Lời nói đầu
Thực hiện nghị quyết đại hội IX của Đảng, trong ba năm đầu của kế hoạch 5 năm 2001-2005, tình hình kinh tế xã hội nước ta đã có bước phát triển mới, toàn diện hơn và vững chắc hơn so với thời kỳ trước đó. Kinh tế đã lắng lại đà tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng cao hơn năm trước. Các hoạt động sản xuất và dịch vụ đều phát triển và tăng trưởng cao, nhất là khu vực ngoài nhà nước do tác động tích cực của luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài và các chính sách kinh tế xã hội của n
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân phối thu nhập trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà nước. Nhờ đó thu nhập và đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện theo hướng tăng nhanh và ổn định hơn các thời kỳ trước đó.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh
Mỗi người lao động khi làm việc đều mong muốn đạt được năng suất lao động cao để có được thu nhập cao, đảm bảo nhu cầu cho cuộc sống của bản thân và gia đình. Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập của người lao động đã được tăng cao, do vậy trong tổng thể nền kinh tế việc phân chia thu nhập là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa to lớn. Đó là lý do em lựa chọn đề tài này
Với những ý nghĩa đã đề cập ở trên, đòi hỏi mỗi cá nhân là chủ thể kinh tế trong nền kinh tế phải nhận thức đúng về vấn đề phân phối do đó chúng ta hãy đi làm sáng tỏ vấn đề phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
Lý luận chung về phân phối
Trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu thế nào là phân phối
“Phân phối là phân phối tổng sản phẩm xã hội và phân phối thu nhập quốc
dân và nó được thực hiện dưới các hình thái, phân phối hiện vật và phân phối dưới hình thái giá trị”
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác- LêNin
Mác LêNin cho rằng phân phối là vấn đề rộng lớn liên quan đến các hoạt động kinh tế văn hoá xã hội…của nhà nước và của nhân dân lao động. Đối với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, bản chất của phương thức phân phối là bất công và nó dựa trên cơ sở quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản với người lao động, Mác và Anghen đã vạch trần bản chất và phê phán phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đồng thời trong quá trình đó, Mac và Anghen đã nêu lên quan điểm và nguyên tắc cơ bản về phân phối. Lý luận phân phối của Mac và Anghen đã thật sự đặt nền móng và là khởi nguyên cho lý luận phân phối thu nhập trong chủ nghia xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga, dựa trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Mác và Anghen, Lênin đã làm rõ hơn và cụ thể hoá các quan điểm và nguyên tắc phân phối trong chủ nghĩa xã hội. Theo Lê Nin để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hiện thực thì nhiệm vụ có ý nghĩa trọng đại hơn cả xây dựng kinh tế . Trong nhiệm vụ đó, nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn diện đối với sản xuất và phân phối các sản phẩm thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản.
Lý luận về phân phối của Mác và Anghen được thể hiện ở các luận điểm
1.1. Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế xã hội nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước xã hội công bằng văn minh
Phân phối thu nhập quốc dân như thế nào không chỉ là vấn đề tính toán đơn thuần hay vấn đề thống kê mà chính là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực phân phối là biểu hiện của quan hệ sản xuất nhất định. Trong xã hội có giai cấp, vấn đề phân phối quyết định mức sống chênh lệch giữa giai cấp khác nhau. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vấn đề phân phối đóng vai trò quan trọng đối với đời sống nhân dân lao động. Phương thức phân phối thu nhập quốc dân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là do chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất quyết định, nó nhằm phục vụ sự làm giàu của chủ nghĩa tư bản, phương thức phân phối thu nhập quốc dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là do chế độ sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất quyết định, nó nhằm bảo đảm tái sản xuất mở rộng không ngừng với tốc độ cao và trên cơ sở đó không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Việc phân phối và sử dụng thu nhập quốc dân trong xã hội chủ nghĩa nhằm phục vụ lợi ích cho toàn xã hội cụ thể.
