiếm 5% GDP.
Pháp thiếu nhiên liệu, hầu như phải nhập toàn bộ nhu cầu về dầu lửa, khoảng 70-80 triệu tấn/năm. Ngoài khai thác than, Pháp đẩy mạnh sản xuất năng lượng nguyên tử, hiện đã chiếm 75% sản xuất điện của Pháp nhằm giảm bớt lệ thuộc vào sự biến động của thị trường nhiên liệu.
Công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn là chế tạo cơ khí, nhất là sản xuất ô tô (thứ 4 thế giới với các công ty như PSA Peugeot- Citroen, Renault, hai công ty này chiếm 24% thị phần Châu Âu); hàng không (thứ 3 thế giới với các công ty lớn như EADS, Ariane space, Airbus, Dasault Avion); thiết bị giao thông vận tải (xe lửa cao tốc, tàu điện ngầm); vật liệu xây dựng, thiết bị (Lafarge, Pechiney; viễn thông (Alcatel, France Telecom, Bouygue); công nghiệp dược (thứ 5 thế giới, Rhone Poulen); mỹ phẩm cao cấp; dịch vụ của Pháp rất phát triển trong hệ thống tài chính và ngân hàng (đứng thứ 2 thế giới); Pháp còn là nước đứng vào loại hàng đầu thế giới về thu hút khách du lịch, hàng năm đón trên 70 triệu lượt khách. Về thu hút đầu tư nước ngoài, Pháp đứng thứ 4 thế giới sau Mỹ, Anh và Trung Quốc, đứng thứ 2 Châu Âu sau Anh. Pháp cũng đứng thứ 4 thế giới về đầu tư ra nước ngoài.
Thu nhập quốc dân (GDP) tính theo đầu người của nước Pháp là 25.860 USD, xếp thứ 5 trên thế giới sau Thụy Sỹ, Nhật Bản, Mỹ và Singapore.
1.1.4. Thể chế chính trị
Quốc khánh Pháp là ngày 14 tháng 7. Cộng hòa Pháp theo chế độ Nghị viện - Tổng thống. Tổng thống là người lãnh đạo cao nhất về chính sách đối ngoại và quốc phòng. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ, có trách nhiệm trước Quốc hội, giữ quyền xây dựng Luật trong phạm vi của mình và đảm bảo thi hành luật.
Hiến pháp ngày 04/10/1958 liên tiếp được sửa đổi, những nội dung được sửa đổi là: Bầu cử Tổng thống theo phương thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp (năm 1962), bổ sung mục liên quan đến trách nhiệm hình sự của các thành viên Chính phủ (năm 1993), thiết lập kỳ họp duy nhất ở Nghị viện và mở rộng quy mô trưng cầu dân ý (năm 1995), rút ngắn nhiệm kỳ Tổng thống từ 7 năm xuống 5 năm (năm 2000).
Tổng thống do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm Theo Hiến pháp, Tổng thống là lãnh đạo cao nhất về chính sách đối ngoại và quốc phòng. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ, có trách nhiệm trước Quốc hội, giữ quyền xây dựng luật và đảm bảo thi hành pháp luật.
Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, gồm Quốc hội và Thượng viện. Quốc hội do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm (577 đại biểu). Thượng viện được bầu gián tiếp (do các ủy viên Hội đồng Vùng, tỉnh và các nghị sĩ Quốc hội bầu ra), nhiệm kỳ là 9 năm, sau 3 năm bầu lại 1/3. Với việc bỏ phiếu bất tín nhiệm, Quốc hội có thể bãi miễn Chính phủ.
Đảng phái chính trị của Pháp chia thành 2 nhóm chính là các Đảng cánh tả và các Đảng cánh hữu.
Các đảng phái cánh tả bao gồm các đảng chính là Đảng Xã hội, thành lập năm 1905; Đảng Cộng sản, thành lập 1920 và Đảng Xanh thành lập năm 1984. Đảng Xã hội chủ trương chính sách kinh tế cứng rắn, phát triển chính sách xã hội, quản lý chủ nghĩa tư bản bằng cách phân phối lại thu nhập trong xã hội, giảm bớt sự cách biệt giữa người giàu và nười nghèo, có đường lối tương đối gắn với các đảng xã hội dân chủ ở châu Âu. Đảng Cộng sản theo đường lối mác xít, với mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng con đường hòa bình. Đảng Xanh chủ trương đoàn kết, có trách nhiệm đối với hành tinh và trách nhiệm công dân. Ngoài ra còn có các đảng khác như Phong trào Công dân (Mouvement des citoyens); Đảng Xã hội cấp tiến (Parti Radical Socialiste); Đảng đấu tranh công nhân (Lutte Ouvrière)...
Các đảng phái cánh hữu gồm Đảng tập hợp vì nền cộng hoà, Liên minh vì nền dân chủ Pháp, Đảng lực lượng dân chủ, Đảng tập hợp vì nước Pháp, Đảng cực hữu mặt trận quốc gia. Đảng tập hợp vì nền Cộng hòa ra đời năm 1976, theo chủ nghĩa Đờ Gôn (De Gaulle), đề cao tự chủ của Pháp, chính sách độc lập về đối ngoại và quốc phòng, chủ trương một Nhà nước mạnh trong việc hiện đại hóa kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Đảng Liên minh với nền dân chủ Pháp ra đời năm 1978, tập hợp các đảng Dân chủ Tự do (Démocratie Libérale), Đảng Cấp tiến (Parti Radical), Đảng Nhân dân vì nền Dân chủ Pháp (Parti populaire pour la Démocratie francaise). Đảng lực lượng Dân chủ (Force Démocrate -FD) có khuynh hướng trung hữu. Đảng Tập hợp vì nước Pháp - Rassemblement pour la France thành lập tháng 11/1999, tập hợp một bộ phận tách ra từ RPR và Phong trào vì nước Pháp cũ. Đảng cực hữu Mặt trận quốc gia – Front National thành lập năm 1972. Tại cuộc bầu cử Tổng thống 5/2002, Đảng này đã lợi dụng tâm lý chán nản của dân chúng trong một số vấn đề như nhập cư, thất nghiệp nên lần đầu tiên đã lọt được vào vòng 2.
1.1.5. Chính sách đối ngoại và quốc phòng
Pháp là nước cổ động mạnh nhất cho việc hình thành một thế giới đa cực, trong đó EU phải đóng một vai trò nòng cốt. Pháp cho rằng cần cải tổ, tăng cường vai trò của các thiết chế kinh tế, chính trị quốc tế để hình thành những cơ chế “quản lý” toàn cầu hóa, hạn chế các tác động tiêu cực của nó. Cách nhìn nhận này được tóm tắt trong khái niệm mà Tổng thống Pháp J. Chirac luôn cổ động từ nhiều năm nay, đó là “làm chủ toàn cầu hóa và làm cho toàn cầu hóa mang tính nhân bản hơn”.
Trọng tâm đối ngoại của Pháp là Châu Âu, an ninh và phát triển, tăng cường vị trí và ảnh hưởng của Pháp trên các mặt: xây dựng liên minh Châu Âu thành công, củng cố an ninh, hòa bình ở châu Âu, củng cố trục Pháp - Đức, lấy đó làm nòng cốt thúc đẩy liên kết trong khối EU, thực hiện đồng tiền chung duy nhất ở châu Âu, tăng cường xây dựng lực lượng nòng cốt châu Âu trong NATO, tăng cường ảnh hưởng và vị trí kinh tế tại các khu vực có tiềm năng phát triển mạnh trong tương lai. Pháp chú trọng kéo Anh tham gia sâu hơn vào quá trình liên kết và xây dựng lực lượng nòng cốt châu Âu, tăng cường vai trò của UEO thành tổ chức phòng thủ của EU, làm hạt nhân châu Âu trong NATO.
Đối với khu vực châu á - Thái Bình Dương, Pháp điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường quan hệ quan hệ với khu vực này trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, an ninh, văn hóa, khoa học kỹ thuật, môi trường, năng lượng, chống tội phạm có tổ chức...
Về kinh tế thương mại, Pháp đặt mục tiêu tăng gấp 3 lần thị phần thương mại tại khu vực này trong 10 năm. Về chính trị, thiết lập sự đối thoại chính trị thường xuyên giữa Pháp với các nước trong khu vực. Pháp ủng hộ sự phát triển của ASEAN, kêu gọi ASEAN mở rộng trở thành trụ cột ở châu á bên cạnh Trung Quốc, Nhật Bản và ấn Độ trong việc duy trì ổn định và hòa bình ở khu vực.
Về chính sách quốc phòng, Pháp đã xác định lại chiến lược quốc phòng sau chiến tranh lạnh, coi mối đe dọa trực tiếp vào nước Pháp không còn nữa, do đó việc xây dựng lực lượng quốc phòng sẽ nằm trong khuôn khổ đa phương (trong NATO, trong UEO, hay trong khuôn khổ Liên hợp quốc) và trong khuôn khổ các Hiệp định song phương với các nước, đặc biệt với các nước châu Phi.
Hiện nay Pháp đã thực hiện chính sách cải cách quốc phòng, xây dựng quân đội chuyên nghiệp, bãi bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự tự nguyện, cắt giảm ngân sách quốc phòng và quân số, xây dựng quân đội dựa trên 4 lực lượng: răn đe hạt nhân, phòng ngừa, triển khai nhanh và bảo vệ an ninh trong nước.
1.2. Quan hệ hợp tác Việt Nam - Pháp trong lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật
1.2.1. Quan hệ ngoại giao
Việt Nam và Pháp thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ ngày 12/4/1973. Từ đó đến nay, quan hệ giữa hai nước đã trải qua nhiều giai đoạn. Từ năm 1975 đến năm 1978: Sau khi Việt Nam giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam và Pháp tăng cường quan hệ nhiều mặt và ký một loạt nghị định thư tài chính với ta như Hiệp ước hợp tác kinh tế và công nghiệp, Hiệp định hợp tác văn hóa – giáo dục, đào tạo, giảng dạy tiếng Pháp... Đỉnh cao quan hệ là chuyến thăm Pháp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tháng 4/1977. Sau đó quan hệ kinh tế song phương có những bước chuyển tích cực.
Trong những năm 80, quan hệ hai nước bị ngưng đọng. Các nước phương Tây thi hành chính sách cô lập Việt Nam, vu cáo Việt Nam đưa quan vào Campuchia và vấn đề thuyền nhân Việt Nam, nhưng thái độ của Pháp có mức độ.
Từ năm 1989, quan hệ Việt Nam – Pháp được cải thiện trở lại, nhất là từ khi Việt Nam bước đầu giành được những thắng lợi, kết quả trong chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Pháp đã đi đầu trong số các nước phương Tây trong việc khai thông quan hệ với Việt Nam. Pháp coi việc thúc đẩy quan hệ với Việt Nam là một trong những chính sách đối ngoại cần ưu tiên ở khu vực. Pháp mong muốn khôi phục sự ảnh hưởng của mình tại Đông Dương cũ thông qua Việt Nam và cũng hy vọng Việt Nam là chiếc cầu nối quan trọng trong hợp tác của Pháp với các nước trong khu vực. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp R. Dumas thăm Việt Nam đầu 1990 và Bộ trưởng Ngoại giao sau này là Thủ tướng Alain Juppé đã tuyên bố “... nước Pháp nằm ở giữa châu Âu đang ngày càng trở nên thống nhất và Việt Nam ở giữa châu á đã hòa giải và đang tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, hai nước chúng ta có thể cùng nhau làm nên nhiều việc lớn...”. Pháp đã nối lại viện trợ phát triển cho Việt Nam, thúc đẩy quan hệ trên mọi lĩnh vực, hỗ trợ Việt Nam giải tỏa quan hệ với các tổ chức tài chính và tiền tệ quốc tế, ủng hộ Việt Nam thiết lập và tăng cường quan hệ với Liên minh châu Âu.
