Mục lục:
Mở đầu: 3
Phần I: an toàn lao động 4
Phần II: tìm hiểu công nghệ kho xăng dầu 5
II.1/ Nguyên tắc các bồn bể chứa: 5
II.1.1.Yêu cầu đối với bể chứa xăng dầu: 5
II.1.2. Phân loại bể chứa xăng dầu: 5
II.1.3. Một số bể chứa xăng dầu thường dùng 6
II.1.4. Các thiết bị của bể chứa 7
II.2/ Vấn đề hao hụt, nguyên nhân và biện pháp phòng chống: 9
II.2.1) Tính cấp bách của vấn đề chống hao hụt xăng dầu: 9
II.2.2) Các dạng hao hụt và nguyên nhân gây ra các hao hụt đó : 9
II.3/ Vận ch
50 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1784 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phân tích chất lượng xăng dầu. Tìm hiểu công nghệ kho xăng dầu, dầu mỡ bôi trơn và phụ gia, LPG tại Tổng Công ty xăng dầu khu vực 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyển xăng dầu: 14
II.3.1) Vận chuyển xăng dầu bằng đường ống ngầm: 14
II.3.2) Vận chuyển xăng dầu bằng tàu thuỷ: 15
II.3.3. Vận chuyển xăng dầu bằng ôtô xitec: 16
II.3.4. Vận chuyển xăng dầu bằng wagon xitec: 17
II.4/ An toàn cháy nổ trong các công trình xăng dầu 17
II.4.1. Đặc điểm nguy hiểm về cháy nổ trong công trình xăng dầu 17
II.4.2) Đặc điểm nguy hiểm cháy nổ xăng dầu: 18
II.4.3) Nguyên tắc dập tắt đám cháy của cơ sở 19
II.4.4. Các loại chất chữa cháy và phương tiện chữa cháy 19
Phần III. Các phương pháp phân tích chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm xăng dầu
III.1.Thành phần cất phân đoạn. 22
III.2.Độ xuyên kim 23
III.3. Nhiệt độ chớp cháy. 23
III.4. Độ nhớt 24
III.5. áp suất hơi bão hòa 25
III.6. So màu Sayball 26
III.7. Ăn mòn tấm đồng: 26
Phần IV: Dầu mỡ bôi trơn và phụ gia.
IV.1. Vai trò của phụ gia 27
IV.2. Pha chế dầu nhờn thương phẩm: 32
IV.3. Các chỉ tiêu của dầu nhờn 33
Phần V: tìm hiểu về LPG
V.1. Giới thiệu chung. 41
V.2. Nguồn gốc thành phần tính chất của khí đồng hành 41
V.3.Một số đặc tính hoá lý thương mại 42
V.4.ứng dụng của LPG . 47
Kết luận: 50
Mở đầu:
Từ thời cổ xưa con người đã biết đến dầu mỏ. Dầu mỏ được dùng làm nhiên liệu để đốt cháy, thắp sáng từ thế kỷ XVIII. Sang đến thế kỷ thứ XIX, dầu được coi như là nguồn nhiên liệu chính cho mọi phương tiện giao thông và cho nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, dầu mỏ đã trở thành nguồn năng lượng quan trọng nhất của mọi quốc gia trên thế giới. Khoảng 65á70% năng lượng sử dụng đi từ dầu mỏ, chỉ còn 20á22% năng lượng đi từ than, 5á6% từ năng lượng nước và 8á12% từ năng lượng hạt nhân.
Bên cạnh đó, dầu mỏ còn cho những sản phẩm hết sức quan trọng và đa dạng đi từ quá trình tổng hợp hữu cơ - hoá dầu trong công nghiệp như: cao su, chất dẻo, tơ sợi tổng hợp, các chất hoạt động bề mặt, phân bón, thậm chí cả protein,....
Hiệu quả sử dụng dầu mỏ còn được thể hiện trên nhiều lĩnh vực từ các phân đoạn chưng cất dầu thô, kể cả cặn chưng cất, điều này phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của các quá trình chế biến, mà các quá trình xúc tác giữ một vai trò then chốt. Từ đó hiệu quả sử dụng của dầu mỏ được nâng cao rõ rệt, tiết kiệm được trữ lượng dầu thô trên thế giới.
Là những sinh viên ngành công nghệ Hữu cơ - Hoá dầu, việc hiểu biết về các quá trình và sản phẩm chuyên ngành là hết sức cần thiết, đặc biệt là bản chất của chúng. Nhằm hướng tới mục đích trên, kỳ thực tập kỹ thuật này là một yếu tố hết sức quan trọng cho sinh viên chúng em, giúp sinh viên chúng em có cơ hội được hiểu biết hơn về những ứng dụng thực tiễn của dầu mỏ, việc giữ và bảo quản các sản phẩm xăng dầu,...cũng như những thông số hoá lý đặc trưng của chúng có tác động trực tiếp đến quá trình sử dụng sau này.
Qua quá trình đi thực tế và tìm hiểu qua tài liệu, bản thân em rút ra được những kết quả nhất định, và em xin trình bày một số kết quả mà em thu được qua đợt thực tập tại tổng công ty xăng dầu khu vực iii.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giao Đinh Thị Ngọ và sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các đơn vị trong thời gian chúng em thực tập cho em hoàn thành đợt thực tập này.
Phần I: an toàn lao động
Trong khi đi vào nhà máy chúng ta phải hết sức chú ý đến vấn đề an toàn. Vì đây là các nhà máy về xăng, dầu, gas do xăng, dầu, gas đều có sự nở khối nên các thiết bị chứa đựng không được quá 95% thể tích trống của thiết bị, mặt khác ở bất kỳ nhiệt độ nào xăng dầu cũng bay hơi, hơi xăng dầu bay lên khoảng không bể chứa thiết bị chứa đựng xăng dầu dần dần tự bão hoà với không khí trong khoảng đó và có thể tạo thành môi trường nguy hiểm gây cháy nổ. Nhưng không phải ở bất kỳ nhiệt độ nào của chất lỏng, hỗn hợp hơi của nó với không khí cũng có thể xảy ra cháy, do đó yếu tố về an toàn là rất cần thiết và quan trọng. Để có thể gây ra cháy cần có tác nhân gây ra tia lửa và được gia nhiệt đến nhiệt độ bắt cháy, cho nên việc để các bồn bể chứa xa tác nhân gây ra tia lửa là việc bắt buộc đối với bất kỳ một nhà máy xí nghiệp nào do đó các yêu cầu về an toàn lao động khi làm việc là:
Không đi giầy đinh, và mang bất cứ vật dụng phát ra tia lửa vào gần nơi để xăng dầu.
Các bồn, bể, chứa, cũng như phòng thí nghiệm phải bố trí riêng biệt, có chu vi bảo vệ.
Bên dưới các bồn, bể chứa phải trồng cỏ xanh hoặc rải sỏi để giải toả nhiệt và chống ngọn lửa lan ra các nơi khác khi xảy ra hoả hoạn.
Phải bố trí các loại bình chữa cháy ngay bên cạnh các bồn, bể chứa.
Trong lúc làm việc nhân viên công tác, công nhân phải đeo tạp dề cao su, mang găng tay và đi ủng cao su, đeo kính.
Không sờ mó vào các máy móc đang vận hành đặc biệt là không được ngắt cầu dao, không đi lung tung trong nhà máy, đồng thời phải vào ra theo đúng giờ quy định của các cơ quan như một nhân viên.
Khi ra vào nhà máy cần thực hiện đúng các hướng dẫn của người hướng dẫn và các quy định khác của cơ quan.
Phần II: tìm hiểu công nghệ kho xăng dầu
II.1/ Nguyên tắc các bồn bể chứa:
II.1.1.Yêu cầu đối với bể chứa xăng dầu:
Người ta có thể chứa xăng dầu vào các bể bằng thép, bể chứa không phải bằng thép (bể phi kim loại) hoặc chứa xăng dầu vào các phuy, can nhỏ. Các phương tiện chứa đựng xăng dầu này phải đảm bảo các yêu cầu:
- Tránh và giảm bớt hao hụt về số lượng và chất lượng xăng dầu
- Thao tác thuận tiện.
- Đảm bào an toàn phòng độc và phòng cháy
II.1.2. Phân loại bể chứa xăng dầu:
- Dựa vào chiều cao xây dựng người ta chia ra:
+ Bể ngầm: Bể chôn dưới đất.
+ Bể nửa ngầm nửa nổi: Một phần hai chiều cao bể nhô lên khỏi mặt đất.
+ Bể nổi: Làm trên mặt đất
- Dựa vào áp suất người ta chia ra:
+ Bể cao áp: Bể có áp suất chịu đựng trong bể p > 200mm cột nước
+ Bể có áp lực trung bình: áp suất chịu đựng trong bể P = 20 á 200 mm cột nước
+ Bể thường áp: có áp suất trong bể P ằ 20mm cột nước
- Dựa vào vật liệu xây dựng có các loại bể:
+ Bể chứa kim loại (bể bằng thép )
+ Bể phi kim loại (bể không bằng thép).
