MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian thực tập tại Trung tâm tư vấn chính sách Nông nghiệp thuộc Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (CAP), nhờ sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong trường, các cô chú, anh chị ỏ CAP, em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã truyền đạt kiến thức cho em trong những năm qua. Đặc biệt em xin chân thành cản ơn thầy Ngô Văn Mỹ và thầy Nguyễn Hải Dương , những người đã hướng
66 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3510 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phân tích các nhân tố tác động đến sản lượng cà phê bằng mô hình kinh tế lượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dẫn và giúp đỡ em rất nhiệt tình trong thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ của các cán bộ tại Trung Trung tâm tư vấn chính sách Nông nghiệp thuộc Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn nhất là anh Đặng Kim Khôi và anh Nguyễn Nghĩa Lân để em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Toán kinh tế đã dạy dỗ và truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quý báu để góp phần quan trọng vào chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2009
Đàm Thị Thuý HằngDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CAP: Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Ipsard: Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
ICO: Tổ chức cà phê thế giới
VICOFA: Hiệp hội cà phê Việt Nam
FAO: Tổ chức nông lương thế giới.
LIFFE: thị trường cà phê London MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ ngày 07/11/2006 Việt Nam được kết nạp làm thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến nay đã được hơn 2 năm. Việc trở thành thành viên của WTO đã mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội lớn và cả những thách thức lớn. Ngành cà phê Việt Nam cũng không ngoại lệ. Nhìn lại tình hình ngành cà phê Việt Nam những năm qua chúng ta thấy rõ sự phát triển đạt tốc độ rất cao đáng ca ngợi, tự hào.
Ngành cà phê Việt Nam đã phát triển nhanh chóng trong vòng 30 năm lại đây về mở rộng diện tích, thâm canh tăng năng suất và tăng khối lượng cà phê xuất khẩu. Đến nay cà phê đã trở thành một mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ đô la Mỹ và chiếm 1 tỷ trọng khá lớn trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu của cả nước. Cây cà phê đã góp phần khai thác tiềm năng đất đai, lao động và khí hậu ở cao nguyên và miền núi, tạo nên công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu nông dân.
Trong cộng đồng cà phê quốc tế, ngành cà phê Việt Nam được đánh giá cao về tốc độ phát triển nhanh chưa từng có và vườn cà phê Việt Nam đạt năng suất cao hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, ngành cà phê nước ta đã bộc lộ không ít điểm còn chưa thực sự bền vững, và sau khi gia nhập WTO chúng ta cũng gặp nhiều thách thức phải vượt qua.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng của cây cà phê, đặc biệt là trong quá trình hội nhập của nước ta hiện nay, em đã chọn đề tài: “Phân tích các nhân tố tác động đến sản lượng cà phê bằng mô hình kinh tế lượng” nhằm đi sâu tìm hiểu rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng cà phê nước ta, từ đó tìm dùng mô hình kinh tế lượng để dự báo và đưa ra một số giải pháp.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là:
Những nhân tố ảnh hưởng đến sản lượng cà phê của cả nước từ năm 1990 đến năm 2007, sản lượng cà phê của các tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, KonTum, Lâm Đồng).
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi thời gian: từ năm 1990 đến 2007
+ Phạm vi không gian: chuyên đề phân tích số liệu về sản lượng, diện tích trồng cây cà phê, chi phí sản xuất 1 tấn cà phê, lượng mưa, dân số các tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, KonTum, Lâm Đồng) và sử dụng giá cà phê Việt Nam xuất khẩu, giá cà phê Robusta trên thị trường thế giới.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này em đã sự dụng phương pháp phân tích kinh tế kết hợp với mô hình kinh tế lượng. Phần mềm sử dụng là phần mềm Eviews.
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì chuyên đề của em gồm 4 chương chính sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về sản xuất cà phê và tình hình sản xuất, tiêu thụ cà phê thế giới.
Chương 2: Những vấn đề chủ yếu về kinh tế - tổ chức sản xuất cà phê nước ta
Chương 3: Những phân tích và dự báo về sản lượng cà phê dựa trên mô hình kinh tế lượng
Chương 4: Phương hướng,mục tiêu, giải pháp
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SẢN XUẤT CÀ PHÊ VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT TIÊU THỤ CÀ PHÊ THẾ GIỚI
1.1. Khái quát về cây cà phê và các sản phẩm cà phê
1.1.1. Khái quát về cây cà phê
1.1.1.1 Khái quát về cây cà phê
Cà phê là một thứ nước uống quen thuộc của hàng trăm triệu người trên toàn thế giới. Bên cạnh đó nó còn là mặt hàng thương mại quan trọng trên thị trường quốc tế, thứ 2 sau dầu mỏ.