Bảo đảm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa, bảo đảm củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa
- Bảo đảm những tỷ lệ cần thiết của nền kinh tế theo yêu cầu của quy luật phát triển có kế hoạch cân đối nền kinh tế quốc dân, bảo đảm tái sản xuất mở rộng không ngừng với tốc độ cao
- Tạo khả năng thoả mãn nhu cầu về vật chất và văn hoá thường xuyên tăng lên của toàn xã hội theo yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội
- Củng cố độc lập về kinh tế tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước
Nhưng không phải toàn bộ thu nhập quốc dân đều đem chia hết cho các thành viên trong xã hội mà phải dành một phần thích đáng vào việc mở rộng sản xuất và phát triển sự nghiệp công ích. Việc phân phối thu nhập quốc dân được tiến hành bằng nhiều lần phân phối, phân phối lần đầu và phân phối lại
Phân phối lần đầu dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là việc phân phối thu nhập quốc dân thành những hình thức thu nhập của công nhân viên chức công tác trong những lĩnh vực sản xuất và dưới hình thức thu nhập thuần tuý được để lại dưới hình thức lợi nhuận,và một phần nữa là thu nhập thuần tuý được tập trung vào ngân sách nhà nước dưới hình thức thu nhập quốc doanh tiền trích lợi nhuận, tiền trích bỏ vào quỹ bảo hiểm…Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhà nước co tham gia vào quá trình phân phối lần đầu vì nhà nước là người thay mặt cho nhân dân làm chủ các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân.
Đó là một trong những điều khác nhau giữa nhà nước tư sản với nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sau khi phân phối lần đầu được tiến hành trong khu vực sản xuất,thu nhập quốc dân còn được phân phối lại.Quá trình phân phối lại được tiến hành bằng ba con đường sau:
- Ngân nà nước hay nói chung là toàn bộ hệ thống tài chính của nhà nước bao gồm các hoạt động của cơ quan ngân hàng và tài chính
- Là hệ thống giá cả hàng hoá tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng
- Là sự chi tiêu công ích của những người lao động
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, việc phân phối lại thu nhập quốc dân không phải là bòn rút thu nhập của người lao động để phục vụ bộ máy quan liêu cồng kềnh, hoạt động thương nghiệp đều chạy theo lợi nhuận bằng cách bóc lột. Quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân xã hội chủ nghĩa là quá trình tăng thêm quỹ tiêu dùng của người lao động bằng cách tăng các quỹ tiêu dùng công cộng, việc tăng quỹ tiêu dùng công cộng này chủ yếu dựa vào thu nhập của nhà nước qua phân phối lại lần đầu như lợi nhuận do xí nghiệp nộp cho nhà nước, thu nhập quốc doanh… chứ không phải chủ yếu dựa vào thuế đánh vào thu nhập của người lao động như tư bản chủ nghĩa. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, sự đóng góp của nhân dân lao động bằng thu nhập lần đầu của mình ngày càng giảm và chiếm tỷ lệ không đáng kể. Trong bước đầu của thời kỳ quá độ, do còn có nhiều thành phần kinh tế còn nhiều giai cấp nên phân phối lại thu nhập quốc dân còn nhiều hạn chế thu nhập của giai cấp bóc lột để góp phần vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và tăng mức tiêu dùng của nhân dân. Do đó quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân trong xã hội xã hội chủ nghĩa là quá trình làm tăng mức thu nhập của người lao động. Do đó mới có điều kiện đảm bảo cho đời sống nhân dân, thực hiện các mục tiêu của Đảng và nhà nước đề ra.
1.2. Chủ nghĩa Mác-Lê nin khẳng định phân phối lại không phải là một hiện tượng cô lập mà là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội
Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm 4 khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất, phân phối là một quá mắt xích trung gian trong quá trình tái sản xuất. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Quy mô, cơ cấu và trình độ phát triển của sản xuất quy mô và cơ cấu của phân phối. Sản xuất đóng vai trò quyết định, còn phân phối trao đổi và tiêu dùng phụ thuộc vào sản xuất, do sản xuất quyết định nhưng nó lại có tác động tích cực trở lại đối với sản xuất .