- Dựa vào hình dạng kết cấu chia ra:
+ Bể hình trụ (trụ đứng, nằm ngang )
+ Bể hình cầu
+ Bể hình giọt nước
II.1.3. Một số bể chứa xăng dầu thường dùng
ỉBể hình trụ nằm ngang : Người ta thường chế tạo loại 10 m3, 15m3, 25m3,75m3
Câu tạo của loại bể này: Thành bể bao gồm những tấm thép cps chiều dày từ 4- 5 mm cuận lại thành hình trụ có đường kính nhất định. Đầu bể cũng làm bằng thép tấm dày 4- 5 mm
Tuỳ theo kết cấu bể mà người ta có thể chia ra
. Bể nằm ngang đầu bằng
. Bể nằm ngang đầu chỏm cầu
ỉBể trụ đứng : Thường là những bể có thể tích lớn 400 – 10.000 m3, bể thường có cấu tạo 4 phần
. Móng bể
. Đáy bể
. Thân bể
. Mái bể
Phần móng bể nó bao gồm các lớp: Lớp đất đầm tong lớp dày từ 15 – 20 cm lớp đất này có thể dày 50 – 60 cm . Trên lớp đất này là lớp cát khô dày từ 20 - 30 cm để phân dầu đều lực cũng như lún ổn định móng. Sau đó là lớp nhựa đường trên lớp cát dày 10 – 15 cm để chống them nước . Xung quanh móng bể người ta xây kè đá hoặc bê tông có rãnh thoát nước mưa và nước sả từ bể ra
Phần đáy bể bao gồm các tấm thép hàn lại với nhau làm bằng tôn dày 4 – 6mm. Còn tôn đáy sát thành bể còn chịu lực cắt tập trung của thành bể nên người ta làm tôn dày 10 – 12mm
Phần thành bể bao gồm nhiều tấm thép ghép hàn với nhau chiều dài tấm thép theo chu vi, chiều rộng tấm thép theo chiều caocủa bể thường gọi là các tầng. Do phải chịu áp lực thuỷ tĩnh lớn dần theo độ sâuvà chịu lực từ trong của các tầng phía trên nên thép tấm làm thành bể có chiều dày thay đổi và lớn dần từ trên xuống dưới
Việc gá tôn thành bể có các cách gá sau
. Gá kiểu ống chui: tầng trên có đường kính nhỏ hơn tầng dưới
. Gá kiểu dao kết: Các tầng tôn gá xen kẽ nhau tầng này trong tầng kia ngoài
.Gá kiểu hỗn hợp: Phối hợp hai kiểu gá trên
Phần mái bể: Có các dạng mái
. Bể mái nhọn
. Bể mái hình cầu
II.1.4. Các thiết bị của bể chứa
Các thiết bị trang bị tại bể chứa xăng dầu nhằm đẩm bảo cho thao tác xuất nhập tại bể được thuận tiện và đảm bảo an toàn trong việc chứa xăng dầu trong bể
Cầu thang bể để phục vụ cho việc lên xuống trong qui trình thao tác tại bể của người công nhân giao nhận
Lỗ ánh sáng được đặt trên nắp bể trụ đứng có tác dụng để thông gió trước khi lau chùi bể, sửa chữa và kiểm tra bên trong bể
Lỗ người chui có tác dụng để đi vào trong bể khi tiến hành lau chùi, sửa chữa bên trong bể, lỗ người chui được đặt ngay tại vành thân thứ nhất của bể trụ đứng
Lỗ đo lường lấy mẫu có tác dụng thả các thiết bị đo, thiết bị lấy mẫu trong trường hợp xác định độ cao mức nhiên liệ, lỗ đo lường lấy mẫu được lắp đặt trên mái bể tru đứng+
ẩng thông hơi chỉ dùng trên các bể trụ đứng để chứa dầu nhờn và mazut, ống này có tác dụng điều hoà không gian hơi nhiên liệu của bể với áp suất khí quyển
Ông tiếp nhận cấp phát dùng để nối với đường ống công nghệ tiếp nhận cấp phát, nhưng ống này được đặt ngay ở tầng thép thứ nhất của bể thép hình trụ đứng
Van hô hấp và van an toàn
. Van hô hấp kiểu cơ khí dùng để điều hoà áp suất dư và chân không trong bể chứa
. Van hô hấp lắp kết hợp với van ngăn tia lửa
Có tác dụng điều chỉnh bởi bể chứa trong giới hạn 20 – 200mm cột nưcs và ngăn tia lửa từ bên ngoài vào trong bể chứa
Van an toàn kiểu thuỷ lực có tác dụng điều hoà áp suất dư hoặc chân không trong bể chứa khi van hô hấp không làm việc, dưới áp suất dư từ 55 – 60mm cột nước và chân không 35 – 40mm cột nước
Hộp ngăn tia lửa, được lắp trên bể chứa phía dưới van hô hấp loại không kết hợp có tác dụng ngăn chặn sự phát sinh ngọn lửa hoặc tia lửa bên trong bể chứa
Van bảo vệ có tác dụng hạn chế hao hụt mất mát nhiên liệu trong trường hợp đường ống bị vỡ hoặc khi van hai chiều chính của bể chứa bị hang hóc, van bảo vệ lắp ở đầu cuối ống tiếp nhận cấp phát quay vào phía trong bể chứa
Bộ điều khiển của van bảo vệ được lắp ở phía trên của ống tiếp nhận cấp phát có tác dụng để mở van bảo vệ, giữ cho nó ở tư thế mở và đóng van bảo vệ lại
Van xi phông có tác dụng định kỳ xả nước lắng lẫn trong bể chứa
Thiết bị đo mức nhiên liệu trong bể chứa: Với mục đích tiết kiệm thời gian đo mức nhiên liệu trong bể chứa đồng thời đảm bảo kiểm tra dễ dàng được mức nhiên liệu
Thiết bị cứu hoả phụ thuộc vào thể tích bể chứa người ta có thể lắp đặt trên bể đến 6 bình bọt cưú hoả hỗn hợp và các bình bọt cố định có tác dụng để đẩy bọt hoá học và bọt khí cơ học vào bể khi trong bể có sự cố bị cháy
Van cạnh bể
Hệ thống tiếp địa để tránh hiện tượng sét đánh vào bể thường bố trí trên mỗi bể từ 3 – 6 cột thu lôi
Hệ thống tưới mát dùng để làm mát bể khi trời nắng to nđể giảm hao hụt xăng dầu do bay hơi
Hệ thống thoát nước
II.2/ Vấn đề hao hụt, nguyên nhân và biện pháp phòng chống:
II.2.1) Tính cấp bách của vấn đề chống hao hụt xăng dầu:
Hao hụt xăng dầu do vận chuyển hay do quá trình tồn chứa sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả sản xuất kinh doanh xăng dầu và và vấn đề bảo vệ môi trường. Nếu lượng hao hụt xăng dầu trong thực tế tăng lên sẽ giảm hiệu quả của sản xuất kinh doanh kể từ khâu nguồn hàng cho đến khâu khách hàng tiêu dùng. Bởi vì hao hụt làm giảm tổng lượng hàng háo trong quá trình kinh doanh. Bện cạnh đó, sự hao hụt xằng dầu sẽ kéo theo những tác động tiêu cực đối với môi trường. Ngoài ra, những hao hụt, những hao hụt mang tính chất sự cố kĩ thuật như dò rỉ, dò chảy khỏi đường ống vận chuyển hoặc các bể chứa sẽ làm tăng khả năng hoả hoạn gây nên những thiệt hại to lớn cả về người và của.
Bởi vậy tính cấp bách và cần thiết của vấn đề chống hao hụt xăng dầu xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của quá trình kinh doanh xăng dầu, cũng như những đòi hỏi mang tính chất xã hội. Hay nói cách khác vấn đề chống hao hụt xăng dầu có mối liên hệ chặt chẽ với những vấn đề kinh tế xã hội và vấn đề bảo đảm an toàn cho quá trình kinh doanh xăng dầu nói chung.
II.2.2) Các dạng hao hụt và nguyên nhân gây ra các hao hụt đó :
Từ nơi khai thác, chế biến đến tiêu dùng dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ, đều bị hao hụt. Mức độ hao hụt nhiều hay ít phụ thuộc vào điều kiện vận chuyển, phương tiện chứa đựng và bảo quản, nhiệt độ và áp suất khí trời xung quanh.
Các nguyên nhân gây ra hao hụt thường là do bay hơi, rò rỉ, tràn vãi hoặc do lẫn lộn các sản phẩm dầu mỏ với nhau.
Các dạng hao hụt chia thành các loại:
- Hao hụt về số lượng: Do rò rỉ, tràn vãi do bơm chuyển, dính bám trong quá trình vận chuyển.
- Hao hụt về cả số lượng và chất lượng: xảy ra do bay hơi, hiện tượng này hao hụt không những về số lượng mà chất lượng cũng bị sút kém.
- Hao hụt về chất lượng: Sản phẩm dầu bị kém, mất phẩm chất trong khi số lượng vẫn còn nguyên.
a. Hao hụt về số lượng:
Dạng hao hụt này phụ thuộc vào các yếu tố:
- Trạng thái kỹ thuật của máy móc, thiết bị trong kho dầu, hệ thống ống dẫn và trạm bơm chuyển, phương tiện vận chuyển.
- Mức độ thao tác chính xác của người công nhân trong quá trình làm việc.
- Mức độ dính bám của các loại sản phẩm dầu mỏ trong phương tiện chứa đựng, vận chuyển.
* Nguyên nhân:
- Do việc bảo quản, sửa chữa các phương tiện vận chuyển, tồn chứa, bơm chuyển không đúng thời gian quy định. Cụ thể như bể, ống dẫn han rỉ, bị thủng, các mặt bít nối các ống dẫn không kín, dò chảy qua khe hở trong các máy bơm, nắp cổ xitec không kín.
- Do người công nhân thiếu tinh thần trách nhiệm gây tràn, vãi trong quá trình xuất nhập.
- Do dính bám trong các phương tiện vân chuyển chứa đựng (đặc biệt là đối với các sản phẩm có độ nhớt cao như dầu nhờn các loại).
* Biện pháp khắc phục:
- Tiến hành bảo dưỡng sửa chữa định kỳ các trang thiết bị trong kho dầu và kịp thời khắc phục khi có sự cố xảy ra.
- Chú ý tới gioăng, đệm lót kín trong các máy bơm, các mặt bít nối các ống, các thiết bị lắp ráp trên bể chứa.
- Để tránh tràn vãi chỉ chứa 95% thể tích của bể, đối với phương tiện vận chuyển như ôtô xitec, phuy chứa đến 97% thể tích.
- Không để sự cố xảy ra tại bể chứa, ống dẫn và phải nhanh chóng khắc phục dò chảy khi chúng vừa mới xuất hiện (đối với bể lớn phải có đê đắp xung quanh, có rãnh, hố gạn dầu thu hồi phần xăng dầu tràn vãi).
b. Hao hụt về số lượng và chất lượng :
Đó là những hao hụt do bay hơi xảy ra:
- " Thở lớn" tại các bể đạng nhập.
- " Thở nhỏ" tại các bể tồn chứa tĩnh
- " Thở ngược" tại các bể đang xuất
Trong xăng dầu nhẹ có một lượng lớn hỗn hợp hữu cơ dễ bay hơi. Chỉ tiêu đánh giá tính bay hơi của của xăng dầu là áp suất hơi bão hoà. áp suất hơi bão hoà càng cao thì khả ngăng bay hơi càng lớn. Do vậy tổn thất do bay hơi chủ yếu là xăng nhiên liệu, nhiên liệu diêzel và dầu hoả có áp suất hơi bão hoà lớn hơn nhiều nên tổn thất do do nguyên nhân này là thứ yếu. Lượng xăng thoát ra ngoài không khí được tính theo công thức:
X: Khối lượng xăng có trong một kg không khí, kg.
Mh: khối lượng phần tử của xăng.
Mbh: khối lưôựng phần tử của không khí .
j: độ bão hoà của xăng.
Pbh: áp suất hơi bão hoã của xăng tính ra mmHg ở 37,80c.
Khi tăng áp suất hơi bão hoã của xăng thêm một đơn vị psi thì lượng xăng bay hơi tăng lên 15-17%.
Khi tăng hệ số bão hoã j lượng xăng bay hơi tăng lên rất nhiều.
