Phân tích ảnh hưởng của lãi suất huy động tới hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm

Tài liệu Phân tích ảnh hưởng của lãi suất huy động tới hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm: ... Ebook Phân tích ảnh hưởng của lãi suất huy động tới hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích ảnh hưởng của lãi suất huy động tới hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lêi nãi ®Çu Hoạt động huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn, một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn chính là nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng, đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của mỗi ngân hàng. Hoạt động này chính là cơ sở tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vì thế, ngân hàng luôn phải quan tâm đến nâng cao chất lượng hoạt động huy động vốn của mình. Lãi suất huy động có tác động rất nhiều đến hiệu quả của hoạt động huy động vốn. Mặt khác lãi suất huy động có tính quyết định đối với việc mở rộng nguồn vốn, hay huy động một nguồn vốn mới. Với một chính sách lãi suất huy động hợp lý ngân hàng có thể mở rộng hoạt động huy động vốn với chi phí tiết kiệm, để từ đó mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để làm rõ hơn tác động của lãi suất huy động tới hoạt động huy động vốn, em xin trình bày bài viết : “ Phân tích ảnh hưởng của lãi suất huy động tới hoạt động huy động vốn tại NHCT HK ’’ cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Mong muốn thông qua bài viết này học hỏi được thêm nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình thực tập. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian hạn hẹp và kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều, nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong được sự hướng dẫn của thầy hướng dẫn cùng các anh, các chị ở phòng Khách hàng số 2 thuộc NHCT HK bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG I: l·i suÊt huy ®éng vµ ho¹t ®éng huy ®éng vèn cña ng©n hµng th­¬ng m¹i A. Lãi suất huy động và các vấn đề liên quan I . Lãi suất huy động 1. Khái niệm 1.1. Định nghĩa Ngân hàng cung cấp dịch vụ với giá cả nhất định ,Với tư cách là trung gian tài chính, Ngân hàng phải trả giá cho khách hàng về phần lớn nguồn tiền mà ngân hàng huy động được. Lãi suất: Là tỷ lệ (%) của số lãi trên gốc trong thời gian nhất định. Ví dụ, lãi suất tiền gửi là 12%/ năm. Nếu khách hàng gửi vào ngân hàng 100 triệu, với thời hạn 6 tháng, thì ngân hàng sẽ phải trả số tiền lãi cho khách khi đến hạn là: 100 triệu * 6 tháng *12%/12= 6 triệu Lãi suất huy động: Là các loại lãi suất ngân hàng phải trả cho nguồn huy động bao gồm lãi suất tiền gửi giao dịch, lãi suất tiết kiệm và lãi suất tài trợ như lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay. Để đảm bảo thu nhập ròng, lãi suất huy động bình quân phải nhỏ hơn lãi suất tài trợ bình quân. 1.2. Các loại lãi suất huy động 1.2.1. Lãi suầt huy động ngắn hạn và lãi suất huy động trung và dài hạn: Lãi suất được phân biệt theo thời gian ( kì hạn ) của nguồn tiền gửi. Thời hạn càng dài rủi ro càng lớn, do vậy lãi suất dài hạn thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. 1.2.2. Lãi suất huy động cố định, thả nổi hoặc hỗn hợp Lãi suất thả nổi: Là lãi suất thay đổi theo cung cầu trên thị trường ( lãi suất thị trường ). Khi ngân hàng áp dụng lãi suất thả nổi, lãi sẽ tính theo lãi trên thị trường tại thời điểm tính lãi. Lãi suất thả nổi có thể hạn rủi ro lãi suất cho ngân hàng, tuy nhiên, lại gây khó khăn cho khách hàng trong việc lập kế hoạch đầu tư và vì vậy có thể gây rủi ro khách hàng. Phần lớn doanh nghiệp và người gưỉ tiết kiệm đều muốn chọn lãi suất cố định Lãi suất cố định: Là lãi ®­îc định trước trong hợp đồng và không thay đổi trong suốt thời gian tồn tại của hợp đồng. Lãi suất cố định giúp cho ngân hàng và khách hàng biết trước số lãi, tuy nhiên, có thể tạo ra rủi ro lãi suất khi lãi suất thị