Đỉnh cao quan hệ trong giai đoạn này là việc Tổng thống Francois Mitterrand thăm Việt Nam tháng 2/1993. Đây là Tổng thống Pháp và Tổng thống phương Tây đầu tiên thăm Việt Nam. Trong chuyến thăm, Tổng thống Francois Mitterrand tuyên bố sự hòa giải hoàn toàn giữa hai nước Việt Nam – Pháp, lên tiếng yêu cầu Mỹ bỏ cấm vận chống Việt Nam. Tháng 7 năm 1995, chính phủ Pháp hoan nghênh Việt Nam gia nhập khối ASEAN.
Từ những năm 1990 trở lại đây, hai bên đã thường xuyên trao đổi đoàn cấp cao. Nhiều đoàn cấp cao Pháp đã thăm Việt Nam như: Tổng thống Pháp Francois Mitterrand (2/1993), Tổng thống J.Chirac trước thềm Hội nghị cấp cao 7 các nước có sử dụng tiếng Pháp (Francophonie VII) và HNCC ASEM V, Chủ tịch thượng viện Pháp (5/2003), Bộ trưởng Thiết bị, Giao thông và Nhà ở (2000), Bộ trưởng Tư pháp (2/2002), Quốc vụ khanh phụ trách cựu chiến binh Pháp (3/2003) và một số chuyến thăm của các vị bộ trưởng khác. Nhiều đoàn cấp cao Việt Nam đã thăm Pháp: Thủ tướng VÂ Văn Kiệt (6/1993), Chủ tịch QH Nông Đức Mạnh (9/1993), Chủ tịch nước Lê Đức Anh (5/1995); Thủ tướng Phan Văn Khải (4/1998), Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (5/2000), Chủ tịch nước Trần Đức Lương (10/2002), các chuyến thăm của bộ trưởng Ngoại giao, Tư pháp, Quốc phòng,...Nhân chuyến thăm một số nước châu Âu, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã thực hiện chuyến thăm làm việc tại Pháp (8/2003).
Mới đây nhất, cuối tháng 9 và đầu tháng 10 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tiến hành chuyến thăm chính thức Cộng hòa Pháp, dự lễ khai mạc Ngày Việt Nam tại Pháp.
1.2.2. Quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
Quan hệ kinh tế giữa Pháp và Việt Nam phát triển theo hướng tích cực. Việt Nam là một trong số ít nước được hưởng cả 3 kênh viện trợ tài chính của Pháp là viện trợ phát triển chính thức từ ngân sách (ODA từ ngân sách nhà nước), cho vay ưu đãi từ Cơ quan phát triển Pháp (AFD), Quỹ đoàn kết ưu tiên (FSP). ở châu á, ngoài Việt Nam, hai nước Lào và Campuchia cũng được hưởng viện trợ tài chính theo 3 kênh này. Pháp là nước tích cực giúp Việt Nam tái hòa nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, viện trợ không hoàn lại và vận động các nước chủ nợ tại Câu lạc bộ Paris thông qua phương thức trả nợ có lợi cho phía Việt Nam. Đồng thời Pháp cũng tác động để Ngân hàng thế giới tổ chức 3 Hội nghị các bên tài trợ cho Việt Nam tại Paris để Việt Nam có được những nguồn vốn quốc tế, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Tổng viện trợ tài chính của Pháp dành cho Việt Nam đến nay khoảng trên 800 triệu EURO, trong đó từ nguồn ODA khoảng 420 triệu EURO, AFD khoảng 360 triệu EURO cho 23 dự án và số còn lại là từ Quỹ FSP.
Việc hỗ trợ của Pháp qua đường Nghị định thư tài chính cũng tăng, từ khi Pháp nối lại ODA cho Việt Nam năm 1989 cho đến nay, tổng số viện trợ của Pháp qua ngân khố khoảng 420 triệu euro. Tại hội nghị tài trợ 2002, Pháp công bố tăng tài trợ cho Việt Nam lên 103 triệu euro cho năm tài khóa 2003.
Qua con đường vay tín dụng ưu đãi thông qua Tổ chức Phát triển Pháp AFD, đến năm 2003 tổng cam kết tài trợ của AFD cho Việt Nam khoảng 360 triệu euro. Trước kia chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngày nay mở rộng thêm trên lĩnh vực cơ sở hạ tầng (điện, nước, phát triển đô thị...) và quản lý tài nguyên thiên nhiên (nước, rừng, môi trường...)
Ngoài ra Việt Nam đã được nhận các khoản tài trợ từ Quỹ hợp tác ưu tiên (FSP) và Quỹ trợ giúp đặc biệt cho doanh nghiệp (FASEP) là những công cụ viện trợ phát triển dưới hình thức không hoàn lại của chính phủ Pháp nhằm hỗ trợ các dự án hợp ác về văn hóa, khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo. Đến nay ta đã ký nhiều dự án trong khuôn khổ tài trợ của FSP và FASEP về các lĩnh vực nói trên.
Về trao đổi thương mại, ._.trong những năm gần đây, trao đổi thương mại giữa hai nước không ngừng phát triển. Pháp là đối tác thương mại quan trọng thứ 2 của Việt Nam, là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam ở châu Âu. Việc tăng khối lượng trao đổi thương mại chủ yếu là việc đầu tư của Pháp vào Việt Nam và ký các hợp đồng quan trọng về xây dựng cũng như nâng cấp cơ sở hạ tầng. Trao đổi thương mại giữa Việt Nam - Pháp dần được cân đối, chênh lệch giữa xuất khẩu - nhập khẩu ngày một được thu hẹp.
Năm 1993, để tạo điều kiện thúc đẩy trao đổi thương mại, hai nước đã ký kết Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần. Năm 1994, Ngoại thương Pháp đã thực hiện bảo hiểm tập trung và dài hạn cho các hợp đồng thương mại giữa hai nước. Từ năm 1996, Chính phủ Pháp đã quyết định chuyển tỷ suất đóng bảo hiểm đối với những hợp đồng thực hiện với Việt Nam với mức ưu tiên hơn từ loại 4 sang loại 3. Kim ngạch trao đổi thương mại Việt - Pháp tăng liên tục, năm 2003, kim ngạch trao đổi thương mại Việt - Pháp 910 triệu USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu là 496 triệu USD. Năm 2000, buôn bán 2 chiều giữa hai nước đạt trên 700 triệu USD. Năm 2001 kim ngạch buôn bán 2 chiều đạt khoảng gần 1 tỷ USD. Năm 2002 đạt gần 1 tỷ 240 triệu euro. Tổng kim ngạch buôn bán 2 chiều 2003 ước khoảng trên 1 tỷ euro.
Về đầu tư, Chính phủ Việt Nam và Pháp chú ý khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Pháp đầu tư vào Việt Nam qua việc ký Hiệp định khuyến khích và bảo đảm đầu tư tại Việt Nam (1992). Từ khi Việt Nam ban hành Luật Đầu tư nước ngoài thì Pháp là một trong số ít những nhà đầu tư sớm vào Việt Nam.
Hiện Pháp là một trong những nước đầu tư hàng đầu ở Việt Nam, xếp thứ nhất trong các nước châu Âu và đứng thứ 6 trong tổng số 60 nước và vùng lãnh thổ đầu tư ở Việt Nam. Tính đến tháng 8/2003, Pháp đã đầu tư vào Việt Nam trên 2,3 tỷ USD với 120 dự án. Đầu tư của Pháp tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp nặng, giao thông, bưu điện, phân bổ tại 30 tỉnh/thành phố. Một số dự án đầu tư đáng chú ý là hợp doanh viễn thông giữa tổng công ty Bưu chính Viễn thông và France telecom tại TP. Hồ Chí Minh (615 triệu USD), Công ty mía đường Bourbon Tây Ninh 111 triệu USD, Cấp nước Thủ Đức 120 triệu USD, BOT Nhiệt điện Phú Mỹ 2 trị giá 400 triệu USD do EDF đứng đầu. Việt Nam là một thị trường được các nhà kinh doanh Pháp rất quan tâm, số công ty đăng ký kinh doanh, hoạt động ở Việt Nam ngày một tăng.
Trong lĩnh vực đầu tư du lịch, một số dự án của Pháp đã đi vào hoạt động và hoạt động có hiệu quả, tiêu biểu là liên doanh khách sạn Sofitel Metropole ở Hà Nội, liên doanh lữ hành Exotissmo... Đa phần các dự án của Pháp tập trung ở khu vực Hà Nội và các tỉnh miền Bắc (khoảng 40%), còn lại là ở Tp. Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Nam và miền Trung.
Hợp tác văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa hai nước được mở rộng. Hai bên đã thành lập Uỷ ban hỗn hợp Văn hoá, Khoa học kỹ thuật Việt – Pháp, và đã nhóm họp 11 phiên. Hàng năm, Pháp duy trì ngân sách hợp tác dành cho Việt Nam trị giá khoảng 10 triệu USD, tập trung vào các lĩnh vực: giảng dạy ngôn ngữ, cải cách hành chính, xây dựng luật pháp, tài chính, ngân hàng, đào tạo cao học về quản lý kinh tế, luật và hàng không. Hàng năm có khoảng 400-600 người nhận học bổng học tập và thực tập tại Pháp, đông nhất là ngành y. Số sinh viên Việt Nam theo học tại Pháp ngày một tăng. Pháp đã tích cực tài trợ và tham gia Liên hoan nghệ thuật Huế (Festival Hue) các năm 2000, 2002, 2004, 2006.
1.2.3. Thông tin về du lịch của Pháp
1.2.3.1. Cơ cấu, bộ máy quản lý du lịch
Bộ máy quản lý nhà nước về Du lịch Pháp nằm trong Bộ Thiết bị, Giao thông, Qui hoạch lãnh thổ, Du lịch và Biển. Mảng Du lịch do Bộ trưởng đặc trách du lịch phụ trách. Cơ cấu bộ máy tổ chức của Bộ Đặc trách Du lịch Pháp gồm các phòng ban chức năng sau: Văn Phòng Quốc Vụ khanh, Cơ quan Du lịch Quốc gia, Cục xúc tiến du lịch, Viện qui hoạch du lịch, Thanh tra Du lịch, Quỹ hỗ trợ phát triển Du lịch.
Cơ quan Du lịch Quốc gia là cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của Pháp trên phạm vi toàn quốc, chịu trách nhiệm hoạch định chính sách, định hướng phát triển du lịch theo chỉ đạo của Bộ trưởng. Bộ máy tổ chức của Cơ quan du lịch Quốc gia gồm các phòng: Chiến lược và dự báo, Quan hệ quốc tế, Hoạch định Chính sách, Pháp chế, Đào tạo, Tài chính và Doanh nghiệp. Cục xúc tiến Du lịch được thành lập năm 1987 có nhiệm vụ xúc tiến hình ảnh điểm đến Pháp. Cục xúc tiến Du lịch Pháp có 31 văn phòng tại 26 quốc gia và có các hoạt động tại 39 nước.
