Lời mở đầu
Phân phối là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, là giai đoạn tất yếu của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, còn phân phối phụ thuộc vào sản xuất và do sản xuất quyết định. Nhưng đến lượt mình phân phối lại có tác động tích cực hoặc tiêu cực trở lại đối với sản xuất.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1536 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, sự phân hoá giàu nghèo có xu hướng gia tăng, vấn đề thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một vấn đề cấp bách và lâu dài.
Đề tài “phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” là một đề tài hay đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên khối ngành Kinh tế – Quản trị kinh doanh, như: đi sâu nghiên cứu vấn đề, phân tích, đánh giá sát thực trạng các chính sách phân phối thu nhập.
Chúng em là một lực lượng lao động quan trọng trong tương lai đang trong quá trình hoàn bản thân. Để đạt được kết quả cao trong học tập, chúng em cần phải tích cực nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao kiến thức. Tuy nhiên, trong lĩnh hội các kiến thức khoa học chúng em vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, trong quá trình nghiên cứu đề án có thể sẽ mắc nhiều sai sót, em mong các thầy cô giáo kiểm tra, đánh giá những sai sót trong đề tài này của em.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tạo mọi điều kiện cho em hoàn thành đề án kinh tế chính trị này.
Ngày 20 tháng 11 năm 2004
Sinh viên
Nguyễn Quang Khoan
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Phần I
lý luận chung về phân phối thu nhập
I. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về phân phối thu nhập
Lý luận phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt nguồn từ học thuyết của các nhà kinh tế sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê nin.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu một cách có hệ thống chế độ phân phối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã vạch rõ bản chất của phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa là bất công; nó dựa trên cơ sở quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản và địa chủ đối với công nhân và nhân dân lao động. Vì trong thế kỷ XIX, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa ra đời nên nhiệm vụ lý luận thực tế nhất không phải là chú trọng trình bày, thiết kế chế độ và nguyên tắc phân phối thu nhập trong chủ nghĩa xã hội, mà là vạch trần bản chất và phê phán phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên những quan điểm và nguyên tắc cơ bản trong xã hội tương lai.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong lãnh đạo xây dựng ở Nga, V.I. Lênin đã làm rõ hơn và cụ thể hoá các quan điểm nguyên tắc phân phối trong chủ nghĩa xã hội. Theo V.I. Lênin, để xây dựng thành công CNXH thì nhiệm vụ trọng đại hơn cả là xây dựng kinh tế. Trong nhiệm vụ đó, nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn diện đối với sản xuất và phân phối sản phẩm, thì chính quyền của người lao động, nền tự do của họ sẽ không thể nào duy trì được và nhất định họ phải sống trở lại dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản.
1. quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phân phối
1.1. vị trí của phân phối trong tái sản xuất xã hội
Quá trình tái sản xuất gồm bốn khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. Phân phối là mắt xích trung gian của quá trình tái sản xuất. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất giữ vai trò quyết định, cơ cấu và trình độ phát triển của sản xuất quy định quy mô và cơ cấu của phân phối, phân phối không thể vượt quá trình độ hiện có của lực lượng sản xuất xã hội. Nếu phân phối phù hợp với sự phát triển của sản xuất sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, còn ngược lại sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất.
Phân phối và trao đổi có quan hệ mật thiết với nhau, trao đổi là sự tiếp tục của phân phối. Trong nền kinh tế thị trường, phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị, người nhận được thu nhập đó sẽ biến thành thu nhập thực tế bằng việc mua hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Với một thu nhập danh nghĩa nhất định sẽ chuyển thành khối lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ tùy thuộc vào giá cả của thị trường. Đó cũng chính là phân phối thu nhập.
Phân phối còn có quan hệ mật thiết với tiêu dùng. Việc tăng hoặc giảm phân phối đều có tác động đến tiêu dùng. Ngược lai, cơ cấu và trình độ của tiêu dùng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tăng trưởng của phân phối.