Anghen nói: “Phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực của sản xuất và của trao đổi, đến lượt nó, nó cũng tác động trở lại đối với sản xuất và trao đổi”
Quan hệ phân phối có tính chất cụ thể. Mỗi phương thức sản xuất có một quan hệ phân phối riêng, thích hợp với tính chất của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Lich sử xã hội loài người đã trải qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau do đó cũng có nhiều phương thức phân phối khác nhau. Quan hệ phân phối do quan hệ sản xuất trước hết là quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất thì có quyền chi phối quan hệ phân phối theo quyền lợi của giai cấp công nông
Phân phối và trao đổi có quan hệ mật thiết với nhau, trao đổi là tiếp tục của phân phối trong nền kinh tế thị trường, phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị. Người nhận được thu nhập tiền tệ đó sẽ làm biến thành thu nhập thực tế bằng việc mua hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Với một thu nhập danh nghĩa nhất định sẽ chuyển thành khối lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào giá cả thị trường. Đó chính là phân phối
Phân phối còn có quan hệ mật thiết với tiêu dùng. Việc tăng hay giảm sản phẩm phân phối đều có tác động trực tiếp đến mức độ tiêu dùng. Ngược lại cơ cấu, phương thức, trình độ của người tiêu dùng có tác động thúc đẩy hoặc làm kìm hãm sự tăng trưởng của phân phối
Phân phối là một khâu độc lập tương đối trong quá trình tái sản xuất nó luôn có tác động qua lại một cách biện chứng với các khâu khác của quá trình tái sản xuất xã hội
1.3. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định
Các Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất:… “ Các quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với các quan hệ sản xuất ấy, thành thử cả hai đều có chung một tính chất lịch sử nhất thời ấy”. Theo Anghen thì: “ Trên những nét chủ yếu của nó, sự phân phối trong mỗi trường hợp đều là kết quả tất yếu của những quan hệ sản xuất và trao đổi trong một xã hội nhất định.
Phân phối được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, phân phối theo nghĩa rộng là phân phối tổng sản phẩm xã hội, nó bao gồm phân phối các yếu tố sản xuất và phân phối tư liệu tiêu dùng. Phân phối các yếu tố sản xuất, nó có trước sản xuất đồng thời phát sinh trong quá trình sản xuất. Trước khi sản xuất, cần phải phân phối các yếu tố sản xuất cho các ngành và các doanh nghiệp khác nhau để sản xuất ra các sản phẩm khác nhau. Không có sự phân phối các yếu tố sản xuất quyết định tính chất phân phối tư liệu tiêu dùng. Các Mác đã chỉ rõ: “ Bất kỳ một phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất…”. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau. Khi lực lượng sản xuất biến đổi và do đó quan hệ sản xuất biến đổi thì quan hệ phân phối cũng biến đổi. Theo Các mác, mỗi một hình thái phân phối đều biến đổi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy và đẻ ra hình thái phân phối ấy Các Mác chỉ rõ: “ Phương thức tham gia nhất định vào sản xuất quy định hình thái theo đó người ta tham dự vào phân phối”. Phân phối là hình thức thực hiện cả về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất,
1.4. Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của Các Mác
Trong xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản xuất làm
chủ quá trình sản xuất và phân phối. Toàn bộ sản phẩm thuộc về xã hội nên nó được phân phối vì lợi ích của toàn xã hội, nhằm thoả mãn ngày càng cao hơn nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân. Tuy nhiên toàn bộ sản phẩm xã hội không phải phân phối hết cho tiêu dùng cá nhâ. Mác đã vạch ra sơ đồ phân phối toàn bộ sản phẩm xã hội như sau
Trước hết dành cho các khoản
- Phần thay thế những tuw liệu sản xuất đã hao phí trong quá trình sản xuất
- Phần tích luỹ để tái sản xuất mở rộng
- Phần dự trữ để đề phòng bất trắc có biến cố bất ngờ: chiến tranh, thiên
tai…
Những khoản trên là nhu cầu tất yếu về kinh tế để đảm bảo không ngừng tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa đảm bảo sự tồn tại và phát triển của một nhà nước độc lập tự chủ. Phần còn lại dành cho tiêu dùng nhưng trước khi phân phối cho cá nhân phải khấu trử.
- Phần để chi phí về quản lý hành chính và quốc phòng.
- Phần để mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng như trường học, cơ
sở y tế, văn hoa, thể dục thể thao.(Xã hội càng phát triển thì các khoản này càng tăng)
- Phần để nuôi dưỡng những người không có khả năng lao động
Sau đó số sản phẩm còn lại được đem phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân và người lao động. Mục đích của quỹ tiêu dùng nhằm năng cao đời sống của xã hội và tái sản xuất sức lao động. Quỹ tích luỹ là phân phối giá trị trong thu nhập quốc dân xã hội chủ nghĩa dùng để mở rộng và cải tiến sản xuất, xây dựng các quỹ dự trữ và xây dựng các công trình văn hoá xã hội không có quỹ tích luỹ thì sản xuất không mở rộng được do đó xã hội không phát triển được. Quỹ tích luỹ gồm một bộ phận lớn dùng để mở rộng sản xuất, một bộ phận nữa dùng làm quỹ bảo hiểm xã hội hoặc quỹ dự trữ đề phòng sản xuất bị gián đoạn do thiên tai bất ngờ hoặc do các nguyên nhân khác.