Điều đó cho thấy rằng những quy trình xuất nhập xăng dầu cần được tuân thủ nghiêm ngặt để tránh tiêu hao xăng do bay hơi. Việc xuất và ngay xăng và bể chứa là với mục đích giảm hệ số hao mòn j trong không khí mới vào bể khi xuất.
Ngoài yếu tố trên cón có ảnh hưởng từ bên ngoài gây nên các yếu tố mội trường như: bức xạ nhiệt mặt trời, nhiệt độ, nhiệt độ, tốc độ gió... gây ra tổn thất bay hơi trong khoảng trống chứa hơi trong bể, hầu như lúc nào cũng thông ra bên ngoài, đồng thời các phần cất nhẹ nhất của sản phẩm dầu cũng bị thất thoát ra ngoài khí quyển. Do đó lượng xăng thực tế giảm, lượng xăng dầu bị mất đi càng nhiều .
Sư thất thoát ở bể chứa gồm các nguyên nhân gây ra:
* Tổn thất do " Thở nhỏ ": Nếu nhiệt độ môi trường thay đổi thì dẫn đến sự thay đổi nhiệt độ bên trong bể chứa sinh ra làm tổn thất bể chứa tĩnh. Ban ngày trời nắng làm nhiệt độ tăng làm tăng thể tích hỗn hợp không khí - hơi xăng trong bể và nhiệt độ lớp xăng dầu tại bề mặt thoáng gồm toàn phần tử, nhờ tăng nồng độ hơi xăng dầu và tăng áp suất ở khoảng không trong bể , khi áp suất tăng vượt trị số giới hạn của van thở thì hỗn hợp không khí - xăng dầu thoát ra ngoài. Ngược lại ban đêm nhiệt độ trong bể giảm xuống, thể tích trong bể co lại, một phần bị ngưng tụ làm áp suất hơi trong bể giảm, khi áp suất giảm xuống quá mức chân không mà van thở cho phép thì không khí bên ngoài tràn vào. Đó là quá trình thở ra, hút vào của tổn thất " Thở nhỏ ".
Độ chứa đầy của bể cũng ảnh hưởng đến quá trình hao hụt xăng dầu
Hao hụt " Thở nhỏ " của bể 8000 m3 (tính cho một ngày)
áp suất hơI
Độ chứa đầy của bể
0.5
0.6
0.7
0.8
7psi (3.27kg/m3)
432
345
259
173
8 psi(4.3kg/m3)
568
454
341
227
9psi (5.77kg/m3)
762
609
457
305
Qua bảng trên ta thấy rằng độ chứa đầy của các bể là rất quan trọng trong việc hạn chế tổn thất do hô hấp nhỏ.
Tổn thất do " Thở lớn ": khi tiếp nhận hoặc cấp phát xăng dầu, sinh ra tổn thất " Thở lớn " lượng xăng dầu nạp vào chiếm thể tích ra nén khí, thể tích hơi xăng dầu co lại nếu áp suất hỗn hợp vượt quá áp suất giới hạn của van thở thì hỗn hợp hơi xăng dầu sẽ đi ra ngoài gây ra tỗn thất, áp suất giới hạn của van càng lớn thì sự thoát hơi hỗn hợp chậm lại hơn. Tổn thất khi cấp phát xăng dầu thấp hơn. Khi cấp phát xăng dầu thể tích chất lỏng giảm lượng không khí bên ngoài sẽ tràn vào sau khi cấp phát xăng làm tăng nồng độ hỗn hợp trong bể, khi áp suất hỗn hợp hơi vượt quá áp suất giới hạn của van thở, hỗn hợp khí chui ra ngoài gây tổn thất.
Để minh hoạ sự phụ thuộc của áp suất hơi với độ bão hoà của xăng ta xét đến bảng số liệu sau:
Hao hụt " Thở lớn " của bể 2000 m3 :
j
áp suất hơi
0.25
0.5
0.75
1
7psi
960
2200
3940
6540
8psi
1100
2640
4900
8600
9psi
1280
3120
6060
11540
Qua các vấn đề trên ta thấy những ảnh hưởng , yếu tố gây nên tổn thất bay hơi là :
- Tính bay hơi của xăng dầu là yếu tố cơ bản, nó được đặc trưng bởi áp suất hơi bão hoà.
- Nhiệt độ bên ngoài, nhiệt độ không gian bên trong trên mặt thoáng thay đổi gây ra giãn nở thể tích từ do sinh ra " Thở nhỏ ".
- Sự thay đổi thể tích trong bể chứa gây khi xuất nhập gây ra tổn thất " Thở lớn ".
Ngoài ra còn có tổn thất do xảy ra hiện tượng " Thở ngược " như sau:
ỉTrong quá trình xuất xăng dầu, khoảng trống chứa hơi trong bể tăng lên, áp suất hơi rỉêng phần của sản phẩm dầu mỏ giảm và áp suất chung trong bể cũng giảm, không khí từ ngoài sẽ vào bể chứa. Kết cục là xăng dầu bay hơi để trung hoà lượng không khí mới vào. Quá trình bay hơi đó xảy ra cho tới khi áp suất chung lớn hơn áp suất khí trời. Van thở mở, hỗn hợp không khí - hơi xăng sẽ thoát ra ngoài và gây hao hụt.
* Biện pháp giảm hao hụt do " Thở nhỏ ":
- Tồn chứa xăng dầu trong bể chứa theo đúng khả năng chứa đầy từ 95% đến 97% thể tích (để giảm khoảng trống chứa hơi).
- Dùng áp suất để giữ hơi xăng dầu (như van thở)
- Lấy mẫu và đo mức xăng dầu vào sáng sớm là lúc có cường độ bay hơi nhỏ nhất
- Giữ nhiệt độ trong bể chứa ổn định.
* Biện pháp giảm hao hụt do " Thở lớn ":
- Nhập xăng dầu vào bể chứa ở dưới mặt chất lỏng (tức là từ dưới đáy lên)
- Việc bơm chuyển trong nội bộ kho phải hạn chế đến mức tối thiểu.
- Rút ngắn thời gian nhập.
* Biện pháp giảm hao hụt " Thở ngược ":
- Tăng nhanh công suất bơm, xuất nhanh, xuất hết và nhập đầy ngay
c. Hao hụt về chất lượng :
Phần hao hụt này xảy ra do dự lẫn lộn các loại sản phẩm dầu mỏ với nhau trong quá trình bơm chuyển, bảo quản, tồn chứa và vận chuyển.
* Nguyên nhân:
- Do thiếu thận trọng và thực hiện không đúng các qui trình tiếp nhận, tồn chứa, cấp phát.
- Do bảo quản bị lẫn nước, lẫn tạp chất cơ học.
- Do loại hàng bị biến động khi phương tiện đang chứa loại này chuyển sang chứa loại khác.
- Do trong quá trình xúc rửa phương tiện, bể chứa không sạch đúng qui định.
- Do bị lẫn lộn chủng loại, ký mã hiệu
Ví dụ: Xăng lẫn Diesel có cặn cao, tạo tàn, muội trong động cơ gây mài mòn chi tiết máy. Diesel lẫn xăng làm nhiệt độ bắt cháy của Diesel giảm xuống, gây nguy hiểm đối với hiện tượng nổ trong quá trình vận chuyển và bảo quản.TC-1 lẫn xăng tạo nút hơi khi bay trên tầng cao, áp suất thấp làm ngừng việc cung cấp nhiên liệu vào động cơ...
d. Biện pháp bảo dưỡng bể và thở:
Việc bảo dưỡng bể và van thở là rất cầc thiết đối với các bể tồn chứa xăng dầu. Trên nóc có chứa van thở và lỗ lấy mẫu vì vậy nếu bể hở thì sẽ có sự thông gió gây ra tổn thất. Thường xuyên giữ độ kín và bảo dưỡng bể nhằm hạn chế sự hao hụt dầu bay hơi.
e. Các biện pháp kỹ thuật chuyên dụng để giảm bớt hao hụt:
- Tồn chứa xăng dầu dưới áp suất cao, bể chứa có cấu trúc đặc biệt, chịu áp suất cao cỡ 1000 á1200 mm cột nước. Nâng cao áp suất của bể lên 20 mm cột nước thì sẽ giảm tổn thất do hô hấp xuống 20-30 %.
- Giảm bớt hoặc bỏ hẳn khoảng trống chứa hơi, sử dụng bề mặt phao, phao mồi làm bằng chất dẻo, bi cầu rỗng.
- Tập trung hơi xăng dầu từ các bể chứa (nối thông khí hơi giữa các bể với nhau)
- Giảm biên độ dao động nhiệt của khoảng trống chứa hơi. Sự thay đổi nhiệt độ giữa ngày và đêm là nguyên nhân gây ra tổn thất do " Thở nhỏ ", do đó giảm chênh lệnh nhiệt độ là biện phấp có hiệu quả khắc phục " Thở nhỏ ". Có thể làm lớp phản xạ nhiệt, sơn trát, làm bể trong hang, chôn bể ngầm dưới đất, tưới mát bằng nước. Biện pháp làm mát bể chứa bằng cách phun tưới cho những bể nổi trên mắt đất về mùa hè có thể làm giảm 60 % tổn thất do " Thở nhỏ ".
II.3/ Vận chuyển xăng dầu:
II.3.1) Vận chuyển xăng dầu bằng đường ống ngầm:
Việc vận chuyển xăng dầu bằng đường ống phải được thực hiện theo đúng qui phạm khai thác kỹ thuật công trình đường ống chính dẫn xăng dầu do Tổng công ty xăng dầu ban hành theo quyết định số 1634/SD-QLKT ngày 12.8.1963.
Các đơn vị tham gia vào công tác giao nhận xăng dầu bằng đường ống phải chuẩn bị đầy đủ các trang thiết bị kỹ thuật cần thiết phục vụ cho công tác xuất nhập-bơm chuyển.
Phương thức giao nhận bằng đường ống thì một bên phải cử đại diện của mình đến bên kia và phải thường xuyên thông báo cho bên kia biết số lượng, chủng loại, thời gian tiến hành bơm để bên kia biết và chuẩn bị tốt điều kiện để giao nhận. Việc đo tính trước và sau khi nhận phải được thực hiện chặt chẽ theo đúng qui định đề ra. Nghiêm cấm việc tự động mở van ống không liên quan trong quá trình giao nhận xăng dầu.
Các loại hao hụt xăng dầu trong khu bể của trạm bơm chuyển bao gồm:
- Bay hơi do " Thở lớn " và " Thở nhỏ ", " Thở ngược ", do hơi thoát ra do khe hở của của mái và thành bể tại vùng khoảng trống chứa hơi trong bể chứa (các lỗ cửa trên mái bị hở, các khe hở tại vị trí khác nhau trên mái... )
- Hao hụt khi thực hiện nguyên công quản lý bể chứa (đo mức xăng dầu, lấy mẫu ...)