Cà phê bao gồm nhiều loài cây lâu năm khác nhau (khoảng từ 25-100 loại). Tuy nhiên, không phải loài nào cũng chứa caffein trong hạt, một số loài khác xa với những cây cà phê ta thường thấy. Chỉ có hai loài cà phê có ý nghĩa kinh tế. Loài thứ nhất có tên thông thường trong tiếng Việt là cà phê chè (tên khoa học: Coffea Arabica), đại diện cho khoảng 61% các sản phẩm cà phê trên thế giới. Loài thứ hai là cà phê vối (tên khoa học: Coffea canephora hay Coffea robusta), chiếm gần 39% các sản phẩm cà phê. Ngoài ra còn có Coffea liberica và Coffea excelsa (ở Việt Nam gọi là cà phê mít) với sản lượng không đáng kể.
Coffea ArabicaLine gọi tắt là cà phê Arabica, tên Việt Nam là cà phê chè. Cà phê chè phát triển trên đất giàu khoáng chất, khí hậu ôn hòa, nhiệt độ bình quân từ 18-22oC, với độ cao trên 1000m, và lượng mưa hàng năm khoảng 1500-1800mm, mùa khô kéo dài không quá 6 tháng. Những loại cà phê Arabica nổi tiếng là: Moka, Maragogipe, CanRamon…Cà phê Arabica chứa lượng cafeine thấp, hương vị thơm ngon.
Coffea Robusta có tên Việt Nam là cà phê vối. Loại cà phê này sống ở nơi có khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới nóng ẩm với nhiệt độ trung bình 20-25oC, biên độ dao động nhiệt ngày và đêm khô quá lớn. Lượng mưa hàng năm lớn (từ 1000 đến 2500mm) sẽ tốt cho sự sinh trưởng và ra quả của cây cà phê Robusta. Cây cà phê này phát triển tốt ở độ cao khoảng 600m và có đề kháng sâu bệnh cao. Với lượng cafeine cao gấp 2 lần cà phê Arabica, nên nó thường được sử dụng trong các công thức pha trộn.
Ở Việt Nam, ngoài 2 loại cà phê có tính thương mại trên, còn có thêm một số loại cà phê khác gọi là cà phê mít, dâu da…
1.1.1.2 Các sản phẩm cà phê
Cà phê nếu phân theo chất lượng thì có:
- Cà phê Arabica dịu dạng Colombia
- Cà phê Arabica dịu khác
- Cà phê Arabica Brazil
- Cà phê Robusta.
Còn nếu phân theo các dạng chế biến thì có các loại cà phê:
- Cà phê hoà tan
- Cà phê rang
- Cà phê lỏng
- Cà phê đặc biệt
Nếu theo dạng của cà phê chúng ta các loại sau:
- Cà phê nhân
- Cà phê thóc
- Cà phê quả khô.
1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất cà phê.
1.1.2.1 Điều kiện tự nhiên
Cây cà phê có nguồn gốc mọc trong rừng châu Phi, trên cao nguyên Kaffa của Ethiopia (ở độ cao 1370-1830m). Từ đó cây cà phê được con người phát hiện và di canh đến các địa lục khác.
Ở Việt Nam, cây cà phê do các cha đạo người Pháp mang đến để trồng làm cảnh từ những năm 1857. Từ năm 1930, cây cà phê bắt đầu được trồng thành những đồn điền để khai thác nhân. Từ đó đến nay, diện tích, năng suất, sản lượng cà phê ở nước ta không ngừng tăng lên.
Cây cà phê có nhiều chủng loại, mỗi loại có nguồn gốc, đặc điểm sinh thái khác nhau. Tuy nhiên, để trồng và khai thác hiệu quả từ cây cà phê thì cần phải chú ý đến các điều kiện về tự nhiên và kỹ thuật để cây cà phê sinh trưởng và cho quả tốt nhất.
1.1.2.1.1 Đất đai
Sản xuất cà phê trong các khu vực địa lý khác nhau có thể sẽ có năng suất khác nhau. Sự khác biệt này có thể do điều kiện môi trường khác nhau giữa các vùng, như điều kiện về đất, chất dinh dưỡng, khí hậu, giống cây…
Cây cà phê không đòi hỏi khắt khe về đất, nó có thể phát triển tốt trên nhiều loại đất khác nhau như: Đất nâu đỏ, nâu vàng hoặc đất xám …. Trong đó, đất đỏ bazan cây cà phê sinh trưởng tốt, cho năng suất cao. Yêu cầu cơ bản là có tầng đất mặt sâu từ 70 cm trở lên, có thành phần cơ giới trung bình đến hơi nặng (Đất thịt nhẹ- sét).