Như vậy, phân phối là một khâu độc lập tương đối trong quá trình tái sản xuất, luôn có tác động một cách biện chứng với các khâu khác của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong mọi phương thức sản xuất đều diễn ra sự phân phối sản phẩm xã hội, nó là một phạm trù kinh tế chung cho mọi xã hội.
1.2. vị trí của phân phối trong quan hệ sản xuất xã hội.
Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. C. Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất: “… các quan hệ phân phối về thự chất cũng đồmg nhất với các quan hệ sản xuất ấy, rằng chúng cấu thành mặt sau của quá trình sản xuất ấy, thành thử cả hai đều cùng có chung một tính chất lịch sử nhất thời ấy”. Theo Ph. Ăngghen thì “trên những nét chủ yếu của nó, sự phân phối trong mỗi trường hợp đều là kết quả tất yếu của những quan hệ sản xuất và trao đổi trong một xã hội nhất định”. Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất nhất định có quy luật phân phối tương ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào, thì quan hệ phân phối cũng như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau. Khi lực lượng sản xuất biến đổi và do đó quan hệ sản xuất biến đổi, thì quan hệ phân phối cũng biến đổi. Phân phối là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất.
Phân phối theo nghĩa rộng là phân phối tổng sản phẩm xã hội, nó bao gồm phân phối các yếu tố sản xuất và phân phối tư liệu tiêu dùng. Phân phối các yếu tố sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất, nó có trước sản xuất, đồng thời phát sinh trong quá trình sản xuất. Trước khi sản xuất, cần phải phân phối các yếu tố sản xuất cho các ngành và các doanh nghiệp khác nhau để sản xuất các sản phẩm khác nhau. Không có sự phân phối các yếu tố sản xuất, thì sản xuất không thể diễn ra được. Tính chất phân phối các yếu tố sản xuất quyết định tính chất phân phối tư liệu tiêu dùng.
2. Lý luận phân phối theo lao động của C.Mác
Khi nghiên cứu nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã chỉ ra rằng, giá trị mới sáng tạo ra được phân chia cho các giai cấp dựa vào sự đóng góp của các yếu tố sản xuất: một bộ phận được phân phối cho người sở hữu sức lao động theo giá trị sức lao động, bộ phận khác được phân phối cho người sở hữu tư liệu sản xuất. Do đó giá trị mới được phân thành tiền công, lợi nhuận, lợi tức và địa tô.
Tiền công là thu nhập của người lao động và là hình thức thực hiện quyền sở hữu sức lao động;
Lợi nhuận là thu nhập của nhà tư bản và là hình thức thực hiện quyền sở hữu tư liệu sản xuất;
Lợi tức chỉ là một phần của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ sử dụng tư bản đi vay, phải trả cho nhà tư bản cho vay;
Địa tô là thu nhập của địa chủ, là hình thức thực hiện của quyền chiếm hữu ruộng đất.
Sự phân phối này được che đậy bởi nguyên tắc “trao đổi ngang giá” nên hình như mọi giao dịch trên thị trường đều cân bằng.
Về tiền công, C. Mác đã phát hiện ra nguyên tắc có tính phổ biến trong chủ nghĩa tư bản là tiền công ở mức tối thiểu. C. Mác vạch ra rằng: “tiền công là giá cả của một hàng hoá nhất định, của sức lao động. Cho nên tiền công cũng được quyết định bởi những quy luật quyết định giá cả của tất cả mọi hàng hoá khác…”. Tiền công là một quan hệ kinh tế diễn ra tại khu vực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Theo C. Mác, “chi phí sản xuất của sức lao động đơn giản quy lại thành chi phí hoạt động của người công nhân và chi phí để tiếp tục duy trì giống nòi của anh ta. Giá cả những chi phí sinh hoạt và chi phí để tiếp tục duy trì giống nòi đó là tiền công. Tiền công được quy định như vậy gọi là tiền công tối thiểu”.