trường thay đổi lớn. Lãi suất thả nổi thường được áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hµng. Lãi suất hỗn hợp: Là sự kết hợp giữa lãi suất thả nổi và lãi suất cố định: cố định trong một số lần trả và thay đổi sau một số lần trả lãi. Ví dụ Ngân hàng ĐT&PTVN cho vay 5 năm, thu lãi 3 tháng một lần. Ngân hàng áp dụng lãi suất hiện hành cho năm thứ nhất ( cố định trong 1 năm ) và sẽ thay đổi lãi suất trong từng năm tiếp theo. Lãi suất hỗn hợp thường được áp dụng cho các khoản huy động trung và dài hạn. 1.2.3. Lãi suất huy động trần và sàn Lãi suất trần là mức lãi suất cao nhất. Lãi suất sàn là mức lãi suất thấp nhất. Thứ nhất, lãi suất trần và sàn có thể do ngân hàng Nhà nước đặt ra và bắt ngân hàng thương mại phải tuân thủ để hạn chế các ngân hàng cạnh tranh đẩy giá tiền gửi lên quá cao có thể gây ra khủng hoảng thanh khoản ( hoặc độc quyền hạ giá tiền gửi gây tổn hại cho người tiết kiệm ), Ngân hàng Nhà nước qui định lãi suất trần và sàn phản ánh sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng Nhà n­íc vào chính sách lãi suất của ngân hàng thương mại. Thứ hai, lãi suất trần và sàn do ngân hàng thương mại đặt ra. Nếu ngân hàng đang áp dụng lãi suất thả nổi mà nhà quản lí cho rằng lãi suất có xu hướng tăng ngân hàng có thể bán hợp đồng trần tiền gửi, tức là lãi suất tiền gửi cao nhất mà ngân hàng có thể trả; nếu lãi suất có xu hướng giảm, ngân hàng bán hợp đồng sàn lãi suất cho vay tức là lãi suất cho vay cao nhất mà khách hàng có thể trả. Hợp đồng lãi suất này nhằm hạn chế rủi ro lãi suất đối với ngân hàng thương mại. 1.2.4. Lãi suất thông thường và lãi suất ưu đãi Lãi suất thông thường được áp dụng cho đa số khách hàng của ngân hàng, đảm bảo cho ngân hàng trang trải chi phí và có thu nhập ròng cần thiết. Lãi suất ưu đãi có thể do Nhà nước quy định đối với những khách hàng, nghành, vùng đặc biệt như nghành cần khuyến khích, các vùng có nhiều khó khăn … Khi có chính sách ưu đãi, Nhà nước có thể có chính sách cấp bù lãi suất cho tổ chức tín dụng. Lãi suất ưu đãi do ngân hàng thương mại quy định, áp dụng cho những khách hàng lớn, có uy tín, lãi suất này thấp hơn lãi suất huy động thông thường song vẫn đảm bảo thu nhập ròng cho ngân hàng ro khách hàng không có rủi ro hoặc mức vay vốn lớn .. 1.2.5. Lãi suất nội tệ , ngoại tệ Lãi suất áp dụng cho nội tệ và ngoại tệ do các loại tiền khác nhau thường có cung cầu và mức độ rủi ro khác nhau. Tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam, ngoại tệ mạnh ( đô la Mỹ ) được sử dụng trong thanh toán trong nươc và quốc tế. Do tâm lý của người tiết kiệm và do tính ổn định của ngoại tệ so với nội tệ, số tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ có xu hướng gia tăng trong khi người vay lại e ngại vay ngoại tệ. Vì vậy, nhiều ngân hàng áp dụng phân biệt lãi suất nội tệ và ngoại tệ theo hướng lãi suất của ngoại tệ thấp hơn nội tệ. 2 . Cơ chế lãi suất 2.1. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cơ chế điÒu hành lãi suất của NHNN chi phối cơ chế quản lí lãi suất nói chung và lãi suất huy động của các NHTM . Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/05/2002 của Thống đốc NHNN VN đã xoá bỏ cơ chế điêù hành lãi suất cơ bản, chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận, mà theo đó, việc kiểm soát lãi suất thị trường bằng công cụ hành chính đã chấm dứt, công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng để tác động và kiểm soát lãi suất thị trường biến động theo chiều hướng phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.NHNN sử dụng các công cụ gián tiếp tác động và kiểm soát lãi suất thị trường như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi huy động, đưa ra các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất vay qua đêm,…. Mô hình cơ chế điều hành lãi suất chủ đạo trong thời gian tới: + Lãi suất vay qua đêm > mức lãi suất khác nhằm điều tiết và chỉ đạo mặt bằng lãi suất thị trường, buộc các NHTM huy