Trường đại học kinh tế quốc dân
Khoa khoa học quản lý
Đề án kinh tế chính trị
Đề tài: Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Quốc Hùng
Sinh viên thực hiện : Vũ Thành Đô
Lớp : Quản lý kinh tế B
Khoá : 41
Hà Nội: 11/2002
lời nói đầu
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng và Nhà nước ta chủ chương nhất quán và lâu dài phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1724 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một tất yếu khách quan nó không chỉ là do sự đa dạng hoá các các hình thức sở hữu mà có do vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế. Để cho các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển bình đẳng và cạnh tranh nhau chúng ta hướng các thành phần kinh tế này vận hành theo cơ chế thị trường, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế và chịu sự điều tiết của Nhà nước.
Cơ chế thị trường có vai trò rât lớn đối với việc phát triển kinh tế nó phản ánh sự chi phối của các quy luật kinh tế. Cơ chế thị trường đòi hỏi mọi thành phần kinh tế phải hoạt động có hiệu quả trong quá trình tồn tại, đòi hỏi phải cạnh tranh nhau để đi lên. Bên cạnh những tác động rất tích cực thì cơ chế thị trường cũng tạo ra nhiều tiêu cực cho xã hội như sự phân chia giàu nghèo ngày càng gia tăng, tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng theo chu kỳ … Đồng thời việc chạy theo lợi nhuận quá mức làm ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên .Do đó việc xây dựng một nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất phù hợp với đất nước ta, nó vừa đáp ứng được xu thế phát triển tất yếu của nhân loại vừa thể hiện được vai trò của Nhà nước là khắc phục được hạn chế của cơ chế thị trường đem lại đồng thời tạo cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả.Để có thêm kiến thức về kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội em đã lựa chọn đề tài:
“Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam”
Nội dung bài viết gồm ba mục
Sự cần thiết khách quan phải hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các giải pháp hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở việt nam
Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Quốc Hùng và các thầy, cô trong bộ môn kinh tế chính trị đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.Do thời gian còn hạn chế và việc thu thập tài liệu chưa được đầy đủ nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của thầy giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. Nội dung
Sự cần thiết khách quan phải hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Đặc điểm cơ bản của nền kinh tế chỉ huy.
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm.
Các cơ quan hành chính – kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình.
Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn.
Từ những đặc điểm trên dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ các bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền.
Với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế chỉ huy đã tích góp những xu thế tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội. Vấn đề đặt ra la phải đổi mới cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định “ Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”.
Cơ chế thị trường không chỉ tồn tại dưới chủ nghĩa tư bản mà tồn tại dưới nhiều phương thức sản xuất khác nhau cho nên CHXH vẫn có thể áp dụng nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường không chỉ là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản(CNTB), mà là thành quả chung của văn minh nhân loại tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất xă hội khác nhau. Đúng như Đảng ta đã xác định:” Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đãđược xây dựng”. Bên cạnh những phạm trù kinh tế và quy luật kinh tế chung, KTTT còn có những đặc điểm riêng gắn với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, gắn với bản chất của chế độ xã hội trong đó nó tồn tại qua mỗi giai đoạn lịch sử. Đúng là KTTT đã đạt tới đỉnh cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng không vì thế mà đồng nhất KTTT là kinh tế tư bản chủ nghĩa hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa xét về bản chất, KTTT không chỉ hoàn toàn là tiêu cực, như người ta lầm tưởng trước đây mà có những yếu tố tiến bộ và tích cực không thể phủ nhận. KTTT tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất, làm thay đổi cung cầu theo hướng có lợi cho sản xuất và cải thiện đời sống. Cần ý thức rằng chỉ có KTTT tư bản chủ nghĩa và KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa mới khác nhau về mục đich, chế độ sở hữu, tính chất phân phối và tính chất của nhà nước trong quản lý KTTT. Nếu giai cấp tư bản có thể lợi dung được KTTT để phát triển CNTB, thì không có lý do gì lại cho rằng giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng Sản không thể vận dụng được KTTT .Do đó phát triển KTTT định hướng XHCN, thực chất là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa phát huy được nhân tố động lực thúc đẩy sản xuất xã hội, vừa phát huy được nhân tố mở đường, hướng dẫn và chế định sự vận động của mục tiêu kinh tế theo mục tiêu XHCH đã chọn.
Điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội, gắn liền với hai điều kiện tiền đề: Sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.ở nước ta, những điều kiện chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn, nên sự tồn tại của kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan.
Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. Bên cạnh đó những ngành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả trên thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được khôi phục và phát triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, địa phương, phân công lao động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó được phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn sản phẩm lao động đưa ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế.
Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tự nhiên ở vùng núi. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong vùng cùng một thành phần kinh tế chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi sản phẩm lao động tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế giữa các tổ chức kinh tế trong các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau.
Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan thu hẹp hay cản trở quá trình tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những hình thức khác nhau ( sớm xoá bỏ hay cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế, quản lý bằng kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp…) sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Do đó, chúng ta cần chủ động có những chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đúng mức, đúng hướng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xã hội thì tất yếu có người đáp ứng nhu cầu đó và ai trong cuộc cạnh tranh vươn tới thoả mãn tốt hơn và tốt nhất nhu cầu của xã hội thì người đó sẽ tồn tại và phát triển.
Ưu điểm của kinh tế hàng hoá.
Thúc đẩy quá trình xã hội hóa xản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong kinh tế hàng hoá sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng… Kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, gắn sản xuất với thị trường.
Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh tế trong nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo những điều kiện cần thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao thực hiện dưới hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nước ta đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với những đặc điểm sau;
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường.
Đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nước ta thiếu cái “cổt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng của nền kinh tế được biểu hiện ở những mặt cơ bản như: cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém; trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiêp lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh; sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang nặng tính bảo thủ, trì trệ; phân công lao động chưa sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát triển, thị trường còn sơ khai; thu nhập của dân cư quá thấp, sức mua thấp, nhu cầu tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi; thiếu một đội ngũ những người quản lý sản xuất, kinh doanh có khả năng tham gia cạnh tranh trong và ngoài nước.
Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đã làm xơ cứng các mối liên hệ kinh tế, điều đó biểu hiện:
Từ năm 1986 trở về trước dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận quan hệ hàng hoá – tiền tệ, nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần – thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể.
Với tên gọi “ kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa”, về thực chất là kinh tế chỉ huy, đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mềm dẻo như giá trị, giá cả, lợi nhuận… bị hình thức hoá đến cao độ: không phản ánh các quy luật của thị trường, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa.
Quy luật trung tâm chi phối sự vận động của kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, đã biến nền kinh tế thực tế là “ Kinh tế chỉ huy”.Mục đích hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận như vốn có của nền kinh tế hàng hoá mà là tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh được phát ra từ một trung tâm.
Các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chí chủ quan bị “ thu hẹp phạm vi hoạt động”, xem như “ không hợp pháp” hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ yếu trong sự vận động của nền kinh tế. Các loại hàng hoá đặc biệt hoặc phi hàng hoá, các thị trường có tổ chức, có kế hoạch chi phối các lĩnh vực quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất xã hội. Đối lập với kinh tế có kế hoạch đó được coi kinh tế thị trường tự do bất hợp pháp.
Những quan niệm “ ấu trĩ” trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không tuân theo “ quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong kinh tế nói riêng. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải “ chấn hưng” nó phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với các xu thế thời đại ngày nay là chuyển sang cơ chế thị trường.
Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta lấy giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản Nhà nước.Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và xâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc “ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước về kinh tế xã hội”. Để hạn chế và khắc phục những hạn chế của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế – xã hội bằng luật phap, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác.
Trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta, kinh tế Nhà nước là nhân tố quy định và bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Kinh tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế cho xã hội mới, nó là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Xây dựng hệ thống kinh tế Nhà nước mạnh chính là tăng cường thực lực kinh tế của Nhà nước, để làm chỗ dựa, bảo đảm ổn định kinh tế và định hướng cho thị trường XHCN. Buông lỏng khu vực kinh tế nhà nước là buông lỏng định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường.
Kinh tế Nhà nước là nơi thể hiện đầy đủ nhất tính ưu việt của CNXH: đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tất cả phục vụ con người trên tầm vĩ mô. Nhà nước vừa là đại biểu cho toàn bộ nền kinh tế, vừa là chủ thể của kinh tế Nhà nước. Do đó nhà nước phải vừa tôn trọng tính bình đẳng của các chủ thể kinh tế, vừa phải có ý thức đầy đủ đến việc phát triển kinh tế nhà nước để nó thực sự có vai trò chủ đạo. Để giữ được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm giữ những khâu, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước phải là kiểu mẫu về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH. Kinh tế Nhà nước phải có giá trị tổng sản lượng hàng hoá ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân sách nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của mọi người lao động…
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Cơ chế thị trường là gì? Mọi nền kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội. Việc sản xuất ra hàng hoá gì, việc sản xuất theo phương pháp nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tố nhu cầu của xã hội. Lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó do các cơ quan của Nhà nước quyết định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cuả nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội.
Như vậy, có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và giá cả thị trường.
Vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng. Vai trò đó được thực hiên qua các chức năng kinh tế của nó. Có thể nêu nên các chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường dưới đây.
Một là, đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức năng này vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lanh pháp luật cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra bằng cách đặt ra những điêu luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo.
Hai là, điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là giao động lên xuống của GDP hoặc GNP, kèm theo các giao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm phát.
Nhà nước cần cố gắng làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng chi tiêu của dân chúng, nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ương là người kiểm soát khối lượng tiền tệ có thể áp dụng các biện pháp “nới lỏng tiền tệ” trong cơn suy thoái; Khi lạm phát cao, ngân hàng Trung ương áp dụng các biện pháp “thắt chặt tiền tệ” nhằm giảm lạm phát. Như vậy, thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ Nhà nước cố gắng ổn định nền kinh tế duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.
Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của cả hoạt động thị trường là những tác động, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất hoá chất, tống chất thải ra hồ gây ô nhiễm nguồn nước địa phương, làm chết cá, Chính phủ có thể buộc các doanh nghiệp phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm, mà doanh nghiệp đã gây ra. Sự can thiệp của Chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường là sự xuất hiện của độc quyền. Các tổ chực độc quyền có thể không tăng thậm chí giảm số lượng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thường giảm bới cạnh tranh. Vì vậy, Nhà nước có một nhiệm vụ rất cơ bản bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường.
Bốn là, đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải sản xuất ra hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Nhưng cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhâp cao.
Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực sự thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu KTTT. Trong đó, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo.
Phân phối theo lao động
Tính tất yếu của việc phân phối theo lao động.
Đối với nước ta, trong bước quá độ hiện nay, hình thức phân phối theo lao động là hình thức phân phối că bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua việc lấy lao động làm thước đo. Đối với thành phần này phân phối theo lao động là một sự tất yếu, bởi nhiều nguyên nhân:
Một là: Do dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Quyền làm chủ của người lao động về mặt kinh tế được xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người. Chính vì những lý do đó mà phân phối theo lao động là phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế này.
Hai là: Hiện tại ở nước ta vẫn còn có sự khác biệt giữa các loại lao động như lao động trí óc, lao động chân tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn… Do vậy mà cùng một đơn vị thời gian, những lao động khác nhau đưa lại những kết quả ít nhiều, tốt xấu khác nhau. Do đó, cần phải dựa vào kết quả lao động để phân phối. Mặt khác, trong xã hội nước ta vẫn còn có những người “muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác”, trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở trên.