- Hao hụt do cọ rửa cặn dầu trong bể (súc rửa bể )
- Hao hụt khi xả nước lót.
- Rò rỉ do bể và các thiết bị của bể bị hỏng.
- Hao hụt tại các dàn đặt bơm trong trạm bơm chuyển bao gồm :
+ Rò rỉ bay hơi tại các phót van chặn trong các máy bơm và các thiết bị ở các bãi van công nghệ.
+ Hao hụt trên tuyến ống bay hơi qua các khe hở trên thiết bị khoá chặn, rò rỉ qua các phớt chặn của van, ống co giãn và phớt chặn của các thiết bị khác, dò chảy qua các khe hở và lỗ châm kim trên thành ống do ống bị rỉ và tàn vãi khi có sự cố.
II.3.2) Vận chuyển xăng dầu bằng tàu thuỷ:
Các phương tiện vận tải thuỷ tham gia vào quá trình giao nhận xăng dầu phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật của tàu, xà lan chuyên chở xăng dầu, được trang bị đầy dủ các dụng cụ như thước đo, thước thử nước, thử dầu
Phương thức giao nhận đối với tàu xà lan nội địa là giám định tại phương tiện. Số liệu đo tính tại phương tiện là số liệu pháp lý để hạch toán
Trong trường hợp sau thì phải giám định tại bể chứa: ở đầu giao và đầu nhận đều có khu bể chứa dùng để giao nhận biệt lập được và rõ ràng về lưu trình công nghệ, có barem dung tích và đã được kiểm định và được Tổng công ty khảo sát chấp nhận.
Qui trình giao nhận:
- Tiến hành chuẩn bị: Cân bằng mớm nước, chuẩn bị dụng cụ và phương tiện tiến hành lấy mẫu thử.
- Tiến hành đo tính: Đo tính sơ bộ tại phương tiện do phương tiện tự thực hiện để biết lượng hàng thực tế có trên phương tiện.
- Đo tính chính xác số liệu tồn đầu và tồn cuối của kho bể chứa để xác định lượng hàng thực nhận hoặc thực giao.
Các sản phẩm xăng dầu hao hụt trong quá trình vận chuyển bằng tầu chạy trên biển và chạy trên sông thường do các nguyên nhân sau:
- Bay hơi trong khi xuất nhập.
- Hao hụt do quá trình bơm chuyển tại bến cảng do " Thở lớn " và " Thở ngược ".
- Rò rỉ trong các thiết bị hoặc các mối nối liên kết đường ống (ống mềm) giữa các thiết bị của tàu và đầu cầu bến cảng, trong các máy bơm của tàu dầu và các trạm bơm trong kho.
- Hao hụt trong khi chuyển đổi loại sản phẩm xăng dầu vận chuyển.
- Hao hụt trong khi tháo xả nước dầu trên tầu.
- Hao hụt do bay hơi ở nhiệt độ cao và gió lùa mạnh (" Thở nhỏ " trong khi vận chuyển).
- Hao hụt do dính bám trên thành tàu (lớp cặn chết) ở tại các ngăn chứa sản phẩm dầu.
II.3.3. Vận chuyển xăng dầu bằng ôtô xitec:
Các ôtô xitec chuyên chở xăng dầu phải đảm bảo sạch khô theo đúng qui chế quản lý phẩm chất. Đặc biệt các ôtô xitec làm nhiệm vụ giao nhận như một dụng cụ đo lường phải đảm bảo theo đúng TCVN 4126-85.
Sau khi nhận hàng xong, trước khi cho ra khỏi kho, ôtô phải được kiểm tra theo trình tự sau:
- Cho xe đậu ở vị trí cân bằng để xăng dầu tách nước theo qui định, kiểm tra mức đóng, xác định khối lượng xăng dầu thực xuất.
- Kiểm tra lại mức dầu tại két dầu chạy máy, so sánh với mức trước khi vào kho nhận hàng.
Khi tiếp nhận xăng dầu từ ôtô xitec nhập vào kho phải kiểm tra, đo tính chặt chẽ lượng hàng thực nhận và qui về lít ở 15 0C đối với giao nhận nội bộ.
Giao nhận bằng ôtô xitec phải đảm bảo nhận đủ, trả đủ, bơm khô, vét sạch. Nghiêm cấm mọi hình thức cải tạo sửa đổi lại xitec một cách tuỳ tiện.
Các dạng hao hụt khi vận chuyển xăng dầu bằng ôtô xitec:
- Hao hụt dầu trong quá trình vận chuyển bằng ôtto xitéc do " Thở lớn ".
- Hao hụt trên dọc đường đi do nắp xitéc không đóng chặt, không kín.
- Hao hụt do tràn vãi trong khi xuất nhập và dính trên xitéc.
II.3.4. Vận chuyển xăng dầu bằng wagon xitec:
Các wagon xitec làm nhiệm vụ chuyên chở xăng dầu phải đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, có barem dung tích đã được kiểm định và do các cơ quan đo lường nhà nước cấp (hoặc đơn vị được uỷ quyền).
Tại nơi giao phải kiểm tra độ sạch, độ kín, các yêu cầu kỹ thuật khác và các thủ tục giấy tờ cần thiết, đo tính khối lượng xăng dầu thông qua việc đo tính dung tích và qui về nhiệt độ 15 0C. Số liệu đo tính tại phương tiện là số liệu pháp lý để hạch toán.
Xăng dầu bị hao hụt trong quá trình vận chuyển theo đường sắt do:
- Bay hơi trong khi xuất nhập vào wagon xitéc
- Bay hơi theo dọc đường vận chuyển do nắp xitéc không kín
- Rò rỉ qua các khe hở trong các thiết bị của dàn đóng xăng dầu và các máy bơm trong trạm xuất nhập,
- Tràn vãi ra ngoài xitéc trong khi xuất nhập và dọc đường vận chuyển cặn tồn không thể xả hết (gọi là cặn chết) dưới đáy xitéc hoặc do dính bám trên thành xitéc.
II.4/ An toàn cháy nổ trong các công trình xăng dầu
II.4.1. Đặc điểm nguy hiểm về cháy nổ trong công trình xăng dầu
Xăng dầu là một mặt hàng vật tư chiến lược rất quan trọng nó không thể thiếu được trong nhiều ngành như công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng... song xăng dầu lại rát nguy hiểm về cháy nổ trong điều kiện bình thường cũng như khi sản xuất, xuất nhập vận chuyển xảy ra sự cố.
Người ta phân xăng dầu ra làm hai loại:
-Loại 1: (loại dễ cháy ) gồm các loại xăng dầu có nhiệt độ bắt cháy của hơi nhỏ hơn 450C ví du xăng A76, A92.
-Loại 2: (loại cháy được) gồm các loại dàu có nhiệt độ bắt cháy của hơi lớn hơn 450C ví dụ: dầu hoả, dầu nhờn.
Khái niệm về nhiệt độ bắt cháy và nhiệt độ bùng cháy.
+ Nhiệt độ bắt cháy: Nhiệt độ bắt cháy của hơi xăng dầu là nhiệt độ thấp nhất của hơi xăng dầu đó mà khi ta đưa nguồn nhiệt từ bên ngoài vào thì hỗn hợp hơi xăng dầu sẽ bốc cháy nhưng không kéo theo sự bốc cháy của chính xăng dầu.
+ Nhiệt độ tự bốc cháy : Là nhiệt độ thấp nhất được xác địng bằng phương pháo chuẩn khi bị quá nhiệt dẫn đến nhiệt độ đó thì hỗn hợp nói trên tự bốc cháy không cần đưa ngọn lửa từ bên ngoài vào.
II.4.2) Đặc điểm nguy hiểm cháy nổ xăng dầu:
Xăng dầu là một loại chất lỏng rất nguy hiểm về cháy nổ. Sau đây là những tính chất nguy hiểm cháy nổ của xăng dầu .
Xăng dầu là một loại chất lỏng bắt hơi ở nhiệt độ thấp
Các loại xăng bắt cháy ở nhiệt độ rất thấp ví dụ như xăng A76 có nhiệt độ bắt cháy là -390C, xăng A74 có nhiệt độ bắt cháy là -370C .
Từ tính chất trên ta kết luận: ở đất nước ta trong bất kì điều kiện khí hậu nào cũng tạo nên môi trường nguy hiểm về cháy nổ.
Xăng dầu không tan trong nước và có tỷ trọng nhẹ hơn nước
Xăng dầu có tỷ trọng nhẹ hơn nước (từ 0.7-0.9) vì vậy xăng dầu có khả năng cháy lan trên mặt nước.
Hơi xăng dầu nặng hơn không khí 5.5 lần.
Hơi xăng dầu bay lên thường bay là là mặt đất tích tụ ở những chỗ trũng, kín gió kết hợp với oxy không khí tạo thành môi trường nguy hiểm cháy nổ.
Kết luận: trong xăng dầu phải thường xuyên vệ sinh công nghiệp
d. Xăng dầu khi cháy toả ra nhiệt lượng lớn
Do ảnh hưởng của bức xạ nhiệt, khi cháy một đám xăng dầu sẽ làm cho một vùng rộng lớn xung quanh bị đôtá nóng và cháy các vật xung quanh sẽ dẫn đến cháy lan và việc tiếp cận cứu chữa sẽ hết sức khó khăn
e. Xăng dầu có khả năng phát sinh tĩnh điện
Xăng dầu là một loại chất lỏng hầu như không dẫn điện, trong quá trình bơm rót xăng dầu bị xáo trộn mạnh ma sát với nhau, với thành ống... các điện tích phát sinh ra tích tụ lại khi đạt đến hiệu điện thế nhất định thì phát ra tia lửa điện.
f. Xăng dầu có khả năng tạo thành sunphua sắt.
Trong xăng dầu luôn có một hàm lượng S tồn tại dưới dạng H2S hoà tan hoặc bay hơi. Do lượng H2S này ăn mòn vào đường ống, bể làm bằng sắt và tạo thành sunphua sắt. Các sunphua sứt này tác dụng với oxy không khí tạo ra phản ứng lên tới nhiệt độ cao (có thể đạt tới 6000C ) lốn hơn nhiệt độ tự bắt cháy và gây cháy hỗn hợp.
g. Tốc độ cháy lan của xăng dầu rất nhanh.
Do đó, nếu đám cháy xăng dầu xảy ra không được dập tắt kịp thời dễ phát triển thànhnhững đám cháy lớn.
h. Xăng dầu có tính độc hại
Hơi xăng dầu rất độc đặc biệt là xăng pha chì nếu tiếp xúc không trang bị bảo hộ lao động sẽ bị ngộ độc có khi dẫn đến tử vong.