Lý luận phân phối theo lao động của C. Mác gồm hai bộ phận:
Một là, điều kiện tiền đề để phân phối theo lao động gồm hai mặt:
Mặt một, phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo C. Mác : “cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”. Trong điều kiện như vậy, người ta vẫn còn có lợi ích riêng, chưa coi lao động là nhu cầu bậc nhất của con người.
Mặt hai, phân phối theo lao động được thực hiện trong điều kiện kinh tế dựa trên chế độ chiếm hữu, tức là trong một xã hội tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì những người sản xuất không trao đổi sản phẩm cuả mình; ở đây, lao động chi phí vào việc sản xuất ra các sản phẩm cũng không biểu hiện ra thành giá trị của những sản phẩm ấy.
Hai là, nguyên tắc và phương thức phân phối theo lao động. Theo C. Mác, chủ thể phân phối là những người lao động, đối tượng bị phân phối là tư liệu tiêu dùng, căn cứ để phân phối là là thời gian lao động, phương thức thực hiện phân phối theo lao động là phiếu lao động: “cùng một lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này thì anh ta lại nhận trở lại của xã hội dưới một hình thức khác”. Như vậy, thời gian lao động là thước đo khách quan của phân phối, sự khác biệt về lao động, do đó khác biệt về thu nhập sẽ tồn tại và chỉ đến giai đoạn cộng sản chủ nghĩa mới có thể thực hiện “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
3. Giá trị của lý luận phân phối theo lao động của C.Mác
Thứ nhất, C. Mác coi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu là do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó quyết định, là nhân tố quyết định quan hệ phân phối.
Thứ hai, dưới chế độ công hữu, mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất. Quyền bình đẳng đó chỉ có thể chuyển thành quyền lợi lao động bình đẳng, trở thành tiền đề quan trọng để thu được lợi ích kinh tế.
Thứ ba, lý luận phân phối theo lao động của C. Mác thừa nhận tồn tại sự khác biệt về thu nhập và phủ nhận phân phối bình quân. Sự khác biệt này chính là sự công bằng trong phân phối, không phải là chủ nghĩa bình quân.
Như vậy, C. Mác xác định nguyên tắc phân phối trong chủ nghĩa xã hội, đó là phân phối theo lao động.
Nguyên tắc phân phối theo lao động được V.I. Lênin phát triển trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga: Người nào không làm thì không có ăn; Lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau.
Bên cạnh đó, V.I. Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới thay thế cho chính sách cộng sản thời chiến. Ông chủ trương nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và thừa nhận chủ nghĩa xã hội không thể xoá bỏ được kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ là tiền đề của phân phối theo lao động. Ông đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải thực hiện hạch toán kinh tế.
Như vậy, V.I. Lênin đã gắn trực tiếp thu nhập lao động với thành quả lao động và năng xuất lao động.
II. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân phối thu nhập
1.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phân phối thu nhập
Sau khi giải phóng (năm 1954), miền Bắc không chỉ buớc vào khôi phục, phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mà còn nhằm tạo cơ sở để đấu tranh thống nhất nước nhà. Xuất phát từ thực tiễn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức rằng, đảm bảo cho nhân dân đủ no là một nhiệm vụ quan trọng nhất. Nó bắt nguồn từ đòi hỏi bức thiết của người dân. Bởi thế người nhắc nhở phải đẩy mạnh sản xuất. Phát triển sản xuất là điều kiện để nâng cao đời sống nhân dân, phải ra sức sản xuất, thực hành tiết kiệm và phân phối công bằng, hợp lý: “sản xuất được nhiều, đồng thời phải chú ý phân phối cho công bằng. Muốn phân phối cho công bằng, cán bộ phải chí công, vô tư, thậm chí có khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt một phần nào. Chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác”. Tư tưởng phân phối phải công bằng được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm và luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên, những người có chức có quyền phải chăm lo thực hiện. Người viết: “hết sức chăm no đời sống nhân dân. Phải ra sức phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm, lại phải phân phối cho công bằng hợp lý, từng bước cải thiện việc ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức khoẻ và giải chí cho nhân dân. đặc biệt chú trọng các vùng bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ côi…”. Đứng trên quan điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng phê bình những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm của các cấp và cá nhân một số cán bộ đảng viên, người nhắc nhở: “Quần chúng rất thông cảm với hoàn cảnh thiếu hàng, quần chúng chỉ phàn nàn việc phân phối không công bằng. Vẫn còn một số cán bộ lạm dụng chức quyền, quan liêu, xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm với quần chúng”. Người đề nghị “phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít… không nên có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ, cũng công điểm như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân…”.