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, Pháp đã ký hiệp định hợp tác du lịch song phương với 30 quốc gia trên thế giới. Với khu vực châu á, Pháp đã ký với các nước Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia, Mông Cổ và Thái Lan.
1.2.3.2. Tình hình phát triển du lịch của Pháp
Pháp là một trong những quốc gia có ngành du lịch phát triển hàng đầu thế giới, là một trong những thị trường nhận và gửi khách lớn trên thế giới. Khách du lịch Pháp đi du lịch trong nước rất nhiều và số lượng khách du lịch ra nước ngoài cũng chiếm một tỷ lệ cao. Hiện Pháp có dân số trên 60 triệu người trong đó có khoảng 20 triệu người thường xuyên đi du lịch nước ngoài hàng năm. Tuy nhiên trong số du khách Pháp đi du lịch ra ngoài nước Pháp thì lượng khách Pháp đi du lịch ở các nước trong nội khối Châu Âu chiếm tỷ lệ nhiều nhất.
Chính phủ Pháp đặc biệt quan tâm đến phúc lợi xã hội và Pháp là nước có tỷ lệ chi ngân sách cho vấn đề an sinh cao (18.2% GDP, theo GECD Historical Statistics). Người lao động Pháp có 16 ngày nghỉ lễ, 40 ngày nghỉ phép được trả lương chưa kể 104 ngày nghỉ cuối tuần (trong đó có cả nửa ngày nghỉ thứ 6) và những ngày nghỉ hè, nghỉ đông... Đây là một trong những điều kiện thuận lợi, quan trọng để cho người dân Pháp có thể đi du lịch trong và ngoài nước.
Theo số liệu của Tổ chức Du lịch Thế giới, Pháp là thị trường nhận khách quốc tế hàng đầu và đứng thứ 3 về thu nhập nhập du lịch trên thế giới. Hàng năm Pháp đón trên 70 triệu lượt khách quốc tế, thu nhập từ du lịch đạt khoảng 40 tỷ USD, chiếm khoảng 7% tổng thu nhập quốc tế về du lịch.
Pháp cũng là một trong những thị trường gửi khách quan trọng trên thế giới. Hàng năm trung bình có khoảng 25 triệu lượt khách Pháp đi du lịch nước ngoài. Trung bình một khách Pháp chi 1.143EURO/chuyến/khách. Khách Pháp chủ yếu đi du lịch tới các nước châu Âu (70%), tiếp đến là châu Mỹ và châu Phi (khoảng 25%), còn châu á chỉ chiếm khoảng 4%. Tuy nhiên do đi du lịch ở châu Âu đã trở nên nhàm chán, môi trường sống, cảnh quan, khá giống nhau nên thời gian gần đây khách Pháp đi du lịch tới các nước châu á (Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam...) ngày một nhiều.
1.3. Đặc điểm thị trường du lịch Pháp
1.3.1. Cách thức đi du lịch của người Pháp
Mục đích của các chuyến du lịch của người Pháp chủ yếu là nghỉ ngơi và thăm thân. Ba hình thức nghỉ chính của du khách Pháp là tham quan, tắm nắng và nghỉ ở thành phố. Khách Pháp đặc biệt quan tâm tới lĩnh vực văn hoá, thích đi tham quan bảo tàng, triển lãm, tham quan thành phố. Khách Pháp khi đi du lịch chủ yếu nghỉ tại khách sạn. Có tới 60% các chuyến đi được đặt qua các công ty du lịch và đại lý lữ hành.
Người Pháp nổi tiếng lịch sự, có niềm tự hào dân tộc, ham đọc sách báo, thích nhạc giao hưởng, opera.. Mỗi năm có trên 1 triệu lượt người Pháp đến các nhà hát, rạp chiếu bóng và mỗi người dành ra khoảng 20 giờ/ tuần để xem các kênh truyền hình ưa thích của mình.
Theo nghiên cứu của Bộ Du lịch Pháp, tỷ lệ người đi du lịch nước ngoài nhiều nhất là số cán bộ, nhân viên, thương gia có thu nhập ổn định hoặc thu nhập cao, có thời gian nghỉ ngơi. Tiếp sau là nhân viên, nội trợ là nhóm có thu nhập thấp hơn. Kế đến là nhóm công nhân, sinh viên có thu nhập và thời gian dành cho nghỉ ít hơn các nhóm kia.
Những điểm đến ưa thích của khách Pháp có thể được phân ra theo thứ tự như sau: đa số thích đi nghỉ ở vùng quê hoặc đến các thành phố và trung tâm đô thị, tiếp đó là thích đi nghỉ biển, sau đó là đến các vùng núi, Có thể thấy, nhu cầu và sở thích của du khách Pháp khi đi du lịch là các miền quê và các thành phố lớn, khu đô thị, đồng thời nghỉ biển ở các khu biển ngập nắng.
Về mặt thời gian đi du lịch, người Pháp thích đi du lịch dài ngày hơn là ngắn ngày. Có đến 90% khách Pháp đến khu vực Châu á là các chuyến đi dài ngày vì để đến được châu A, du khách Pháp phải đi máy bay qua một chặng đường khá dài, chi phí khá tốn kém, do vậy họ phải tranh thủ thời gian và tiền bạc để nghỉ dài ngày. Trong khi khách Pháp đi du lịch ở Châu Âu thường là ngắn ngày và đi nhiều lần do vị trí địa lý thuận tiện, gần gũi, hệ thống đường giao thông trên bộ, đường không rất thuận lợi.
Bảng 1.1. Cơ cấu điểm đến của khách du lịch Pháp
Vùng quê
Thành phố
Biển
Núi
Hồ
Khác
Nghỉ ngắn ngày
36,7%
34,7%
15,6%
7,8%
2,8%
2,5%
Nghỉ dài ngày
24,4%
22,1%
30,9%
16,4%
4,1%
2,3%
(Nguồn: Bộ Du lịch Pháp)
Khách Pháp thường đi du lịch vào các kỳ nghỉ hè và nghỉ đông. Thông thường khách Pháp sang Việt Nam du lịch vào thời kỳ từ tháng 9 năm trước đến tháng 4 năm sau, lúc đó ở châu Âu đang rét trong khi ở Việt Nam khu vực miền Trung và miền Nam ngập tràn ánh nắng. Mùa hè thì họ chủ yếu đi du lịch ở châu Âu vì mùa hè ở châu Âu rất đẹp, thuận tiện đi lại.
1.3.2. Đặc điểm và xu hướng chung trong tiêu dùng du lịch của khách
du lịch Pháp
Khách du lịch Pháp có một số đặc điểm chính là rất tin tưởng vào các hãng lữ hành, đại lý du lịch chuyên nghiệp; đòi hỏi sự phục vụ với tính chuyên nghiệp cao; tin tưởng vào các dịch vụ của các khách sạn thuộc các tập đoàn lớn của Pháp; chú ý nhiều tới các giá trị văn hoá của điểm đến; dành thời gian khoảng 1-3 tháng để chuẩn bị cho chuyến đi; thường đọc kỹ catalogue, brochure để đi du lịch. Xu hướng sử dụng website cũng khá lớn, du khách Pháp sử dụng nhiều nhất các trang web của thế giới về du lịch (25%), trong khi người Mỹ và Đức sử dụng nhiều các trang web du lịch Việt Nam (tỷ lệ 22,5% và 19,5%).
Khách du lịch Pháp hiện nay vẫn vừa mang những tính cách của người Pháp xưa và vừa mang cả những đặc tính của người Pháp hiện đại, tính tình vui vẻ, sôi nổi, tinh tế, không ồn ào, thích rượu vang và ăn thức ăn ngon, thích tranh luận và ưa hùng biện, thích khám phá.
Một điều rất nổi tiếng là đàn ông Pháp lịch sự, hào hoa phong nhã, yêu quí trẻ em và phụ nữ. Người Pháp rất tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử của họ, tự hào về dân tộc văn minh, có ngôn ngữ phát triển được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Người Pháp rất sành ăn. Trong 3 bữa ăn là điểm tâm buổi sáng, bữa trưa và bữa tối thì bữa trưa là bữa ăn nhẹ để tiết kiệm thời gian. Các bữa ăn diễn ra chậm rãi, không vội vàng, tranh thủ để trò chuyện và trao đổi công việc. Thông thường bữa ăn tối khoảng 2 tiếng, có khi lâu hơn. Trong các bữa ăn thường không thể thiếu rượu vang. Pháp nổi tiếng thế giới với các loại rượu vang, nhất là vang Bordeaux. Kết thúc bữa ăn là một chút rượu mạnh để kích thích tiêu hóa. Pháp có dòng rượu mạnh Cognac rất nổi tiếng thế giới. Cũng như vang, Pháp nổi tiếng với hàng trăm loại phomát, được chế từ dê, cừu, bò. Người Pháp rất thích và uống khá nhiều café, hầu như dân Pháp đều uống café hàng ngày, thích ngồi ngoài hè, dười nắng nhâm nhi cốc café và tán gẫu.
Trong quá trình đi du lịch, người Pháp đòi hỏi nghiêm ngặt về vệ sinh trong khách sạn, ưa sạch sẽ, lịch sự. Hướng dẫn viên du lịch thông minh nhanh nhẹn, quan tâm đến khách, hài hước luôn được khách Pháp đánh giá cao. Người Pháp có thói quen lấy thông tin từ những người thân, bạn bè đã đi du lịch ở một điểm nào đó để cân nhắc, quyết định có nên đi đến đó không vì họ cho rằng đấy là những thông tin xác thực, có độ chính xác cao.
Sau bộ phim Đông Dương (Indochine) và phim Người tình (L’Amant) được trình chiếu tại Pháp, đi du lịch Việt Nam bắt đầu trở thành mốt đối với du khách Pháp. Số lượng khách Pháp di Việt Nam du lịch trong những năm 90 và sau đó chiếm một tỷ lệ cao trong tổng số khách quốc tế đến Việt Nam, là một trong những nước gửi khách hàng đầu đến Việt Nam. Một số hãng du lịch lớn của Pháp đưa khách đến Việt Nam là: Wagonlit, Asia, Maison de l’Indochine, Akiou, Nouvelle Frontiere...
Người Pháp tìm đến Việt Nam, ngoài sự bị cuốn hút bởi cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và phong phú, còn bị cuốn hút bởi truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, người dân mến khách... Số du khách này khi di du lịch Việt Nam rất quan tâm tới các di tích văn hóa, lịch sử, truyền thống dân tộc... của Việt Nam.. Đặc biệt là không ít người trong số đó còn mang đạm dấu ấn về những kỷ niệm Việt Nam.
Người Pháp có truyền thống đi du lịch và Pháp cũng là một trong những nước đứng hàng đầu thế giới về ngành công nghiệp không khói phát triển. Từ hơn mười năm nay, người Pháp đi du lịch Việt Nam ngày một nhiều và Việt Nam đang dần trở thành điểm đến du lịch quen thuộc, hấp dẫn du khách Pháp với những nét đặc trưng như sự mến khách của người Việt Nam, truyền thống lịch sử Việt Nam, phong cảnh thiên nhiên kỳ thú, ẩm thực Việt Nam đa dạng, bổ dưỡng mà không béo...