1.1.2.1.2 Thời tiết khí hậu
Nhiệt độ
Cây cà phê vối sinh trưởng phát triển thích hợp nhất ở nhiệt độ từ 22 – 26oC. Cây cà phê ưa nóng ẩm với nhiệt độ 24-26oC là thích hợp và nhiệt độ tới thấp không dưới 7 oC. Cà phê mít thích hợp với nhiết độ 23-25 oC, nó nhạy cảm với lạnh hơn là khô. Nói chung là cây cà phê cần nhiệt độ từ 20-25oC, biên độ nhiệt là 15-30oC ngoại trừ cây cà phê vối có khả năng thích nghi ở nơi có biên độ nhiệt lớn hơn từ 5-32oC.
Lượng mưa
Cây cà phê sinh trưởng phát triển tốt ở những vùng có lượng mưa hàng năm 1.800 – 2.000 mm, có một mùa khô ngắn vào cuối và sau vụ thu hoạch để phân hóa mầm hoa.
Độ ẩm không khí thích hợp với cây cà phê là từ 70% trở lên. Độ ẩm không khí càng cao càng tốt đối với cây cà phê, đặc biệt là giai đoạn cây cà phê ra hoa. Cây cà phê (Vối) thích hợp trong điều kiện ẩm độ cao, gần như bão hòa.
Ánh sáng
Cây cà phê vối thích hợp ánh sáng trực xạ yếu, do đó cần trồng cây che bóng để điều hòa ánh sáng cho vườn cây cà phê hợp lý đặc biệt là giai đoạn kiết thiết cơ bản.
Gió
Gió nóng, lạnh hay gió mạnh đều gây ảnh hưởng cho sinh trưởng phát triển cây cà phê. Khi lập vườn cần trồng cây chắn gió phù hợp cho vườn cà phê. Tốc độ gió thích hợp là 2-3met/giây trong lô trồng.
Tóm lại: Cây cà phê có những yêu cầu sinh thái riêng, đòi hỏi điều kiện về đất đai và thời tiết khí hậu thích hợp. Khi đáp ứng được những yêu cầu này cây cà phê sẽ sinh trưởng và cho năng suất cao, chất lượng tốt. Trên thế giới, ở Brazil và Colombia điều kiện tự nhiên rất thích hợp với cây cà phê. Nếu cây cà phê được trồng ở những nơi không đáp ứng được các điều kiện trên thì cần phải khắc phục bằng các biện pháp kỹ thuật như: tưới nước, trồng cây che bóng…Tuy nhiên thiên nhiên thường diễn biến rất phức tạp. Thiên tai như sương muối, gió nóng…cùng với sâu bệnh ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất cà phê. Lịch sử của ngành cà phê cho thấy chính thiên tai đã gây cho ngành bao thăng trầm và biến động mạnh về giá cả.
1.1.2.2 Nhân tố kỹ thuật sản xuất cà phê
Không chỉ những điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến cây cà phê mà cây cà phê muốn cho năng suất, chất lượng cao rất cần những người lao động có chuyên môn, kỹ thuật. Hiện nay, hàng loại những tiến bộ kỹ thuật mới đã được nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất cà phê. Những tiến bộ kỹ thuật chủ yếu về các vấn đề sau:
+ Lai tạo giống: các nhà khoa học đã cố gắng tạo ra các giống cây có năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống chịu tốt với điều kiện môi trường và thích ứng được điều kiện ngoại cảnh trên diện rộng.
+ Chất hóa học, thành tựu trong phòng trừ sâu bệnh cũng như cỏ dại.
+ Áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong cơ giới hóa, điện khí hóa…trong trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản sản phẩm cà phê.
Những biện pháp kỹ thuật mới có ý nghĩa rất lớn với ngành cà phê. Cây cà phê không những cho sản phẩm có năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, mà còn hạn chế được những tác hại, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh. Chính những tiến bộ kỹ thuật này đã hợp thành nhóm các nhân tố kỹ thuật sản xuất mà chúng ta cần quan tâm để việc sản xuất cà phê cho hiệu quả cao nhất.
1.1.2.3 Nhân tố kinh tế - tổ chức sản xuất cà phê
Nhóm nhân tố này rất phức tạp vì nó là tổng hợp của những tác động của các vấn đề kinh tế. Nhóm các nhân tố này cũng rất quan trọng vì nó cho có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm nhóm các nhân tố tự nhiên và nhân tố kỹ thuật. Điều kiện tự nhiên dù có thuận lợi tới đâu nhưng nếu không có các biện pháp kinh tế- tổ chức sản xuất cà phê hợp lý thì hiệu quả đạt được cũng không cao. Các nhân tố này bao gồm nhiều nhân tố khác nhau như:
Thị trường, giá cả cà phê quốc tế
Quy hoạch, bố trí sản xuất cà phê
Chính sách kinh tế với sản xuất cà phê
Đầu tư xây dựng cơ bản và thâm canh
Tóm lại, khi sản xuất cà phê thì mỗi nhân tố trên đều có ảnh hưởng theo chiều hướng, mức độ khác nhau nên cần phải được chú trọng kết hợp cả ba nhóm nhân tố đó để mang lại kết quả sản xuất cao nhất.