Những quan điểm và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang đậm tính nhân văn, nó được phát ra từ một con người mà suốt cuộc đời tận tuỵ với hoài bão cao cả là tất cả là “vì nhân dân”.
2. Quan điểm của Đảng ta về phân phối thu nhập
Từ khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến nay, Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối thu nhập là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế – xã hội của đất nước, liên qua trực tiếp đến cuộc sống của hàng chục triệu con người, đến động lực phát triển kinh tế, đến ổn định chính trị – xã hội và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế với những tư tưởng đích thực của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở sự đóng góp thực tế của mỗi người lao động, tài năng, vốn…vào quá trình sản xuất kinh doanh. để thực hiện phân phối cân bằng, cần phải:
Có sự bình đẳng giữa người góp vốn và người góp sức lao động trong phân chia kết quả sản xuất;
Sự bình đẳng giữa những người góp vốn được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai góp nhiêù được phân chia hiều, ai góp ít được phân chia ít; Sự bình đẳng giữa những người lao động được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai làm nhiều dược hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai làm hỏng phải chịu phạt, mọi người có sức lao động phải lao động.
Ngoài ra, xã hội phải điều tiết thu nhập cá nhân giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau do đóng góp sức lao động và các nguồn lực vào sản xuất khác nhau, nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “việc thực hiện đúng theo nguỷên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân…, áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và kết quả kinh tế”.
Phải thực hiện phân phối một cách công bằng ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Với quan điểm này, phân phối công bằng trước hết phải được thực hiện hợp lý tư liệu sản xuất. Các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội như tài nguyên, đất đai… thuộc quyền sở hữu của nhà nước phải phân phối sử dụng hợp lý trên cơ sở phân biệt rõ quyền sơ hữu và quyền sử dụng chúng.
III. Những nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, từ ba hình thức sở hữu cở bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phân kinh tế nay tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu có nguyên tắc phân phối phù hợp.
1. Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là sự vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó được thực hiện trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Kết quả lao động cụ thể của mỗi người, của một doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chỉ có thể được thừa nhận và làm căn cứ để phân phối khi sản phẩm của đơn vị đó (doanh nghiệp) được thị trường thừa nhận, bán được sản phẩm hàng hoá. Hiệu quả kinh tế là kết quả lao động của cá nhân và tập thể trong doanh nghiệp. Yêu cầu của phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là trong những điều kiện lao động như nhau, những lao động mang lại kết quả ngang nhau thì được trả công bằng nhau, những lao động mang lại kết quả khác nhau thì phải được trả công khác nhau.
Quá trình phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được thực hiện thông qua hai khâu phân phối với các chủ thể tham gia là Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp.
Khâu thứ nhất: tổng thu nhập của doanh nghiệp trước hết được phân chia giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước lấy lượng vốn đã giao cho doanh nghiệp sử dụng làm cơ sở để quy định phần thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước, phần cồn lại là thu nhập thực của doanh nghiệp. Nhà nước thông qua chính sách, các văn bản pháp quy về quản ký tiền lương đối với doanh nghiệp để tác động gián tiếp đến việc hình thành quỹ lương của doanh nghiệp.