II.4.3) Nguyên tắc dậ._.p tắt đám cháy của cơ sở
-Khi có cháy xảy ra thủ trưởng đơn vị là người trực tiếp chỉ huy cứu chữa đám cháy.
-Báo động trong toàn đơn vị bằng kẻng hoặc loa truyền thanh.
-Cắt điện khu vực cháy.
-Gọi điện báo cháy cho đội chữa cháy chuyên nghiệp gần nhất hoặc báo về trung tấm chữa cháy của thành phố.
-Tổ chức cứu người bị nạn, phân tán hàng hoá.
-Tổ chức lực lượng phương tiện sẵn có kịp thời dập tắt đám cháy.
-Tổ chức lực lượng bảo vệ hàng hoá đã cứu được ra khỏi đám cháy .
-Cử người ra đón xe chữa cháy, hướng dẫn nguồn nước chữa cháy.
-Phối hợp lực lượng chuyên nghiệp cứu chữa dập tắt đám cháy.
-Triển khai thực hiện bảo vệ hiện trường tổ chức khắc phục hậu quả do cháy gây ra
II.4.4. Các loại chất chữa cháy và phương tiện chữa cháy
Các chất chữa cháy thường dùng là chất dùng để tác dụng vào đám cháy tạo ra những điều kiện nhất định và duy trì điều kiện đó trong 1 thời gian để dập tắt đám cháy đó.
a. Nước
Nước thường dùng để chữa cháy vì nó sẵn có trong thiên nhiên, giá thành rẻ và hiệu quả chữa cháy cao. Có 2 loại nước: Nước trên bề mặt trái đất và nước trong lòng đất.
-Tác dụng của nước khi chữa cháy:
+ Tác dụng làm lạnh: Khi phun nước vào đám cháy vì nước có khả năng thu nhiệt độ cao sẽ làm giảm bớt nhiệt độ đám chaý cho tới khi nhỏ hơn nhiệt độ bắt cháy của chất cháy đó.
+ Tác dụng làm loãng và làm ngạt: Một lít nước hoá hơi tạo thành 1720lít hơi nước do vậy khi ta phun nước vào đám cháy do nhiệt độ đám cháy cao, hơi nước bay lên có tác dụng làm loãng lượng ôxy xâm nhập vào vùng cháy và tạo thành màng ngăn giữa ôxy và vùng cháy.
-Ưu điểm khi dùng nước chữa cháy.
+ Nước có sẵn trong tự nhiên, giá thành rẻ, vận chuyển dễ dàng.
+ Nước có khả năng khi phun tạo thành áp suất cao phá vỡ tường rãnh ngăn tạo ra lối thoát nạn.
-Nhược điểm:
+ Không thể những đám cháy kim loại hoạt động mạnh như kiềm, kiềm thổ và đặc biệt là đất đèn.
+Không thể dùng tia nước đặc để chữa những đám cháy có nhiệt độ sôi 800C.
+ Không phun nước vào các đám cháy có mặt hàng qứy hiếm như hàng điện tử, thuốc lá...
b. Cát
Cát dùng được chữa cháy phổ biến vì dễ sử dụng, giá thành rẻ, có hiệu quả cao đối với nhiều loại đám cháy( chỉ chữa các đám cháy nhỏ).
c. Bọt chữa cháy
Bọt chữa cháy là hệ phân tán 2 pha bao gồm phần chứa khí, hơi và các chất lỏng. Tác dụng khi dùng bọt chữa cháy như sau:
+ Tác dụng làm lạnh: Khi phun bọt lên bề mặt chất cháy lỏng đo bức xạ nhiệt của đám cháy, nhiệt độ của lớp chất lỏng lượng bọt phun vào bị phá huỷ tạo thành hạt nước lắng vào chất lỏng các hạt nước này thì nhiệt độ chất lỏng làm cường độ phá huỷ giảm .
+ Tác dụng cách ly: Khi đạt tới nhiệt độ xác định bọt sẽ bao phủ lên toàn bộ bề mặt chất lỏng, bắt đầu xuất hiện sự cách ly, ngăn cản hơi chất cháy đi vào buồng cháy.
Phần III. Các phương pháp phân tích chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm xăng dầu
III.1.Thành phần cất phân đoạn.
a.ý nghĩa
Dầu mỏ và các sản phẩm dầu không thể chia ra các hydrocacbon riêng biệt, chúng có thể chia ra các phần nhỏ, gọi là phân đoạn. Trong mỗi phân đoạn gồm một hỗn hợp hydrocácbon đơn giản hơn.
Thành phần cất là một trong những chỉ tiêu quan trọng cần phải xác định đối với các sản phẩm trắng như xăng, kerosen, diezel. Theo thành phần cất phân đoạn có thể biết được các loại sản phẩm thu và khối lượng của chúng. Các phân đoạn dầu bao giờ cũng gồm rất nhiều các đơn chất khác nhau với nhiệt độ sôi thay đổi. Do vậy, đặc trưng cho tính chất bay hơi của một số phân đoạn là nhiệt độ sôi đầu (T0s đầu ) và nhiệt độ kết thúc sôi (T0s cuối ). Đối với nhiên liệu thành phần phân đoạn đặc trưng cho khả năng bay hơi trong động cơ và áp suất hơi ở những nhiệt độ và áp suất khác nhau.
Nhiên liệu cho các loại động cơ mồi lửa bằng tia lửa điện, cần phải có độ bay hơi sao cho dễ nổ máy ở nhiệt độ thấp, chóng sưởi ấm động cơ, thay đổi chế độ làm việc của động cơ, phân bố nhiên liệu trrong xilanh. Nếu nhiên liệu bay hơi kém còn có thể làm loãng dầu nhờn bôi trơn. Nhiệt độ sôi 10% không nên vượt quá 700C, nhiệt độ cất 50% có ý nghĩa quyết định tăng khả năng tăng tốc của động cơ, không nên vượt quá 1400C. Nhiệt độ cất 90% có ý nghĩa về mặt kinh tế, nếu nhiệt độ cất 90% thì xăng không bốc hơi hoàn toàn trong buống đốt. Nhiệt độ cất cuối không nên quá 2050C vì dầu nhờn sẽ bị rửa trôi trên thành xilanh gây mài mòn pistông.
Nhiên liệu cho động cơ phản lực đòi hỏi phải nặng hơn (150-2800C) để hệ thống nạp liệu làm việc ở tầng cao không tạo nút khí. Đồng thời cũng đòi hỏi khả năng bay hơi hoàn toàn và cháy hết trong buồng đốt.
Đối với động cơ diezel, thành phần phân đoạn ảnh hưởng lớn tới tiêu hao nhiên liệu, gây khói của khí thải, tạo muội than và cốc ở vòi phun...
b. Nguyên tắc và phương pháp xác định.
Quá trình chưng cất được thực hiện trong bộ chưng cất tiêu chuẩn Engler nên gọi là chưng cất Engler. Có sơ đồ mô hình như sau:
4
5
6
7
1
2
3
1.Đèn đốt
2.Bình chưng tiêu chuẩn: loại A(100ml)
3.Chụp bảo ôn
4.Nhiệt kế
5.Sinh hàn làm lạnh
6.Hộp làm lạnh
7.Bình hứng
Dùng ống lường đong 100 ml mẫu vào bình cầu đã rửa sạch, sấy khô. Lắp nhiệt kế vào cổ bình và phía trên của bầu thuỷ ngân ngang với thành dưới của nhánh cho hơi đi ra. Nối nhánh hơi đi ra với sinh hàn bằng nút cao su, sao cho ống đó lồng vào sinh hàn 25-40 mm nhưng không chạm vào thành của ống sinh hàn.
Khi chưng xăng thì hộp sinh hàn chứa đầy nước đá và dội nước để giữ nhiệt độ vào khoảng 0-50C. Khi chưng những sản phẩm nặng hơn thì làm lạnh bằng nước đá. Trong trường hợp này nhiệt độ của nước ra khỏi sinh hàn không được quá 300C. Nhiệt độ sôi đầu là nhiệt độ khi có giọt sản phẩm đầu tiên chảy từ đuôi sinh hàn ra. Nhiệt độ sôi cuối là nhiệt độ tại đó nhiệt độ tăng lên cực đại và bắt đầu tụt xuống. Tốc độ chưng cất tiến hành sao cho thu được 20-25 giọt trong 10s. Trong quá trình chưng cất dầu hoả và diezel, sau khi đạt được 95% tốc độ gia nhiệt không tăng lên. Nếu cần xác định nhiệt độ sôi cuối thì phải tiếp tục gia nhiệt cho tới khi cột thuỷ ngân ở nhiệt kế dâng lên đến mức nào đó và bắt đầu tụt xuống.
Sau khi thôi gia nhiệt 5 phút, ghi lại thể tích thành phần cất trong ống lường, phần còn lại đo trong ống lường thể tích 10ml để xác định cặn ở nhiệt độ 200C. Xác định lượng mất mát của quá trình chưng.
III.2.Độ xuyên kim
a. ý nghĩa:
Độ xuyên kim là độ lún sâu của kim chuẩn vào mẫu (bitum, mỡ) trong thời gian 5s, đơn vị đo là độ, 1 độ ứng với 0,1mm đâm xuyên. Nó đặc trưng cho độ cứng và quánh của sản phẩm.
Thành phần của bitum có ảnh hưởng lớn tới độ xuyên kim. Tăng cấu tử dầu nhờn trong bitum độ xuyên kim tăng, ngược lại giảm các cấu tử dầu nhờn và tăng asphanten và cacbon độ xuyên kim giảm.
b. Nguyên tắc và cách tiến hành.
Lấy mẫu vào cốc. Đậy nắp và ngâm cốc mẫu vào chậu nước ở nhiệt độ quy định 1h. Lấy ra dùng dao gạt phần dư trên miệng cốc, đặt cốc mẫu lên bàn đỡ của máy đo. Dùng đồng hồ bấm giây, theo dõi đúng 5s thì buông nút khởi động chuyển thanh răng cho tới chạm với trục của chóp nón. Theo vị trí của kim trên bảng chia độ ta biết được độ kim xuyên, nâng chóp nón lên khỏi cốc mỡ. Làm thí nghiệm 4 lần và lấy kết quả trung bình.
III.3. Nhiệt độ chớp cháy.
a. ý nghĩa
Nhiệt độ chớp cháy là nhiệt độ tại đó khi phân đoạn dầu mỏ được đốt nóng, hơi hydrocácbon sẽ thoát ra tạo với không khí xung quanh một hỗn hợp mà nếu đưa ngọn lửa đến gần chúng sẽ bùng cháy rồi phụt tắt như một tia chớp.