Qua tìm hiểu về nhu cầu, mong muốn về dịch vụ, sản phẩm du lịch Việt Nam, có thể thấy thị trường khách Pháp có yêu cầu cao về sự an toàn của điểm đến, thái độ niềm nở, hiếu khách của người dân, tiếp đến là các mong muốn về sự hấp dẫn của điểm đến, dịch vụ lưu trú, vệ sinh, vận chuyển...
Trong những năm qua, đặc biệt từ khi có chính sách mở cửa, đổi mới, trong bối cảnh Việt Nam là thành viên các nước ASEAN, hội nhập quốc tế, du lịch Việt Nam đang từng bước phát triển với những kết quả đáng mừng. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam du lịch ngày một tăng nhanh, trong đó khách Pháp giữ vai trò quan trọng, là một trong những thị trường gửi khách hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên số người Pháp đi du lịch Việt Nm hiện nay vẫn còn ở con số hết sức khiêm tốn so với dân số Pháp và người Pháp đi du lịch nước ngoài. Đây còn là một thị trường hết sức tiềm năng cần quan tâm khai thác.
1.3.3. Một số đặc điểm của khách Pháp đi Việt Nam du lịch
Thời gian đầu những năm 90 của thế kỷ XX, lượng khách Pháp đi du lịch thuần túy chỉ chiếm khoảng gần 60%, đi theo mục đích thương mại chiếm hơn 20%. Nhưng những năm sau đó, lượng khách thương mại, sang tìm kiếm cơ hội làm ăn, đầu tư giảm mạnh. Đại đa số hiện nay là khách du lịch thuần túy, đi nghỉ ngơi, tham quan Việt Nam. Đây là một thuận lợi để du lịch Việt Nam quan tâm, tìm cách quảng bá để khai thác một cách tốt nhất lượng khách đầy tiềm năng này, góp phần thu hút khách vào Việt Nam du lịch.
Khách Pháp đi du lịch Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm trước đến tháng 4 năm sau. Họ ít đi vào mùa hè vì ở châu Âu khi đó đẹp, họ tranh thủ đi trong nội khối châu Âu, hơn nữa điều kiện thuận tiện, ít tốn kém; trong khi đó mùa hè ở Việt Nam thường hay có mưa bão, lụt lội. Độ dài lưu trú của khách Pháp ở Việt Nam khoảng từ 10 đến 15 ngày.
Cơ cấu chi tiêu của khách Pháp ở Việt Nam xếp khoảng thứ 7 trong bảng xếp hạng. Trong đó chi tiêu cho lưu trú là khoảng trên 30%, chi cho mua sắm là hơn 20%, tỷ lệ chi cho vui chơi giả trí rất ít. So với một số thị trường khác, du khách Pháp vẫn được xếp vào tập khách có mức chi trả cao.
Về độ tuổi, nhìn chung khách Pháp đến Việt Nam du lịch ở độ tuổi từ 40 đến 60. Đây là độ tuổi của những người có công ăn việc làm ổn định, có mức thu nhập tương đối. Họ thường đi theo đoàn, ít khi đi lẻ hoặc cá nhân.
Những điểm du lịch được người Pháp ưa chuộng ở Việt Nam là Hà Nội, Hạ Long, Ninh Bình, Hòa Bình, vùng Tây Bắc và Điện Biên Phủ, SaPa... (Bắc bộ); Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa... Vùng Trung bộ); Thành phố Hồ Chí Minh, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Ninh, Củ Chi, Đà Lạt, Buôn Mê Thuật, Pleiku... (Vùng Nam bộ và Tây Nguyên).
Cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, phong phú và đặc sắc, nền văn hóa nhiều bản sắc, nét đặc trưng của các dân tộc anh em, bề dày lịch sử, khí hậu đa dạng và phong phú, những nét tương đồng với người Pháp, ẩm thực Việt Nam với các món ăn phong phú của 3 miền... là những yếu tố thu hút khách Pháp ở Việt Nam.
Đơn vị: Lượt khách
Biểu đồ 1.2. Lượng khách du lịch Pháp đến Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục Du lịch)
Thị trường khách du lịch quốc tế đến Việt Nam khá đa dạng, từ nhiều nguồn khác nhau: châu á, châu Âu, Châu Mỹ, châu úc... Trong đó thị trường các nước châu Âu chiếm khoảng 12% tổng lượng khách quốc tế, trong đó nhiều nhất là Pháp.
Dựa trên những tiêu chí khoa học, Tổng cục Du lịch đã xác định và xếp thị trường quan trọng nhất hiện tại của Việt Nam là Mỹ, Pháp, Nhật, tiếp đến là các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, úc, Anh, các nước ASEAN...
Cũng theo đánh giá về thị trường của Tổng cục Du lịch, trong giai đoạn hiện nay, các thị trường trọng điểm của Việt Nam gồm Mỹ, Pháp, Nhật Bản; Trung Quốc, ASEAN, Hàn Quốc, Đức; Anh, úc...
Theo tài liệu nghiên cứu khoa học của Tổng cục Du lịch về mức độ hài lòng và thoả mãn của từng thị trường khách khi đến Việt Nam, nhìn chung du khách sau khi đi du lịch đều có ấn tượng tốt đẹp. Trong kết quả điều tra khách du lịch tiềm năng nổi bật ở hai thị trường lớn được nghiên cứu là thị trường khách Pháp và Đức thì trong tổng số khách Pháp được phỏng vấn có 24% khách đã có dự định đi du lịch Việt Nam, 40,5% khách cho biết có thể di du lịch Việt Nam trong thời gian tới. Như vậy thị trường Pháp là thị trường khách truyền thống của du lịch Việt Nam và thị trường này có khả năng lớn hơn nhiều so với một số thị trường khách khác.
1.4. Quan hệ hợp tác về du lịch giữa Việt Nam và Pháp
1.4.1. Các hoạt động hợp tác đã triển khai và kết quả
Hiệp định Hợp tác Du lịch Việt Nam và Pháp đã được ký tại Paris ngày 17/01/1996 là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy hợp tác du lịch song phương. Nội dung chủ yếu của Hiệp định này gồm: Khuyến khích phát triển và tăng cường khả năng hợp tác, đầu tư du lịch song phương, tăng cường trao đổi đoàn và tạo điều kiện cho các doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực du lịch; Khuyến khích trợ giúp kỹ thuật và trao đổi thông tin du lịch và các lĩnh vực có tác động đến du lịch; Nghiên cứu và thực hiện các dự án đầu tư về du lịch, khuyến khích giúp đỡ kỹ thuật, trao đổi chuyên gia, dịch vụ, các hoạt động thúc đẩy du lịch; Tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở văn phòng đại diện du lịch quốc gia của nước này tại nước kia; Tạo điều kiện cho công dân nước thứ 3 tới Việt Nam và Pháp du lịch.
Triển khai các nội dung của Hiệp định, Chương trình Hợp tác du lịch Việt – Pháp giai đoạn 1997 – 2000 đã được ký tại Hà Nội ngày 11/4/1997. Nội dung chủ yếu tập trung vào lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và quy hoạch du lịch: mở khóa đào tạo cao học quản lý hành chính về du lịch; xây dựng cơ sở đào tạo về Du lịch tại Hải Phòng; tổ chức cho cán bộ du lịch Việt Nam sang Pháp học tập, nghiên cứu; nghiên cứu thành lập một Trung tâm đào tạo thường xuyên bằng tiếng Pháp cho cán bộ ngành du lịch Việt Nam; hợp tác nghiên cứu các dự án quy hoạch du lịch của Việt Nam; tổ chức các đoàn cán bộ du lịch Việt Nam sang Pháp tìm hiểu về kinh nghiệm quản lý của du lịch Pháp.
Phía Pháp đã tích cực giúp Việt Nam thực hiện triển khai Hiệp định và Chương trình hợp tác Du lịch thông qua một số hoạt động như cử Đoàn chuyên gia Viện quy hoạch du lịch Pháp (AFIT) sang Việt Nam giúp khảo sát quy hoạch du lịch khu Hạ Long - Cát Bà - Hải Phòng (tháng 5/1997); cử 2 đoàn đại biểu Vùng Poitou - Charentes sang Việt Nam bàn về khả năng hợp tác du lịch với một số địa phương của Việt Nam (1997)...
Hiện có khoảng hơn 100 công ty lữ hành quốc tế Việt Nam có quan hệ, ký hợp đồng trao đổi khách với gần 100 hãng lữ hành lớn của Pháp. Một số hãng lớn của Pháp thường xuyên gửi khách sang Việt Nam như Wagon lit, Asia, Nouvelle Frontiere, Akiou... Tại Việt Nam, từ những năm 90, đã có liên doanh lữ hành Việt Nam - Pháp (Exotissimo) đưa một lượng lớn khách Pháp và khách từ các nước khác tới Việt Nam du lịch. Đây là liên doanh lữ hành lớn, được thành lập vào thời kỳ đầu tiên của Việt Nam và hoạt động đến nay rất hiệu quả.
Đầu tư vào lĩnh vực du lịch: Pháp đứng thứ 7 trong danh sách các nước, vùng lãnh thổ có đầu tư nhiều nhất vào Du lịch ở Việt Nam với 14 dự án đầu tư, trị giá 188 triệu USD vốn đầu tư vào lĩnh vực khách sạn - du lịch.
Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực: Theo Chương trình hợp tác giai đoạn 1997 - 2000, hai bên đã thống nhất phía Pháp sẽ hỗ trợ du lịch Việt Nam: Mở khoá đào tạo cao học quản lý hành chính về Du lịch trong 24 tháng, nghiên cứu thành lập một Trung tâm đào tạo thường xuyên bằng tiếng Pháp cho cán bộ du lịch Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay mới tổ chức được một đoàn gồm 10 cán bộ Tổng cục, giám đốc các sở du lịch ở Việt Nam sang Pháp tìm hiểu tại chỗ về kinh nghiệm tổ chức, quản lý của Du lịch Pháp.
Trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp lần 7 tổ chức tại Hà Nội, phía Pháp đã cử chuyên gia đào tạo cho Việt Nam hơn 700 cán bộ, nhân viên làm việc trực tiếp trong Ngành Du lịch, tiếp nhận gần 100 cán bộ công nhân viên du lịch sang thực tập chuyên ngành tại Pháp.
1.4.2. Một số định hướng hợp tác du lịch hai nước thời gian tới
Đối với du lịch Việt Nam, Pháp là thị trường khách trọng điểm, là nước đứng hàng đầu thế giới về đón khách, có nhiều kinh nghiệm về đào tạo, marketing, quy hoạch du lịch, có khả năng về vốn đầu tư cho các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cần tranh thủ khai thác. Do một số nguyên nhân, thời gian qua một số nội dung trong Chương trình hợp tác du lịch giai đoạn 1997 - 2000 chưa được triển khai, hai bên cần quan tâm thúc đẩy.
Để làm cơ sở cho các hoạt động thời gian tới, hai bên đã thống nhất ký Nghị định thư triển khai các nội dung Hiệp định Hợp tác du lịch đã ký kết năm 1996 nhằm thúc đẩy hợp tác du lịch giữa hai nước. Hai bên sớm triển khai, cụ thể hóa các nội dung đã thống nhất.