động trên thị trường tiền tệ. + Lãi suất tiền gửi qua đêm thường thấp. + Lãi suất thị trường mở giao động giữa lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tiền gửi qua đêm, điều này chi phối lãi suất đấu thầu. + Lãi suất thị trường liên ngân hàng xoay quanh lãi suất thị trường mở giúp NHNN kiểm soát được lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, mà lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là cơ sở xuất phát cho các NHTM xác định lãi suất đầu vào và đầu ra cho khách hàng. Cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chủ đạo là sự tác động gián tiếp của lãi suất cho vay qua đêm đến lãi suất huy động, cho vay của NHTM thông qua lãi suất trung gian và nghiệp vụ thị trường mở và thị trương liên ngân hàng. Tự do hoá lãi suất tạo cơ hội cho ngân hàng chủ động trong việc đề ra các mức lãi suất trong quá trình hoạt động cho phù hợp với từng trường hợp, tõng đối tượng và từng giai đoạn, nâng cao khả năng huy động vốn. Thêm nữa, việc thực hiện tự do hoá lãi suất tạo sự linh hoạt, phát huy đúng tầm quan trọng của công cụ lãi suất trong quản lí kinh tế, thúc đẩy khả năng huy động vốn và sử dụng vốn, gia tăng đầu tư phát triển sản xuất kinh tế xã hội. 2.2. Chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại 2.2.1. Nội dung Huy động tiền gửi của các chủ thể trong nền kinh tế là kênh mà các ngân hàng luôn tập trung khai thác triệt để, bởi đây là nguồn lực dồi dào cho các NHTM nếu biết tận dụng năng lực, uy tín cuả mình để thu hút. Bên nguồn vốn trong bảng cân đối tài sản của các NHTM, khoản mục tiền gửi là khoản mục có số lượng chiếm tỷ trọng lớn, là khoản được sử dụng để đầu tư chủ yếu cho hoạt kinh doanh và để mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác sự biến động của khoản mục này cũng chịu tác động rất lớn của chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng thường tập trung chủ động nâng cao việc huy động tiền gửi của các chủ thể trong nền kinh tế, và nghiên cứu chính sách lãi suất huy động chủ yếu đưa ra bảng biểu lãi suất đối với huy động tiền gửi. 2.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến chính sách lãi suất huy động vốn Ngoài các nhân tố hình thành lãi suất huy động ( cung, cầu vốn ), việc đưa ra chính sách lãi suất huy động của mỗi ngân hàng, tại mỗi thời điểm còn phô thuộc vào một số nhân tố thuộc về tầm vi mô của ngân hàng. Thứ nhất, là tính chất của các nguồn tiền huy động được. Các nguồn vèn mà ngân hàng huy động được có sự khác nhau về thời hạn đáo hạn, qui mô, đối tượng gửi, mục đích gửi của khách hàng. Sự khác nhau về thời gian của các nguồn vốn này làm cho lãi suất của mỗi nguồn cũng có sự khác nhau, hình thành lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn, Lãi suất ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất dài hạn, vì những khoản đầu tư ngắn hạn có lợi tức không ổn định, làm lãi suất này biến động khá thường xuyên và với biên độ khá lớn. Ngân hàng muốn huy động được nguồn vốn ổn định cho hoạt động kinh doanh của mình thì phải chịu chi phí huy động cao để đổi lại ngân hàng có cơ cấu vốn tốt đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư trung, dài hạn hoặc chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng. Thời gian của nguồn huy động khác nhau là nhân tố tạo sự khác biệt về lãi suất huy động của ngân hàng. Ngoài ra lãi suất huy động của ngân hàng còn phân biệt theo loại tiền mà ngân hàng huy động, mục đích gửi tiền của khách hàng, mục đích huy động của ngân hàng, dịch vụ đi kèm ví dụ như tiết kiệm có thưởng …., theo qui mô của lượng tiền mà ngân hàng huy động được. Nhìn chung, tiện ích mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng gửi tiền và người cho vay càng cao thì lãi suất huy động càng thấp và, qui mô của lượng tiền mà ngân hàng huy động được càng lớn thì lãi suất cho khoản vốn này càng có xu h­íng cao hơn. Mục đích gửi tiền vào ngân hàng của khách hàng không chỉ nhằm tiết kiệm mà