Như vậy, nhiệt độ chớp cháy có liên quan đến hàm lượng các sản phẩm nhẹ có trong phân đoạn. Nếu có càng nhiều cấu tử nhẹ, nhiệt độ chớp cháy càng thấp.
+ Phân đoạn xăng: Nhiệt độ chớp cháy không quy định, thường là độ âm.
+Phân đoạn kerosen: nhiệt độ chớp cháy: 28-600C .
+Phân đoạn diezel: Nhiệt độ chớp cháy cốc kín: 35-860C, thông thường là 600C.
+Phân đoạn dầu nhờn: nhiệt độ chớp cháy: 130-2400C .
Có hai phương pháp để đo nhiệt độ chớp cháy: cốc kín và cốc hở.
Phương pháp cốc kín bao giờ cũng cho nhiệt độ chớp cháy cao hơn so với phương pháp cốc hở. Việc xác định nhiệt độ chớp cháy có ý nghiã rất quan trọng trong việc tồn chứa và bảo quản nhiên liệu. Nếu nhiệt độ chớp cháy của nhiên liệu thấp thì khi bảo quản trong bể chứa ngoài trơì nắng nóng phải đề phòng có tia lửa điện ở gần để tránh cháy nổ.
b. Nguyên tắc xác định.
Xác định nhiệt độ chớp cháy bằng cốc kín:
Lấy mẫu vào cốc kim loại cho đến vạch mức, lắp thiết bị vào, tiến hành gia nhiệt và khuấy gián đoạn. Đến khi cách nhiệt độ chớp cháy khoảng 100 C bắt đầu châm ngòi lửa bằng cách xoay tay xoay. Nếu khi đưa mồi lửa vào có ngọn lửa mầu xanh xuất hiện thì đó là nhiệt độ chớp cháy. Nâng nhiệt độ lên 1-2 0C lại thử tiếp, nếu không thấy ngọn lửa xuất hiện thì thí nghiệm coi như là sai và phải làm lại từ đầu.
Đối với mẫu chưa biết khoảng nhiệt độ chớp cháy phải tiến hành thí nghiệm sơ bộ: Nâng nhiệt độ lên 40C/1phút và sau 40C thử lại một lần. Sau khi xác định nhiệt độ chớp cháy sơ bộ tiến hành thí nghiệm như trên.
Xác định nhiệt độ chớp cháy bằng cốc hở.
Lắp thiết bị sao cho khoảng cách giữa đáy chén cát và chén mẫu khoảng 5-8mm. Các cách luyện chén 12 mm và nhiệt kể nằm ở chính giữa. Gia nhiệt bằng bếp diện hoặc đèn hơi xăng, lúc đầu 100 C/phút ,sau đó khi còn cách nhiệt độ chớp cháy dự đoán 400C thì tăng 40 C/phút. Khi cách nhiệt độ chớp cháy 100C dùng que tẩm cồn qua ngang mặt dầu 2-3 giây, cứ quá 20C thử một lần cho tới khi xuất hiện ngọn lửa màu xanh rồi tắt ngay đó là nhiệt độ chớp cháy.
c) Chỉ tiêu của tiêu chuẩn.
-Nhiệt độ bắt cháy cốc kín của nhiên liệu phản lực theo phương pháp ASTM-D56 là 400C.
-Nhiệt độ bắt cháy cốc kín của nhiên liệu diezel theo phương pháp ASTM-D98 là 600C
III.4. Độ nhớt
a.ý nghĩa
Độ nhớt là một hằng số vật lý quan trọngđối với dầu mỏ cũng như sản phẩm của nó. Độ nhớt có ảnh hưởng lớn đến quá trình vận chuyển dầu thô và các sản phẩm của nó theo đường ống. Độ nhớt càng lớn chi phí vận chuyển tăng.
Đối với dầu nhờn độ nhớt đặc trưng cho khả năng bôi trơn. Đối với nhiên liệu độ nhớt ảnh hưởng đến quá trình bơm nhiên liêu trong hệ thống nạp liệu, quá trình bay hơi và cháy.
Độ nhớt của dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ phụ thuộc vào thành phần hóa học, nhiệt độ và áp suất.
b.Nguyên tắc xác định
ỉĐộ nhớt động học: Độ nhớt động học là tỷ số giữa độ nhớt động lực và trọng lưởng riêng của nó tính bằng Stốc. Nguyên tắc của phương pháp này là xác định thời gian chảy của chất lỏng qua ống mao quản có kích thước nhất định và xác định độ nhớt theo công thức:
V= C.t
Tiến hành: lấy mẫu vào nhớt kế, chuyển nhớt kế vào bình ổn nhiệt, dung dịch dùng để ổn nhiệt là glyxerin, điều chỉnh nhiệt độ thí nghiệm. Sau 15’ ổn nhiệt, dùng quả bóp cao su đẩy mẫu vào ống cho đến 1/3 ống phình. Dưới tác dụng của trọng lực chất lỏng sẽ chảy từ ống 1 sang ống 2. Khi chất lỏng chảy tới vạch thì bấm đồng hồ giây và khi tới vạch thứ hai thì bấm đồng hồ giây dừng lại.
Tiến hành 5 lượt để lấy kết quả trung bình
ỉĐộ nhớt biểu kiến:
Độ nhớt biểu kiến là tỷ số giữa thời gian chảy của 200ml mẫu ở nhiệt độ thí nghiệm và 200ml nước cất ở 200C qua ống nhỏ trong dụng cụ đo độ nhớt.
Tiến hành: Xác định chỉ số nước của thiết bị, chỉ số nước là thời gian chảy của 200ml nước ở 200C qua ống nhỏ trong dụng cụ đo độ nhớt.
Đổ nước cất ở 200C cho tới khi ngập các đỉnh kim. Dùng đinh vít điều chỉnh phương nằm ngang của thiết bị. Nhấc que chốt lên để tháo bớt chất lỏng cho tới khi phần bắt đầu vuốt nhỏ của 3 đinh kim nằm ở trên mặt chất lỏng. Khuấy nước trong bể chứa bằng cách xoay nắp đậy, nước trong bình ổn nhiệt bằn que khuấy, ổn nhiệt ở nhiệt độ 200C trong 5 phút. Nhấc que chốt lên và đồng thời bấm đồng hồ giây. Xác định thời gian chảy của nước khi bình hứng đạt đến vạch 200ml.
Xác định thời gian chảy của mẫu ở nhiệt độ từ 50-1000C cũng tiến hành tương tự như xác định chỉ số nước.
Tiêu chuẩn của chỉ tiêu:
Độ nhớt của nhiên liệu phản lực: max là 8,0 cSt ở –200C theo phương pháp ASTM D445.
Độ nhớt của nhiên liệu diezel bằng 1,8-5,0 cSt ở 400C theo phương pháp ASTM D445.
III.5. áp suất hơi bão hòa
a. ý nghĩa
áp suất hơi bão hoà là một tính chất lý học quan trọng của các chất lỏng dễ bay hơi. Đây chính là áp suất hơi mà tại đó hơi cân bằng với thể lỏng. áp suất hơi bão hoà Reid là áp suất tuyệt đối ở 1000F (37,80C) đặc trưng cho khả năng bay hơi của phân đoạn xăng. Đó là áp suất hơi của xăng đo được trong điều kiện của bom Reid ở 37,80C. Đại lượng này càng lớn, độ bay hơi càng cao. áp suất hơi bão hòa được xác định trong dụng cụ tiêu chuẩn gọi là bom Reid.
b. Nguyên tắc và cách tiến hành
Cho xăng vào bình 2, nối thông với bình 1 rồi cho vào bình ổn nhiệt, sau khi ổn định nhiệt ở 37,80C trong 15 phút thì mở van 5 để nối toàn bộ hệ thốngvới áp kế thuỷ ngân. Độ chên lệch h sẽ cho biết áp suất hơi bão hòa của xăng cần đo. Độ bốc hơi của xăng càng cao, độ chênh lệch h càng lớn.
III.6. So màu Sayball
Màu của sản phẩm dầu mỏ được xác định bằng phương pháp so màu dựa trên cơ sở so sánh bằng mắt thường, lượng ánh sáng truyền qua một bề dày xác định của sản phẩm với lượng ánh sáng truyền qua của một trong những dãy kính màu chuẩn.
Phương pháp so màu Saybolt ASTM D156 dùng để xác định màu của các nhiên liệu chưng cất như xăng, nhiên liệu phản lực, dầu hỏa, dầu trắng, dược phẩm. Màu Saybolt là màu của sản phẩm lỏng trong suốt được xác định theo thang đo từ –16 (tối nhất) đến –30 (sáng nhất). Chỉ số màu tương ứng với độ cao của cột mẫu mà khi nhìn xuyên qua chiều dài đó màu của mẫu trung với một trong ba kính chuẩn màu để xác định màu, hạ chiều cao của cột mẫu cho tới khi màu của mẫu hơi sáng hơn màu của kính chuẩn, mẫu có chỉ số màu ở ngay trên mức này. Tra cứu chỉ số theo bảng có sẵn trong ASTM D156.
Phươngpháp ASTM D1500 được áp dụng cho dầu nhờn, diezel và sáp dầu mỏ. Nguyên tắc của phương pháp là dùng một nguồn ánh sáng tiêu chuẩn so sánh màu của mẫu được đặt trong một ống thí nghiệm với màu của các kính chuẩn màu có giá trị từ 0,5 – 0,8. Nếu màu của mẫu ở vào giữa hai màu chuẩn thì lấy giá trị màu cao hơn, nếu mẫu có màu sáng hơn 0,5 thì áp dụng phương pháp màu Saybolt D156.
III.7. Ăn mòn tấm đồng:
Độ ăn mòn tấm đồng đánh giá khả năng ăn mòn kim loại của phân đoạn dầu.
ã Nguyên tắc:
Nạp mẫu: Ngập tấm đồng để trong ống nghịêm.
Đặt ống nghiệm mẫu: + trong bom: mẫu dễ bay hơi
+ trong rọ: mẫu khó bay hơi.
Duy trì nhiệt độ: ± 1oC và thời gian theo tiêu chuẩn sản phẩm quy định.
Lấy mẫu từ bom: phải làm nguội dưới dòng nước.
Cầm tấm đồng bằng cặp hoặc giấy lót.
Chênh lệch về trọng lượng tấm đồng trước và sau khi thí nghiệm gọi là độ ăn mòn tấm đồng.
Chỉ tiêu: ASTM D130
TCVN 2694-1995
Phần IV: Dầu mỡ bôi trơn và phụ gia.
IV.1. Vai trò của phụ gia
Phụ gia là những chất hữu cơ, cơ kim và vô cơ thâm chí là các nguyên tố được thêm vào các chất bôi trơn như : Dầu mỡ nhờn, chất lỏng chuyên dùng để nâng cao các tính chất riêng biệt cho sản phẩm cuối cùn. Thường mỗi loại phụ gia được dùng ở nồng độ từ 0,01 đến 5%. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp một số phụ gia có thể được đưa vào ở khoảng nồng độ dao động từ vài phần triệu đến trên 10%.