Là thị trường truyền thống và tiềm năng, Pháp là điềm đến cần tập trung đầu tư để quảng bá xúc tiến của du lịch Việt Nam. Việc thành lập Văn phòng đại diện của Du lịch Việt Nam tại Pháp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là rất quan trọng và cần thiết, cần sớm triển khai để hoạt động hiệu quả. Đồng thời Du lịch Việt nam cần tích cực, chủ động tham gia nhiều hơn nữa các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch tại thị trường này như hội chợ, hội nghị, hội thảo du lịch, các sự kiện xúc tiến du lịch như tổ chức Ngày Việt Nam, ẩm thực Việt Nam...., kết hợp tốt với các bộ, ngành liên quan như Ngoại giao, Kế hoạch đầu tư, Hàng không Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, với Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp, với bà con Việt kiều đang sinh sống tại Pháp để tổ chức tốt các sự kiện quảng bá cho Du lịch Việt Nam, Chú trọng quan tâm tới chất lượng việc tham gia các sự kiện để đẩy mạnh hiệu quả của việc tham gia, có các hình thức tổ chức phù hợp các sự kiện đó. Hỗ trợ hơn nữa các doanh nghiệp du lịch Việt Nam khi tham gia các sự kiện du lịch tại thị trường trọng điểm này.
Chương 2
Thực trạng hoạt động xúc tiến
của du lịch việt nam tại thị trường pháp
2.1. Khái quát hoạt động xúc tiến quảng bá của Du lịch Việt Nam
2.1.1. Hệ thống chính sách, văn bản pháp lý và bộ máy xúc tiến,
quảng bá của Du lịch Việt Nam
2.1.1.1. Hệ thống chính sách, văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động
xúc tiến du lịch
Ngày 9/7/1960 là ngày thành lập Công ty Du lịch Việt Nam và sau đó được coi là ngày thành lập ngành Du lịch Việt Nam. Trong khoảng thời gian 30 năm từ khi thành lập Ngành cho đến năm 1990, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam còn chưa đầy đủ và yếu. Hoạt động du lịch khi đó chủ yếu là phục vụ công tác đối ngoại, tổ chức đón các đoàn khách nước ngoài của Đảng và Nhà nước đến Việt Nam công tác có kết hợp đi nghỉ hoặc tham quan. Chưa tách bạch một cách rõ ràng được các hoạt động quản lý nhà nước với các hoạt động kinh doanh du lịch. Vì vậy công tác xúc tiến, quảng bá du lịch còn ít được quan tâm.
Từ năm 1990 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm nhiều hơn tới du lịch, ban hành những văn bản pháp luật liên quan tới du lịch như Nghị quyết số 45-CP ngày 22/6/1993 của Chính phủ về đổi mới quản lý và phát triển ngành du lịch; Chỉ thị 46-CT/TW ngày 14/10/1994 của Đảng về lãnh đạo đổi mới và phát triển du lịch trong tình hình mới, xác định nhiệm vụ phải đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá, mở rộng thị trường, tăng cường thu hút khách và vốn đầu tư nước ngoài; Pháp lệnh Du lịch ban hành năm 1999, Chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2001 – 2010, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 – 2010 và nhiều văn bản khác của Đảng và Nhà nước đã được ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch.
Đặc biệt là tiếp sau Pháp lệnh Du lịch ra đời năm 1999, Luật Du lịch được ban hành và có hiệu lực từ tháng 01/2006 là một bước chuyển biến mạnh mẽ, một bước ngoặt mang tính pháp lý và tạo hành lang pháp lý quan trọng trong hoạt động du lịch của Việt Nam. Luật Du lịch có hẳn một chương riêng về xúc tiến du lịch, thể hiện sự quan tâm đúng mức và đánh giá cao của ngành cũng như của các cơ quan liên quan, của Chính phủ đối với công tác quảng bá xúc tiến du lịch. Nghị định 92/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 01/6/2007 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Du lịch, Nghị định số 149/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 09/10/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch. Hiện nay việc triển khai Nghị định hướng dẫn Luật và Thông tư hướng dẫn Nghị định đang được triển khai có hiệu quả, làm cơ sở cho các hoạt động xúc tiến du lịch của Việt Nam và là căn cứ để các địa phương, doanh nghiệp du lịch trên toàn quốc hoạt động đúng pháp luật.
2.1.1.2. Tổ chức bộ máy xúc tiến du lịch Việt Nam
Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác xúc tiến quảng bá, thời gian qua, Chính phủ đã quan tâm nhiều hơn tới việc hoàn thiện tổ chức bộ máy xúc tiến của Du lịch Việt Nam. Do vậy tổ chức bộ máy xúc tiến của Du lịch Việt Nam đang dần được hoàn thiện, góp phần tạo động lực cho công tác xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam. Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch được thành lập do một Phó Thủ tướng làm Trưởng Ban, thành viên khác của Ban là Lãnh đạo một số Bộ, ngành liên quan để điều phối hoạt động du lịch cả nước, trong đó có hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch. Cục Xúc tiến Du lịch được thành lập theo Quyết định số 391/QĐ-TCDL ngày 28/10/2003 của Tổng cục Du lịch là cơ quan có chức năng tham mưu giúp Tổng cục trưởng thực hiện quản lý nhà nước về xúc tiến du lịch trên lãnh thổ Việt Nam, tổ chưc thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch ở trong và ngoài nước. ở địa phương, tại 64 tỉnh thành trong cả nước đã thành lập cơ quan xúc tiến du lịch, tuy nhiên mô hình bộ máy chưa thống nhất, có nơi là Trung tâm xúc tiến du lịch trực thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh, có nơi là Trung tâm xúc tiến du lịch trực thuộc Sở quản lý về du lịch, có nơi công tác quảng bá xúc tiến lại do một phòng chuyên trách thuộc Sở thực hiện. Hiện cả nước có 51 tỉnh, thành phố thành lập Ban chỉ đạo phát triển du lịch của địa phương.
Các doanh nghiệp lữ hành quốc tế, khách sạn cao cấp, khu nghỉ dưỡng hiện nay đều có bộ phận marketing làm xúc tiến, quảng bá cho các sản phẩm của doanh nghiệp, đồng thời góp phần vào công tác quảng bá hình ảnh đất nước, con người, tiềm năng du lịch Việt Nam ra nước ngoài, góp phần tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Các Bộ, ngành, tổ chức như Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại (cũ), Bộ Văn hóa - Thông tin (cũ), Bộ Công An, Hàng không Việt Nam... cũng góp phần tích cực vào việc phối hợp triển khai các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Chương trình Hành động quốc gia về Du lịch và các sự kiện du lịch Việt Nam 2000 - 2005 và tiếp tục triển khai giai đoạn 2006 - 2010 được thực hiện với những kết quả ban đầu đáng khích lệ, tạo điều kiện cho các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam phát triển.
Nhằm phát huy tối đa các thế mạnh của đất nước để phát triển du lịch, năm 2007, Đảng và Chính phủ đã nghiên cứu, quyết định đưa Du lịch vào trong Bộ đa ngành, trở thành Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Đây là điều kiện rất tốt để ngành Du lịch cùng với các ngành văn hóa và thể thao phát triển, cùng nhau quảng bá, xúc tiến hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài thông qua các hoạt động quảng bá xúc tiến mang tính liên ngành chung.
2.1.2. Hoạt động quảng bá xúc tiến của Du lịch Việt Nam tại một số
thị trường du lịch quốc tế trọng điểm trong thời gian qua
Giai đoạn 1990 – 1995, du lịch Việt Nam tập trung phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực cho Ngành. Vào thời gian đó, công tác xúc tiến quảng bá du lịch còn hạn chế, ấn phẩm du lịch yếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Hoạt động marketing chủ yếu do các doanh nghiệp du lịch thực hiện và chỉ tập trung mạnh ở một số doanh nghiệp du lịch lớn của Nhà nước như Vietnamtourism, Saigontourism, Benthanhtourism, Hanoitourism...
Giai đoạn từ 1995 đến 1999, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch đã được quan tâm nhiều hơn, ấn phẩm, vật phẩm quảng bá du lịch được tăng cường cả về các chủng loại lẫn chất lượng. Trang web của Tổng cục Du lịch hoạt động có hiệu quả, lượng khách quốc tế và trong nước truy cập ngày một nhiều, các doanh nghiệp du lịch tham gia các sự kiện, hội chợ quốc tế ở những thị trường trọng điểm (Pháp, Anh, Đức, Thái Lan, Trung Quốc...) ngày một nhiều, các cơ quan thông tin đại chúng cũng góp phần tích cực cho công tác quảng bá du lịch.
Từ năm 2000 đến nay, Chương trình hành động quốc gia về du lịch do Nhà nước cấp kinh phí được triển khai có hiệu quả, chất lượng các hoạt động quảng bá du lịch được nâng lên, quy mô được mở rộng. Các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch tại các thị trường trọng điểm được mở rộng và nâng cao, tham gia hội chợ, hội nghị, sự kiện du lịch ở nhiều nước hơn, các hoạt động tham gia phong phú hơn, không bị bó hẹp như trước. Do vậy hình ảnh đất nước, con người và Du lịch Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế.
Theo đề nghị của Tổng cục Du lịch, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc cho phép lập thí điểm Văn phòng đại diện du lịch Việt Nam tại Pháp và Nhật Bản, trong đó chức năng chủ yếu của Văn phòng là hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch.
Việc tham gia các hội chợ, triển lãm du lịch quốc tế đã mang lại những kết quả bước đầu cho Du lịch Việt Nam, tạo dựng được hình ảnh Việt Nam an toàn, thân thiện, hấp dẫn. Nó góp phần tăng cường lượng khách du lịch quốc tế, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp du lịch Việt Na._. Du lịch hiện nay được triển khai khi Ngành Du lịch Việt Nam bước vào một giai đoạn mới của sự phát triển, của hội nhập quốc tế. Các chiến dịch cụ thể được xác định nhằm nâng cao hình ảnh du lịch của Việt Nam hoặc góp phần gia tăng thị phần. Các chiến dịch cụ thể có thể là chiến dịch tăng cường hình ảnh du lịch, chiến dịch phát động thị trường, chiến dịch phân phát ấn phẩm hoặc chiến dịch giới thiệu sản phẩm du lịch chuyên đề. Các chiến dịch được thực hiện đồng thời nhưng ưu tiên các biện pháp thúc đẩy thị trường cụ thể.
Thực hiện thành công các hoạt động của Chiến dịch này có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy công tác quảng bá xúc tiến du lịch Việt Nam tiến lên một bước mới, khẳng định tính chuyên nghiệp của Ngành với Chính phủ Việt Nam và với bạn bè thế giới.
3.3.2.4. Đa dạng và nâng cao chất lượng trong các hoạt động quảng bá
Vì Pháp là đầu mối giao lưu tại Châu Âu, là điểm tập trung đông các Văn phòng đại diện du lịch nước ngoài, lại là thị trường truyền thống và trọng điểm của Việt Nam nên Du lịch Việt Nam cố gắng tham dự thường xuyên hội chợ Du lịch chuyên nghiệp vào loại lớn và quan trọng nhất thế giới TOP RESA (đây là 1 trong 5 hội chợ quan trọng bậc nhất đối với du lịch Việt Nam), hội chợ Salon Mondial du Tourisme (tại Paris và dành cho công chúng). Đồng thời phải tổ chức thường xuyên roadshow, ngày Việt Nam tại Pháp, ẩm thực Việt Nam...