Ba là: Trong điều kiện của nước ta hiện nay, nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu, nghèo nàn chưa đạt đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Trong điều kiện lượng sản phẩm xã hội có hạn, để phân phối công bằng cần phải dựa vào kết quả lao động của từng người. Hơn nữa lao động chưa trở thành nhu cầu tự nhiên của con người, nó còn là “ phương kế sinh nhai” của mỗi người. Trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với điều kiện nước ta.
Tóm lại, phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp với trạng thái sản xuất và trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy thực hiện phân phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản xuất ngày càng phát triển vì nó là hình thức phân phối cơ bản và chủ yếu ở nước ta.
Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác.
Nền kinh tế nước ta đang trong bước quá độ định hướng nên chủ nghĩa xã hội. Với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức sản suất kinh doanh khác.
Một đặc điểm khá rõ nét trong quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn, quá trình sản xuất, tich tụ và tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn sản xuất hiện nay vẫn còn nằm rải rác, phân tán trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ, trong đó có cả dưới dạng tư liệu sản xuất, vàng bạc, ngoại hối và tiền mặt v.v..
Để có thể sử dụng được nguồn vốn đó cho sản xuất xã hội chúng ta không thể sử dụng các chính sách áp đặt như trưng thu, trưng mua hay đóng góp cổ phần một cách bình quân. Vì cả các cách làm đó đều dẫn đến kết quả là làm suy yếu lực lượng sản xuất vốn có của xã hội.
Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI) ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn như một số đơn vị quốc doanh và tập thể đã huy động vốn của dân cư dưới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp vốn cổ phần không hạn chế với mức lãi hợp lý .. Cách làm như vậy đã có tác dụng đưa được vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn hiện có. Như vậy, mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội.
Thích ứng với điều kiện cụ thể của nước ta trong bước quá độ, xét trên các mặt lợi ích kinh tế, trính trị và nhiệm vụ phát triển đất nước, cần tạo đủ điều kiện pháp lý để các thành phần kinh tế, tư nhân cá thể và tất cả mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh. Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định đó có tính chất nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh. Với quan điểm đổi mới đó, cần phải xem việc phân phối kết quả kinh doanh sản xuất theo vốn và tài sản của mỗi cá nhân đóng góp và quá trình sản xuất xã hội dưới hình thức “lợi tức” và “ lợi nhuận”, là một hình thức phân phối hợp pháp đối với những thu nhập hợp pháp đó.
Phân phối ngoài thu lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội.
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu khách quan trong quá độ hiện nay ở nước ta, vì các hình thức phân phối đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, ngoài những người có sức khoẻ đang làm việc và được trả công theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này lẽ khác, không thể tham gia vào lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này là do gia đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác, ngay mức sống của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân, mà còn dựa vào một phần các quỹ phúc lợi công cộng của Nhà nước, cuả doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác.
Với đặc điểm đó ở nước ta hiện nay ngoài phân phối theo lao động, theo tài sản và theo vốn thì xã hội còn áp dụng hình thức phân phối ngoài thu lao lao động, thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo lao động, nhưng cũng chưa phải phân phối theo nhu cầu nhu giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản mà C.Mác đã dự đoán. Đây là mô hình phân phối quá độ, nó phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội.
Hình thức phân phối này là một sự bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp nhất với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà thu lao lao động tính theo đầu người tương đôi thấp. Nó chẳng những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội.
Bằng những tác dụng to lớn của hình thức phân phối này, nó khẳng định việc xây dựng các quỹ phúc lợi xã hội là việc làm rất cần thiết và ngày càng có ý nghĩa to lớn
Kết hợp hài hoà văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá hiện đại có chọn lọc. Trong, đó lấy văn hoá dân tộc truyền thống làm gốc.
Không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu kinh tế mở, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, song phải đảm bảo độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
Kinh tế “khép kín” thường gắn với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản xuất nhỏ, với tình trạng “bế quan toả cảng” tự cung tự cấp và với nền kinh tế “chỉ huy”. Nhìn chung, đó là một nền kinh tế kém phát triển, bảo thủ, trì trệ.
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó với thị trường thế giới. Chính sự._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34598.doc