1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thịt lợn là một thực phẩm bổ dưỡng, phổ biến nhất trong các bữa ăn của con người. Chăn nuôi lợn từ lâu đã là một ngành kinh tế quan trọng đóng góp giá trị lớn trong giá trị sản xuất nông nghiệp và đặc biệt có ý nghĩa lớn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây nay thuộc thành phố Hà Nội là huyện có ngành chăn nuôi phát triển rất sớm. Từ những năm đầu thế kỷ 20 người dân nơi đây đã biết chăn
66 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2275 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phân tích chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nuôi lợn nhằm phát triển kinh tế gia đình, đến nay cùng với sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ chăn nuôi và nhu cầu tiêu dùng của xã hội thì ngành chăn nuôi đã không ngừng phát triển. Chăn nuôi ngày càng được chuyên môn hoá, mô hình trang trại chăn nuôi qui mô lớn, trang thiết bị hiện đại, đảm bảo vệ sinh môi trường đang là xu hướng phát triển chủ đạo. Sản phẩm của ngành chăn nuôi tỉnh Hà Tây cũ nói chung và huyện Chương Mỹ nói riêng có mặt ở khắp nơi và đặc biệt chiếm thị phần lớn trong thị trường Hà Nội. Trong chiến lược phát triển kinh tế huyện giai đoạn 2005 -2010 thì ngành chăn nuôi chiếm một vị trí quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại.
Đến hết năm 2008, qui mô đàn lợn trên địa bàn huyện là hơn một trăm nghìn con, Sản lượng thịt lợn thương phẩm đạt gần 20 nghìn tấn một năm, là nguồn thực phẩm chất lượng cung cấp cho nhu cầu trong huyện và thị trường Hà Nội. Định hướng phát triển chăn nuôi trên địa bàn huyện là mở rộng sản xuất với việc quy hoạch khu chăn nuôi tập trung, cách xa khu dân cư và khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm hướng tới mục tiêu phát triển mạnh mẽ kinh tế nông nghiệp, giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập ổn định cho người dân trong huyện. Có thể nói ngành chăn nuôi lợn đang có một cơ hội phát triển rất lớn khi được sự hỗ trợ tích cực từ chính sách của nhà nước và sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật chăn nuôi, khoa học lai tạo giống và công nghệ chế biến thức ăn gia súc. Tuy nhiên, người chăn nuôi hiện nay vẫn chịu nhiều rủi ro từ dịch bệnh, thị trường giá cả và sự chèn ép của các tác nhân khác trong chuỗi giá trị dẫn đến thu nhập không ổn định.
Chuỗi giá trị lợn thịt ở Việt Nam nói chung và ở huyện Chương Mỹ nói riêng hiện nay vẫn trong giai đoạn phát triển thấp. Tình trạng phát triển tự phát là phổ biến, các tác nhân trong chuỗi về cơ bản chưa có sự ràng buộc lẫn nhau. Người chăn nuôi vì lợi nhuận có thể bất chấp qui định về vệ sinh an toàn thực phẩm mà cho lợn ăn những chất kích thích tăng trọng bị cấm sử dụng hoặc vẫn bán lợn ốm, lợn bệnh ra thị trường; người buôn bán tự do ép giá người chăn nuôi, người giết mổ không có đăng ký hành nghề, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm... Lợi nhuận tạo ra không được phân phối công bằng, không tương xứng với công sức và chi phí bỏ ra của các tác nhân. Bên cạnh đó công tác kiểm tra quản lý chất lượng của các cơ quan chức năng chưa thực sự hiệu quả. Hậu quả là người tiêu dùng không được hưởng dịch vụ tốt nhất, đôi khi là không có được sản phẩm tương xứng với chi phí đã bỏ ra... Tất cả những điều đó làm chuỗi giá trị hoạt động không hiệu quả và về lâu dài thì tất cả các tác nhân hoạt động trong chuỗi hiện nay sẽ đều không có lợi.
Khi chưa giải quyết triệt để được những tồn tại này, việc phát triển chuỗi giá trị lợn thịt ở huyện sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn và thiếu tính bền vững.
Cho đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu về ngành chăn nuôi lợn và ngành hàng thịt lợn đạt được nhiều nội dung quan trọng. Các đề tài nghiên cứu từ trước đến nay thường tập trung vào các vấn đề kỹ thuật chăn nuôi, phòng trừ dịch bệnh, kinh tế chăn nuôi lợn và tìm giải pháp phát triển chăn nuôi lợn. Các kết quả đạt được mới chỉ giải quyết một phần những khó khăn hiện nay mà ngành hàng thịt lợn đang phải đối mặt.
Để có sự nhìn nhận một cách hệ thống trên cơ sở phân tích mối quan hệ nhiều chiều giữa các tác nhân trong ngành hàng thịt lợn và đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn trong quá trình phát triển chuỗi, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phân tích chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích chi tiết thực trạng các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị lợn thịt ở huyện Chương Mỹ, phát hiện điểm thuận lợi và những khó khăn trong quá trình hoạt động của chuỗi, từ đó đề xuất các giải pháp khả thi nhằm phát huy thuận lợi, khắc phục khó khằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chuỗi mang lại lợi ích cao hơn cho tất cả các tác nhân tham gia chuỗi.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về phân tích chuỗi giá trị nói chung và chuỗi giá trị thịt lợn nói riêng.
- Phân tích thực trạng hoạt động và mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị thịt lợn Chương Mỹ những năm qua.
- Lập bản đồ chuỗi giá trị, nghĩa là xây dựng một sơ đồ có thể quan sát bằng mắt thường về hệ thống chuỗi giá trị. Các bản đồ này có nhiệm vụ định dạng các hoạt động kinh doanh , các nhà vận hành chuỗi và những mối liện kết của họ, cũng như các nhà hỗ trợ chuỗi nằm trong chuỗi giá trị này. Các bản đồ chuỗi là cốt lõi của phân tích chuỗi giá trị, là yếu tố không thể thiếu.
- Lượng hoá và mô tả chi tiết chuỗi giá trị bào gồm các con số kèm theo bản đồ chuỗi cơ sở: về số lượng chủ thể, lượng sản xuất hay thị phần của các phân đoạn cụ thể trong chuỗi. Trong chuỗi giá trị thịt lợn chúng tôi tập trung vào các đặc tính của chủ thể chuỗi, các dịch vụ đi kèm…
- Phân tích kinh tế đối với chuỗi giá trị là đánh giá năng lực hiệu suất kinh tế của chuỗi. nó bao gồm việc xác định giá trị gia tăng tại các giai đoạn trong chuỗi giá trị, chi phí sản xuất và thu nhập cảu các nhà vận hành.. Một khía cạnh khác là chi phí giao dịch – chính là chi phí triển khai công việc kinh doanh, chi phí thu thập thông tin và thực hiện hợp đồng. Năng lực kinh tế của một chuỗi giá trị có thể được “so sánh đối chuẩn” ví dụ như các tham số quan trọng có thể được so sánh với các thámố này ở các chuỗi cạnh trạnh tại các quốc gia khác hoặc của các ngành công nghiệp tương đồng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành hàng thịt lợn huyện Chương Mỹ một cách có hiệu quả trong thời gian tiếp theo.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này sẽ giúp trả lời các câu hỏi sau:
1. Có những tác nhân nào tham gia chuỗi giá trị này?
2. cơ chế giao dịch, cơ cấu giá trị gia tăng và phân chia lợi nhuận giữa các tác nhân tham gia ngành hàng như thế nào?
3. Dòng thông tin được truyền tải như thế nào trong chuỗi?
4. Những hạn chế, khó khăn và yếu tố ảnh hưởng trong quá trình phát triển chuỗi giá trị thịt lợn Chương Mỹ là gì?
5. Cần có những giải pháp gì để nâng cao hiệu quả hoạt động của chuỗi?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về Chuỗi giá trị lợn thịt.
Sản phẩm của ngành hàng là thịt lợn, gồm thịt lợn siêu nạc và lợn lai ¾ máu ngoại, là hai giống lợn được nuôi phổ biến trên địa bàn huyện Chương Mỹ.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1 Về không gian
Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Đối tượng là các hộ kinh doanh thu gom, giết mổ, buôn bán thịt lợn trên địa bàn huyện và các hộ chăn nuôi trên địa bàn một số xã trên địa bàn huyện Chương Mỹ.
1.4.2.2 Về thời gian
Các dữ liệu, thông tin được sử dụng để đánh giá thực trạng sản xuất thịt lợn ở địa phương, hộ chăn nuôi lợn được thu thập trong 3 năm 2006 – 2008, trong đó tập trung tìm hiểu tình hình sản xuất, tiêu thụ lợn thịt năm 2008. Các giải pháp, đề xuất tháo gỡ khó khăn từ khâu sản xuất đến tiêu thụ để phát triển chuỗi giá trị đến năm 2015.
1.4.2.3 Về nội dung
Tập trung phân tích chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt theo các mục tiêu cụ thể để đạt được mục tiêu chung đã đề ra ở trên.
Nghiên cứu tập trung các lĩnh vực sản xuất, thu gom, giết mổ, buôn bán, chế biến và tiêu thụ thịt lợn trên địa bàn huyện Chương Mỹ và có mở rộng ra một số địa bàn trong thành phố Hà Nội.