Để có thể đa dạng hoá hình thức, nội dung và nâng cao chất lượng quảng bá trong các hoạt động quảng bá tại Pháp kể trên, Du lịch Việt Nam phải có chiến lược quảng bá ngắn hạn và dài hạn, nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, có sự chuẩn bị chu đáo cho từng sự kiện, đưa ra từng chủ đề và hình thức quáng bá riêng cho mỗi hoạt động, cho mỗi năm, tránh lặp lại. Lên kế hoạch phối hợp cụ thể với các bộ, ngành liên quan, đặc biệt là với đại sứ quán Việt Nam tại Pháp, với cộng đồng bà con Việt kiều đang sinh sống tại Pháp nhằm huy động tối đa chất xám, sáng kiến, nguồn tài chính, nhân lực, vật lực cho hoạt động..
3.3.2.5. Nâng cao tính chuyên nghiệp cho cán bộ làm công tác xúc tiến
quảng bá du lịch
Thực tế hiện nay chứng tỏ đội ngũ cán bộ làm công tác quảng bá xúc tiến du lịch vẫn còn ở trình độ chưa cao, tính chuyên nghiệp thấp. Mục tiêu của giải pháp này là hướng tới việc góp phần đẩy nhanh các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch đến sự chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá cao. Để đạt được mục tiêu đó, cần thiết phải có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên trong lĩnh vực quảng bá xúc tiến, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn số cán bộ trên. Bên cạnh việc đào tạo, nâng cao tính chuyên nghiệp thì công tác nghiên cứu thị trường phục vụ công tác xúc tiến quảng bá giữ một vai trò vô cùng quan trọng.
Nhằm tăng cường năng lực cho công tác xúc tiến quảng bá du lịch, cần tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ làm công tác xúc tiến, quảng bá có trình độ chuyên môn cao, chuyên nghiệp từ trung ương đến địa phương. Tăng cường nhân lực đủ về số lượng và được đào tạo chuyên ngành marketing du lịch để có thể triển khai tốt các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch.
Cần thiết phải mở các lớp bồi dưỡng về marketing, xúc tiến du lịch và nghiên cứu thị trường. Tổ chức trao đổi thông tin, kinh nghiệm quảng bá cho đội ngũ làm công tác xúc tiến, quảng bá Việt Nam.
Bên cạnh đó có thể cử cán bộ đi bồi dưỡng ở nước ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm quảng bá xúc tiến du lịch của một số nước trên thế giới có du lịch phát triển để áp dụng vào thực tiễn Việt Nam. Tăng cường khả năng ngoại ngữ cho các cán bộ làm công tác này để đảm bảo năng lực khi tiếp xúc, tham gia các hoạt động xúc tiến, quảng bá ở trong nước cũng như nước ngoài.
Bên cạnh việc nâng cao và hoàn thiện đội ngũ cán bộ có tính chuyên nghiệp cao, cần hoàn thiện bộ máy xúc tiến du lịch từ trung ương đến địa phương. Ngoài ra, cần tổ chức, tham gia các hội nghị, hội thảo du lịch ở trong nước và quốc tế để tích luỹ kinh nghiệm. Cử người phụ trách thị trường có đủ năng lực chuyên môn và ngoại ngữ để tham gia các hoạt động xúc tiến, quảng bá ở nước ngoài. Đối với thị trường Pháp, cần cán bộ giỏi tiếng Pháp, có chuyên môn và nghiệp vụ sâu, am hiểu thị trường Pháp, có bề dày kinh nghiệm trong ngành.
3.3.2.6. Xây dựng cơ sở dữ liệu cho công tác quảng bá xúc tiến du lịch
Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu (ấn phẩm, kho ảnh, thông tin về các điểm du lịch, các lễ hội, ảnh sinh hoạt đời thường...) làm tư liệu cho các ghoạt động quảng bá du lịch là rất cần thiết. Việc có được hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu thể hiện được các điểm mạnh, các điểm đặc trưng của các vùng miền, tiềm năng du lịch, các tài nguyên du lịch đặc thù... để làm cơ sở cho quảng bá và xúc tiến du lịch.
Xây dựng cơ sở dữ liệu của du lịch Việt Nam phục vụ cho công tác quảng bá xúc tiến du lịch và nhất là có thêm cơ sở dữ liệu của các nước để học hỏi kinh nghiệm và so sánh thì càng tốt cho công tác nghiên cứu, triển khai quảng bá du lịch, đồng thời qua đó nâng tầm các sản phẩm quảng bá của Du lịch Việt Nam.
3.3.2.7. Xúc tiến kế hoạch xây dựng ấn phẩm, vật phẩm du lịch
Để làm tốt công tác quảng bá xúc tiến du lịch, căn cứ vào việc nghiên cứu thị trường và kế hoạch triển khai các hoạt động quảng bá ở các thị trường đó mà Du lịch Việt Nam xây dựng kế hoạch sản xuất ấn phẩm, vật phẩm quảng bá du lịch cho từng năm, cho từng giai đoạn cụ thể và có khi cho từng sự kiện cụ thể. Các ấn phẩm, vật phẩm du lịch được xây dựng, sản xuất và thiết kế phù hợp cho từng thị trường, đối tượng khách nhắm tới để quảng bá xúc tiến.
Các ấn phẩm, vật phẩm du lịch quảng bá chung cho Du lịch Việt Nam phải được tính toán kỹ lưỡng, phù hợp với tình hình thực tế, làm nổi bật hình ảnh đất nước, con người, tiềm năng Du lịch Việt Nam. Các ấn phẩm và vật phẩm chuyên đề (nghỉ dưỡng, biển, ẩm thực...) phải có nội dung và hình thức đặc biệt, chất liệu tương xứng, có sức hấp dẫn cao với du khách và các nhà làm du lịch chuyên nghiệp, có tính cạnh tranh với các nước khác, nhất là các nước trong khu vực. Liên quan đến từng lễ hội hay sự kiện lớn cũng cần có hệ thống ấn phẩm, vật phẩm riêng và thông tin chi tiết cho mỗi lễ hội.
Trước mỗi chiến dịch quảng bá du lịch, cần tiến hành họp báo để thông tin rộng rãi tới công chúng ở trong và ngoài nước, để giới báo chí trong nước cũng như ngoài nước có đủ thông tin và phát các thông tin du lịch Việt Nam đó trên các phương tiện truyền thông. Các loại ấn phẩm và vật phẩm kèm theo cũng phải phù hợp với các chiến dịch đó.
ấn phẩm và vật phẩm du lịch phục vụ cho việc đón các đoàn Famtrip, Presstrip rất cần thiết, cung cấp thêm thông tin cho các đoàn khi vào Việt Nam tìm hiểu, khám phá, khi về nước quảng bá lại trên thị trường khách đó.
Cần chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất vật phẩm lưu niệm mang nội dung quảng bá Du lịch Việt Nam để tung ra trong các sự kiện du lịch ở trong nước và ngoài nước, nhất là khi tham gia các hội chợ, sự kiện du lịch ở nước ngoài. Đồng thời phải đa dạng hóa các sản phẩm quảng bá du lịch trong các đợt xúc tiến, quảng bá ở nước ngoài như tham gia hội chợ, hội nghị, hội thảo...
Thị trường Pháp có đặc thù riêng, cho nên càng phải chú trọng tới hình thức, nội dung, chất lượng các ấn phẩm, vật phẩm du lịch. Không thể dùng ấn phẩm, vật phẩm tiếng Anh thay cho tiếng Pháp được. Do người Pháp đã khá quen thuộc với Việt Nam nên phải xây dựng nội dung hấp dẫn, đặc sắc, luôn đổi mới thì mới có thể thu hút sự chú ý của du khách từ thị trường này
3.3.2.8. Nâng cao chất lượng các tài liệu quảng bá (ấn,vật phẩm...)
Để triển khai cụ thể và có hệu quả công tác quảng bá xúc tiến du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp, cần lưu ý một số đặc điểm riêng của thị trường này trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và triển khai các hoạt động quảng bá xúc tiến của Du lịch Việt Nam tại đó.
Người Pháp thích vui nhộn, có óc hài hước nhưng không dễ dãi, xô bồ, trọng danh dự, thường tôn sùng các giá trị nghệ thuật cổ điển, thích khám phá các nét văn hóa ẩm thực Việt Nam. Do thị trường Pháp gắn bó từ khá lâu với Việt Nam và đã để lại nhiều ảnh hưởng về văn hoá, tư tưởng nên phải có sự lựa chọn kỹ càng những nội dung khi quảng bá tại thị trường Pháp.
Thông tin đưa ra phải được lựa chọn kỹ, không tham nhiều mà phải chắt lọc. Tập trung nhiều các thông tin về vùng quê, về những nơi gắn với các sự kiện lớn thời kỳ người Pháp có mặt tại Việt Nam. Thông tin về dịch vụ y tế, bảo hiểm là những điều người Pháp thường quan tâm.
Tờ gấp, tờ rơi, tạp chí là khá phù hợp với thị trường này, những thông tin nên ngắn gọn, xúc tích, trình bày đơn giản, có thể phá cách. Ngoài ra người Pháp cũng thích các thông tin về hội chợ, roadshow, hội thảo, thuyết trình.
Hình thức các tài liệu quảng bá nên tránh rối rắm, màu sắc lòe loẹt, mà nên có chiều sâu thẩm mỹ, trình bày mang tính mỹ thuật cao. Lưu ý là người Pháp thích dùng ngôn ngữ của họ, rất không thích sử dụng từ ngữ của ngôn ngữ khác để thay thế ngôn ngữ Pháp
3.3.2.9. Tăng cường kinh phí cho hoạt động quảng bá tại thị trường Pháp
Từ năm 2000, với các nội dung cụ thể trong Chương trình hành động quốc gia về Du lịch trong từng giai đoạn, Nhà nước đã dành một khoản ngân sách để hỗ trợ Ngành du lịch trong các hoạt động, nhất là hoạt động quảng bá xúc tiến.
Với thị trường trọng điểm Pháp, việc tăng cường các hoạt động quảng bá xúc tiến càng phải được chú trọng. Ngoài việc dành ngân sách cho hoạt động thường xuyên của Văn phòng đại diện, phải có kế hoạch cho các hoạt động thường xuyên. Ngân sách cho Văn phòng đại diện là ngân sách nhà nước cấp thường xuyên, là mục riêng. Còn lại phải lập dự trù để chi cho việc tham dự hội chợ Top Resa, Salon Mondial du Tourisme, tổ chức Ngày Việt Nam, Hội báo Nhân đạo, một số hội nghị, hội thảo, đăng quảng cáo trên báo Pháp, sản xuất ấn phẩm, vật phẩm, băng đĩa, nâng cấp mạng,
Hiện nay với kinh phí trên dưới 20 tỷ/năm dành cho các hoạt động quảng bá chung của Ngành là quá nhỏ bé, kinh phí dành cho xúc tiến quảng bá váo thị trường Pháp chỉ khoảng hơn 1 tỷ đồng. Nhà nước cần tập trung đầu tư nhiều hơn để có thể có những hoạt động quảng bá du lịch đạt hiệu quả cao ở một vài thị trường du lịch trọng điểm, nhất là ở thị trường truyền thống và giàu tiềm năng là Pháp. Nên tăng kinh phí quảng bá vào thị trường Pháp vào khoảng 5 tỷ đồng/năm, chưa kể chi phí cho hoạt động thường xuyên của Văn phòng đại diện.