1.1.3 Ý nghĩa của sản xuất cà phê
1.1.3.1. Sản xuất cà phê tạo ra các sản phẩm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của xã hội
Là loại đồ uống cao cấp được tiêu dùng rộng rãi trên thế giới
Cà phê là một loại cây công nghiệp, phát triển ở những nước có khí hậu nhiệt đới. Uống cà phê được coi như một lối sống văn hóa của một số dân tộc trên thế giới và mỗi quốc gia có một phong cách riêng. Với những giá trị văn hóa, cùng với giá trị kinh tế, cà phê ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân từ thành thị đến nông thôn. Nhu cầu tiêu dùng cà phê không ngừng được tăng lên cả cả về số lượng cũng như chất lượng.
Đối với các nước phát triển, cà phê thực sự là một nhu cầu thiết yếu. Lượng tiêu thụ cà phê bình quân đầu người ở các nước Tây Âu là 5kg hàng năm. Ở một số quốc gia, cà phê thực sự như là một nguồn năng lượng cho hoạt động của con người cũng như dầu mỏ đối với nền kinh tế. Nhu cầu cà phê còn lan rộng ra cả những nước có truyền thống uống trà như Nhật, Trung Quốc trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập kinh tế…
Bên cạnh đó, sản phẩm cà phê là nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp thực phẩm: bánh kẹo cà phê, rượu cà phê…
1.1.3.2. Sản xuất cà phê mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho nhiều nước
Thế giới: Xuất khẩu cà phê đã mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho nhiều nước trên thế giới. Tại 17 quốc gia trồng cà phê chính, mặt hàng này đóng góp 25% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Cà phê là một trong những mặt hàng có tính thương mại cao. Trong niên vụ 2001/2002 tỷ lệ xuất khẩu cà phê đã lên đến 75.14% sản lượng sản xuất toàn thế giới. Cà phê đã đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho các nước xuất khẩu mặt hàng này. Thu nhập từ cà phê chiểm 5% ở Brazil và 20% ở Colombia. Ở một số quốc gia Trung Mỹ cà phê cũng chiểm đến 20-30% tổng thu nhập xuất khẩu như Guatemala, Honduras, Nicoragua…
Cà phê còn là một loại nông sản quan trọng với các nước chậm phát triển ở Châu Phi vì nó tạo ra nguồn ngoại tệ chủ yếu trong những năm 1989-1992: Uganda (83,3%), Burindi (75%), Rwanda (58%) và Ethiophia (57,6%).
Một số nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới là:Brasil, Việt Nam, Colombia, Indonesia, Ấn Độ, Mexico, Ethiopia, Guatemala, Peru….Sản lượng của các nước này chiếm tới 88% sản lượng cà phê xuất khẩu của cả thế giới. Trong đó riêng sản lượng của Brazil đã chiếm tới hơn 30%. Tổng sản lượng của ba quốc gia đứng đầu là Brazil, Việt Nam và Colombia nhiều hơn tất cả các nước khác cộng lại.
Lượng cà phê thế giới xuất khẩu ước tính đạt 8,87 triệu bao trong tháng 12 năm 2008, tăng so với 7,51 triệu bao cùng kỳ năm 2007. Lượng xuất khẩu trong 3 tháng đầu niên vụ 2008/09 (từ tháng 10 đến 12/2008) đã tăng từ 21,8 triệu bao cùng kỳ niên vụ trước lên 23,1 triệu bao niên vụ này, tương đương với mức tăng 5,8 %.
Trong năm 2008, lượng cà phê Arabica xuất khẩu đạt 63,4 triệu bao, tăng so với 62,4 triệu bao năm 2007; trong khi đó ; lượng cà phê Robusta xuất khẩu chỉ đạt 33,2 triệu bao, giảm so với 34 triệu bao năm trước.
Việt Nam: Năm 2000, nước ta đã xuất khẩu 680.000 tấn cà phê, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 500 triệu USD, đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu cà phê, sau Brazil. Cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang 54 nước, trong đó các nước nhập khẩu trên 10.000 tấn cà phê là Hoa Kỳ, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ, Pháp, Ba Lan, Anh, Nhật Bản, áo, Hàn Quốc, Canada và Hà Lan.
Năm 1975, toàn quốc mới có 14.000 ha cà phê, sản lượng dưới 5.000 tấn, năng suất 4 tạ/ha. Nhưng đến năm 2000, Việt Nam đã mở rộng diện tích trồng cà phê lên 430.000 ha, năng suất bình quân trên 15 tạ/ha. Trong đó, khu vực Tây Nguyên có 230.000 ha cà phê, sản lượng 380.000 tấn/năm. Cà phê của Việt Nam có phẩm chất thơm ngon nhờ giống tốt, được trồng trên vùng cao nguyên có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng rất thích hợp.