Theo những kết quả điều tra bước đầu, phần lớn lượng sản phẩm lợn thịt sản xuất ra trên địa bàn huyện Chương Mỹ được tiêu thụ ở trong nước, do vậy trong phần phân tích hoạt động của các tác nhân, đề tài chỉ tập trung vào nội dung phân tích chuỗi giá trị trong nước.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Lý luận về phân tích chuỗi giá trị
2.1.1.1 Chuỗi giá trị và những khái niệm liên quan
a) Chuỗi giá trị
Theo nhóm tác giả của cuốn sách “Cẩm nang Value link”, một chuỗi giá trị là một hệ thống kinh tế có thể được mô tả như:
- Một chuỗi các hoạt động kinh doanh có liên quan mật thiết với nhau (các chức năng) từ khi mua các đầu vào cụ thể dành cho việc sản xuất sản phẩm nào đó, đến việc hoàn chỉnh và quảng cáo, cuối cùng là bán thành phẩm cho người tiêu dùng.
- Các doanh nghiệp (nhà vận hành) thực hiện những chức năng này, ví dụ như nhà sản xuất, người chế biến, thương gia, nhà phân phối một sản phẩm cụ thể. Các doanh nghiệp này được liên kết với nhau bởi một loạt các hoạt động kinh doanh, trong đó, sản phẩm được chuyển từ các nhà sản xuất ban đầu tới những người tiêu dùng cuối cùng.
- Một mô hình kinh doanh đối với một sản phẩm thương mại cụ thể. Mô hình kinh doanh này cho phép các khách hàng cụ thể được sử dụng một công nghệ cụ thể và là một cách điều phối đặc biệt giữa hoạt động sản xuất và Marketing giữa nhiều doanh nghiệp. [1]
Trong cuốn “Phân tích chuỗi giá trị - Lý thuyết và kinh nghiệm từ nghiên cứu ngành chè Việt Nam” do Quỹ MISPA tài trợ, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm chuỗi giá trị giản đơn và chuỗi giá trị mở rộng. theo đó:
- Chuỗi giá trị giản đơn là chuỗi hoạt động trong các khâu cơ bản từ điểm khởi đầu đến điểm kết thúc của sản phẩm, ví dụ thiết kế -> sản xuất -> phân phối -> tiêu dùng.
- Chuỗi giá trị mở rộng chi tiết hoá các hoạt động và các khâu của chuỗi giá trị giản đơn để thấy rõ nhiều bên tham gia (stakeholder) và liên quan đến nhiều chuỗi giá trị khác nhau
Ngành hàng
Vào những năm 1960 phương pháp phân tích ngành hàng (Filiere) sử dụng nhằm xây dựng các giải pháp thúc đẩy các hệ thống sản xuất nông nghiệp. Các vấn đề được quan tâm nhiều nhất đó là làm thế nào để các hệ thống sản xuất tại địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến, thương mại, xuất khẩu và tiêu dùng nông sản. Bước sang những năm 1980, phân tích ngành hàng được sử dụng và nhấn mạnh vào giải quyết các vấn đề chính sách của ngành nông nghiệp, sau đó phương pháp này được phát triển và bổ sung thêm sự tham gia của các vấn đề thể chế trong ngành hàng.
Đến những năm 1990, có một khái niệm được cho là phù hợp hơn trong nghiên cứu ngành hàng nông sản do J.P Boutonnet đưa ra đó là: "Ngành hàng là một hệ thống được xây dựng bởi các tác nhân và các hoạt động tham gia vào sản xuất, chế biến, phân phối một sản phẩm và bởi các mối quan hệ giữa các yếu tố trên cũng như với bên ngoài" (J.P Boutonnet, INRA.France).
Theo Fabre: “Ngành hàng được coi là tập hợp các tác nhân kinh tế (hay các phần hợp thành các tác nhân) quy tụ trực tiếp vào việc tạo ra các sản phẩm cuối cùng. Như vậy, ngành hàng đã vạch ra sự kế tiếp của các hành động xuất phát từ điểm ban đầu tới điểm cuối cùng của một nguồn lực hay một sản phẩm trung gian, trải qua nhiều giai đoạn của quá trình gia công, chế biến để tạo ra một hay nhiều sản phẩm hoàn tất ở mức độ của người tiêu thụ .
Nói một cách khác, có thể hiểu ngành hàng là “Tập hợp những tác nhân (hay những phần hợp thành tác nhân) kinh tế đóng góp trực tiếp vào sản xuất tiếp đó là gia công, chế biến và tiêu thụ ở một thị trường hoàn hảo của sản phẩm nông nghiệp”.
Như vậy, nói đến ngành hàng là ta hình dung đó là một chuỗi, một quá trình khép kín, có điểm đầu và điểm kết thúc, bao gồm nhiều yếu tố động, có quan hệ móc xích với nhau. Sự tăng lên hay giảm đi của yếu tố này có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới các yếu tố khác. Trong quá trình vận hành của một ngành hàng đã tạo ra sự dịch chuyển các luồng vật chất trong ngành hàng đó.
Sự dịch chuyển được xem xét theo 3 dạng sau:
Sự dịch chuyển về mặt thời gian
Sản phẩm được tạo ra ở thời gian này lại được tiêu thụ ở thời gian khác. Sự dịch chuyển này giúp ta điều chỉnh mức cung ứng thực phẩm theo mùa vụ. Để thực hiện tốt sự dịch chuyển này cần phải làm tốt công tác bảo quản và dự trữ thực phẩm.
Sự dịch chuyển về mặt không gian
Trong thực tế, sản phẩm được tạo ra ở nơi này nhưng lại được dùng ở nơi khác. Ở đây đòi hỏi phải nhận biết được các kênh phân phối của sản phẩm. Sự dịch chuyển này giúp ta thoả mãn tiêu dùng thực phẩm cho mọi vùng, mọi tầng lớp của nhân dân trong nước và đó là cơ sở không thể thiếu được để sản phẩm trở thành hàng hoá. Điều kiện cần thiết của chuyển dịch về mặt không gian là sự hoàn thiện của cơ sở hạ tầng, công nghệ chế biến và chính sách mở rộng giao lưu kinh tế của Chính phủ.
Sự dịch chuyển về mặt tính chất (hình thái của sản phẩm)
Hình dạng và tính chất của sản phẩm bị biến dạng qua mỗi lần tác động của công nghệ chế biến. Chuyển dịch về mặt tính chất làm cho chủng loại sản phẩm ngày càng phong phú và nó được phát triển theo sở thích của người tiêu dùng và trình độ chế biến. Hình dạng và tính chất của sản phẩm bị biến dạng càng nhiều thì càng có nhiều sản phẩm mới được tạo ra.
Trong thực tế, sự chuyển dịch của các luồng vật chất này diễn ra rất phức tạp và phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố về tự nhiên, công nghệ và chính sách. Hơn nữa, theo Fabre thì “ngành hàng là sự hình thức hoá dưới dạng mô hình đơn giản làm hiểu rõ tổ chức của các luồng (vật chất hay tài chính) và của các tác nhân hoạt động tập trung vào những quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và các phương thức điều tiết”.
c) Tác nhân
Tác nhân là một tế bào sơ cấp với các hoạt động kinh tế, độc lập và tự quyết định hành vi của mình. Có thể hiểu rằng, tác nhân là những hộ, những doanh nghiệp, những cá nhân tham gia trong ngành hàng thông qua hoạt động kinh tế của họ. Tác nhân được phân ra làm hai loại:
Tác nhân có thể là người thực (hộ nông dân, hộ kinh doanh,...)
Tác nhân là đơn vị kinh tế (các doanh nghiệp, công ty, nhà máy...)
Theo nghĩa rộng người ta phân tác nhân thành từng nhóm để chỉ tập hợp các chủ thể có cùng một hoạt động. Ví dụ tác nhân “nông dân” để chỉ tập hợp tất cả các hộ nông dân; tác nhân “thương nhân” để chỉ tập hợp tất cả các hộ thương nhân; tác nhân “bên ngoài” chỉ tất cả các chủ thể ngoài phạm vi không gian phân tích.
Mỗi tác nhân trong ngành hàng có những hoạt động kinh tế riêng, đó chính là chức năng của nó trong chuỗi hàng. Tên chức năng thường trùng với tên tác nhân. Ví dụ, hộ sản xuất có chức năng sản xuất, hộ chế biến có chức năng chế biến, hộ bán buôn có chức năng bán buôn... Một tác nhân có thể có một hay nhiều chức năng. Các chức năng kế tiếp nhau tạo nên sự chuyển dịch về mặt tính chất của luồng vật chất trong ngành hàng. Các tác nhân đứng sau thường có chức năng hoàn thiện sản phẩm của các tác nhân đứng trước kế nó cho đến khi chức năng của tác nhân cuối cùng ở từng luồng hàng kết thúc thì ta đã có sản phẩm cuối cùng của ngành hàng.
d) Mạch hàng
Mạch hàng là khoảng cách giữa hai tác nhân. Mạch hàng chứa đựng quan hệ kinh tế giữa hai tác nhân và những hoạt động chuyển dịch về sản phẩm. Qua từng mạch hàng, giá trị của sản phẩm được tăng thêm và do đó giá cả cũng được tăng thêm do các khoản giá trị mới sáng tạo ra ở từng tác nhân. Điều đó thể hiện sự đóng góp của từng tác nhân trong việc tạo nên giá trị gia tăng (VA) của ngành hàng.