còn nhằm hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Nếu với mục đích sử dụng các dịch vụ của ngân hàng cung cấp là chủ yếu thì lãi suất không phải là yếu tố thu hút khách hàng gửi tiền. Vì vậy lãi suất loại tiền gửi này thường thấp. Thứ hai, là uy tín của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động trên thị trường tài chính phát triển có rất nhiều công cụ nợ khác nhau để có thể huy động vốn cho mình, vì vậy sự cạnh tranh về lãi suất để huy động tiền gửi từ nền kinh tế không còn gay gắt nữa, mà chuyển sang cấc hình thức huy động khác để tiết kiệm chi phí huy động của mình. Một nhân tố vô cùng quan trọng quyết định chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng là uy tín của ngân hàng, độ an toàn của ngân hàng, vị thế cạnh tranh của ngân hàng so với ngân hàng khác và các tổ chức kinh tế cũng đang thu hút vốn từ nền kinh tế để đầu tư. Nếu ngân hàng có uy tín và khả năng cạnh tranh tốt so với các đối thủ thì có thể trong tình huống mặt bằng lãi suất chung đang có xu hướng gia tăng nhưng ngân hàng không cần phải gia tăng lãi suất mà hoạt động huy động vốn vẫn không bị hạn chế. Nhờ uy tín và sự cạnh tranh tốt của mình mà ngân hàng không cần có một chính sách cạnh tranh thu hút vốn bằng cách đẩy lãi suất huy động vốn của ngân hàng mình lên cao hơn so với mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường. Ví dụ, các ngân hàng ở New York, London nhờ vào qui mô lớn và sức mạnh tài chính nên có thể thu hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp, trong khi lãi suất thông báo của các ngân hàng khác thường cao hơn. Thứ ba là căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi cân đối giữa chi phí huy động nguồn với lợi nhuận đạt được khi dùng nguồn huy động được đó đầu tư, cỏ thể ngân hàng sẽ chấp nhận huy động với lãi suất cao để đạt được mục tiêu về lợi nhuận của mình. Có thể lấy ví dụ minh hoạ như sau: trường hợp A, ngân hàng huy động với lãi suất là 5% được 5000 đơn vị tiền tệ, 5000 này được đầu tư với lãi suất 8%. Như vậy ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra là: 150 đơn vị tiền tệ. Đối với trường hợp B, ngân hàng huy động với lãi suất là 6% được 7000 đơn vị tiền tệ, 7000 này được đem để đầu tư với lãi suất là: 8% , như vậy lợi nhuận ngân hàng thu được nhờ chênh lệch lãi suất: 210 đơn vị tiền tệ. Tất nhiên là coi những yếu tố khác không đổi. Như vậy có thể thấy, chấp nhận một mức lãi suất cao hơn nhưng khả năng sinh lời tốt của ngân hàng có thể còn mang lại cho ngân hàng một lợi nhuận cao hơn khi áp dụng mức lãi suất thấp. Nhưng mặt ngược lại là ngân hàng cũng không thể đội lãi suất của mình lên quá cao bởi còn sự khống chế bởi lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ việc đầu tư, lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng, các khoản chi phí khác mà ngân hàng còn phải bù đắp. Vấn đề là ngân hàng phải tính toán cái được và cái mất khi áp dụng hình thức cạnh tranh bằng lãi suất này. Về mặt vĩ mô, cơ chế quản lí lãi suất của Ngân hàng Nhà nước chi phối chính sách lãi suất huy động của các NHTM bằng các công cụ tài chính. 3. Xác định lãi xuất huy động Xác định lãi suất huy động loà công viếc phức tạp, quyết định tới chất lượng của nguồn huy động, từ đó tới chất lượng của tài sản, đòi hái tính nhạy bén của nhà quản lí ngân hàng. Ngân hàng cần phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới qui mô nguồn huy động để dễ dàng xác định lãi suất. 3.1. Theo nguyên lí chung các ngân hàng huy động với lãi suất thị trường, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ Với mỗi mức giá cụ thể, ngân hàng có phương pháp riêng để tÝnh toán. Lãi suât huy động = tỷ lệ lạm phát bình quân + tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của Người gửi tiền Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền phụ thuộc vào rủi ro của mỗi ngân hàng, tỷ lệ sinh lời của hoạt động đầu tư khác và những tiện ích mà người gửi hy vọng nhận được