Phần lớn các loại đầu nhờn cần nhiều loại phụ gia để thoả mãn tất cả các yêu cầu tính năng . Trong một số trường hợp các phụ gia riêng biệt được pha thẳng vào đầu gốc. Trong nhữnh trường hợp khác, hỗn hợp các loại phụ gia được pha trộn thành phụ gia đóng gói, sau đó được đưa tiếp vào dầu. Một số phụ gia nâng cao những phẩm chất đã sản của đầu, một số khác tạo cho đầu có tính chất mới cần thiết, các loại phụ gia khác nhau có thể hỗ trợ cho nhau, gây ra hiệu ứng tương hỗ, hoặc chúng có thể dẫn đến hiệu ứng đối kháng. Trường hợp sau có thể làm giảm hiệu lực của phụ gia, tạo ra những sản phẩm phụ không tan hoặc những sản phẩm khác có hại. Những tương tác này là do hầu hết các phụ gia đều là những chất hoạt động vì vậy chúng tác dụng qua lại ngay trong phụ gia đóng gói hoặc trong dầu và tạo ra những hợp chất mới
Như vậy việc tổ hợp phụ gia đòi hỏi sự khảo sát kỹ tác dụng tương hỗ giữa các phụ gia cũng như cơ chế hoạt động cuả các phụ gia riêng và tính hoà tan của chúng. Những hiệu ứng phụ không mong muốn của phụ gia cần khắc phục và việc tổ hợp các phụ gia phải được điều chỉnh để đạt được tính năng tối ưu của phụ gia trong dầu bôi trơ. Cần nhớ rằng một lượng nhỏ chất xúc tác thêm vào trong quá trình sản xuấtphụ gai thường gây ra sự thay đổi lớn trong tác dụng tương hỗ của phụ gia. Những ‘ phụ gia của phụ gia’này được các nhà sản xuất đánh giá rất cao .
Dầu gốc ảnh hưởng đến phụ gia qua hai tính năng chính: tính hoà tan và tính tương hợp. Chẳng hạn hydrocacbon tổng hợp ít hoà tan phụ gia, nhưng chúng có tính tương hợp phụ gia rất tốt. Do đó hydrocácbon tổng hợp có thể pha loãng với dầu, tính tương hợp phụ gia phụ thuộc rất nhiều vào thành phần dầu gốc. Tính hoà tan có thể giải thích như sau: sự hình thành các chất phụ gia hoạt động bề mặt phụ thuộc vào khả năng của chúng hấp thụ trên bề mặt ở thời gian và vị trí nhất định. Dầu gốc có tính hoà tan cao có thể giữ phụ gia ở dạng hoà tan mà không cho phép chúng hấp ph. Mặt khác đầu gốc có tính hoà tan kém có thể để phụ gia bị tách trước khi nó kịp hoàn thành chức năng đã định.
Vì có khả năng cải thiện tính năng của dầu bôi trơn và chất lỏng bôi trơn nên phụ gia tạo điều kiện rất tốt cho việc cải tiến các loại xe và máy móc công nghiệp
Ngày nay, htực tế hầu hết các loại dầu và chất lỏng bôi trơn đều chứa ít nhất là một loại phụ gia, một số loại đầu như; dầu động cơ, dầu bánh răng…có chứa nhiều loại phụ gia khác nhau.
Phụ gia chủ yếu được sử dụng đảm nhiệm một chức năng nhất địn, nhưng có nhiều loại phụ gia đa chức. Những chức năng quan trọng của phụ gia là:
-Làm tăng độ bền oxy hoá
-Ngăn chặn hiệu ứng xúc tác của kim loại trong quá trình o xy hoá và ăn mòn
-Chống ăn mòn
-Chống gỉ
-Chống sự tạo cặn bám và cặn bùn giữ các tạp chất ở dạng huyền phù
-Tăng chỉ số độ nhớt
-Giảm nhiệt độ đông đặc
-Làm dầu có thể trộn lẫn với nước
-Chống tạo bọt
-Ngăn chặn sự phát triển của vi sinh vật
-Làm cho dầu có khả năng bám dính tốt
-Tăng khả năng làm kín
-Làm giảm ma sát
-Làm giảm và ngăn chặn sự mài mòn
-Chống sự kẹt nứơc
a.Phụ gia chống oxy hoá:
Giống như đối với nhiên liệu xăng, phụ gia chống oxy hoá thường dùng là dẫn xuất phenol mà nhóm OH bị cản trở không gian bởi các nhóm ankyl ở vị trí (2) và (6).
Ví dụ: Như 2,6 – diter-butin phenol
Và para-phenyladiamin có công thức chung như sau:
R1-NH-C6H4-NH-R2
Trong đó R1, R2 có thể là sec-butyl; izo-propyl; pentyl hay metyl; heptyl; 1,4-dimetyl
Các Hiankylamin cũng được sử dụng có hiệu quả cho quá trình chống oxy hoá cho dầu diezel.
Phụ thuộc vào loại dầu gốc nhưng hàm lượng thường dùng của các phụ gia này khoảng 80 ppm.
b. Phụ gia tăng chỉ số độ nhớt:
Các phụ gia này được chia làm 2 nhóm : dạng hydrocacbon và dạng este.
ỉDạng hydrocacbon có các dạng sau:
- Copolyme etylen-propylen, poly iso-butylen, copolyme styren-izopren
- copolyme styren-butadien đã hydro hoá
ỉDạng este:
- poly metacrylat polyacrylat và các copolyme của este styrenmaleic.
c.Phụ gia chống tạo gỉ
Có nhiều chất được dùng để ức chế gỉ :
- Axit ankylsuxilic.
Các amin hữu cơ
- Amin photphat
- Sunfonat của canxi và magiê
- Rượu polyhydric.
d.Phụ gia chịu điều kiện khắc nghiệt
Chúng bao gồm:
- sunfonat
- phenolat
- salixylat
- photphonat
e.Phụ gia hạ điểm đông
- Các polyme alkylmetacrylat
- Các polyme alphaolefin và các copolyme
f.Phụ gia khử hoạt tính kim loại
Do các ion kim loại không hoà tan (đặc biệt là đồng) có khả năng xúc tác cho phản ứng oxy hoá nhiên liệu diezel, tác dụng của phụ gia khử hoạt tính kim loại dựa trên hiện tượng tạo phức bền với các kim loại và làm mất khả năng xúc tác của chúng khi thêm N, N’-Dasalicylidele-1,2-propenediamin.
Với hàm lượng 5 ppm sẽ tạo thành phức vòng cùng với kim loại.
g.Phụ gia ức chế ăn mòn
Thường dùng là các amin có khối lượng phân tử cao, tác dụng chống oxy hoá và chống ăn mòn là do tính kiềm của loại hợp chất này.
ỉCác chất ức chế ăn mòn được sử dụng rộng rãi nhất trong dầu bao gồm:
Dithiophotphat kim loại, đặc biệt là kẽm .
Diankyldithiophotphat.
ỉCác anken sunfua hoá.
Benzothiazol
Terpen sunfua
k.Phụ gia chống mài mòn.
Phụ gia cực áp.
Phụ gia biến tính ma sát.
h.Phụ gia chống nhũ
Do tiếp xúc với hơi nước trong quá trình chế biến dầu , Trong các khâu vận chuyển và bảo quản mà nhiên liệu diezel bị đục do trong dầu còn lẫn nước ở dạng nhũ bởi vậy trước khi phân phối các loại nhiên liệu này, ta phải tách nước ra khỏi thành phần của nó để tránh hư hại cho máy móc. Tuy nhiên khi gặp phải nhiên liệu chứa nhiều chất thơm phải mất rất nhiều thời gian để tách nước và cần phải có thùng chứa có dung tích lớn. Quá trình tách nước có thể tăng cường khi dùng phụ gia chống nhũ, thường là các amoni bậc 4. Các phụ gia này làm giảm sức căng bề mặt giữa các giọt nước, làm cho chúng kết tụ thành các giọt lớn và do đó lắng nhanh hơn. Muối ion bậc 4 với nồng độ 5 á 50 ppm là chất khí nhũ rất tốt. Các hãng cung cấp phụ gia chống nhũ chủ yếu là parafin, nalploc và dopont. Trong dầu nhờn thì:
ỉNhững chất tạo nhũ:
- Các ankenyl suxinimit
- Các muối sunfonat
- Các axit béo và muối của axit béo
- Các este của axit béo
ỉNhững chất khử nhũ:
- Triankyl photphat
- Polyetylen glycol
- Ankylamin
- Axit cacboxylic
i.Phụ gia diệt khuẩn
Như đã nói ở trên, việc tiếp xúc giữa nước và nhiên liệu diezel không thể tránh được một vài trường hợp nước tạo thành lớp và lắng xuống đáy bồn chứa. Bề mặt tiếp xúc giữa nước và nhiên liệu diezel trong điều kiện thích hợp để làm cho một số loại vi sinh vật như: vi khuẩn, nấm men phát triển. Sự sinh sôi nảy nở của vi sinh vật tạo ra triết mạch, dẫn đến tắc ống lọc, mặt khác loại sinh vật khử sunfat gây ăn mòn sẽ tạo ra các lớp gỉ và dần dần phá huỷ thùng chứa.
Việc dùng chất diệt khuẩn sẽ ngăn chặn, hạn chế được sự lan tràn của vi sinh vật. Tuy nhiên trong chừng mực nào đó, vi sinh vật sẽ nhờn thuốc, bởi vậy ta không nên dùng lạm dụng quá mà chỉ dùng trong trường hợp đặc biệt.
Các chất có tác dụng diệt khuẩn được sử dụng cho nhiên liệu diezel như: Các dẫn xuất của fomandehit, izo-thi-zolonetriazine; N, N’-metylene; bis-(5-methyl-axazolidine); các axit của axit boric. Các chất dịch khuẩn thường được dùng trong phạm vi từ 50 á 400 ppm.
Có nhiều nhà sản xuất chất diệt khuẩn cho nhiều mục đích khác nữa, có thể kể như: U.SBOAX (BIOBOF); CECA (5301); ROHM; HAAS …
j.Phụ gia chống tĩnh điện
Khi hydrocacbon được bơm vào với vận tốc lớn gây ra sự tích điện, đến lúc nào đó nó sẽ phóng điện và bắt lửa với hơi nhiên liệu diezel. Tuy nhiên mức độ đối với xăng và dầu lửa thì không nghiêm trọng lắm bởi diezel ít bay hơi nhưng vẫn nên dùng một lượng nhỏ chất chống tĩnh điện (dưới 5 ppm) là các hợp chất chứa canxi hay Crom ở nơi được bơm với cường độ lớn (máy lọc dầu, truyền nhiệt, tiếp nhiên liệu xe tải). Nơi này có nguy cơ nguồn tĩnh điện có khả năng phóng điện.