Mỗi tác nhân có thể tham gia vào nhiều mạch hàng. Mạch hàng càng phong phú, quan hệ giữa các tác nhân càng chặt chẽ, chuỗi hàng càng bền vững. Điều đó cũng có nghĩa là nếu có một vướng mắc nào đó làm cản trở sự phát triển của mạch hàng nào đó thì sẽ gây ảnh hưởng có tính chất dây chuyền đến các mạch hàng sau nó và sẽ ảnh hưởng chung đến hiệu quả của luồng hàng và toàn bộ chuỗi hàng.
e) Luồng hàng
Những mạch hàng liên tiếp được sắp xếp theo trật tự từ tác nhân đầu tiên đến tác nhân cuối cùng sẽ tạo nên các luồng hàng trong một ngành hàng.
Luồng hàng thể hiện sự lưu chuyển các luồng vật chất do kết quả hoạt động kinh tế của hệ thống tác nhân khác nhau ở từng công đoạn sản xuất, chế biến và lưu thông đến từng chủng loại sản phẩm cuối cùng. Chủng loại sản phẩm cuối cùng càng phong phú thì luồng hàng trong một ngành hàng càng nhiều. Điều đó có ý nghĩa lớn trong quá trình tổ chức và phát triển sản xuất vì sự luân chuyển của luồng vật chất qua từng tác nhân trong các luồng hàng đã làm cho mọi tác nhân trong ngành hàng trở thành người sản xuất sản phẩm hàng hoá.
Mặt khác, việc bố trí lại lao động giữa các khâu trong quá trình phát triển của chuỗi hàng tạo nên sự chuyển dịch lao động từ khâu sản xuất đến khâu chế biến và lưu thông để nối dài chuỗi hàng, từ đó sẽ tạo điều kiện cho sự phân công lao động xã hội phát triển và kích thích quá trình sản xuất hàng hoá, tạo ra nhiều loại sản phẩm phong phú hơn, thoả mãn đầy đủ hơn thị hiếu tiêu dùng của xã hội. Mọi luồng hàng đều bắt đầu từ một tác nhân ở khâu sản xuất đầu tiên và kết thúc ở một địa chỉ tiêu thụ cuối cùng.
f) Sản phẩm
Là một nhóm sản phẩm có chung các đặc tính vật lý hữu hình cũng như các dịch vụ có chung đặc tính được bán cho khách hàng. Chuỗi giá trị được xác định bởi một sản phẩm hay một nhóm sản phẩm. ví dụ như chuỗi giá trị rau tươi, chuỗi giá trị cà chua, chuỗi giá trị thịt lợn…
g) Chuỗi cung và quản lý chuỗi cung
Khái niệm chuỗi cung cũng tương tự như chuỗi giá trị. Sự khác biệt là ở chỗ chuỗi cung nói đến một loạt các chức năng sản xuất (đầu chuỗi) và marketing (cuỗi chuỗi) của các doanh nghiêp tư nhân, chủ yếu là các công ty đầu mối. Do đó quản lý chuỗi cung là một công cụ quản lý kinh doanh hơn là một khái niệm phát triển. (Cẩm nang Valuelinks)
h) Giá trị giă tăng
Giá trị gia tăng là thước đo về giá trị được tạo ra trong nền kinh tế.Khái niệm này tương đương với tổng giá trị được tạo ra bởi những người vận hành chuỗi (doanh thu của chuỗi = giá bán cuối cùng * số lượng bán ra). Giá trị giă tăng trên một đơn vị sản phẩm là hiệu số giữa giá mà người vận hành chuỗi bán được trừ đi giá mà người vận hành chuỗi đó đã bỏ ra để mua những nguyên liệu đầu vào mà những người vận hành chuỗi ở công đoạn trước cung cấp, và giá của những hàng trung gian mua từ những nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ không được coi là mắt xích trong chuỗi. Nói tóm lại, “Giá trị mà được cộng thêm vào hàng hoá hay dịch vụ tại mỗi khâu của quá trình sản xuất hay tiêu thụ mặt hàng đó” (Mc Cormick/Schmitz). Một phần của giá trị giă tăng được tạo ra được giữ lại trong chuỗi, còn một phần khác thì được giữ lại bởi những nhà cung cấp nằm ngoài chuỗi.
i) Bản đồ chuỗi giá trị
Bản đồ chuỗi giá trị là một hình thức trình bày bằng hình ảnh (sơ đồ) về những cấp độ vi mô cấp trung của chuỗi giá trị. Theo định nghĩa về chuỗi giá trị, bản đồ chuỗi giá trị bao gồm một bản đồ chức năng kèm với một bản đồ về các chủ thể của chuỗi. Lập bản đồ chuỗi có thể nhưng không nhất thiết phải bao gồm cấp độ vĩ mô của chuỗi giá trị.
k) Người vận hành chuỗi giá trị
Người vận hành chuỗi là các doanh nghiệp thực hiện những chức năng cơ bản của chuỗi giá trị. Những người vận hành điển hình là nông dân, các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu, các nhà bán buôn và bán lẻ. Họ có một điểm chung là tại một khâu nào đó trong chuỗi giá trị, họ sẽ trở thành người chủ sở hữu của sản phẩm (nguyên liệu thô, bán thành phẩm hay thành phẩm).
Trong ngành hàng, mỗi tác nhân đều tạo ra sản phẩm riêng của mình. Trừ những sản phẩm bán lẻ cuối cùng, sản phẩm của mọi chức năng khác chưa phải là sản phẩm cuối cùng của ngành hàng mà chỉ là kết quả của hoạt động kinh tế, là “đầu ra” của quá trình sản xuất kinh doanh của từng tác nhân. Sản phẩm của tác nhân trước là chi phí trung gian của các tác nhân kề sau nó. Chỉ có sản phẩm của tác nhân cuối cùng trước khi đến tay người tiêu dùng mới là sản phẩm cuối cùng của ngành hàng. Chủng loại sản phẩm khá đa dạng, nên trong phân tích ngành hàng thường chỉ phân tích sự vận hành của các sản phẩm chính.
2.1.1.2 Nội dung chính trong Phân tích chuỗi giá trị
Theo định nghĩa về Chuỗi giá trị là một hệ thống kinh tế được tổ chức xoay quanh một hàng hoá thương mại cụ thể. Sự phối hợp các hoạt động kinh doanh trong chuỗi giá trị là rất cần thiết để cung cấp đúng chất lượng và số lượng của sản phẩm cho các khách hàng cuối cùng. Các doanh nghiệp phải phối hợp với nhau để đi đến thành công. Do đó, Chuỗi giá trị:
kết nối các hoạt động kinh doanh (sản xuất, chế biến, marketing,vv) cần thiết để phục vụ khách hàng, và
Liên kết và điều phối các doanh nghiệp (nhà sản xuất sơ cấp, công nghiệp chế biến, các thương gia, vv) thực hiện các hoạt động kinh doanh này.
Trong quá trình phát triển kinh tế, sự tuỳ thuộc và tương tác lẫn nhau giữa các hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp khác nhau đã ngày càng trở nên quan trọng. Một mặt toàn cầu hoá làm tăng áp lực cạnh tranh và áp lực về giá. Mặt khác, khách hàng đang có nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm có chất lượng cao, tươi mới và thời trang. Cả hai xu hướng đều làm tăng mức độ hoà nhập và tuỳ thuộc lẫn nhau. ở một chuỗi phát triển ở trình độ cao thì một sản phẩm lương thực hữu cơ chỉ có thể được mang tới thị trường nếu các trang trại đã được cấp giấy chứng nhận và sản phẩm này phải được tách rời khỏi các kênh marketing.
Có nhiều phương pháp phân tích chuỗi giá trị, trong đề tài này chúng tôi nhóm vào các bước cơ bản là
+ Lập bản đồ chuỗi giá trị
+ Lượng hoá và mô tả chi tiết chuỗi giá trị
+ Phân tích kinh tế đói với các chuỗi giá trị và so sánh đối chuẩn.
* Lập bản đồ chuỗi giá trị, nghĩa là xây dựng một sơ đồ có thể quan sát bằng mắt thường về hệ thống chuỗi giá trị. Các bản đồ này có nhiệm vụ định dạng các hoạt động kinh doanh , các nhà vận hành chuỗi và những mối liện kết của họ, cũng như các nhà hỗ trợ chuỗi nằm trong chuỗi giá trị này. Các bản đồ chuỗi là cốt lõi của phân tích chuỗi giá trị, là yếu tố không thể thiếu. Nó phục vụ cho mục đích phân tích và mục đích truyền đạt đơn giản hoá các thực tiễn kinh tế.
- Thiết kế một bản đồ tổng thể về chuỗi giá trị thể hiện các chức năng và các nhà vận hành chuỗi.
- Lập bản đồ tiểu chuỗi: cụ thể hoá hơn nữa chuỗi giá trị này và bổ sung thêm nhiều chi tiết. bản đồ tổng thể có thể mô tả các “tiểu chuỗi” tương ứng với các sản phẩm cụ thể khác nhau và các kênh phân phối khác nhau. Nó sẽ giới thiệu cho người đọc các kênh cung cấp thay thế và các thị trường mà các kênh này hướng tới.
- Lập bản đồ các liên kết chuỗi và quản trị điều hành. Quản trị chuỗi phản ánh cách thức phối hợp các nhà vanạ hành chuỗi trong tất cả các giai đoạn của chuỗi – các mũi tên giữa các nhà vận hành trên bản đồ chuỗi. Mối quan hệ giữa các nhà vận hành có thể là một trao đổi thị trường tự do hay các hợp đồng liên kết được ký trước. Loại hình liên kết tuỳ thuộc vào chất lượng và tính phức tạp của sản phẩm cuối cùng. Nhìn chung các giao dịch phi điều phối (“các thị trường chợ đen”) thường tỏ ra rất hiệu quả trên thị trường địa phương hay đối với các sản phẩm có chất lượng kém. Nếu người tiêu dùng cuối cùng đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao và ổn định thì việc kiểm soát các nguồn cung trở thành một yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh. Như vậy các liên kết giữa những nhà cung cấp và người mua cần phải ổn định và chắc chắn hơn, đồng thời, có xu hướng được chính thức hoá trong các hợp đồng. vì vậy đã có sự phân biệt giữa giao dịch phi điều phối trên thị trường tự do với các mối quan hệ hợp đồng bền vững và ở một thái cực khác là mối liên kết theo chiều dọc giữa người mua và các nhà cung cấp.