Hiện nay, Việt Nam đã là nước xuất khẩu cà phê thứ 2 trên thế giới, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu trên một triệu tấn cà phê vối đến hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Niên vụ cà phê 2007/2008 từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 9 năm 2008 là vụ thứ 3 liên tiếp ngành cà phê lập kỷ lục vì giá trị xuất khẩu với kim ngạch 2,08 tỷ USD. Đây cũng là vụ bội thu nhất trừ trước đến nay.
1.1.3.3. Sản xuất cà phê là ngành thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm cho nhiều người, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống.
Trên thế giới hiện nay có khoảng 75 nước trồng cà phê và chủ yếu tập trung ở Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Khoảng 10 triệu lao động tham gia sản xuất cà phê. Tổng diện tích cà phê thế giới khoảng 10 triệu ha, sản lượng hàng năm trên dưới 6 triệu tấn, đem lại thu nhập cho khoảng 100 triệu người. Nếu kể cả những người trồng và người liên quan đến tiêu thụ thì trên thế giới có khoảng 20-25 triệu người sống nhờ cây cà phê.
Nghề trồng cà phê ở Việt Nam là một nguồn thu nhập cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Cà phê đã tạo được việc làm cho hơn 600.000 nông dân cà số người có cuộc sống liên quan tới cà phê là khoảng trên 1 triệu người.
1.2 Tình hình sản xuất, tiêu thụ cà phê và thị trường cà phê quốc tế
1.2.1 Tình hình sản xuất
Cà phê thuộc nhóm cây lâu năm được trồng ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Do vậy, hầu hết các nước sản xuất cà phê là các nước đang phát triển, các nước có thu nhập trung bình và thấp, tập trung chủ yếu ở Châu Phi, Châu Á và Mỹ Latinh.
Trên thế giới có 2 loại cà phê chủ yếu có giá trị kinh tế quan trọng là Arabica (cà phê chè) và Robustas (cà phê vối). Phần lớn cà phê Robustas được sản xuất ở châu Phi và châu Á, trong khi đó Arabica chủ yếu được trồng từ khu vực Trung và Nam Mỹ. Cà phê Arabica được đánh giá cao trên thị trường vì có hương vị thơm ngon và chứa ít hàm lượng caffein (từ 1 - 2%) hơn.
Trong giai đoạn từ 1990 đến 2006, sản xuất cà phê trên thế giới tăng mạnh với tốc độ trung bình 1,98%. Qua các năm, sản lượng cà phê thế giới biến động không đều, tăng giảm khá thất thường, chủ yếu là do sự tăng trưởng mạnh của cà phê Robustas với sản lượng bình quân hàng năm tăng 4,36 % trong giai đoạn 1990-2002 trong khi cà phê Arabica chỉ tăng 0,68%.
Cây cà phê khá nhạy cảm với thời tiết và khí hậu nên sản lượng phụ thuộc rất nhiều vào sự thay đổi của thời tiết, đặc biệt là khi lượng mưa giảm hoặc thời tiết đông giá bất thường. Đáng kể nhất là vụ cà phê năm 1995, sản lượng cà phê sụt giảm đáng kể do ảnh hưởng của thời tiết. Brazil là nước đứng đầu thế giới về sản lượng cà phê nên thời tiết đông giá bất thường ở Brazil năm 1994 làm cho sản lượng cà phê của nước này sụt giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản lượng cà phê trên toàn thế giới. Sau đợt đông giá năm 1994, sản lượng cà phê Brazil và thế giới năm 1995 chỉ đạt 28,19 triệu bao (mỗi bao 60kg) và 86,92 triệu bao, sản lượng cà phê thế giới giảm 8% so với năm 1994.
Đến năm 2000, sản lượng cà phê thế giới đã tăng lên 113,67 triệu bao tuy nhiên đến năm 2001 chỉ còn 107,5 triệu bao (giảm 9,5% so với năm 2000). Trong những năm tiếp theo, sản lượng cà phê khá ổn định, tăng giảm không nhiều. Đỉnh điểm trong năm 2006, sản lượng cà phê thế giới đạt 127,1 triệu bao, cao nhất từ trước đến nay. Trong năm 2007, sản lượng cà phê thế giới vẫn giữ ở mức cao, ổn định và không có thay đổi gì lớn so với năm 2006.