Khâu thứ hai: phân phối thu nhập trong nội bộ trong doanh nghiệp do doanh nghiệp với tư cách một chủ thể tiến hành và dựa trên cơ sở kết quả lao động của mỗi người. Kết quả đó có thể xác định bằng thời gian hoặc bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra theo nhưng quy định cụ thể về chất lượng và do doanh nghiệp đánh giá.
Hai khâu phân phối trên không thể tách rời nhau, sự tác động giữa chúng tạo thành cơ chế phân phối thu nhập của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế còn được thực hiện dưới hình thức tiền lương,tiền thưởng và phúc lợi xã tập thể.
2. Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản là một đòi hỏi tất yếu và cũng là một nguyên tắc phân phối cơ bản. Vì thế, người sử dụng vốn và tư liệu sản xuất có đóng góp vào quá trình sản xuất phải nhận được thu nhập dưới hình thức tương ứng. Chỉ có như vậy người có vốn, tài sản mới đầu tư vốn và tài sản của mình vào sản xuất kinh doanh, mới huy động được mọi nguồn vốn trong xã hội để phát triển sản xuất.
Các hình thức phân phối cơ bản:
Trong thành phần kinh tế tư bản tư nhân, bộ phận giá trị mới được phân thành khoản trả công lao động và quản lý, khoản nộp thuế cho nhà nước, phần còn lại là lợi nhuận của nhà tư bản. Lợi nhuận là một hình thức thu nhập dựa vào sự đóng góp vốn và lao động quản lý của nhà tư bản.
Trong thành phần kinh tế tư bản nhà nước, nếu là công ty cổ phần, thì bộ phận giá trị mới được phân thành khoản trả công lao động và quản lý, khoản nộp thuế cho nhà nước, phần còn lại được được chia theo số lược cổ phần dưới hình thức lợi tức cổ phần.
Các đơn vị kinh tế, các tổ chức và các tầng lớp dân cư có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, chưa sử dụng, họ đem gửi vào ngân hàng hoặc cho vay để nhận được lợi tức.
Trong thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, người lao động dựa vào tư liệu sản xuất và lao động của bản thân cũng như của gia đình họ để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Ngoài các hình thức thu nhập nói trên, còn có các hình thức thu nhập khác như tiền cho thuê tài sản (nhà xưởng, thiết bị , nhà ở…).
3. phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Phân phối thông qua phúc lợi xã hội cũng là một nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có có nguyên tắc này, vì trong xã hội ngoài những nguời có sức lao động và có vốn góp vào quá trình sản xuất, nhờ có được thu nhập dưới hình thức tiền lương hay tiền công, lợi nhuận hay lợi tức, còn có những người không có khả năng lao động hoặc hết khả năng lao động, mà xã hội vẫn phải đảm bảo đời sống cho họ. Thêm vào đó, không phải mọi tiêu dùng cá nhân chỉ dựa vào thu nhập theo hai nguyên tắc phân phối trên, mà vẫn cần nhận được khoản thu nhập và dịch vụ công cộng về y tế, giáo dục, văn hoá…
Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên phân phối theo phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư; nâng cao mức sống của nhân dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, giáo dục ý thức cộng đồng.
Quỹ phúc lợi phân thành hai bộ phận, một bộ phận biến thành thu nhập cá nhân như lương hưu, tiền trợ cấp; một bộ phận khác được tiêu dùng chung như các công trình văn hoá, giáo dục, y tế,…
Đảng ta chủ trương: “… tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Vì thế cần phải xây dựng và sử dụng hợp lý các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể.