- Lập bản đồ các nhà hỗ trợ chuỗi.
* Lượng hoá và mô tả chi tiết chuỗi giá trị bao gồm các con số kèm theo bản đồ chuỗi cơ sở:
- Về số lượng chủ thể
- Số lượng việc làm và người lao động của mỗi nhóm nhà vận hành
- Số lượng nhà vận hành là người nghèo
- Tỷ trọng các dòng sản phẩm của các tiểu chuỗi/ các kênh phân phối khác nhau
- Lượng sản xuất hay thị phần của các phân đoạn cụ thể trong chuỗi.
- Thị phần của chuỗi giá trị tích kinh tế.
* Phân tích kinh tế
+ Phân tích kinh tế bao gồm đánh giá toàn bộ giá trị gia tăng được tạo ra boỉư chuỗi giá trị và tỷ trọng của các giai đoạn khác nhau; chi phí marketing và chi phí sản xuất tại mỗi giai đoạn trong chuỗi, cấu trúc cảu chi phí trong các giai đoạn của chuỗi; năng lực của các nhà vận hành (năng lực sản xuất, sản lượng, lợi nhuận)
+ Tính giá trị gia tăng là cách đo lường mức độ thịnh vượng đã được tạo ra trong nền kinh tế.
+ Phân phối giá trị gia tăng trong chuỗi.
+ Phân phối giá trị/ thu nhập trong chuỗi.
+ Tính chi phí sản xuất trong các chuỗi giá trị
+ Xác định các yếu tố quyết định chi phí
+ Xác định các chi phí giao dịch
+ So sánh đối chuẩn năng lực cạnh tranh
2.1.1.3 Một số khái niệm dùng cho tính toán
Doanh thu (TR)
Doanh thu được tính bằng lượng sản phẩm nhân với đơn giá. Để đơn giản, người ta chỉ xem xét những sản phẩm chính. Trong phân tích ngành hàng, doanh thu sản phẩm sẽ được phân tích khác nhau trong phân tích tài chính và phân tích kinh tế.
Chi phí trung gian (IC)
Là chi phí về những yếu tố vật chất tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Chi phí trung gian trong ngành hàng được tính theo chi phí vật chất của luồng vật chất tạo nên sản phẩm. Sản phẩm của các tác nhân đứng trước thuộc chi phí trung gian của các tác nhân đứng liền kề sau nó. Các chi phí trung gian khác là những chi phí ngoài ngành. Chi phí trung gian sẽ được tính khác nhau trong phân tích tài chính và phân tích kinh tế.
Giá trị gia tăng (VA)
Là giá trị mới tạo thêm của mỗi tác nhân do hoạt động kinh tế về việc sử dụng tài sản cố định, vốn và đầu tư lao động dưới ảnh hưởng của chính sách thuế của Nhà nước.
Công thức tính: VA = TR – IC. Giá trị gia tăng VA có thể bằng 0, dương hoặc âm.
Giá trị gia tăng là phần không tính trùng giữa các tác nhân. Vì vậy, trong nền kinh tế quốc dân, tập hợp toàn bộ giá trị gia tăng của mọi tác nhân sẽ tạo nên tổng sản phẩm quốc dân của đất nước (GNP = ∑VA). Như vậy, nếu một tác nhân nào đó có VA > 0 thì nghĩa là tác nhân đó đã góp phần tạo nên GNP cho nền kinh tế.
Giá trị gia tăng VA cũng sẽ được tính khác nhau trong phân tích tài chính và phân tích kinh tế.
Thu nhập hỗn hợp (MI)
Là phần thu nhập hộ nhận được sau khi lấy phần giá trị gia tăng (VA) trừ đi phần khấu hao tài sản cố định (A) và thuế (T).
Công thức tính: MI = VA – (A + T)
Khấu hao tài sản cố định (A)
Có 3 phương pháp tính khấu hao, đó là: khấu hao đường thẳng, khấu hao theo số dư giảm dần, khấu hao theo số lượng sản phẩm dựa trên tổng số đơn vị sản phẩm ước tính tài sản có thể tạo ra.
Theo qui định của VAS (03) thì tài sản cố định là chuồng trại chăn nuôi (có chu kỳ khai thác từ 6 –20 năm) được tính khấu hao theo phương pháp khấu hao đường thẳng. Mức khấu hao trung bình hàng năm của chuồng trại được tính = (Nguyên giá tài sản cố định/số năm khai thác).
Để tính nguyên giá TSCĐ là chuồng trại chăn nuôi phải tập hợp tất cả các chi phí xây dựng vào tài khoản 241 sau đó mới hình thành tài sản cố định. Thời điểm ghi nhận TSCĐ là thời điểm kết thúc giai đoạn xây mới, đưa chuồng trại vào khai thác. Các chi phí sửa chữa nhỏ trong giai đoạn sử dụng tính vào chi phí hoạt động trong kỳ.
2.1.1.4 Ý nghĩa của phân tích chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị có thể được phân tích từ góc độ của bất kỳ tác nhân nào trong chuỗi. Phép phân tích chuỗi thường được sử dụng cho các công ty, doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước ... bốn khía cạnh trong phân tích chuỗi giá trị áp dụng trong nông nghiệp mang nhiều ý nghĩa đó là:
- Thứ nhất: Phân tích chuỗi giá trị giúp chúng ta lập sơ đồ một cách hệ thống các bên tham gia vào sản xuất, phân phối, tiếp thị và bán một (hoặc nhiều) sản phẩm cụ thể.
- Thứ hai: phân tích chuỗi giá trị có vai trò trung tâm trong viêc xác định sự phân phối lợi ích của những người tham gia chuỗi. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển (nhất là về nông nghiệp) khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
- Thứ ba: Phân tích chuỗi giá trị có thể dùng để xác định vai trò của việc nâng cấp chuỗi giá trị.
- Thứ tư: phân tích chuỗi giá trị có thể nhấn mạnh vai trò của quản trị chuỗi giá trị.
Như vậy, phân tích chuỗi giá trị có thể làm cơ sở cho việc hình thành các chương trình, dự án hỗ trợ cho một chuỗi giá trị hoặc một số chuỗi giá trị nhằm đạt được một số chuỗi kết quả phát triển mong muốn hay nó là động thái bắt đầu một quá trình thay đổi chiến lược hoạt động sản xuất, kinh doanh theo hướng ổn định, bền vững.
Trên quan điểm toàn diện, phân tích chuỗi giá trị lợn thịt sẽ cho phép chỉ ra những tồn tại, bất cập trong quá trình hoạt động của chuỗi, hạn chế trong quá trình giao dịch, phân phối lợi nhuận, mối liên kết và thông tin giữa các tác nhân để đưa ra giải pháp thúc đẩy chuỗi giá trị làm cho chuỗi hoạt động hiệu quả hơn.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ lợn thịt trên thế giới và Việt Nam
2.2.1.1 Tình hình chung về sản xuất và tiêu thụ thịt lợn trên thế giới
Theo thống kê của FAO (2008) tổng đàn lợn toàn thế giới năm 2000 là 895.733,4 nghìn con, đến năm 2007 là 918.278,5 nghìn con. Trong đó phân bố không đều giữa các châu lục.
Châu Á luôn luôn là châu lục có số lượng đàn lợn cao nhất thế giới. Theo thống kê năm 2007 Châu Á có 535.076,8 nghìn con, châu Âu đứng ở vị trí thứ hai với khoảng 198.039,7 nghìn con, ít nhất là châu Đại Dương với 5.510,97 nghìn con. Nước có đầu lợn cao nhất thế giới là Trung Quốc: Năm 2000 có 438.785,2 nghìn con, chiếm 48,99% số lượng lợn toàn thế giới, năm Việt Nam đứng thứ năm với 26.561 nghìn con năm 2007.
Trong vòng 10 năm (1998-2008) mức tăng trưởng hàng năm đàn lợn toàn thế giới là 2.52%, chứng tỏ tăng không nhiều. Tùy theo nhu cầu của từng nước mà có mức tăng giảm khác nhau. Riêng nhu cầu về các loại thịt thì đều tăng ở hầu hết các nước trên thế giới.
Trung Quốc: Là nước có qui mô chăn nuôi lợn lớn nhất thế giới. số lượng đầu lợn chiếm gần 50% đàn lợn toàn thế giới. Với dân số 1,2 tỉ người nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng là vô cùng lớn. Người Trung Quốc cũng nổi tiếng với tính sáng tạo năng suất lao động cao nên luôn đi đầu trong việc giảm giá thành sản xuất. Với qui mô đàn lợn quá lớn như vậy nên ngành thịt lợn Trung Quốc có sức mạnh chi phối lớn với ngành thịt lợn toàn thế giới. Trong những nước đi tiên phong về công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi thì Trung Quốc đang nổi lên là nước dẫn đầu. Một số nghiên cứu của các nhà khoa học về tổng hợp nhiều loại vi sinh kết hợp tạo nên lớp nền vi sinh giúp phân huỷ hết chất thải của chăn nuôi, giảm chi phí điện nước, nhân công và còn góp phần tăng khả năng tăng trọn._.g của lợn.