Brazil đứng đầu thế giới về sản lượng và diện tích cà phê. Diện tích và sản lượng cà phê tại Brazil liên tục tăng, mức tăng trung bình của sản lượng trong giai đoạn 1990 - 2006 đạt 6,9% cao hơn khá nhiều so với mức tăng trung bình của toàn thế giới. Biến động sản lượng cà phê của Brazil quyết định khá nhiều tới sự biến động sản lượng cà phê của toàn thế giới. Năm 2006, sản lượng cà phê của Brazil đạt 42,5 triệu bao, chiếm 35% tổng sản lượng cà phê thế giới. Cà phê Brazil chủ yếu là Arabica nên năng suất không cao lắm, chỉ đứng thứ 13 thế giới (FAO, 2005). Tuy nhiên đây vẫn là nơi cung cấp cà phê chủ yếu trên thị trường thế giới.
1.2.2 Tình hình tiêu thụ cà phê trên thế giới
1.2.2.1. Tiêu thụ cà phê ở các nước sản xuất.
Cây cà phê hoang dại mọc trên các tán rừng thưa và bìa rừng ở Châu Phi, Mỹ dần dần được thuần chủng, phát tán rộng trên khắp thế giới. Các nước sản xuất cà phê chỉ tiêu thụ khoảng ¼ sản lượng sản xuất cà phê thế giới. Trong các nước sản xuất cà phê thì những nước có mức tiêu thụ đáng kể là: Brazil, Colombia, Costarica.
Mức tiêu dùng cà phê ở Indonesia và Việt Nam, hai nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới, tương ứng là 0,5 và 0,37 kg trong khi mức tiêu dùng cà phê bình quân đầu người trên thế giới năm 1998 là 4,63 kg/người trong đó Mỹ là 4,14 kg/người, EU là 5,52 kg/người, Nhật là 3,92 kg/người, Brazil là 4,58 kg/người.
Năm 2008, tình hình kinh tế toàn thế giới khủng hoảng. Ở những quốc gia sản xuất cà phê, thị trường chiếm hơn 26% lượng tiêu thụ cà phê thế giới, giá cà phê nội địa giảm đã kích thích tiêu dùng trong nước. Nói chung, tiêu thụ cà phê tại các thị trường này không có xu hướng chịu bất cứ một ảnh hưởng tiêu cực nào. Những khu vực tiêu thụ cà phê lớn còn lại bao gồm các thị trường ở Đông Âu và châu Á, nhiều thông tin gần đây cho thấy tiêu thụ cà phê tại đây sẽ trở lại bình ổn. Ngoài ra, Trung Quốc vẫn là một thị trường tiêu thụ cà phê nhỏ, nên sẽ không có bất cứ ảnh hưởng rõ rệt nào đến tình hình thương mại cà phê thế giới.
Cùng với sự gia tăng của tổng lượng cà phê tiêu dùng trên thế giới, tiêu dùng cà phê các nước cũng tăng theo. Điều này chứng tỏ, tỷ lệ tiêu dùng cà phê tại các nước trồng cà phê đã tăng lên. Trước đây, cà phê được tiêu thụ chủ yếu ở các nước có nền kinh tế phát triển cao với mức thu nhập bình quân đầu người lớn. Khi nền kinh tế phát triển nhất là tại các nước đang phát triển thì thói quen dùng cà phê cũng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên xét trong tổng sản lượng cà phê tiêu dùng trên thế giới, thì lượng cà phê tiêu dùng nội địa tuy đã tăng nhưng vẫn còn khá thấp.
Năm 1990, sản lượng cà phê tiêu dùng nội địa là 19,66 triệu bao, chiếm 20,6 tổng lượng cà phê tiêu dùng trên thế giới, năm 2000 con số này đã tăng tương ứng là 28,5 triệu bao và 25,6%, đến năm 2006 con số này đã tăng lên 31,4 triệu bao và 25,7%. Tỷ lệ tăng trung bình trong giai đoạn này đạt xấp xỉ 3%/năm.
Mức tiêu thụ cà phê tăng lên chủ yếu do mức tiêu thụ cà phê của các nước mà trước đây tiêu thụ ít cà phê tăng theo thời gian, từ 6635 nghìn bao năm 1996 tới 8434 nghìn bao năm 2000. Những nước có mức tiêu thụ cà phê tăng nhiều nhất bao gồm Brazil, Trung Quốc (từ 50 nghìn bao năm 1997 lên tới 105 nghìn bao năm 2000), Hàn Quốc (từ 926 nghìn bao năm 1997 lên tới 1258 nghìn bao năm 2001) và Đài Loan (tăng từ 216 nghìn bao lên tới 417 nghìn bao trong cùng thời kỳ). Điều này chứng tỏ mức tiêu thụ cà phê có thể tăng lên cùng với mức sống cao hơn ở các nước đang phát triển và sự thay đổi sở thích về đồ uống.