3.4. Một số kiến nghị
Để góp phần triển khai có hiệu quả những giải pháp nêu trên, Luận văn xin kiến nghị một số nội dung với Chính phủ để thống nhất phối hợp chỉ đạo, với cơ quan quản lý nhà nước về Du lịch để triển khai như sau:
3.4.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường
Nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch thực hiện đúng trọng tâm và hiệu quả, cần xác định nghiên cứu thị trường là nhiệm vụ thường xuyên. Qua đó có bước đi và biện pháp thích hợp với từng thị trường cho từng giai đoạn cụ thể. Việc nghiên cứu thị trường luôn đi trước công tác triển khai các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch, do vậy nó giữ một vai trò rất then chốt trong hoạt động du lịch.
Để nắm rõ xu hướng thị trường và xác định thị trường trọng điểm, thị trường mục tiêu, cần thường xuyên triển khai công tác nghiên cứu thị trường, có kế hoạch xây dựng chiến lược thị trường, sản phẩm phù hợp và xây dựng kế hoạch khai thác thị trường đó.
Lập kế hoạch để có ngân sách cho công tác nghiên cứu thị trường thường xuyên, đồng thời xác định cơ quan, cá nhân đáp ứng đủ năng lực để triển khai công tác nghiên cứu thị trường. Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường là góp phần tích cực trong việc tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam.
3.4.2. Tăng cường các hoạt động xúc tiến du lịch tại các thị trường du lịch trọng điểm
Hiện nay có một thực tế là các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch còn manh mún, dàn trải, bị động, không có trọng tâm trọng điểm nên hiệu quả công tác này chưa cao. Lý do cơ bản là Du lịch Việt Nam chưa có kế hoạch, lộ trình, đầu tư hợp lý cho công tác quảng bá xúc tiến du lịch tại các thị trường du lịch trọng điểm, trong đó có Pháp. Do vậy việc ưu tiên đầu tư có trọng điểm vào quảng bá tại một số thị trường quan trọng của Du lịch Việt Nam là cần thiết và phải có sự phối hợp liên ngành một cách chặt chẽ.
Nội dung của chính sách này gồm xác định thị trường ưu tiên cho từng giai đoạn, có chiến lược, kế hoạch, từ đó đưa ra các chiến dịch quảng bá cụ thể, bố trí ngân sách hợp lý. Các chiến dịch đưa ra phải có lộ trình, có nội dung phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Với từng thị trường trọng điểm, cần làm cái gì trước, cái gì sau, thời gian như thế nào để tạo được hình ảnh.
Đồng thời có biện pháp tăng cường khuyến khích các doanh nghiệp đón khách từ các thị trường ưu tiên này, nhanh chóng mở các văn phòng đại diện du lịch tại các thị trường du lịch trọng điểm và cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai các hoạt động quảng bá du lịch giữa cơ quan du lịch ở các cấp với các bộ, ngành liên quan, với các địa phương...
3.4.3. Tạo cơ chế, chính sách nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam
Luật Du lịch đã nêu rõ: "... Nhà nước có cơ chế, chính sách khuyến khích ưu đãi về đất đai, tài chính, tín dụng đối với các tổ chức, cá nhân trong nước, các tổ chức, cá nhân ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực quảng bá xúc tiến du lịch...”. Thực tế hiện nay kinh phí hàng năm cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về du lịch còn rất hạn chế, khoảng trên dưới 20 tỷ đồng/năm, tương đương hơn 1 triệu USD. Con số này là quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực chứ chưa kể đến các nước có du lịch phát triển khác trên thế giới. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách tăng cường vốn ngân sách cho các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch, đồng thời tăng nguồn vốn cho các hoạt động khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế trong du lịch, góp phần đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến.
Mục tiêu của giải pháp này nhằm tạo nguồn kinh phí cho các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch, đồng thời đề ra cơ chế sử dụng nguồn tài chính một cách hợp lý, phù hợp tình hình thực tế trong công tác xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, chúng ta cần triển khai giải pháp này theo nhiều hướng.
Thứ nhất là tăng cường ưu tiên đầu tư cho công tác xúc tiến quảng bá du lịch từ nguồn vốn ngân sách. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng, giúp cơ quan quản lý nhà nước xây dựng chiến lược xúc tiến quảng bá đồng bộ, mang tầm quốc gia, tổ chức các chiến dịch xúc tiến quảng bá.
Thứ hai là có chính sách huy động các nguồn lực xã hội cho quảng bá du lịch, nó quy định cụ thể về tổ chức huy động các nguồn vốn cho quảng bá xúc tiến du lịch, bao gồm các quy định về cơ chế huy động, về đối tượng hưởng lợi, về chia sẻ quyền lợi. Về cơ chế huy động, có nhiều phương thức đóng góp khác nhau như đóng góp trực tiếp, đóng góp bằng hình thức liên kết tạo sản phẩm (đây là cách làm mang lại hiệu quả kép, vừa chia sẻ gánh nặng kinh phí, vừa tạo môi trường hợp tác kinh doanh tốt), đóng góp bằng hỗ trợ chuyên gia, phương tiện (xây dựng quan hệ đối tác, trao đổi kinh nghiệm, công nghệ, phương tiện).
Thứ ba là xác định cơ chế tài chính cho hoạt động xúc tiến quảng bá. Thực tế hiện nay cơ chế tài chính của Việt Nam còn nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế và theo kịp sự phát triển chung, điều đó làm cho các đơn vị làm công tác xúc tiến quảng bá gặp nhiều khó khăn khi triển khai các hoạt động vì đây là một hoạt động khá đặc thù, nhất là thường xuyên làm việc với đối tác nước ngoài hoặc làm ở nước ngoài.
Do vậy cần xây dựng một cơ chế để các cơ quan, tổ chức, các nhân khi làm công tác xúc tiến quảng bá chủ động hơn trong các hoạt động. Có chính sách ưu đãi tài chính thuận lợi, trao quyền chủ động hơn cho cơ quan quản lý nhà nước về xúc tiến quảng bá du lịch và cho các tổ chức, các nhân, các doanh nghiệp làm công tác xúc tiến quảng bá.
3.4.4. Tăng cường phối hợp liên ngành trong hoạt động xúc tiến, quảng bá của du lịch Việt Nam
Hệ thống bộ máy làm công tác xúc tiến du lịch của Việt Nam mới được hình thành, nên sự phối hợp trong Ngành còn chưa được chặt chẽ, lúng túng, bộc lộ nhiều bất cập. Việc phối kết hợp liên ngành cũng chưa tương xứng và chưa đạt được kết quả mong đợi, sự phối hợp chung còn chệch choạc. Đặc biệt là đối với công tác xúc tiến quảng bá tại các thị trường trọng điểm của Du lịch Việt Nam.
Đến nay, Du lịch Việt Nam đã chủ trì hoặc phối hợp tổ chức một số hoạt động giữa ngành Du lịch với một số ngành như văn hoá, ngoại giao, hàng không để tổ chức một số hoạt động như roadshows, ngày Việt Nam... tại một số thị trường. Nhìn chung các hoạt động này bước đầu có thu được một số kết quả nhất định trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, qua đó quảng bá hình ảnh Du lịch Việt Nam.
Tuy nhiên các hoạt động này còn mang tính hình thức, nội dung chương trình còn sơ sài, không ấn tượng. Do vậy mục tiêu của giải pháp này là qua đó tăng cường sự phối hợp trong Ngành Du lịch và phối hợp liên ngành để triển khai các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch có hiệu quả. Hiện này, việc hình thành Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch là một điều kiện rất thuận lợi để phối hợp các hoạt động xúc tiến quảng bá của ngành du lịch với việc tạo dựng hình ảnh của quốc gia trên thế giới.
Có kế hoạch cụ thể để thông báo tới các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp liên quan để thống nhất nội dung và biện pháp xúc tiến quảng bá ra nước ngoài trước mỗi sự kiện. Xây dựng cơ chế hợp tác, trong đó quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các đối tượng tham gia, tránh xảy ra tình trạng không hợp tác vì quan điểm hay vì quyền lợi cục bộ. Vì vậy vai trò điều phối của Ban chỉ đạo Nhà nước về Du lịch, của Chính phủ là hết sức quan trọng đối với sự phối hợp liên ngành này.
3.4.5. Quảng bá và khai thác hiệu quả trên một số phương tiện truyền thông
Từ trước đến nay Du lịch Việt Nam mới chỉ dừng lại ở khâu tổ chức xúc tiến thị trường qua các sự kiện, tham gia hội chợ, phân phát ấn phẩm, vật phẩm, mời các đoàn Fam và Press vào Việt Nam đi du lịch và khảo sát. Một số hoạt động PR mang tính chuyên nghiệp thì hầu như chưa được sử dụng.
Việc quảng bá trên các phươg tiện thông tin đại chúng giữ vai trò quan trọng đối với việc xúc tiến quảng bá cho Du lịch Việt Nam. Tổ chức các hình thức quảng bá tại các thị trường trọng điểm là kinh nghiệm của rất nhiều nước có du lịch phát triển đã áp dụng, đem lại hiệu quả to lớn. Biện pháp này là cách để bổ trợ cho các biện pháp quảng bá, các hoạt động xúc tiến du lịch khác. Khả năng phát tán rộng rãi, tới nhiều tầng lớp nhân dân, hiệu quả nhanh và có tính tập trung nhất là cho các chiến dịch quảng bá. Trong giai đoạn hiện nay, cách thức này là cần thiết cho giai đoạn phát triển và quảng bá thương hiệu điểm đến Du lịch Việt Nam.
Tập trung quảng bá trên một số kênh truyền hình, báo, tạp chí của thị trường trọng điểm Pháp và trên báo, tạp chí, kênh truyền hình nổi tiếng của Pháp có đối tượng người xem đông, phù hợp với đặc điểm thị trường trọng điểm mà chiến lược thị trường của du lịch Việt Nam đã chỉ ra (kênh TV5, báo Le Monde, tạp chí Paris Match, báo Nhân đạo...).
Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, việc kết hợp quảng bá hình ảnh Việt Nam, đất nước, con người để qua đó xây dựng hình ảnh Du lịch Việt Nam như một điểm đến hấp dẫn, an toàn...là rất cần thiết và phù hợp với hoàn cảnh thực tế Việt Nam. Nội dung quảng bá cần được chuẩn bị kỹ lưỡng, ấn tượng, nêu được bản sắc và đặc trưng riêng của Việt Nam vì giá thành đăng tải rất tốn kém, phải đảm bảo được tính thực tế và tính hiệu quả cao.
Một trong những phương tiện truyền tải nhanh, hiệu quả đến công chúng là hệ thống mạng internet. Đây là phương tiện mà du khách sử dụng nhiều nhất trong thời đại công nghệ thông tin, họ lấy và xử lý các thông tin qua mạng và kể cả mua bán tour trực tiếp qua mạng. Do đó các giải pháp cung cấp thông tin qua mạng phải được chú trọng đẩy mạnh.