Mỹ: Là nước đứng thứ hai trên thế giới về số lượng đầu lợn nuôi. Trong chúng ta ai cũng biết Mỹ là nước đi đầu trong ứng dụng công nghệ hiện đại, nhưng ngành nông nghiệp Mỹ cũng rất mạnh. Ngành chăn nuôi Lợn của Mỹ đã phát triển từ rất lâu và ổn định số lượng trong gần mười năm nay ở mức 60 triệu con lợn. Chăn nuôi lợn ở Mỹ chủ yếu tập trung trong các trang trại. Chăn nuôi và Chế biến gần như khép kín.
2.2.1.2 Tình hình sản xuất lợn thịt ở Việt Nam
Chăn nuôi lợn ở Việt Nam đã có từ rất lâu đời và đã trở thành tập quán sản xuất của nhân dân. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của nền kinh tế, chăn nuôi lợn cũng có những bước thăng trầm trong quá trình phát triển. Từ hình thức sản xuất tập trung, quy mô lớn dạng các trang trại chăn nuôi quốc doanh đến hình thức nuôi gia công cho nhà nước tại các hộ gia đình, cấm các hộ tự ý chăn nuôi, giết mổ gia súc, cho đến khi có chính sách đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nông thôn, chăn nuôi được công nhận là một ngành kinh tế giúp xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế hộ gia đình, được khuyến khích phát triển thì chăn nuôi lợn đã được phổ biến tại hầu hết các hộ gia đình nông thôn với quy mô nhiều hay ít.
Những năm gần đây, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ về giống và thức ăn gia súc, ngành chăn nuôi ở nước ta đang có những thay đổi cơ bản với những thành tựu đáng kể như tỉ trọng GDP ngành chăn nuôi trong nông nghiệp ngày càng tăng năm 2005 chiếm 24,7% tính sơ bộ đến năm 2008 chiếm 27%.
Năm 2008 có 17.635 trong đó Đồng Bằng Sông Hồng có 8.103 trang trại, nhiều nhất cả nước.
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng
Năm
ĐVT
2000
2004
2005
2006
2007
Sơ bộ 2008
Số lượng lợn
1000con
20194
26144
27435
26855
26561
Sản lượng
Tấn
1.428,1
1.012,0
2.288,3
2.505,0
2662,7
2.771,0
2.2.2 Một số chủ trương và chính sách có liên quan đến phát triển ngành hàng lợn thịt
Trong bối cảnh nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), các biện pháp phi thuế quan như hạn chế nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu trong lĩnh vực nông nghiệp không còn hợp lệ và cần phải xoá bỏ. Theo đó, thuế quan và hạn ngạch dần được thay thế bởi các biện pháp về hỗ trợ nghiên cứu phát triển, quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại, hỗ trợ giải quyết các vấn đề môi trường, kiểm định và cấp chứng nhận chất lượng đối với hàng nông sản trong nước giúp tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm nội. Hiện nay nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp an toàn, sản phẩm hữu cơ có chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu ngày càng tăng lên.
Trong thời gian tới, các giải pháp, chính sách để phát triển ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi lợn nói riêng sẽ tập trung vào khuyến khích phát triển sản xuất như: chuyển dịch cơ cấu sản xuất; hỗ trợ việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ lãi suất đầu tư cho các dự án phát triển sản xuất, bảo quản, chế biến; hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học, khuyến nông, chọn lọc, lai tạo và sản xuất giống, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới vào sản xuất; hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại.
2.2.3 Một số công trình nghiên cứu mới gần đây về ngành hàng lợn thịt ở Việt Nam
Các đề tài trên thường tập trung vào các vấn đề liên quan đến mảng sản xuất: kỹ thuật chăn nuôi, phòng trừ dịch bệnh, nâng năng suất cao chất lượng thịt... Một số kết quả của các nghiên cứu trên đã được áp dụng trong thực tế sản xuất và chứng minh được tính hiệu quả. Tuy nhiên, khả năng mở rộng và áp dụng rộng rãi những kết quả nghiên cứu cho hộ chăn nuôi lợn trên thực tế vẫn còn hạn chế.
Chưa có công trình nào nghiên cứu về nâng cao hiệu quả hoạt động của chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt trong mối liên hệ giữa các tác nhân trong một chuỗi. Thực tế trong một thị trường phát triển để sản phẩm thực phẩm đến được thị trường đòi hỏi trang trại sản xuất ra sản phẩm phải được cấp giấy chứng nhận sản phẩm đó và mỗi tác nhân đều chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình đến người tiêu dung cuối cùng. Do vậy nghiên cứu phát triển chuỗi giá trị là cần thiết trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi giá trị lợn thịt
Quá trình nghiên cứu tổng quan ngành hàng lợn thịt trên thế giới và Việt Nam, chúng tôi rút ra một số nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi giá trị lợn thịt như sau:
Nhu cầu tiêu dùng thịt lợn chất lượng cao trên thị trường thế giới và trong nước ngày càng tăng.
Hiệu quả kinh tế của việc chăn nuôi lợn, cùng với tính thích nghi rộng của con lợn làm cho diện tích chăn nuôi lợn trên thế giới liên tục tăng qua các năm.
Yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm có thương hiệu, nhãn mác, xuất xứ rõ ràng và được sản xuất theo qui trình sạch bệnh, an toàn ngày càng trở nên phổ biến và dần trở thành những yêu cầu bắt buộc khi đưa sản phẩm ra thị trường. Thông tin xung quanh vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng có nhiều tác động tới thị trường thịt lợn. Bên cạnh đó các cơ quan quản lý nhà nước cũng đang xây dựng các qui định nhằm quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm tốt hơn.
Ảnh hưởng của dịch bệnh làm giảm khả năng cung ứng thịt lợn của các quốc gia chăn nuôi lợn trên thế giới.
Khả năng phát triển những vùng chăn nuôi lợn tập trung, qui mô lớn cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành hàng lợn thịt.
Sự gắn kết giữa các tác nhân trong ngành hàng trong các công đoạn từ sản xuất – tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng đến khả năng vận hành trơn chu và hiệu quả của chuỗi.
Vấn đề ô nhiễm môi trường do chất thải chăn nuôi rất khó giả quyết làm giảm hiệu quả của chuỗi rất rõ rệt.
3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1 Vị tri địa lý
(chèn bản đồ hành chính huyện chương mỹ vào đây)
Chương Mỹ là một huyện lớn nằm về phía Tây Nam của Tỉnh Hà Tây cũ, có tọa độ địa lý là 200 23’ – 20055’ vĩ độ Bắc và 105030’ -105045’ kinh độ Đông, cách thủ đô Hà Nội 20 km về phía Tây qua quận Hà Đông trên quốc lộ 6. Huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 23.294,15 ha, với đường ranh giới giáp các địa phương:
Phía Bắc giáp huyện Quốc Oai và Hoài Đức;
Phía Đông giáp huyện Thanh Oai;
Phía Nam giáp huyện Ứng Hòa và Mỹ Đức;
Phía Tây giáp huyện Lương Sơn của tỉnh Hòa Bình.
Là huyện nằm trong quy hoạch chuỗi đô thị Miếu Môn – Xuân Mai – Hoà Lạc – Sơn Tây, có đường quốc lộ 6, 21A, tỉnh lộ 80 chạy qua nối liền huyện với các tỉnh Tây Bắc, thủ đô Hà Nội và các huyện khác trong tỉnh. Có 3 con song chảy qua địa bàn huyện là sông Đáy, sông Bùi và song Tích tạo cho huyện tiềm năng tự nhiên thật đa dạng: vừa có núi, vừa có sông, vừa có đồng bằng phù sa tươi tốt. Huyện lại nằm trong tam giác du lịch nổi tiếng: Hà Nội – Bà Vì – Chùa Hương.
Với vị trí địa lý như vậy, Chương Mỹ có nhiều lợi thế để phát triển đa dạng nền nông nghiệp hàng hóa:
Có thị trường tiêu thụ nông lâm sản rộng lớn: Hà Nội, Hà Đông, Hòa Bình và các vùng phụ cận.
Mạng lưới giao thông thuận tiện tạo điều kiện tốt để mở rộng giao lưu hàng hóa, tăng khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm của địa phương như các mặt hàng tươi sống, hàng chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ…
Có điều kiện để phát triển nhiều loại hình du lịch trong tuyên du lịch Hà Nội – Ba Vì – Chùa Hương, vì vậy nền nông nghiệp có điều kiện đa dạng hóa sản phẩm phục vụ cho khách du lịch.
Chương Mỹ nằm trong vùng quy hoạch hành lang phát triển của thủ đô Hà Nội về phía tây nên sẽ thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng các cơ sở công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), cơ sở nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ. Điều này, một mặt tạo công ăn việc làm tại chỗ cho nhân dân, tăng thu nhập, mặt khác giúp cho nhân dân tiếp xúc và vận dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ và kỹ thuật mới trong đời sống sinh hoạt và sản xuất.
3.1.1.2 Điều kiện khí hậu thời tiết
Chương Mỹ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa của vùng Đồng bằng Bắc bộ, là vùng có khí hậu chuyển tiếp giữa vùng núi Tây Bắc với vùng đồng bằng.