từ ngân hàng. Những loại tiền gửi mà tiện ích thu được từ ngân hàng càng cao thì lãi suất ngân hàng trả cho nguồn tiền gửi đó càng thấp. 3.2. Trong quá trình phát triển của thị trường tài chính nguồn cung ứng tiền từ ngân hàng Trung ương, từ các tổ chức tài chính khác ngày càng có ý nghĩa hơn đối với ngân hàng thương mại Với môi trường này, ngân hàng thương mại xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc. Những lãi suất gốc quan trọng là lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng Trung ương ( Ngân hàng Nhà nước), lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hoặc lãi suất trái phiếu ngắn hạn của chính phủ. Những ngân hàng lớn, ở các trung tâm tài chính, thường lấy lãi suất này làm điểm xuất phát khi xác định lãi suất huy động. Lãi suất nguồn = Lãi suất gốc ( lãi suất tái chiết khấu + Tỷ lệ thu nhập ( nhóm nguồn) hoặc lãi suất liên ngân hàng , lãi kỳ vọng của lãi suất trái phiếu chính phủ ) người gửi tiền Ngân hàng sử dụng lãi suất gốc để xác định lãi suât trả cho các nguồn tiền gửi ngắn hạn, Từ lãi suất gốc, ngân hàng đa dạng các tỷ lệ lãi suất khác nhau theo nguyên tắc: Lãi suất bình quân thực dương, tương quan về an toàn và sinh lợi với các hoạt động đầu tư khác như mua vàng, bất động sản, chứng khoán; Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất cho vay cùng kì hạn; Lãi suất tỷ lệ thuận với kì hạn; Lãi suất tỷ lệ thuận với qui mô; Lãi suất tỷ lệ thuận với tính thanh khoản; Lãi suất tỷ lệ thuận với khả năng sử dụng của tiền gửi; Lãi suất tỷ lệ nghịch với độ an toàn của ngân hàng và các tiện ích của ngân hàng cung cấp. 3.3. Trong điều kiện cạnh tranh để tìm kiếm nguồn tiền, nhiều ngân hàng nỗ lực tiết kiệm chi phí khác ( như chi phí quản lí ) và chấp nhận tỷ lệ thu nhập ròng thấp để gia tăng lãi suất huy động Ngân hàng có thể xác định lãi suất huy động tối đa trong mối tương quan lãi suất sinh lời của các tài sản. Tỷ lệ sinh lời dự Tỷ lệ chi phí tỷ lệ thuế thu nhập Lãi suất nguồn = tính từ tài sản được - khác ròng phân - và thu nhập ròng Tài trợ bằng nguồn bổ cho nguồn tính trên nguồn ( nhóm nguồn ) ( nhóm nguồn) ( nhóm nguồn ) Ví dụ: Một ngân hàng có số liệu như sau: ( dư – tỷ đồng , lãi suất - %) Nguồn vốn Dư bình quân Lãi suất bình quân Tài sản Dư bình quân Lãi suất bình quân 1 Tiền gửi thanh toán 2 Tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn 3 Tiền gửi tiết kiệm trung 4 Tiền gửi tiết kiệm dài 5 Vay ngắn hạn 6 Nguồn khác 7 Vốn và quỹ 100 400 200 100 100 0 100 1 Tiền gửi và tiền mặt 2 Chứng khoán 3 Cho vay ngắn 4 Cho vay trung và dài đối với DN 5 Liên doanh 6 Cho vay tiêu dùng 7 Tài sản khác 50 150 250 300 50 150 50 0 1 2 2,5 3 0 Thu khác: 1,5 Thuế suất thu nhập: 25% Yêu cầu: Đặt giá cho các khoản tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn. Tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn 400 có thể được dùng tài trợ cho các tài sản sau: Chứng khoán: 100 Cho vay ngắn hạn: 250 Cho vay trung: 50 ( giả sử tiền gửi thanh toán tài trợ cho ngân quỹ và chứng khoán ngắn hạn ) Lãi suất liên doanh ước tính đạt: 1 Nguồn ( nhóm nguồn) ngân hàng phải đặt giá: Tiền gửi thanh toán, tiết kiệm ngắn, vay ngắn, tiết kiệm trung và tiết kiệm dài hạn. Nếu chi phí quản lí: 2, chi phí dự phòng rủi ro: 1 Lãi suất sinh lời bình quân tính cho nguồn tiền gửi ngắn hạn là: Chi phí ròng phân bổ cho các khoản vay liên doanh là: Thu nhËp rßng vµ thuÕ thu nhËp ph©n bæ Cho c¸c kho¶n vay vµ liªn doanh = ( giả sử rằng chứng khoán không phải chịu phân bố chi phí , thuế và thu nhập ròng dự tính ). Lãi suất có thể áp dụng cho tiết kiệm ngắn hạn là: 2,1785% - 0,2% - 0,5333% = 1,4542% Từ lãi suất bình quân, ngân hàng có thể phân biệt thành các lãi suất ngắn hạn khác nhau như lãi suất tiết kiệm 12 tháng, 6 tháng, 3 tháng … Ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với môi trường cạnh tranh và chiến lược huy động vốn, trong mối tương quan với các lãi suất khác trong ngân hàng. 3.4. Một số