Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Lời nói đầu Trong sự phát triển lịch sử các mô hình kinh tế thế giới thì mô hình kinh tế thị trường tỏ ra có ưu điểm hơn so với các mô hình kinh tế tự nhiên,kinh tế tập trung ( kinh tế- kế hoạch hoá ). Mặc dù nó có những khuyết tật, hạn chế nhưng tỏ ra năng động phù hợp với trình độ phát triển hiện nay của các nước trên thế giới . Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại,nó là sản phẩm của hoạt động kinh tế lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn. Ngày nay,hầu hết các nước trên

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới đều áp dụng mô hình kinh tế thị trường một cách sáng tạo cho phù hợp với những đặc trưng màu sắc riêng của mỗi nước..Việt Nam một đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh và đang xây dựng lại tổ quốc cũng không nằm ngoài xu thế đó.Hơn nữa chúng ta đang tiến hành công cuộc cải cách,đổi mới theo dường lối của đảng trong khoảng 15 năm, một khoảng thời gian lịch sử quá ngắn ngủi. Do đó chúng ta không có nhiều kinh nghiệm về quản lí thị trường và còn đương đầu với nhiều vấn đề còn gay gắt.Bởi vậy việc nghiên cứu rút kinh nghiệm từ mô hình kinh tế thị trường của các nước khác nhằm khắc phục được những hạn chế, khuyết tật vốn có của nó cũng như vận dụng thành công trong mô hình của các nước trên thế giới là một việc có ý nghĩa cấp bách đói cới công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay cũng như trong thời gian tới. B. Nội dung I. Sự cần thiết phải hình thành,phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Thực trạng nền kinh tế nước ta khi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nước ta đứng trước một thực trạng không mấy sáng sủa, mặc dù chúng ta đã có sản xuất hàng hoá nhưng chưa phải là sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa của nó. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đến, trước hết là do đất nước ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh lâu dài với những hậu quả rất lớn cho nền kinh tế. Hơn nữa tư tưởng kinh tế của chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của kinh tế tự cung tự tự cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội là rất thấp. Bên cạnh đó, một nguyên nhân mang tính khách quan nữa là do phân công lao động nước ta còn thấp chưa đáp ứng được xu thế của sự phát triển. Từ đo ta có thể nói rằng thực trạng nền kinh tế của nứơc ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế kém phát triển, còn mang nặng tính tự cung tự cấp và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được biểu hiện ở những mặt dưới đây: Thứ nhât, là cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất chưa đầy đủ. Một mặt đó là do hậu quả của hai cuộc chiến tranh xảy ra, mặt khác là do nước ta chưa mở rộng giao lưu với các nước trên thế giới, chưa học hỏi được trình độ kỹ thuật tiến của thế giới, chưa thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta. Thứ hai, là cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, chứng tỏ một điều là chúng ta chưa tôn trọng và vận dụng những quy luật khách quan, tư tưởng kinh tế vẫn còn chủ quan duy ý chí. Cụ thể cơ cấu kinh tế còn mất cân đối nghiêm trọng giữa công nghiệp và nông nghiệp, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, hiện tượng độc canh cây lúa còn khá phổ biến, cây công nghiệp có giá trị cao chưa có cơ hội phát triển, đồng thời các ngành nghề chưa phát triển chính vì thế có thể nói cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tuy từ Đại hội VI của Đảng đến nay Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ nhưng chúng ta vẫn chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả. Thứ ba, là chưa hình thành được thị trường đúng nghĩa của nó, ở nước ta thị trường còn mang tính sơ khai, hoang sơ, các quan hệ tiền tệ hàng hoá chưa hình thành một cách rõ nét, chúng ta chưa có thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ, thị trường vốn hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khu vực kinh tế Nhà nước về cơ bản vẫn còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế, còn sử dụng lãi suất, tỷ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định chưa có tỷ giá, lãi suất và tín dụng theo cơ chế thị trường. Thứ tư, là năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp, đời sống nhân dân còn khó khăn. Thực trạng nền kinh tế hàng hoá còn manh mún nhỏ lẻ, kém phát triển được biểu hiện ra bên ngoài ở năng suất lao động xã hội thấp đời sống nhân dân không được cải thiện là bao, so với các nước Đông Nam A thì thu nhập tính theo đầu người ở nước ta vào dạng thấp. Thứ năm, là do nhận thức chưa đầy đủ về nền kinh tế thị trường kết hợp với tư tưởng chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hơn nữa một quan niệm đã được hình thành và tồn tại rất lâu từ trước tới nay trong lí luận về chủ nghĩa xã hội là cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội là không thể dung hợp với nhau. Tất cả những tư tưởng quan điểm trên đã kìm hãm sự phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội lần thứ VI “chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế chưa thực sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan. Do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc định các chủ trương chính sách kinh tế. Trong nhận thức cũng như trong hành động chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và thực hiện đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Mặt khác do hạn chế của cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến kinh tế nước ta không thể phát triển được và có nguy cơ tụt hậu so với xu hướng phát triển của nhân loại. Cơ sở khách quan tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam. Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội, gắn liền với hai điều kiện tiền đề: Sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. ở nước ta, những điều kiện chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn, nên sự tồn tại của kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan. Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. Bên cạnh đó những ngành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả trên thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được khôi phục và phát triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, địa phương, phân công lao động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó được phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn sản phẩm lao động đưa ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Đó la kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tự nhiên ở vùng núi. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong vùng cùng một thành phần kinh tế chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi sản phẩm lao động tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế giữa các tổ chức kinh tế trong các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau. Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan thu hẹp hay cản trở quá trình tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những hình thức khác nhau ( sớm xoá bỏ hay cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế, quản lý bằng kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp…) sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Do đó, chúng ta cần chủ động có những chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đúng mức, đúng hướng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xã hội thì tất yếu có người đáp ứng nhu cầu đó và ai trong cuộc cạnh tranh vươn tới thoả mãn tốt hơn và tốt nhất nhu cầu của xã hội thì người đó sẽ tồn tại và phát triển. 3. Sự cần thiết phải phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Từ thực trạng của nền kinh tế và xu thế chuyển đổi một cách nhanh chóng của nền kinh tế thế giới ta có thể khẳng định rằng nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và có sự quản lý của Nhà nước là một việc hết sức cần thiết và cấp bách, nếu chúng ta không chuyển đổi một cách khẩn trương thì không những chúng ta không theo được xu thế phát triển như vũ bảo của nền kinh tế thế giới mà chúng ta còn có nguy cơ bị tụt hậu. Chính vì sự cần thiết đó mà tại Đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và thưc hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đảng ta đã đề ra: “ kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp thiết lập và hình thành cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN đóng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Đến Đại hội VII Đảng ta đã xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra việc đó, tức là từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tại Đại hội VII Đảng đã khẳng định: “Phải tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nứơc”. Đến Đại hội VIII Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xác định việc phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là đúng đắn, là khách quan. Đảng ta đã đề ra phương hướng nhiệm vụ cho những năm tới là: “ Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN” . Đây là sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế. Xem xét dưới góc độ khoa học thì việc chuyển đổi nền kinh tế nứơc ta sang nền kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nó vừa phù hợp với thực tế ở nước ta, nó vừa phù hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển chung của thế giới. Như vậy, với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta và trước đòi hỏi của quy luật khách quan, của xu thế phát triển của thê giới, một lần nữa ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, hoàn toàn sáng suốt. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước và Nhân dân ta đã ra sức dồn tâm, dồn lực để thực hiện ý tưởng đó. 4. Ưu thế và hạn chế của kinh tế hàng hoá ở nước ta. Thúc đẩy quá trình xã hội hóa xản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ. Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong kinh tế hàng hoá sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng… Kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, gắn sản xuất với thị trường. Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh tế trong nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo những điều kiện cần thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao thực hiện dưới hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ. Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nước ta đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với những đặc điểm sau; Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nước ta thiếu cái “cổt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng của nền kinh tế được biểu hiện ở những mặt cơ bản như: cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém; trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiêp lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh; sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang nặng tính bảo thủ, trì trệ; phân công lao động chưa sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát triển, thị trường còn sơ khai; thu nhập của dân cư quá thấp, sức mua thấp, nhu cầu tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi; thiếu một đội ngũ những người quản lý sản xuất, kinh doanh có khả năng tham gia cạnh tranh trong và ngoài nước. Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đã làm xơ cứng các mối liên hệ kinh tế, điều đó biểu hiện: Từ năm 1986 trở về trước dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận quan hệ hàng hoá – tiền tệ, nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần – thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể. Với tên gọi “ kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa”, về thực chất là kinh tế chỉ huy, đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mềm dẻo như giá trị, giá cả, lợi nhuận… bị hình thức hoá đến cao độ: không phản ánh các quy luật của thị trường, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa. Quy luật trung tâm chi phối sự vận động của kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, đã biến nền kinh tế thực tế là “ Kinh tế chỉ huy”.Mục đích hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận như vốn có của nền kinh tế hàng hoá mà là tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh được phát ra từ một trung tâm. Các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chí chủ quan bị “ thu hẹp phạm vi hoạt động”, xem như “ không hợp pháp” hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ yếu trong sự vận động của nền kinh tế. Các loại hàng hoá đặc biệt hoặc phi hàng hoá, các thị trường có tổ chức, có kế hoạch chi phối các lĩnh vực quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất xã hội. Đối lập với kinh tế có kế hoạch đó được coi kinh tế thị trường tự do bất hợp pháp. Những quan niệm “ ấu trĩ” trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không tuân theo “ quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong kinh tế nói riêng. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải “ chấn hưng” nó phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với các xu thế thời đại ngày nay là chuyển sang cơ chế thị trường. Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta lấy giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản Nhà nước.Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và xâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng. Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc “ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước về kinh tế xã hội”. Để hạn chế và khắc phục những hạn chế của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế – xã hội bằng luật phap, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác. Trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta, kinh tế Nhà nước là nhân tố quy định và bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Kinh tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế cho xã hội mới, nó là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Xây dựng hệ thống kinh tế Nhà nước mạnh chính là tăng cường thực lực kinh tế của hà nước, để làm chỗ dựa, bảo đảm ổn định kinh tế và định hướng cho thị trường XHCN. Buông lỏng khu vực kinh tế nhà nước là buông lỏng định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường. Kinh tế Nhà nước là nơi thể hiện đầy đủ nhất tính ưu việt của CNXH: đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tất cả phục vụ con người trên tầm vĩ mô. Nhà nước vừa là đại biểu cho toàn bộ nền kinh tế, vừa là chủ thể của kinh tế Nhà nước. Do đó nhà nước phải vừa tôn trọng tính bình đẳng của các chủ thể kinh tế, vừa phải có ý thức đầy đủ đến việc phát triển kinh tế nhà nước để nó thực sự có vai trò chủ đạo. Để giữ được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm giữ những khâu, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước phải là kiểu mẫu về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH. Kinh tế Nhà nước phải có giá trị tổng sản lượng hàng hoá ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân sách nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của mọi người lao động… Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế thị trường là gì? Mọi nền kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội. Việc sản xuất ra hàng hoá gì, việc sản xuất theo phương pháp nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tố nhu cầu của xã hội. Lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó do các cơ quan của Nhà nước quyết định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cuả nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Như vậy, có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và giá cả thị trường. Vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng. Vai trò đó được thực hiên qua các chức năng kinh tế của nó. Có thể nêu nên các chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường dưới đây. Một là, đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức năng này vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lanh pháp luật cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra bằng cách đặt ra những điêu luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo. Hai là, điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là giao động lên xuống của GDP hoặc GNP, kèm theo các giao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm phát. Nhà nước cần cố gắng làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng chi tiêu của dân chúng, nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ương là người kiểm soát khối lượng tiền tệ có thể áp dụng các biện pháp “nới lỏng tiền tệ” trong cơn suy thoái; Khi lạm phát cao, ngân hàng Trung ương áp dụng các biện pháp “thắt chặt tiền tệ” nhằm giảm lạm phát. Như vậy, thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ Nhà nước cố gắng ổn định nền kinh tế duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp. Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của cả hoạt động thị trường là những tác động, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất hoá chất, tống chất thải ra hồ gây ô nhiễm nguồn nước địa phương, làm chết cá, Chính phủ có thể buộc các doanh nghiệp phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm, mà doanh nghiệp đã gây ra. Sự can thiệp của Chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả. Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường là sự xuất hiện của độc quyền. Các tổ chực độc quyền có thể không tăng thậm chí giảm số lượng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thường giảm bới cạnh tranh. Vì vậy, Nhà nước có một nhiệm vụ rất cơ bản bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường. Bốn là, đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải sản xuất ra hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Nhưng cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhâp cao. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực sự thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội. Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu KTTT. Trong đó, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo. Phân phối theo lao động Tính tất yếu của việc phân phối theo lao động. Đối với nước ta, trong bước quá độ hiện nay, hình thức phân phối theo lao động là hình thức phân phối că bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua việc lấy lao động làm thước đo. Đối với thành phần này phân phối theo lao động là một sự tất yếu, bởi nhiều nguyên nhân: Một là: Do dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Quyền làm chủ của người lao động về mặt kinh tế được xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người. Chính vì những lý do đó mà phân phối theo lao động là phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế này. Hai là: Hiện tại ở nước ta vẫn còn có sự khác biệt giữa các loại lao động như lao động trí óc, lao động chân tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn… Do vậy mà cùng một đơn vị thời gian, những lao động khác nhau đưa lại những kết quả ít nhiều, tốt xấu khác nhau. Do đó, cần phải dựa vào kết quả lao động để phân phối. Mặt khác, trong xã hội nước ta vẫn còn có những người “muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác”, trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở trên. Ba là: Trong điều kiện của nước ta hiện nay, nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu, nghèo nàn chưa đạt đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Trong điều kiện lượng sản phẩm xã hội có hạn, để phân phối công bằng cần phải dựa vào kết quả lao động của từng người. Hơn nữa lao động chưa trở thành nhu cầu tự nhiên của con người, nó còn là “ phương kế sinh nhai” của mỗi người. Trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với điều kiện nước ta. Tóm lại, phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp với trạng thái sản xuất và trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy thực hiện phân phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản xuất ngày càng phát triển vì nó là hình thức phân phối cơ bản và chủ yếu ở nước ta. Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác. Nền kinh tế nước ta đang trong bước quá độ định hướng nên chủ nghĩa xã hội. Với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức sản suất kinh doanh khác. Một đặc điểm khá rõ nét trong quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn, quá trính sản xuất, tich tụ và tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn sản xuất hiện nay vẫn còn nằm rải rác, phân tán trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ, trong đó có cả dưới dạng tư liệu sản xuất, vàng bạc, ngoại hối và tiền mặt v.v.. Để có thể sử dụng được nguồn vốn đó cho sản xuất xã hội chúng ta không thể sử dụng các chính sách áp đặt như trưng thu, trưng mua hay đóng góp cổ phần một cách bình quân. Vì cả các cách làm đó đều dẫn đến kết quả là làm suy yếu lực lượng sản xuất vốn có của xã hội. Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI) ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn như một số đơn vị quốc doanh và tập thể đã huy động vốn của dân cư dưới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp vốn cổ phần không hạn chế với mức lãi hợp lý .. Cách làm như vậy đã có tác dụng đưa được vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn hiện có. Như vậy, mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội. Thích ứng với điều kiện cụ thể của nước ta trong bước quá độ, xét trên các mặt lợi ích kinh tế, trính trị và nhiệm vụ phát triển đất nước, cần tạo đủ điều kiện pháp lý để các thành phần kinh tế, tư nhân cá thể và tất cả mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất knh doanh. Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định đó có tính chất nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh. Với quan điểm đổi mới đó, cần phải xem việc phân phối kết quả kinh doanh sản xuất theo vốn và tài sản của mỗi cá nhân đóng góp và quá trình sản xuất xã hội dưới hình thức “lợi tức” và “ lợi nhuận”, là một hình thức phân phối hợp pháp đối với những thu nhập hợp pháp đó. Phân phối ngoài thu lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu khách quan trong quá độ hiện nay ở nước ta, vì các hình thức phân phối đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, ngoài những người có sức khoẻ đang làm việc và được trả công theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này lẽ khác, không thể tham gia vào lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này là do gia đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác, ngay mức sống của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34599.doc