Độ dẫn điện có thể xác định bằng phương pháp ASTM D 2624. ứng dụng cho nhiên liệu phản lực. Các nhà sản xuất chống tĩnh điện như: SHELL (ASA3) hay DUPONT (STADIS).
l.Phụ gia chống bọt
Khi bình chứa của xe được nạp nhiên liệu diezel sự tạo bọt sẽ diễn ra bởi cường độ pha trộn với khối khí lớn, điều này có ảnh hưởng lớn cho cả môi trường và người sử dụng. Khi tạo bọt và rót nhiên liệu tự động không thể hoạt động bình thường được, vì thế mặt đất, tay chân, áo quần dính đầy nhiên liệu thì phải mất nhiều thì giờ để đổ đầy, cũng làm hao hụt rất nhiều.
Hiện nay người ta đã sử dụng loại chất chống bọt có chứa Vylycol chủ yếu là POLIXILOXAN, polymetylsiloxan với nồng độ từ 5 á 10 ppm để tránh việc tạo bọt. Những chất chống bọt hiệu quả không chỉ ngăn chặn mà còn có thể phá vỡ bọt tạo thành.
m.Phụ gia thay đổi mùi
Nhiên liệu diezel thường có mùi khó chịu là do những hợp chất không no và các hợp chất chứa lưu huỳnh gây ra. Các quá trình xử lý sâu bằng hydro có thể làm nhẹ bớt chứ không thể làm mất mùi của diezel. Mùi khó chịu của diezel khi dính vào da, vào quần áo giữ một thời gian dài vì độ bay hơi của nó thấp.
Hiện nay phụ gia giảm mùi được cung cấp bởi SHELL, ESSO và DEA là hỗn hợp chất thơm. Mùi dễ chịu gồm các cấu tử dễ bay hơi và cấu tử giữ mùi lâu, phụ gia này cho nhiên liệu diezel mùi mới, tuy nhiên người ta vẫn tính đến khả năng làm mất mùi của dầu.
Phụ gia thay đổi mùi thường là các chất thơm, không độc như Vanilin hay các hợp chất Terpen và thường dùng với hàm lượng từ 30 á 100 ppm.
ỉNói tóm lại hiện nay thì việc sử dụng phụ gia tổng hợp trong việc sản xuất là chủ yếu. Vì nó có thể đáp ứng đầy đủ các tính năng cho dầu mỡ khi cần thiết theo yêu cầu chất lượng do việc điều chỉnh tỷ lệ phụ gia tổng hợp.
IV.2. Pha chế dầu nhờn thương phẩm:
Dầu nhờn thương phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ, được chế biến với một quy trình công nghiệp rất phức tạp, có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng dầu nhờn.
Từ dầu mỏ qua các công nghệ tách nước, chưng cất, tách các thành phần không mong muốn ra phân đoạn dầu nhờn … sẽ cho ta dầu gốc có các thành phần cơ bản. Sau đó dầu gốc được pha với một số phụ gia hoá học, mỗi loại đóng góp phần đặc tính riêng của mình để tạo thành sản phẩm chung hoàn chỉnh.
Quy trình pha chế này sẽ quyết định tới chất lượng của dầu nhờn, cũng là những công thức riêng quyết định đến tính cạnh tranh của sản phẩm. Trong quá trình này, dầu gốc và phụ gia được đem trộn lẫn với nhau vào một bể chứa có cánh khuấy liên tục, được gia nhiệt từ 40 á 600C trong thời gian 2 giờ. Nếu tăng nhiệt độ lên quá nhiệt độ giới hạn vào khoảng 800C sẽ làm cho phụ gia của dầu bị biến mất các đặc tính và làm cho dầu bị biến đổi mầtrongiều quan trọng hơn cả là nó sẽ làm giảm độ nhớt của dầu, tăng khả năng tạo cặn, nhựa và trong quá trình sử dụng dầu có màu sạm hơn.
ở nhiệt độ cao như vậy sẽ làm cho các mạch hydrcacbon bị bẻ gẫy, nhất là đối với các mạch parafin và mạch nhánh của naphten.
Trong quá trình này cần phải khuấy đều dầu gốc và phụ gia, nếu khuấy quá nhẹ sẽ làm phân tử dầu gốc và phụ gia khó kết hợp được với nhau, nếu khuấy mạnh quá sẽ gây hiện tượng sủi bọt trong hỗn hợp dầu, điều này sẽ làm tăng khả năng oxy hoá của dầu và làm giảm đáng kể chất lượng của dầu nhờn. Vì vậy, quá trình pha chế dầu nhờn cần phải có sự quản lý, kiểm tra nghiêm ngặt, áp dụng quản lý chất lượng vào tong khâu, tong bước và đồng bộ mới có thể sản xuất ra dầu nhờn có chất lượng cao.
IV.3. Các chỉ tiêu của dầu nhờn
IV.3.1 Các tính chất đặc trưng.
IV.3..1.1. Độ nhớt:
Độ nhớt của dầu động cơ đặc biệt quan trọng ở nhiều khía cạnh. Nó ảnh hưởng đến độ kín khít, tốn hao công ma sát, khả năng chống mài mòn, khả năng tạo cặn. Do vậy, trong các động cơ độ nhớt của dầu có tác động chính tới lượng tiêu hao nhiên liệu, khả năng tiết kiệm dầu và hạot động chung của cả động cơ.
Cũng cần phải chú ý rằng việc dầu bị ôxi hoá có thể dẫn đến hoặc làm tăng hoặc làm giảm bớt độ nhớt. Độ nhớt giảm thường là do có sự phân huỷ cơ học của phụ gia polyme tăng chỉ số độ nhớt, hoặc do dầu bị lẫn nhiên liệu. Nhiệt độ cao có thể gây ra tổn thất do bay hơi mất thành phần nhẹ hơn trong dầu gốc làm dầu đặc thêm.
IV.3.1.2. Cặn và sự phân tán - tẩy rửa.
Sự tạo cặn trong quá trình hoạt động của động cơ là một trong những yếu tố chính liên quan đến chất lượng dầu động cơ.
Trong thực tế các dầu bôi trơn trong mọi loại động cơ đốt trong hiện nay đều cần chất phân tán và tẩy rửa phù hợp để ngăn ngừa tạo cặn và duy trì hoạt động của động cơ. các phụ gia tẩy rửa có chức năng giữa cho bên trong động cơ sạch sẽ, còn các phụ gia phân tán giữa các chất cặn cứng trong cácte ở dạng keo bẩn do đó ngăn không cho chúng tạo thành vecni, son lắc (cặn ở nhiệt độ cao) hoặc cặn bùn (cặn ở nhiệt độ thấp). Ngoài ra đa số các chất tẩy rửa và một số chất phân tán còn có khả năng trung hoà các sản phẩm axit trong quá trình nhiên liệu cháyvà do dầu bị oxy hoá nhờ độ kiềm của phụ gia. Kết quả là giảm khả năng tạo cặn.
Do chưa có một phương pháp đo tuyệt đối độ tẩy rửa và độ phân tán nên thông thường để đánh giá dầu động cơ phải dựa vào kết quả phân tích trị số kiềm tổng TBN và các tính chất khác của dầu.
IV.3.1.3. Khả năng chống gỉ - ăn mòn:
Dầu động cơ phải có một số khả năng sau:
Ngăn ngừa hiện tượng gỉ và ăn mòn do nước ngưng tụ và các sản phẩm cháy nhiệt độ thấp cũng như do chế độ hoạt động không liên tục gây ra.
Chống lại sự ăn mòn do các sản phẩm axit trong quá trình cháy gây ra
Bảo vệ các ổ đỡ hợp kim đồng - chì khỏi sự ăn mòn do sản phẩm oxy hoá dầu gây ra
Trong trường hợp dầu bôi trơn động cơ xăng khả năng chống ăn mòn - nhất là ăn mòn ổ đỡ hợp kim đồng - chì và chống gỉ do nước ngưng tụ và các sản phẩm không cháy được (hoặc cháy không hết) trong xăng nguyên liệu gây ra là yêu cầu rất quan trọng. Đối với dầu bôi trơn động cơ Diezel thì yêu cầu phải có khả năng chống lại ăn mòn ổ đỡ hợp kim do các axit và các sản phẩmcháy gây ra, nhất là khi nhiên liệu chứa nhiều lưu huỳnh. Trong trường hợp này chức năng chống ăn mòn gắn liền với độ kiềm của phụ gia tẩy rửa. Phép đo độ kiềm liên quan đến trị số kiềm tổng TBN hiện đang áp dụng cho dầu động cơ, đặc biệt là dầu động cơ Diezel.
IV.3.1.4. Chỉ số độ nhớt.
Đối với dầu đơn cấp (dầu một mùa)
- Tức là dầu dùng cho động cơ ít khi phải khởi động lạnh (như ở điều kiện khí hậu Việt Nam chẳng hạn) thì ở chỉ số này không phải là tính chất quan trọng, đơn giản vì độ nhớt của loại dầu này đã rất có ý nghĩa. Tuy nhiên đối với dầu bốn mùa thì chỉ số này lại rất cần thiết; Vì nếu các yếu tố khác đều tương đương thì dầu có chỉ số độ nhớt cao hơn sẽ ít gây ra sự cản nhớt khi khởi động động cơ hơn, do đó chiều dày màng dầu dầy hơn thì làm kín và chống ăn mòn tốt, tiêu hao dầu ít ... trong một phạm vi nhiệt độ làm việc rất rộng.
IV.3.1.5. Độ bền oxy hoá.
Đặc tính này rất đáng lưu tâm vì sản phẩm do oxy hoá dầu động cơ sẽ sinh ra chất tạo cặn, tăng cường ăn mòn các ổ đỡ hợp kim - chì, làm tăng độ nhớt. Do vậy khả năng chống oxy hoá cao là một yêu cầu quan trọng đối với một động cơ tốt. Nói chung nhiệt độ làm việc của dầu càng cao thì độ bền oxy hoá càng phải lớn.
Những yếu tố khác cũng đòi hỏi độ ổn định oxy hoá là:
Lượng dầu chứa được trong cácte ít
Thời gian thay dầu lâu
Công xuất của động cơ rất cao.
IV.3.1.6. Mất mát do bay hơi:
Xu hướng bay hơi của dầu động cơ có một ý nghĩa rất quan trọng theo quan điểm mức độn tiêu hao dầu trong quá trình động cơ hoạt động. Các ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29538.doc