ngân hàng nhỏ đặt giá trên cơ sở l·i suất của ngân hàng lớn (ngân hàng trung tâm ) Tuỳ trường hợp cụ thể mà lãi suất này có thể cộng thêm phần bù rủi ro của ngân hàng nhỏ. Trong điều kiện thị trường xa cách, người gửi khó tiếp cận với ngân hàng lớn, ngân hàng nhỏ đặt lãi suất huy động tương quan với lãi suất sinh lời. II. Một số vấn đề chung về lãi suất huy động 1. Quản lí lãi suất chi trả Quản lí lãi suất của các khoản nợ là xác định và cơ cấu lãi suất trả cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì qui mô và kết cấu nguồn phù hợp với yêu cầu sinh lợi của ngân hàng. Quản lí lãi suất của các khoản nợ là một bộ phận trong quản lí chi phí của ngân hàng. Lãi suất chi trả càng cao có thể huy động và vay mượn càng lớn, từ đó mà mở rộng cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất, lãi suất cao làm gia tăng chi phí của ngân hàng và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm tương ứng. Vì vậy, quản lí lãi suất của nguồn vốn có liên quan chặt chẽ với quản lí lãi suất cho vay và đầu tư của ngân hàng. Nội dung quản lí lãi suất: - Nghiên cứu các nhân tố ảnh hướng tới lãi suất huy động vốn; Đa dạng hoá lãi suất; Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của ngân hàng và mỗi ngân hàng. Lãi suất huy động thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm quốc gia; Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp , Nhà nước hộ gia đình; Tỷ lệ lạm phát; Tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác; Trình độ phát triển của thị trường tài chính; Khả năng sinh lời của ngân hàng; Độ an toàn của ngân hàng …. Trên cơ sở tác động của hàng loạt các yếu tố, hình thành nên lãi suất huy động của ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động tại mỗi ngân hàng được phân biệt theo nhiều hình thức khác nhau: Lãi suất phân biệt theo thời gian: Thời gian huy động càng dài thì lãi suất càng cao; Lãi suất phân biệt theo loại tiền; Lãi suất phân biệt theo mục đích gửi, theo mục đích huy động; Lãi suất phân biệt theo rủi ro của ngân hàng: Các ngân hàng nhỏ, hoặc ngân hàng tư nhân lãi suất cao hơn các ngân hàng lớn, hoặc ngân hàng của Nhà nước; Lãi suất phân biệt theo các dịch vụ đi kèm như tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm bảo hiểm lãi suất thấp hơn tiết kiệm khác; Lãi suất phân biệt theo qui mô … Nhìn chung, tiện ích mà ngân hàng cung cấp cho người gửi tiền và người cho vay càng cao thì lãi suất càng thấp. Một số nguồn tiền lãi suất ngân hàng trả bằng không và người gửi phải trả phí để được hưởng tiện ích của ngân hàng. Trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất Ngân hàng có nhiều mức lãi suất danh nghĩa khác nhau tuỳ theo tính chất của từng khoản nợ, đó là các mức lãi suất cá biệt. Ví dụ: Lãi suất tiền gửi tiết kiệm VNĐ loại thời hạn 6 tháng là 0.55%; loại tiết kiệm 12 tháng USD là 3% / năm … Trong quá trình cạnh tranh để mở rộng nguồn tiền, các ngân hàng đều cố gắng tạo ra các ưu thế của riêng mình trong đó có ưu thế về lãi suất cạnh tranh. Một ngân hàng có thể đưa ra lãi suất danh nghĩa cao hơn ngân hàng khác, tức là đã tạo ra lãi suất cạnh tranh nhằm thu hút thêm nguồn tiền mới. Tuy nhiên ngân hàng này cũng có thể tạo ra lãi suất cạnh tranh bắng các phương pháp khác như trả lãi làm nhiều lần trong kì hoặc trả lãi trước. Khi trả lãi nhiều lần trong kì, lãi suất tương đương (A) sẽ lớn hơn lãi suất danh nghĩa mà ngân hàng cam kết trả. A ( còn được kí hiệu NEC) = (1+i/n)n –1 Trong đó: i: Lãi suất danh nghĩa trong kì. n: Số lần trả lãi trong kì. Khi trả lãi trước, lãi suất tương đương với lãi trả sau (B) cũng lớn hơn lãi suất danh nghĩa trả trước. B ( còn được kí hiệu NEC) = i/(1-I) Trong đó I: Lãi suất trả trước. Các ngân hàng thường sử dụng phương pháp trên trong điều kiện bị khống chế về lãi suất tối đa, hoặc để thay đổi tạm thời qui mô của khoản mục chi phí trả lãi trong. Để phục vụ cho việc quản lí chi trả lãi suất và hoạch định các mức lãi suất cạnh