Mục đích của quỹ tích luỹ là tăng thêm vốn cố định sản xuất, vốn lưu động sản xuất, vốn luân chuyển, vốn dự trữ và các vốn không sản xuất như bệnh viện, trường học…
Vốn tích luỹ của xã hội bao gồm vốn tích luỹ nằm trong ngân sách nhà nước trong quỹ hợp tác xã và cả trong mỗi hộ nông dân( phần thu nhập để mở rộng sản xuất và thu nhập nhà ở)
Sơ đồ phân phối nêu trên của Các Mác là sơ đồ phân phối ở tầm vĩ mô, vạch rõ khái quát việc phân phối tổng sản phẩm xã hội. Nó vừa đảm bảo tái sản xuất mở rộng, vừa đảm bảo nhu cầu chung của xã hội và của cá nhân cũng như sự tiến bộ xã hội.
1.5. Lý luận phân phối theo lao động của Các Mác
Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu công cộng về tuw liệu sản xuất hoặc hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn của các thành viên bằng nhau. Khi nghieen cứu nguyên tắc của chủ nghĩa Mac đã chỉ ra rằng, giá trị mới sáng tạo ra được phân chia cho các giai cấp dựa vào sự đóng góp của các yếu tố sản xuất: Một bộ phận được phân phối cho người sở hữu sức lao động theo giá trị sở hữu sức lao động, một bộ phận khác được phân phối cho người sở hữu tuw liệu sản xuất. Giá trị mới được phân thành tiền công, lợi nhuận, lợi tức và địa tô. Tiền công là thu nhập của người lao động và là hình thức thực hiện của quyến sở hữu lao động, lợi nhuận là thu nhập của nhà tư bản và là hình thức thực hiện của quyền chiếm hữu ruộng đất.
Về tiền công, các Mác đã phát hiện ra nguyên tắc có tính phổ biến trong chủ nghĩa tư bản là tiền công ở mức tối thiểu. Tiền công là một quan hệ kinh tế diễn ra tại khu vực sản xuất, kinh doanh của doanh nghieep. Theo Cac Mac: “Chi phí sản xuất của lao động đơn giản quy lại thành chi phí sinh hoạt của người công nhân và chi phí để tiếp tục duy tri giống nòi của anh ta. giá cả những chi phí sinh hoạt và chi phí để tiếp tục giống nòi đó là tiền công. Tiền công được quy định như vậy gọi là tiền công tối thiểu”
Các mac và Anghen đã sáng tạo và phát triển những maam mống tư tưởng về phân phối theo lao động của chủ nghĩa xã hội không tưởng và sáng tạo ra lý luận phân phối theo lao động của chủ nghĩa xã hội khoa học: Cac Mac khẳng định phương thức phân phối mới: Lấy lao động làm thước đo để phân phối. Cac mác đã chỉ rõ trong thể liên hieep của những người lao động tự do, “Phần tư liệu sinh hoạt chia cho mỗi người sản xuất sẽ do thời gian lao động của người đó quyết định. Trong điều kiện ấy, thời gian lao động sẽ đóng một vai trò hai mặt. Việc phân phối thời gian lao động theo một kế hoạch xã hội sẽ quy định một tỷ lệ đúng đắn giữa chức năng lao động khác nhau và các yêu cầu khác nhau. Mặt khác thời gian lao động đồng thời cũng dùng để đo phần tham gia cá nhân người sản xuất vào lao động chung do đó cả cái phần tham dự của anh ta vào bộ phận có thể sử dụng cho tiêu dùng cá nhân trong toàn bộ sản phẩm.”
Lý luận phân phối theo lao động của Cac Mác gồm hai bộ phận: điều kiện tiền đề để phân phối theo lao động, nguyên tắc và phương thức phân phối theo lao động. Tiền đề để thực hiện phân phối theo lao động gồm hai mặt có quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau: Một là phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hai là phân phối theo lao động được thực hiện trong điều kiện kinh tế dựa trên chế độ sở hữu.