* Chế độ nhiệt: Theo số liệu quan trắc bình quân trong nhiều năm của trạm khí tượng thủy văn Ba La thì nhiệt độ trung bình của Chương Mỹ từ tháng 11 đến tháng 4 xấp xỉ 200C, tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất từ 8 - 120C, từ tháng 5 đến tháng 10 nhiệt độ trung bình 27,40C, tháng 6 có lúc nhiệt độ cao nhất là 38-390C.
* Chế độ mưa: Lượng mưa trên địa bàn Chương Mỹ đạt 1.548 mm/năm. Bình quân đạt 129 mm/tháng. Theo số liệu quan trắc được về thủy văn trong nhiều năm gần đây, lượng mưa tập trung cao độ vào mùa hè, đạt trung bình 1300 mm, chiếm 84% tổng lượng mưa cả năm. Mùa đông lượng mưa đạt khoảng 400 mm. Nếu tính cả năm trong những năm gần đây thì năm có lượng mưa thấp nhất là 1156,8 mm, năm có lượng mưa cao nhất la 2.728 mm. Mùa mưa ở huyện Chương Mỹ bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 9. Lượng mưa tập trung vào tháng 7, tháng 8 nên có độ ẩm không khí từ 89-91%.
* Chế độ gió: Mùa đông có gió Mùa Đông Bắc, hàng năm thường có từ 20-23 đợt, thỉnh thoảng có các đợt sương muối. Mùa hè gió Đông nam (mát và ẩm), song mỗi mùa thường có 4-5 đợt gió Tây nam (nóng và khô).
Với đặc điểm khí hậu trên, huyện Chương Mỹ có điều kiện để phát triển nhiều loại cây trồng vật nuôi khác nhau để phát triển nền kinh tế nông nghiệp đa dạng. Tuy nhiên ở vùng đồi gò thường thiếu nước vào mùa khô, ngược lại khi có mưa lớn thì những vùng trũng thường bị úng lụt. Nếu lượng mưa trên 200 mm kéo dài sẽ bị úng cục bộ nhiều khu vực, gây khó khăn cho quá trình sản xuất nông nghiệp.
3.1.1.3 Đất đai
Theo số liệu thống kê năm 2008 tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 23.226,51 ha. Bao gồm:
+ Đất nông nghiệp: 14.978,68 ha. Trong đó diện tích sản xuất lúa, màu là 11.496,17 ha, chiếm 76,75% tổng diện tích đất nông nghiệp.
+ Đất lâm nghiệp: 324,67 ha.
+ Đất ở: 1.441,46 ha.
+ Đất chưa sử dụng: 1.127,47 ha.
Do cấu tạo tự nhiên, địa hình của Chương Mỹ được chia thành ba vùng:
+ Vùng đồi gò gồm 17 xã, diện tích đất tự nhiên của vùng là 14.911,42 ha chiếm 64,2% tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Địa hình của vùng có độ dốc đặc trưng từ Tây sang Đông. Đặc điểm của vùng là địa hình bị chia cắt bởi đồi gò và đồng ruộng. Các đồi gò chủ yếu là đồi, gò thấp, có độ dốc trong khoảng từ 50 - 20 0. Diện tích đồi núi có độ dốc cao không nhiều (11,31%) so với tổng diện tích đất tự nhiên của vùng. Đây là vùng có tiềm năng phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, có điều kiện để phát triển các mô hình sản xuất nông lâm kết hợp, nhằm khai thác hợp lý và hiệu quả các loại đất.
+ Vùng bãi ven sông đáy gồm 8 xã phân bố dọc theo bờ hữu sông Đáy, có diện tích tự nhiên là 4.622,08 ha, chiếm 19,9% tổng diện tích tự nhiên của huyện. Đất đai ở đây phù hợp với việc sản xuất lúa, các loại rau màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày.
+ Vùng đồng bằng thuộc khu vực giữa huyện gồm 8 xã, có diện tích đất tự nhiên là 3.693 ha, chiếm 15% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện. Tuy nhiên vùng này có địa hình nghiêng dần từ bắc xuống nam. Đây là vùng chuyên canh lúa chủ yếu.
3.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội
Theo niên giám thống kê năm 2006, huyện Chương Mỹ có nền kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ trọng 33%, thu nhập bình quân đầu người đạt 5,79 triệu đồng/người/năm, bình quân lương thực đầu người đạt 365,4 kg/người/năm. Nền kinh tế có bước phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang ở thời kỳ phát triển mạnh, trong huyện có nhiều khu công nghiệp đang được xây dựng (khu công nghiệp Phú nghĩa, Khu công nghiệp Chúc Sơn, Khu công nghiệp Phụng Châu...) đã làm thay đổi mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của toàn huyện. Một phần lao động không nhỏ trước đây làm nông nghiệp đã chuyển hẳn sang làm tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp.
Chương mỹ có nguồn lao động dồi dào, trình độ sản xuất trung bình, một số đã qua đào tạo ngắn hạn bằng các lớp tập huấn khuyến nông do trung tâm khuyến nông tỉnh, trạm khuyến nông huyện và các trường nông nghiệp đóng trên địa bàn huyện tập huấn, còn lại một số không nhỏ chưa qua đào tạo, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao.
Cơ sở vật chất, hạ tầng đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển nên tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các lĩnh vực kinh tế.
3.1.2.1 Tình hình dân số và lao động
Quá trình công nghiệp hóa không chỉ ảnh hưởng tới cơ cấu đất đai mà nó còn ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu lao động nông thôn. Xu hướng tăng lao động trong khu vực công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng lao động nông nghiệp, đây cũng là xu hướng biến động chung của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Dân số huyện Chương Mỹ liên tục tăng qua các năm năm 2000 có 264.229 người, đến năm 2007 lên tới 281.842 người tăng 7,99% so với năm 2000. Năm 2008 dân số tăng lên là 285.347 người. Do quá trình công nghiêp hoá của huyện đã làm cho lao động trong nông nghiệp giảm từ 71,61% năm 2005 đến nay chỉ còn 47%.
Bảng 3.1.Tình hình dân số và lao động của huyện Chương Mỹ qua các gia đoạn (2006- 2008)
Chỉ tiêu
ĐVT
2006
2007
2008
So sánh (lần)
SL
CC(%)
SL
CC(%)
SL
CC(%)
07/06
08/07
BQ
1. Tổng dân số
Người
281.842
100
285.347
100
290.509
100
101,24
101,81
101,52
Trong đó khẩu nông nghiệp
Người
2. Mật độ dân số
Người/km2
1.213
1.229
1.251
3. Tổng số lao động
Người
144.097
158.109
159.549
109,72
100,91
105,22
II. Tổng số hộ
60153
100
60892
100
61048
100
101,23
100,26
100,74
1.Theo ngành nghề
60153
100
60892
100
61048
101,23
100,26
100,74
- NN kiêm nghề phụ
57145
95.00
57260
94.04
57327
93.90
100,20
100,12
100,16
- Phi nông nghiệp
1003
1.67
1526
2.51
1638
2.68
152,14
107,34
127,79
- Thuần nông nghiệp
2005
3.33
2106
3.46
2083
3.41
105,04
98,91
101,93
2. Theo thu nhập
60153
100
60892
100
61048
100
101,23
100,26
100,74
- Hộ giàu
18877
31.38
20197
33.17
20517
33.61
106,99
101,58
104,25
- Hộ Khá
30517
50.73
30256
49.69
31266
51.22
99,14
103,34
101,22
- Hộ nghèo
10759
17.89
10439
17.14
9265
15.18
97,03
88,75
92,80
III. Tổng lao động
131586
100
144097
100
158109
100
109,51
109,72
109,62
1. LĐ trong độ tuổi
127600
96.97
142612
98.97
153595
97.15
111,76
107,70
109,71
LĐ có khă năng làm việc
125039
97.99
139847
98.06
149557
97.37
111,84
106,94
109,37
LĐ mất khả năng làm việc
2561
2.01
2765
1.94
3138
2.04
107,97
113,49
110,69
2. Ngoài độ tuổi tham gia LĐ
3986
3.03
4250
2.95
4514
2.85
106,62
106,21
106,42
- Trên tuổi LĐ
1793
44.98
1900
44.71
2057
45.57
105,97
108,26
107,11
- Dưới tuổi LĐ
2193
55.02
2350
55.29
2457
54.43
107,16
104,55
105,85
IV.Phân bổ nguồn lao động
131586
144097
158109
109,51
109,72
109,62
- LĐ Trong QTKD
116335
120750
138512
103,80
114,71
109,12
- LĐ có KN LĐ còn đi học
8310
14047
14263
169,04
101,54
131,01
- Trong tuỏi LĐ làm nội trợ
3095
3525
3791
113,89
107,55
110,67
- Trong tuổi LĐ K0 LĐ
1458
1750
1860
120,03
106,29
112,95
- Trong tuổi LĐ K0 có việc
3757
4025
1543
107,13
38,34
64,09
Một só chi tiêu BQ
1. BQ khẩu/hộ
4,69
4,69
4,76
100,01
100,01
100,78
2. BQ LĐ/hộ
2,19
2,37
2,59
108,22
109,28
108,75
Nguồn: Phòng thống kê huyện Chương Mỹ
Bảng 3.2. Hiện trạng sử dụng đất đai của huyện Chương Mỹ
Chỉ tiêu
2000
2005
2008
So sánh (lần)
SL(ha)
CC(%)
SL(ha)
CC(%)
SL(ha)
CC(%)
05/00
08/07
08/00
Tổng DT đất TN
2329.4
100
2322.6
100
2322.6
100
1.00
1
1.00
I.Tổng DT đất NN
1443.1
61.95
1008.8
43.43
1007.8
43.39
0.70
1.00
0.70
1.Trồng cây hàng năm
1114.3
77.22
679.1
67.32
649.6
64.46
0.61
0.96
0.58
2. Đất mặt nước NTTS
328.8
22.78
329.7
32.68
368.2
36.54
1.00
1.12
1.12
II. Đất trồng cây lâu năm
586
25.14
11.3
0.49
14.7
0.63
0.02
1.30
0.03
III. Đất chuyên dung
605.37
25.99
739.99
31.86
821.77
35.38
1.22
1.11
1.36
1. XD
126.74
20.94
138.08
21.57
227.63
35.54
1.09
1.65
1.80
2. Giao thong
194.41
32.11
233.51
36.49
294.31
31.93
1.20
1.26
1.51
3. Thuỷ lợi
131.73
21.76
118.59
18.53
102.43
111
0.90
0.86
0.78
4. Đất chuyên dùng khác
152.49
25.19
249.81
23.41
97.4
21.41
1.37
0.39
0.64
IV. Đất khác
321.17
13.79
383.39
16.51
386.72
16.65
1.20
1.01
1.20
1. Đất ở thành thị
107.64
33.51
185.74
48.45
189.07
48.8907
1.73
1.02
1.76
2. Đất ở nông thôn
213.36
66.43
197.65
51.55
197.65
51.1093
0.93
1.00
0.93
V. Đất chưa sử dụng
167.637
7.20
179.12
7.712
91.61
4
1.07
0.51
0.55
Nguồn: Phòng thống kê huyện Chương Mỹ
3.1.2.2 Tình hình phân bổ và sử dụng đất
Theo thống kê của phòng thống kê huyện Chương Mỹ thì đến năm 2000 và có biến động qua các năm như sau:
Đất nông nghiệp biến động qua các năm là có xu hướng giảm, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang xây dựng khu công nghiệp.