tranh ( gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay ), các ngân hàng thường tính toán lãi suất bình quân: Lãi suất bình quân của một nguồn hay một nhóm nguồn trong kì; Lãi suất bình quân của các nguồn phải trả lãi tại một thời điểm hoặc trong kì. Lãi suất bình quân cho ta thấy xu hướng thay đổi lãi suất của nguồn, mức độ thay đổi lãi suất mỗi nguồn, sự kết hợp giữa lãi suất cá biệt và tỷ trọng mỗi nguồn; nó cũng cho thấy những nguồn đắt tương đối ( lãi suất cá biệt > lãi suất bình quân ) và nguồn rẻ tương đối ( lãi suất cá biệt < lãi suất bình quân ). Điều này rất có ý nghĩa đối với hoạch định chiến lược nguồn vốn. Ví dụ: Một ngân hàng có các số liệu về nguồn vốn như sau: Nguồn Số dư 1/1 Lãi suất 1/1 Sè d­ 1/2 Lãi suất 1/2 Sè d­ 1/3 Lãi suất 1/3 Nguồn duới 12 tháng Nguồn trung hạn Nguồn dài hạn 100 60 40 10 12 13 120 70 50 11 13 14 140 75 55 10,5 12,5 13,8 ( Giả sử số dư và lãi suất không thay đổi trong tháng, lãi suất trả hàng tháng) Với các lãi suất danh nghĩa trên, ta có thể tính lãi suất bình quân cho từng nguồn trong 3 tháng, lãi suất bình quân của các nguồn tại một thời điểm hoặc trong 3 tháng. Lãi suất bình quân của các nguồn vào ngày 1/1: LSBQ= tức là 11,2% Lãi suất bình quân của nguồn ngắn hạn trong 3 tháng: LSBQ= tức là 10,527% Lãi suất bình quân đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chênh lệch lãi suất. 2. Rủi ro lãi suất 2.1. Khái niệm Để huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả lãi. Khi tài trợ, ngân hàng thu lãi. Như nhiều giá cả hàng hóa khác, lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi, chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại gây tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay đổi lãi suất và nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, qui mô và kỳ hạn các hợp đồng kỳ hạn .. 2.2. Nguyên nhân rủi ro lãi suất Sự không phù hợp về kỳ hạn của các nguồn vµ chÕ ®é l·i suÊt cố định trong các hợp đồng. Sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng . 2.2.1. Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản và chế độ lãi suất cố định Sự không phù hợp về kỳ hạn nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất – Nguồn nhạy cảm lãi suất Các tài sản và nguồn nhạy cảm thường là các loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất đổi, ví dụ như khoản tiền gửi ngắn hạn, các khoản cho và đi vay trên thị trường liên ngân hàng, chứng khoán ngắn hạn của chính phủ, các khoản cho vay ngắn hạn. Các loại ít nhạy cảm thuộc về tài sản và nguồn trung và dài hạn với lãi suất cố định. Ví dụ, một khoản tiền göi tiết kiệm 3 tháng (100 tỷ) với lãi suất 10% /năm. Khi lãi suất thị trường thay đổi ( tăng hoặc giảm ), thì khoản tiền này (100 tỷ) sẽ nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới. Ngược lại, với khoản tiết kiệm 3 năm, khi lãi suất thị trường thay đổi, chỉ một phần nhỏ sắp đến hạn, hoặc mới gửi có khả năng chuyển sang lãi suất mới. Do ngân hàng sử dụng lãi suất cố định đã tạo ra các tài sản và nguồn kém nhạy cảm với lãi suất. Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm ( kỳ hạn huy động daì hơn sử dụng ) và có khe hở âm nếu tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm ( kỳ hạn huy động nhỏ hơn sử dụng ). 2.2.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến Lãi suất thị trường thường xuyên thay đổi. Ngân hàng luôn nghiên cứu và dự báo lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính xác mức độ thay đổi của lãi suất . Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất dương: + Khi lãi suất thị trường tăng, chênh lệch lãi suất tăng. + Khi lãi suất thị trường giảm, chênh lệch lãi suất giảm. Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất âm: + Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm. + Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất tăng. 2.3. Các nhân tố phản ánh rủi ro lãi suất 2.3.1. Khe hở lãi suất ( interest rate gap) Các nhà quản lí ngân hàng đã dùng khe hở lãi suất như là chỉ tiêu đo khả năng thu nhập giảm khi lãi suất thay đổi. Khe hở lãi suất hình thành do chênh lệch tài sản và nguồn nhạy cảm, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến qui mô của nguồn và tài sản nhạy cảm: Nhu cầu về kỳ hạn của người sử dụng Khả năng về kỳ hạn của người gửi và người cho vay; Chuyển hoán kỳ hạn của nguồn. Sự khác biệt về kỳ hạn của nguồn và tài sản là yếu tố tất yếu. Kỳ hạn để phân loại tài sản và nguồn nhạy cảm không phải là kỳ hạn danh nghĩa mà là kỳ hạn tài sản và nguồn được xác định lại lãi suất. Ví dụ, một nguồn tiền huy động hai năm, với lãi suất 10% / năm, song đã duy trì được 1 năm 10 tháng. Vậy vào thời điểm tính toán, nguồn này chỉ còn 2 tháng là đến hạn. Nếu lãi suất thị trường thay đổi, nguồn này sẽ được đặt lại giá ( xác định lại lãi suất ). Ngân hàng khó và không cần thiết duy trì sự phù hợp tuyệt đối giữa các nguồn và các loại tài sản khác nhau trong mọi thời kỳ. Trước hết, kỳ hạn trên thường lµ do khách hàng quyết định. Thứ hai, sự thay đổi của các loại lãi suất rất khác nhau và mức độ nhạy cảm của nguồn và tài sản đối với lãi suất cũng khác nhau. Thứ ba, sự khác biệt về nguồn và tài sản nhạy cảm có thể tạo thu nhập cao hơn cho ngân hàng. Khi duy trì khe hở nhạy cảm khác không, nếu lãi suất thay đổi theo hướng phù hợp, thu nhập của ngân hàng sẽ tăng lên. Giả sử lãi suất thay đổi với mức độ nào đó không có lợi cho ngân hàng, mức độ giảm thu nhập từ lãi của ngân hàng sẽ tỷ lệ thuận với qui mô khe hở lãi suất. 2.3.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường Trong trường hợp ngân hàng đang duy trì khe hở lãi suất dương, tức là ngân hàng dự đoán lãi suất sẽ tăng. Nếu lãi suất tài sản và nguồn nhạy cảm cùng tăng như nhau, ngân hàng sẽ có lợi; nếu chúng giảm xuống với cùng mức độ, chênh lệch lãi suất của ngân hàng sẽ giảm, làm giảm thu nhập từ lãi suất. - Trong trường hợp ngân hàng đang duy trì khe hở lãi suất âm tức là ngân hàng dự đoán lãi suất sẽ giảm. Nếu lãi suất tài sản và nguồn nhạy cảm cùng tăng với một mức độ, chênh lệch lãi suất của ngân hàng sẽ giảm, làm giảm thu nhập từ lãi suất. Như vậy, trạng thái tài sản và nguồn không phải là yếu tố duy nhất gây nên rủi ro lãi suất. Trạng thái trên được kết hợp với thay đổi lãi suất ngoài mong muốn của nhà quản lí ngân hàng sẽ gây nên rủi ro lãi suất. Do khả năng dự đoán thay đổi lãi suất là có hạn trước thay đổi của môi trường kinh doanh, khe hở lãi suất trở thành yếu tố đo rủi ro lãi suất tiềm năng. Nếu khe hở lãi suất càng lớn thì rủi ro càng lớn. Ví dụ: Một ngân hàng đang có trạng thái nhạy cảm với lãi suất như sau ( số dư bình quân trong kì, đơn vị tỷ đồng, lãi suất bình quân %/ kì): Tài sản Số dư Lãi suất Nguồn Số dư Lãi suất -Tài sản nhạy cảm -Tài sản kém nhạy cảm 80 120 5 7 - Nguồn nhạy cảm - Nguồn kém nhạy cảm 120 80 4 5 Chênh lệch lãi suất của ngân hàng trong kì là: ( số tuyệt đối là 2,8) Nếu lãi suất thị trương tăng thêm 1%, chênh lệch lãi suất của ngân hàng: ( số tuyệt đối là 2,4) Khe hở nhạy cảm 80-120 =40 Vậy từ khe hở nhạy cảm ta có thể dự đoán tổn thất khi lãi suất thay đổi: Thu nhập từ lãi giảm (-) = Khe hở * Mức gia tăng Hoặc tăng (+) nhạy cảm của lãi suất Từ ví dụ trên ta có: Thu nhập từ lãi giảm (-) =40 *1% = -0,4( đơn vị ) Chªnh lÖch l·i suÊt = Gi¶m (-) ,t¨ng céng (+) = 2.4 . Các diễn biến của rủi ro lãi suất 2.4.1. Lãi suất thay đổi không cùng một mức độ . Để thấy ảnh hưởng của trạng thái tài sản và nguồn nhạy cảm đối với rủi ro suất theo các mức độ khác nhau cũng gây ra rủi ro lãi suất cho dù độ lớn và dấu của khe hở lãi suất như thế nào. Lãi suất, chúng ta giả định lãi suất nguồn và tài sản nhạy cảm thay đổi cùng một mức độ. Song trên thực tế, các mức lãi suất thay đổi khác nhau. Sự thay đổi lãi. Ví dụ: Về một ngân hàng với số dư bình quân kỳ, lãi suất bình quân: Tài sản Số dư Lãi suất Nguồn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12805.doc
Tài liệu liên quan