phần II
Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua
I. Thực trạng các chính sách phân phối
1. Thực trạng chính sách tiền lương
Tiền lương là là hình thức thực hiện của nguyên tắc phân phối theo lao động – nguyên tắc phân phối chủ yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tiền lương là cơ sở để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân người lao động và gia đình họ. Tiền lương là tụ điểm của mọi vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… vì thế tiền lương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các chính sách khác. Trong giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội, Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm đến việc cải cách hoặc điều chỉnh tiền lương cho phù hợp nhằm từng bước nâng cao mức sống của người lao động, thúc đẩy phát triẻn kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
Từ năm 1957 đến nay, Nhà nước đã nhiều lần cải cách tiền lương:
Năm 1985, Nhà nước đã thự hiện cải cách giá - lương – tiền;
Năm 1993, Nhà nước thực hiện cải cách tiền “luơng tối thiểu”, theo đó mức lương tối thiểu được áp dụng từ ngày 1-4-1993 là 120.000 đồng/tháng. đây là mức lương tối thiêu nhất, không có tiền lương tối thiểu vùng và tiền lương tối thiểu ngành.
Vào tháng 1-1997, giá cả sinh hoạt đã tăng 33% so với tháng 12-1993. trước tình hình đó chính phủ đã điều chỉnh mức lương từ 120.000 đồng/tháng lên 144.000 đồng/ tháng (tăng 20%).
Tháng 1-2000, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 50%so với tháng 12-1993, Chính phủ đã điều chỉnh mức lương tối thiểu áp dụng đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách là 180.000 đồng/tháng…
Tháng 1-2001 mức lương tối thiểu là: 210.000 đồng/tháng.
Tháng 1- 2003, mức lương tối thiểu được điều chỉnh lên 290.000 đồng/tháng. Tổng quỹ lương nhà nước tăng 13.302 tỷ đồng so với năm 2002. lần đầu tiên việc chi trả lương được bố trí từ bốn nguồn là: khoản chi tiết kiệm 10% chi thường xuyên; một phần nguồn thu phí, lệ phí để lại đơn vị; 50% số tăng thu ngân sách địa phương và nguồn ngân sách cấp trên.
2. Thực trạng chính sách thuế đối với phân phối thu nhập
Một trong những chức năng cơ bản của thuế là chức năng phân phối tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập quốc dân. Chức năng này được nhà nước vận dụng nhằm huy động một phần thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ vào quỹ của mình, để thực hiện các chức năng của nhà nước. Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế còn có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng điều tiết kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
2.1. Đối với thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là thuế nhằm điều tiết thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, nên về nguyên tắc, đối tượng đánh thuế là mọi hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam và đối tượng tiêu dùng, đối tượng nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ chịu thuế.
Thuế giá trị gia tăng áp dụng hai phương thức tính thuế:
Phương pháp tính thuế trực tiếp được áp dụng cho các hộ kinh doanh nhỏ, chưa thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán;
Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho các đơn vị, tổ chức kinh doanh chấp hành tốt công tác hạch toán kế toán và chế độ sử dụng hoá đơn…
2.2. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 quy định: mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàn hoá, dịch vụ có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp; thu nhập chịu thuế là toàn bộ thu nhập của cơ sở kinh doanh nhận được sau khi trừ đi các khoản chi phí hợp lý có liên quan đến thu nhập chịu thuế và các rthu nhập chịu thuế khác. Thuế được áp dụng chung cho các doanh nghiệp trong nước là 28%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 25%, đồng thời nếu chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. 2.3. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
Ngày 19-5-2001, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Pháp lệnh quy định: Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài và cá nhân khác định cư tại Việt Nam có thu nhập; người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập. Mức thuế thu nhập được áp dụng theo hai bảng biểu sau:
Bảng số 1: Biểu thuế đối với người có thu nhập cao
Đơn vị: 1.000 đồng
Bậc
Thu nhập bình quân tháng/người
Thuế suất (%)
Đối với công dân là người Việt Nam
1
Đến 5.000
0
2
Trên 5.000 đến 15.000
10
3
Trên 15.000 đến 25.000
20
4
Trên 25.000 đến 40.000
30
5
Trên 40.000
40
Đối với công dân là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam
1
Đến 8.000
0
2
Trên 8.000 đến 20.000
10
3
Trên 20.000 đến 50.000
20
4
Trên 80.000 đến 80.000
30
5
Trên 80.000
40
Nguồn: Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (23-4-2004).