3.1.2.3 Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật
- Về giao thông: Huyện Chương Mỹ có Quốc lộ 6, 21A và Tỉnh lộ 80 chạy qua nối liền huyện với tỉnh Hòa Bình, Hà Nội và các huyện khác trong thành phố. Có ba con sông là sông Bùi, song Tích và Sông Đáy chảy qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi hàng hoá dịch vụ của huyện với các vùng khác xung quanh, tạo điều kiện cho thương mại phát triển. Hệ thống đường trong các thôn xóm đã được bê tong hóa rất nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân. Song bên cạnh đó còn có một số khu chưa chú ý đến phát triển đường xá nên đường đi vẫn là đường đất, lầy lội về mùa mưa và bụi mịt mù vào mùa khô, gây khó khăn lớn cho việc giao thông và ảnh hưởng đến môi trường, cuộc sống của người dân. Đây là vấn đề đòi hỏi sự quan tâm của các cấp, các ngành và sự ủng hộ của toàn thể nhân dân.
- Về thủy lợi: Theo số liệu điều tra của Phòng giao thông, thủy lợi huyện thì hệ thống thủy lợi cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp của huyện chủ yếu lấy từ nguồn nước ở những con sông và hồ chứa nước.
- Sông Bùi chảy từ phía tây về phía đông của huyện qua 13 xã, trong đó có 10 xã thuộc vùng đồi gò.
- Sông Đáy chảy qua địa phận 9 xã.
Hai con sông trên vừa là nguồn nước tưới quan trọng mà còn là hai trục tiêu tự chảy chính cho các vùng đất đai của huyện.
- Hồ chứa nước: Huyện Chương Mỹ có rất nhiều hồ chứa nước lớn, nhỏ. Trong đó lớn nhất là hồ Đồng Sương, có diện tích là 206 ha nằm ở địa phận xã Trần Phú. Sau đó đến hồ Văn Sơn diện tích là 175 ha nằm ở địa phận xã Hoàng Văn Thụ, hồ Miễu diện tích 75 ha nằm ở địa phận xã Nam Phương Tiến. Các hồ này được xây dựng vừa để chắn lũ rừng chảy ra từ các khu rừng của huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình, đồng thời còn là trữ lượng nước lớn tưới cho 8 xã phân bố dọc theo quốc lộ 21ª. Ngoài ra còn có 4 hồ trữ nước vừa và các đầm nhỏ nằm rải rác ở các xã khác nhau trong địa bàn huyện. Tổng trữ lượng nước của các hồ khoảng 17,3 triệu m3.
Để khai thác nguồn nước từ các con sông và các hồ chứa nước huyện đã cho xây dựng các con đập chắn nước, hệ thống trạm bơm và mương dẫn nước. Cho đến nay trên địa bàn huyện có hàng trăm đập chắn nước lớn, nhỏ, hàng trăm km mương dẫn nước và 40 trạm bơm vừa và nhỏ để đảm bảo tưới, tiêu chủ động cho trên 65% diện tích đất canh tác của toàn huyện, phần diện tích còn lại phụ thuộc vào thiên nhiên. Ngoài ra để phòng chống lũ lụt vào mùa mưa trên địa bàn huyện có hai tuyến đê chính ngăn nước từ 2 con sông Bùi và sông Đáy tràn vào đồng và các xã ven sông để bảo vệ mùa màng và tài sản, tính mạng của nhân dân.
Bảng 3.3. Tình hình trang bị cơ sở hạ tầng của huyện Chương Mỹ qua các thời kỳ
Chỉ tiêu
ĐVT
2000
2005
2008
So sánh tuyệt đối
05-00
08-05
08-00
I. Giao thông
- Đường quốc lộ
Tuyến
3
3
3
0
0
0
- Đường liên xã
Tuyến
31
31
31
0
0
0
- Đường liên thôn
Tuyến
91
91
91
0
0
0
II.Công trình thuỷ lợi
-Trạm tưới100KW trở lên
Trạm
13
15
16
2
1
3
- Trạm tiêu
Trạm
17
18
21
1
3
4
- Đường kênh mương
m3
10.275
13.993
15.721
3718
1728
5446
III. Điện
0
0
0
- Trạm biến thế
Trạm
102
135
152
33
17
50
- Đường dây hạ thế
IV. Trường học
- Trường mẫu giáo
Trường
20
30
33
10
3
13
- Trường tiểu học
Trường
20
27
39
7
12
19
- Trường THCS
Trường
29
29
36
0
7
7
- Trường THPT
Trường
4
4
4
0
0
0
- Trường TC, CĐ, ĐH
Trường
5
5
5
0
0
0
V. Y tế
- Bệnh viện
Bệnh viện
3
5
5
2
0
2
- Trạm xá
Trạm xá
32
32
32
0
0
0
VI. Công trình công cộng
- Sân vận động
cái
8
8
8
0
0
0
- Chợ
cái
37
37
37
0
0
0
- Bưu điện
Bưu điện
33
33
33
0
0
0
- Trụ sở uỷ ban
Trụ sở
33
33
33
0
0
0
Nguồn: Phòng thống kê huyện Chương Mỹ
3.1.3 Điều kiện kinh tế – xã hội
Huyện có 2 thị trấn là Xuân Mai, Chúc Sơn và 30 xã.
3.1.3.1 Nhân khẩu, lao động
Tổng dân số toàn huyện Chương Mỹ năm 2008 là 271.761 người, trong đó trên 70% là dân số nông thôn. Tổng số lao động của huyện là 114.359 người, trong đó lao động nông lâm nghiệp chiếm 70,15% , còn lại là các lao động trong ngành kinh tế khác chiếm 29,85% tổng số lao động. Trong một vài năm gần đây huyện đã đạt được nhiều kết quả trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ, buôn bán kinh doanh...
Người dân Chương Mỹ cũng như bao người dân trên đất “Trăm nghề” Hà Tây có truyền thống năng động, giỏi buôn bán, làm ăn kinh tế. Nhạy bén trong việc tiếp cận thị trường và tiếp cận khoa học kỹ thuật mới. Nên Chương Mỹ là vùng đất phát triển rất năng động.
3.1.3.2 Cơ cấu các ngành kinh tế
Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại Hội IX của Đảng ủy và uỷ ban nhân dân huyện Chương Mỹ thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp và hiện đại hóa kinh tế. Với lợi thế gần Thủ đô Hà Nội, mạng lưới giao thông thuận lợi huyện đang từng bước chuyển đổi thành công
Trên địa bàn huyện hiện nay ngoài nông nghiệp truyền thống thì các ngành kinh tế khác cũng rất phát triển. ngành nghề thủ công (Mây tre đan) mang lại thu nhập cho nhiều người dân ở nhiều lứa tuổi, đóng góp lớn cho kinh tế địa phương. Nhiều làng nghề, công ty, doanh nghiệp hoạt động sản xuất và xuất khẩu sản phẩm hàng thủ công. Huyện đang quy hoạch và phát triển nhiều khu công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp như khu công nghiệp Phú Nghĩa (Bắc và Nam Phú Nghĩa), có một số doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và liên doanh với nước ngoài hoạt động đặt nhà máy trên địa bàn như công ty CP 100% vốn của Thái Lan, Công ty may xuất khẩu Macalan 100% vốn của Trung Quốc, nhiều công ty đồ chơi, công ty chế biến thức ăn gia súc đang hoạt động thu hút rất nhiều lao động địa phương và các địa phương khác.
Chính vì thế mà cơ cấu các ngành kinh tế của huyện đang có sự chuyển biến tích cực theo hướng hiện đại công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn tỷ trọng nông nghiệp thấp.