1.2.2.2. Tình hình xuất nhập khẩu cà phê trên thế giới
Trong số các nước xuất khẩu cà phê thì Brazil là nước xuất khẩu nhiều nhất thế giới, tăng với tốc độ trung bình 15,43%/năm (giai đoạn 1990 - 2006) và chiếm khoảng gần 40% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của thế giới (nguồn ICO). Năm 2006, sản lượng cà phê xuất khẩu của Brazil đạt 28,5 triệu tấn, chủ yếu là cà phê Arabica. Đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu cà phê là Việt Nam. Việt Nam là nước có tốc độ phát triển cà phê nhanh nhất thế giới.
Trong giai đoạn 1990 - 2006, sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh và tăng liên tục với tốc độ tăng trung bình gần 20%/năm. Tuy nhiên, cà phê của Việt Nam chủ yếu là cà phê Robustas nên giá trị xuất khẩu không cao lắm. Ngoài Brazil và Việt Nam thì một số quốc gia có sản lượng cà phê xuất khẩu khá lớn khác là Colombia, Indonesia, Peru, Ấn Độ Các .....
Trong khi đó các nước phát triển như Mỹ, các nước EU, Nhật Bản và một số nước công nghiệp mới như Singaporo và Malayxia là những nước nhập khẩu chủ yếu. Trong đó Mỹ là nước có lượng cà phê tiêu thụ nhiều nhất, là thị trường tiềm năng lớn mà bất kỳ nhà kinh doanh xuất khẩu cà phê nào cũng muốn được làm đối tác chính. Còn EU và Nhật Bản có khối lượng nhập khẩu và tiêu thụ lớn, nhưng hình thức chủ yếu vẫn tập trung vào việc mua lại, rang xay và chế biến thành sản phẩm rồi bán cho các thị trường tiêu thụ khác. Đặc biệt là EU, Mỹ và Nhật Bản với mức tiêu thụ trung bình chiếm 45%, 24% và 8% lượng tiêu thụ trên toàn thế giới. Mặc dù tổng lượng cà phê tiêu dùng trên thế giới liên tục tăng nhưng lượng cà phê tiêu dùng tại các khu vực tiêu dùng nhiều cà phê nhất hầu như tăng rất ít trong thời gian qua, thậm chí ở Tây Âu còn giảm nhẹ.
Cà phê chủ yếu được tiêu thụ ở những nước phát triển, có thu nhập bình quân đầu người cao, nơi có điều kiện khí hậu không phù hợp cho sự phát triển của cây cà phê. Như vậy, các trao đổi thương mại trên thế giới chủ yếu là giữa các nước sản xuất cà phê có thu nhập trung bình hoặc thấp với các nước có công nghệ chế biến cà phê phát triển với các nước tiêu thụ cà phê có thu nhập cao (FAO, 2001:19).
Cà phê trên thế giới được buôn bán theo 2 hình thức: Mua bán trực tiếp và gián tiếp qua các sở giao dịch. Trong đó Việt Nam thường xuất khẩu theo hình thức trực tiếp, tính giá FOB cho sản phẩm cà phê. Hình thức buôn bán gián tiếp thường diễn ra nhộn nhịp và mang tính chất đầu cơ. Hai thị trường nhộn nhịp nhất là New York với cà phê chè và London với cà phê vối. Hoạt động buôn bán cà phê trên thị trường thế giới hiện nay bị thao túng bới một số công ty lớn. Đó là những công ty có khả năng tài chính lớn, có được mối hàng lớn và đáng tin cậy. Đây cũng là một trong những đối tượng gây ảnh hưởng của thị trường cà phê thế giới.
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ
KINH TẾ - TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÀ PHÊ NƯỚC TA.
2.1 Những thuận lợi và khó khăn
2.1.1 Những thuận lợi
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Đất đai: Việt Nam trồng hai loại cà phê chính: cà phê vối và cà phê chè, trong đó, diện tích cà phê vối chiếm tới hơn 95% tổng diện tích gieo trồng. Cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên. Diện tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, tại các tỉnh như Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối. Diện tích cà phê của khu vực này chiếm tới 72% tổng diện tích cả nước và sản lượng cũng chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cả nước. Cà phê chè trồng chủ yếu ở vùng Nam Trung Bộ, vùng núi phía Bắc do các vùng này ở vùng cao hơn, nhưng với diện tích và sản lượng rất khiêm tốn, tập trung nhiều ở các tỉnh Quảng Trị, Sơn La và Điện Biên.
Khí hậu thời tiết: Việt Nam được chia thành hai vùng khí hậu phù hợp cho sản xuất cà phê. Vùng Tây Nguyên và tỉnh Đồng Nai có đất đỏ bazan, rất thuận lợi để trồng cà phê vối và các tỉnh miền Bắc, với độ cao phù hợp (khoảng 6-800 m) phù hợp với cà phê chè.