Chú trọng phát triển các trang web trong Ngành từ trung ương đến địa phương, đầu tư cho nội dung các trang web du lịch của ngành, của hệ thống cung cấp thông tin web trên phạm vi quốc gia để tạo sự cung cấp thông tin có hệ thống, dễ sử dụng, dễ liên kết truy cập.
Có kế hoạch và biện pháp cụ thể để quảng bá rộng rãi các trang web du lịch qua các phương tiện, truyền hình nước ngoài, qua các ấn phẩm, tại các hội nghị, hội thảo, các hội chợ du lịch và các sự kiện khác. Hợp tác với các nhà cung cấp thông tin mạng để quảng bá và khai thác có hiệu quả cho Du lịch Việt Nam.
Việc quảng bá và khai thác có hiệu quả trên một số phương tiện truyền thông rất cần sự đóng góp, hỗ trợ từ phía các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam. Không chỉ có các đơn vị thông tấn báo chí ngành Du lịch trực tiếp tham gia vào mà phải cần có sự tham gia cả các phương tiện thông tin đại chúng các ngành, của Nhà nước để góp phần quảng bá, tạo hình ảnh cho Du lịch.
Mới đây, tháng 10/2007, Bộ Văn hoá -Thể thao và Du lịch đã xin phép Chỉnh phủ để quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam trên kênh truyền hình CNN, qua đó quảng bá hình ảnh Du lịch Việt Nam ra thế giới. Sự kiện này khẳng định bước đầu đi vào chuyên nghiệp, biết khai thác và sử dụng PR của Du lịch Việt Nam trong các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch.
kết luận
Pháp là một thị trường trọng điểm, truyền thống của Du lịch Việt Nam. Bên cạnh tiềm năng to lớn của chính thị trường này, Pháp còn được coi là một trung tâm thu hút khách của thế giới và là cánh cửa để thâm nhập vào thị trường châu Âu rộng lớn. Với quan hệ song phương tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, giáo dục, khoa học kỹ thuật..., cùng với các yếu tố văn hoá, lịch sử, Du lịch Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển thị trường đầy tiềm năng này.
Tuy vậy, trong thời gian qua, tốc độ tăng trưởng của số khách du lịch Pháp đến Việt Nam chưa cao và đang có xu hướng chậm lại so với tốc độ tăng trưởng chung của Ngành. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác, những yếu kém trong công tác xúc tiến của Du lịch Việt Nam thời gian qua đã khiến cho việc khai thác thị trường này chưa tương xứng với tiềm năng vốn có.
Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác xúc tiến quảng bá, thời gian qua, công tác xúc tiến của Du lịch Việt Nam đã được quan tâm hơn. Cục Xúc tiến Du lịch được thành lập theo Quyết định số 391/QĐ-TCDL ngày 28/10/2003 của Tổng cục Du lịch là cơ quan có chức năng tham mưu giúp Tổng cục trưởng thực hiện quản lý nhà nước về xúc tiến du lịch trên lãnh thổ Việt Nam và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch ở trong và ngoài nước. Tại 64 tỉnh thành trong cả nước cũng đã thành lập các đơn vị làm xúc tiến du lịch. Các doanh nghiệp lữ hành quốc tế, khách sạn cao cấp, khu nghỉ dưỡng hiện nay đều có bộ phận marketing làm xúc tiến, quảng bá cho các sản phẩm của doanh nghiệp, góp phần vào công tác quảng bá hình ảnh đất nước, con người, Du lịch Việt Nam ra nước ngoài, tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Bên cạnh nỗ lực của Ngành Du lịch, các bộ, ngành, tổ chức như Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại (cũ), Bộ Văn hóa - Thông tin (cũ), Bộ Công An, Hàng không Việt Nam... cũng góp phần tích cực vào việc phối hợp triển khai các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam ở trong và ngoài nước nói chung cũng như tại thị trường Pháp nói riêng.
Với mục tiêu tăng cường hợp tác toàn diện về du lịch giữa hai nước, tuyên truyền quảng bá về đất nước, văn hoá và con người Việt Nam đến thị trường Pháp; nhằm duy trì và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng lượng khách du lịch Pháp đến Việt Nam một cách bền vững và thông qua các hoạt động xúc tiến tại thị trường Pháp dần nâng cao sức hấp dẫn của du lịch Việt Nam đối với thị trường khách du lịch châu Âu, thời gian qua Du lịch Việt Nam đã triển khai khá nhiều hoạt động xúc tiến tại Pháp. Tiêu biểu cho những nỗ lực này có thể kể đến việc tham gia và tổ chức các hoạt động tại Pháp của Du lịch Việt Nam như hội chợ Salon Mondial Du Tourisme, hội chợ Bressuire, Ngày Việt Nam tại Pháp tổ chức ở Lyon và Nice, sự kiện Việt Nam - Hoài niệm, hội chợ Top Resa, sự kiện Hội báo Nhân đạo. Bên cạnh đó Du lịch Việt Nam còn tổ chức những hoạt động xúc tiến khác như đón các đoàn Fam trip, Press trip…
Nhờ thế các hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam thời gian qua đã thu được những kết quả nhất định: Hình ảnh Việt Nam và Du lịch Việt Nam đã được quảng bá rộng rãi đến người dân Pháp, góp phần vào sự tăng trưởng lượng khách Pháp đến Việt Nam, tăng sức hấp dẫn của du lịch Việt Nam và thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực du lịch cũng như góp phần vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác chính trị - kinh tế - văn hoá giữa hai nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc triển khai các hoạt động quảng bá xúc tiến của Du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp cũng bộc lộ những hạn chế: Bộ máy triển khai công tác xúc tiến du lịch chưa đồng bộ, hoạt động xúc tiến còn manh mún, dàn trải, chưa đạt hiệu quả cao, việc tham dự và tổ chức các sự kiện chưa thực sự chuyên nghiệp và chưa tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng du khách, quy mô gian hàng nhỏ, trang trí còn đơn điệu, trùng lặp, thiếu điểm nhấn, các sản phẩm xúc tiến du lịch (ấn phẩm, vật phẩm, băng đĩa...) còn quá đơn giản, số lượng ít, chất lượng chưa cao, chưa huy động được nhiều nguồn lực cho hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch.
Để thực hiện mục tiêu củng cố và mở rộng thị trường du lịch Pháp, thời gian tới, Du lịch Việt Nam phải tăng cường các hoạt động xúc tiến của minh tại thị trường Pháp theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn và chú trọng tới tính đặc thù của thị trường này. Để làm được điều này không chỉ có nỗ lực của Ngành Du lịch mà cả các ngành khác có liên quan. Trong các giải pháp nhằm đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến du lịch tại thị trường Pháp thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến quảng bá du lịch, mở Văn phòng đại diện của Du lịch Việt Nam tại Pháp, tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành, nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch và sản phẩm quảng bá du lịch giữ vai trò then chốt, quyết định hiệu quả của các hoạt động này.
Do đây là một nghiên cứu ban đầu về hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp cùng với những hạn chế của bản thân nên Luận văn còn có những khiếm khuyết. Việc chỉ nghiên cứu định lượng các kết quả của hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam trên thị trường Pháp trong lãnh thổ Việt Nam (miền Bắc Việt Nam), trong một thời gian ngắn (1 năm) đã làm cho các kết quả nghiên cứu không thể đưa ra các kết luận chi tiết. Đồng thời việc nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát các hoạt động của ngành du lịch mà chưa thể phân tích toàn bộ các hoạt động xúc tiến hình ảnh Việt Nam tại Pháp của các bộ ngành khác.
Mong muốn của Luận văn là góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả các hoạt động xúc tiến Du lịch Việt Nam tại Pháp, tăng cường thu hút khách quốc tế vào Việt Nam du lịch. Trong quá trình làm luận văn không khỏi có những khiếm khuyết, hạn chế. Em mong các Thầy, Cô giáo thông cảm và đóng góp ý kiến để Luận văn thiết thực hơn trong thực tiễn hoạt động Du lịch của Việt Nam. Nhân đây em cũng xin chân thành cám ơn các Thầy, Cô trong Khoa Du lịch học, các Thầy, Cô trong Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, đặc biệt là Thầy giáo, Tiến sỹ Nguyễn Văn Lưu đã nhiệt tình giúp đỡ để em hoàn thành Luận văn này.
Danh mục tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
TS. Trịnh Xuân Dũng: “ Giáo trình tâm lý du lịch”, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2004.
PGS.TS. Trần Minh Đạo: “Marketing”, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2000.
TS Nguyễn Văn Lưu: “Thị trường du lịch”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998.
TS. Nguyễn Văn Lưu chủ trì: “ Nghiên cứu và đánh giá khả năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài để phục vụ phát triển du lịch Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Hà Nội, 2001.
Vũ Đức Minh: “Tổng quan về du lịch”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1999.
M.Morrison, Marketing trong lĩnh vực lữ hành và khách sạn, Tổng cục Du lịch Việt Nam, 1998, (tài liệu dịch).
TS. Bùi Xuân Nhàn chủ trì: “Một số giải pháp hoàn thiện chiến lược phát triển thị trường du lịch nhằm mục tiêu thu hút khách du lịch quốc tế đến năm 2010”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2003.
Thủ tướng Chính phủ: Công văn cho phép Tổng cục Du lịch lập thí điểm Văn phòng đại diện tại Pháp và Nhật Bản, Hà Nội, 2003.
Tổng cục Du lịch Việt Nam: Báo cáo tổng kết các năm, từ năm 1998 đến năm 2006.
Tổng cục Du lịch Việt Nam: Báo cáo kết quả tham gia các sự kiện du lịch tại Pháp từ 1996 đến 2007.
Tổng cục Du lịch Việt Nam: Báo cáo tổng kết 5 năm công tác xúc tiến của Du lịch Việt Nam từ ....
Tổng cục Du lịch Việt Nam: “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010”, Hà Nội, 2001.
Tổng cục Du lịch Việt Nam: Chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2000-2005.
Tổng cục Du lịch Việt Nam: Chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006 –2010.
Tổng cục Du lịch Việt Nam: Chương trình hợp tác du lịch Việt Nam – Pháp.
Tổng cục Du lịch Việt Nam: Tờ trình Thủ tướng Chính phủ xin phép đặt Văn phòng đại diện Du lịch Việt Nam ở nước ngoài.
Tổng cục Du lịch Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch: “Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2005.
Tổng cục Du lịch Việt Nam: “Nghiên cứu và vận dụng kinh nghiệm phát triển du lịch của một số nước có ngành du lịch phát triển vào Du lịch Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2007.
Tiếng Anh
UNWTO: “Tourism Highlights 2006 Edition”, Madrid, 2006.
Tiếng Pháp
Marketing du tourisme, Gâetan Morin Editeur Europe, Paris,1999.
Roman G. Hiebing, Scott W. Cooper, Construire un plan marketing performance, Inter edition, 1994.
Thierry Libaert, Le plan de communication, 2003
Văn bản quy phạm pháp luật
Luật Du lịch số 44/2005/QH11 của Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 7, 2005
Quyết định số 391/QĐ-TCDL ngày 28/10/2003 của Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Xúc tiến Du lịch.
Hiệp định Hợp tác Du lịch Việt Nam – Pháp ký năm 1996
Website:
www.vietnamtourism.com
www.vietnamtourism.gov.vn
www.mofa.gov.vn
www.chinhphu.vn
www.mpi.gov.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2836.DOC