3.1.3.3 Tập quán chăn nuôi của người chăn nuôi ở huyện Chương Mỹ
Chăn nuôi lợn là ngành kinh tế đã có từ lâu đời trở thành tập quán sản xuất của người dân. trước kia khi chưa phát triển sản xuất hàng hóa thì chăn nuôi lợn cũng đã có ở hầu hết các hộ gia đinh. Hình thức chăn nuôi truyền thống, mỗi gia đình đều nuôi một vài con lợn như là hình thức tích góp, bỏ tiết kiệm để đến khi bán lợn thì có được một khoản tiền chi trả cho những công việc lớn trong gia đình, đôi khi là để dựng vợ gả chồng cho con cái. Trên địa bàn huyện cũng có nhiều địa phương phát triển ngành nấu rượu gạo và cùng với đó là phát triển chăn nuôi lợn, có lúc chăn nuôi lợn là chính và nấu rượu chủ yếu để lấy cám bỗng nuôi lợn. Chất lượng thịt lợn nuôi bằng cám bỗng được nhiều người dân cho là ngon hơn thịt nuôi cám công nghiệp ngày nay. Kỹ thuật chăn nuôi lợn cũng đơn giản, lợn là giống phàm ăn, chấp nhận nhiều loại thức ăn nên chăn nuôi lợn là ngành rất phổ biến trong nông thôn và trên địa bàn huyện. Giống lợn được nuôi chủ yếu là lợn ỉ Móng Cái.
Khi sản xuất hàng hóa phát triển thì có sự thay đổi về quy mô chăn nuôi của các hộ gia đình. Nhiều trang trại chăn nuôi lớn phát triển thay thế chuồng trại nhỏ trong mỗi gia đình bằng trang trại lớn, thiết kế hiện đại chuyên cho nuôi lợn. Công nghệ chăn nuôi cũng thay đổi, không chỉ tận dụng thức ăn sẵn có trong gia đình mà các hộ, các trang trại chăn nuôi sử dụng cám công nghiệp cho chăn nuôi, giống mới được đưa vào sản xuất, chủ động tiêm vắc xin phòng ngừa bệnh. Tuy nhiên có vẻ như chăn nuôi tập trung làm cho các dịch bệnh dễ bùng phát hơn.
Tuy nhiên huyện Chương Mỹ vẫn là địa phương chăn nuôi lợn nhiều và quy mô hộ gia đình là chủ yếu, chăn nuôi tại gia đình và trong khu dân cư. Trong định hướng phát triển chăn nuôi đã đề ra mục tiêu tách chăn nuôi ra khỏi khu tập trung đông dân cư.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp tiếp cận
Trong quá trình thực hiện đề tài, phương pháp tiếp cận được sử dụng xuyên suốt là phương pháp tiếp cận “thúc đẩy chuỗi giá trị”. Thúc đẩy chuỗi giá trị giúp tăng trưởng kinh tế - như một điều kiện cần thiết để tăng thu nhập bằng cách đảm bảo rằng thu nhập tăng thêm được tạo ra sẽ thực sự đem lại lợi ích cho những nhóm người nghèo. Điều này phải đạt được thông qua việc tăng cường cách thức hoạt động của các thị trường sản phẩm thương mại liên quan đến người nghèo, bằng cách cải thiện sự tiếp cận của họ đối với các thị trường này, và bằng cách gây ảnh hưởng đến kết quả phân phối của các quy trình trên thị trường. Do đó thúc đẩy chuỗi giá trị vận dụng những lực lượng thị trường để đạt được các mục tiêu phát triển. Nó hướng đến các mục tiêu kinh doanh và cố gắng phát huy những tiềm năng kinh tế sẵn có hoặc đang nổi lên của người nghèo. Phương pháp này về cơ bản là phương pháp tiếp cận phát triển, ngoài ra trong đề tài còn sử dụng các phương pháp tiếp cận khác như phương pháp tiếp cận có sự tham gia, phương pháp tiếp cận hệ thống... nhằm đảm bảo thực hiện được đầy đủ các mục tiêu đề tài đặt ra.
3.2.2 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
- Chọn huyện nghiên cứu: Chương Mỹ là huyện có hoạt động chăn nuôi rất mạnh, năm 2008 tổng đàn lợn 123.859 con, các dịch vụ phát triển, thị trường tiêu thụ lớn, có nghề chế biến thịt lợn thành các sản phẩm chất lượng cao như giò, chả, thịt muối… và các hoạt động buôn bán khá sôi động.
- Chọn xã nghiên cứu
Khi lựa chọn điểm nghiên cứu chúng tôi dựa trên cơ sở kết quả phân vùng chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện Chương Mỹ, lựa chọn các xã đảm bảo tính đại diện cho thực trạng sản xuất, tiêu thụ thịt lợn trên địa bàn huyện để khảo sát sâu một số nội dung.
Xã Trung Hoà là xã có quy mô chăn nuôi lớn nhất trong huyện với 9594 con đạt sản lượng 1.210 tấn thịt lợn hơi xuất chuông/ năm. Trung Hòa nổi tiếng về nghề nấu rượu chăn lợn, được coi như “Làng Vân” của Hà Tây. Người chăn nuôi nơi đây có trình độ kỹ thuật rất cao, mật độ chăn nuôi rất lớn, hầu như các hộ trong xã đều chăn nuôi lợn, đặc biệt là ở thôn Chi Nê.
Xã Thanh Bình hiện là xã có quy mô chăn nuôi lớn thứ hai trong huyện. chỉ trong khoảng 10 năm trở lại đây, Thanh Bình từ một trong những xã nghèo nhất trong huyện đang dần trở thành xã có nền kinh tế phát triển tốt mà nguyên nhân chủ yếu là do chăn nuôi lợn và gà. Ở Thanh Bình phát triển chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, các khu trang trại chăn nuôi tập trung được xã quy hoạch, tạo điều kiện rất tốt cho phát triển chăn nuôi theo hướng hiện đại, bảo vệ môi trường và tách chăn nuôi khỏi khu dân cư.
Xã Phụng Châu là xã nằm ở phía Bắc của huyện, nông nghiệp khá phát triển, ngành chăn nuôi lợn phát triển mạnh, có trường Đại học Sư phạm Thể Dục Thể thao Hà Nội đặt trên địa bàn xã. Đây là điểm rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi phục vụ nhu cầu trực tiếp tại địa phương.
Với nhóm tác nhân thương mại, trên cơ sở khảo sát các kênh hàng chúng tôi lựa chọn điều tra một số chủ buôn, đại lý và một số hộ thu gom, bán lẻ trên địa bàn huyện Chương Mỹ và các khu vực tập trung nhiều hộ thu gom bán buôn thịt đi các địa phương khác và Hà Nội.
Với nhóm hộ chế biến chúng tôi điều tra một số hộ có thâm niên hoạt động chế biến giò, trả, thịt lợn hun khói, thịt lợn muối ở xã Trường Yên.
Với nhóm người giết mổ, bán lẻ và tiêu dùng: chúng tôi điều tra các khu vực tiêu dùng thịt lợn ở Thị trấn Xuân Mai, chợ Đông Phương Yên là vùng kinh tế phát triển và xã Thượng Vực đại diện cho xã còn thuần nông.
Dưới đây là bảng tổng hợp số lượng các tác nhân thương mại và người tiêu dùng được điều tra trên địa bàn huyện Chương Mỹ và các khu vực khác.
Bảng 3.4: Số lượng các tác nhân thương mại và người tiêu dùng điều tra
Diễn giải
Số lượng (người)
1. Hộ chăn nuôi
90
2. Chủ buôn ngoài huyện
5
3. Hộ Giết mổ
10
4. Bán lẻ
10
5. Thu gom địa phương
5
6. Người tiêu dung thịt lợn
30
Tổng cộng
150
3.2.3 Phương pháp thu thập các thông tin
3.2.3.1 Thông tin thứ cấp
Thu thập các báo cáo, các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến chăn nuôi lợn, chuỗi giá trị thịt lợn, các văn bản chính sách của địa phương, số liệu liên quan đến phát triển kinh tế địa phương và liên quan đến ngành hàng thịt lợn.
Các thông tin về tình hình phát triển kinh tế địa phương, tình hình phát triển sản xuất và tiêu thụ thịt lợn ở địa phương được thu thập trong khoảng thời gian 3 năm (2006 – 2008).
3.2.3.2 Thông tin sơ cấp
Phỏng vấn các tác nhân trong ngành hàng bằng bộ câu hỏi thu thập thông tin cấu trúc và bán cấu trúc
Nguồn thông tin sơ cấp chủ yếu được thu thập từ quá trình phỏng vấn hộ chăn nuôi lợn, tác nhân thương mại và người tiêu dùng. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn các tác nhân bằng bộ câu hỏi điều tra bao gồm các câu hỏi cấu trúc và bán cấu trúc. Thời gian tiến hành một cuộc phỏng vấn từ 1 – 1,5 giờ, địa điểm phỏng vấn thường tại nhà hoặc cửa hàng của các đối tượng điều tra.
Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA)
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu. Thông qua việc đi thực địa để quan sát, thăm hộ và họp dân để có những thông tin về vấn đề nghiên cứu và vùng nghiên cứu. Từ đó lên kế hoạch cho những công việc nghiên cứu tiếp theo và đưa ra hướng giải quyết sơ bộ. Đánh giá nông thôn có tính chuyên đề bằng một số câu hỏi xoay quanh việc sản xuất, áp dụng kỹ thuật của hộ chăn nuôi lợn, quá trình thương mại hoá sản phẩm thịt lợn trên thị trường.
Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHKT09005.doc