Trước hết chúng ta có thể khẳng định một điểm là cà phê Robusta Việt Nam có chất lượng cao, thậm chí cao hơn hẳn cà phê cùng chủng loại của nhiều nước khác. Đó là vì cà phê Robusta vốn có nguồn gốc phát sinh từ những vùng thấp nóng ẩm ở châu Phi, nay được đưa lên trồng ở các cao nguyên có độ cao trên mặt biển như vậy, biên độ nhiệt độ ngày đêm lớn nên chất lượng sản phẩm cà phê ở đây hơn hẳn ở các vùng thấp. Khi người ta ca ngợi cà phê vối Buôn Ma Thuột chính là vì nó được trồng ở độ cao như thế cộng với đất badan có độ màu mỡ lý tưởng cho cây cà phê.
2.1.1.2 Điều kiện kinh tế- xã hội
- Lực lượng lao động dồi dào
- Đảng quan tâm ngành
- Nước ta đã trồng cà phê từ hơn một thế kỷ qua
Hiện nay Việt Nam có gần 490 nghìn ha cà phê được phân bố chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên (hơn 90% diện tích) là một điều kiện thuận lợi cho chúng ta nguồn cung cà phê cho hoạt động xuất khẩu.
Khi gia nhập WTO Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển. Được hưởng sự bình đẳng như các nước xuất khẩu khác, các rào cản xuất khẩu được gỡ bỏ, cơ hội thị trường mở rộng, điều kiện tiếp nhận các công nghệ sản xuất mới. Tuy nhiên các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê của nước ta cũng cần nhận thức rõ những khó khăn.
Khả năng cạnh tranh cao của cà phê Việt Nam trong quá khứ chủ yếu dựa trên bốn yếu tố sau:
Thứ nhất là giá lao động rẻ, lực lượng lao động dồi dào.
Thứ hai là năng suất cao dựa trên sử dụng nhiều nước tưới và phân bón. Mặc dù là nước mới tham gia thị trường cà phê quốc tế nhưng Việt Nam đã quản lý và đạt được mức năng suất cao bằng phương pháp canh tác thâm canh mạnh với việc ứng dụng cao các loại đầu vào, phân bón và nước tưới. Việt Nam có năng suất bình quân 1,30 tấn/ha, nhiều nơi đạt từ 4 đến 5 tấn/ha so sánh với 0,30-0,35 tấn/ha ở các nước Châu Phi và Indonesia. Brazil và Ấn Độ đạt khoảng 0,8 tấn/ha. Chi phí lao động là một trong những nước trồng cà phê thấp nhất và cùng với năng suất cao đã góp phần làm giá thành trên một đơn vị sản phẩm ở Việt Nam thấp.
Thứ ba là lợi thế về khoảng cách vận chuyển. Do Việt Nam có chiều ngang hẹp nên vùng trồng cà phê gần với khu vực chế biến, điều này làm giảm đáng kể vào chi phí sản xuất của sản phẩm. Hơn nữa, các vùng sản xuất chính cà phê Việt Nam đều gần các cảng xuất khẩu. Việt nam nằm ở vị trí thuận lợi cho cả giao thông đường thủy lẫn đường hàng không nên việc vận chuyển sản phẩm xuất khẩu sang các nước cũng được dễ dàng. Hàng hóa của ta xuất khẩu chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển mà ta lại có bờ biển dài với nhiều cảng nước sâu cho thuyền lớn lưu thông được. Khi vận chuyển hàng xuất khẩu của ta không phải đi qua nhiều lãnh hải các nước khác, điều này có thuận lợi lớn.
Thứ tư là hệ thống chính sách của nhà nước đối với ngành cà phê thông thoáng, tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các tác nhân tham gia sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê.
So sánh với các nước khác, nông dân Việt Nam là người nhận được tỷ lệ mức giá cao nhất nếu so với mức giá xuất khẩu. Mức giá tại hộ năm 2002 chiếm tới 94% so với giá xuất khẩu ở Việt Nam. Trong khi đó, tỷ lệ này ở các nước xuất khẩu cà phê khác thấp hơn rất nhiêu như Indonesia (83%), ấn Độ (83%), Uganda (75%) và Ivory (63%).
Nhờ lợi thế từ 4 yếu tố trên nên cà phê Việt Nam đã nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường cà phê thế giới, đặc biệt là các nước Châu Phi. Trong khảng 5 năm lại đây có bước tiến vượt bậc trong sản xuất, trở thành nước đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê vối.
2.1.2. Khó khăn
2.1.2.1 Điều kiện tự nhiên
Cũng như nhiều loại cây trồng khác thì việc sản xuất cà phê cũng phụ thuộc lớn vào điều kiện thời tiết, gặp năm thời tiết không thuận lợi thì không thể đủ lượng cà phê xuất khẩu, khó duy trì mức sản lượng xuất khẩu ổn định. Tuy nhiên năm được mùa thì cà phê xuất khẩu lại phải đối mặt với một thực trạng là giá cà phê xuống thấp do cung lớn hơn cầu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22166.doc