Ngoài ra còn có một số loại thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế đánh vào một số loại hàng hoá đặc biệt như những hàng hoá cần hạn chế tiêu dùng như rượu, bia…hoặc những hàng hoá cao cấp như máy điều hoà, ôtô con…
3. Thực trạng chính sách xã hội
3.1. Chính sách giải quyết việc làm
Việt Nam là nước có dân số đông và trẻ, nền kinh tế còn kém phát triển, vì vậy, vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn hết sức trầm trọng. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Chính phủ thông qua Chương trình quốc gia về việc làm với ba hướng cơ bản:
Phát triển kinh tế tạo nhiều chỗ việc làm;
Cố gắng giữ chỗ việc làm đã có (chống sa thải hàng loạt);
Hỗ trợ cho người tìm kiếm việc làm.
Chương trình quốc gia về việc làm được thực hiện trên phạm vi cả nước trên cơ sở thành lập quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm bằng cách huy động các nguồn vốn của Nhà nước, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và dân cư cho vay với lãi suất thấp đối với các đối tượng có dự án tạo việc làm, hỗ trợ phát triển hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm.
3.2. Chính sách xoá đói giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, chính sách này được Nhà nước thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm 1992 đến nay.
Từ khi thực hiện Chương trình xoá đói, giảm nghèo (năm 1992) đến nay, Nhà nước thông qua các Chương trình quốc gia có liên quan đến mục tiêu xoá đói, giảm nghèo khoản trên 21.000 tỷ đồng, trong đó riêng hai năm 1999 và 2000 là khoảng 9.600 tỷ đồng. Nguồn lực đầu tư trực tiếp cho Chương trình xoá đói, giảm nghèo được tăng cường, trong đó riêng ngân sách nhà nước khoảng 2.000 tỷ đồng; hỗ trợ đồng bào dân tộc…Năm 2003, tổng số vốn Nhà nước đầu tư cho chương trình xoá đói giảm nghèo là 660 tỷ đồng với mục tiêu giảm 330.000 hộ nghèo, giải quyết đất cho trên 4.300 hộ nghèo, khoảng 2,7 triệu lượt hộ nghèo đượcvay ưu đãi…
Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong thời gian qua chúng ta đã giảm được 2 triệu hộ nghèo; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ trên 30% năm 1992 xuống còn 10% năm 2000, mỗi năm bình quân giảm 250.000 hộ. Tỷ lệ nghèo đói giảm đi ở thành thị và nông thôn, mức sống của người dân được cải thiện, điều đó thể hiện ở sự gia tăng thu nhập ở người nghèo và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế...
Những hạn chế về xoá đói giảm nghèo
Tỷ lệ đói nghèo ở nước ta còn cao. Theo chuẩn của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội công bố, tỷ lệ đói nghèo năm 1992-1993 là khoảng 30%, đến năm 2000 khoảng 10%, năm 2001 là 17,2%.
Sự phân hoá giàu, nghèo trong xã hội cũng ngày càng tăng. Theo kết quả của Tổng cục Thống kê, nếu so sánh thu nhập của 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất, thì chênh lệch nhau là 7,3 lần (năm 1996) đã tăng lên 8,9 lần (năm 1999). Còn hệ số chênh lệch mức sống giữa dân cư thành thị và nông thôn hiện nay còn khoảng 5-7 lần.
Các chỉ tiêu còn rất thấp so với mục tiêu đề ra. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao, khoảng 35% (năm 2000); tỷ lệ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo còn cao, bình quân hàng năm 7%.
3.3. Chính sách bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Thành tựu về chính sách bảo hiểm xã hội.
Các chính sách bảo hiểm xã hội trong thời gian qua đã được đổi mới theo hướng mở rộng đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho việc thực hiện có hiệu quả ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35655.doc