Dựa trên những điều kiện tiền đề đó Các Mác đã vạch ra những nguyên tắc và phương thức phân phối theo lao động. Theo Các Mác, chủ thể phân phối là những người lao động, đối tượng bị phân phối là tư liệu tiêu dùng, tức là tổng sản phẩm xã hội sau khi đã trừ đi sáu khoản phải khấu trừ, căn cứ để phân phối là thời gian lao động, phương thức thực hiện phân phối theo lao động là phiếu lao động “Cùng một lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này thì anh ta nhận trở lại của xã hội dưới một hình thức khác”. Như vậy thời gian lao động là thước đo khach quan của phân phối, thực hiện trao đổi ngang nhau, sự khác biệt về lao động, do đó sự khác biệt về thu nhập sẽ tồn tại “ Quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người đó đã cung cấp” chỉ đến giai đoạn cộng sản chủ nghĩa mới có thể thực hiện “ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”
1.6. Giá trị lý luận phân phối theo lao động của các Mác
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và cũng không thể phân phối bình quân mà chỉ có thể phân phối lao động. Lý luận phân phối theo lao động càng có giá trị rất quan trọng
Các Mác coi trình độ phát triền của lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu là do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, là nhân tố quyết định quan hệ phân phối. Theo Các Mác,chủ nghĩa xã hội là nấc thang cao hơn chủ nghĩa tư bản có lực lượng sản xuất phát triển, chế độ công hữu được thiết lập thì sự phân phối tư liệu sản xuất phát triển, chế độ công hữu được thiết lập thì sự phân phối tư liệu tiêu dùng cho cá nhân tất yếu phải được phân phối theo lao động.
Dưới chế độ công hữu, mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất. Quyền bình đẳng đó chỉ có thể chuyển hoá thành quyền lợi lao động bình đẳng , lao động trở thành phương tiện mưu sinh, trở thành tiền đề quan trọng để thu được lợi ích kinh tế .Như vậy, Các Mác đã xác lập cơ sở của mối liên hệ nội tại giữa lao động và thu nhập, lao động trở thành điều kiện tất yếu để nhận được thu nhập
Lý luận phân phối theo lao động của C. Mác thừa nhận tồn tại sự khác biệt về thu nhập và phủ nhận phân phối bình quân. Nhưng sự khác biệt này chính là sự công bằng trong phân phối mà không phải là chủ nghĩa bình quân. C.Mac đã xác định nguyên tắc phân phối trong chủ nghĩa xã hội , đó là phân phối theo lao động. Nhưng phương thức phân phối đó được thiết kế trên cơ sở giả định kinh tế hàng hoá đã tiêu vong. Do đó, kinh tế sản phẩm là điều kiện kinh tế , xã hội để thực hiện phân phối theo lao động. Nhà nước trực tiếp tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm, vì thế việc áp dụng vào thực tiễn cần phải giải quyết một số vấn đề cụ thể.
Nguyên tắc phân phối theo lao động còn được Lê Nin phát triển trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga. Lê Nin đã nêu một cách rõ ràng khái niệm phân phối theo lao động: Một là người nào không làm thì không có ăn, hai là số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau. Do đó Lê Nin đã đề ra phải thực hiện chế độ lao động nghĩa vụ, thông qua đó mới thực hiện được phân phối theo lao động, vì thế “ai không làm thì không được ăn”, đó là điều lệnh thực tiễn của chủ nghĩa xã hội phải tổ chức một cách thực tế như thế đó. Để phân phối được hợp lý, cần phải tính toán và đôn đáo một cách chính xác, tỉ mỉ nhất, có tinh thần trách nhiệm nhất trong phạm vi toàn dân, tức là thực hiện chế độ giám sát và đôn đốc của công nhân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm.
Như vậy, Lê Nin chỉ ra rằng trong chủ nghĩa xã hội việc phân phối sản phẩm tiêu dùng của người lao động không thể được thực hiện theo chế độ phân phối binh quân.Tiền lương và tiền thưởng phải liên hệ mật thiết với nhau, đồng thời được quyết định ở mức hoàn thành kế hoạch sản xuất. Ông phê bình nghiêm khắc việc biến thưởng hiện vật thành lối bình quân phụ thuộc vào lương và đề xuất quỹ thường cần được tiến hành phân phối hợp lý, nên dùng để thưởng cho những người làm kinh tế có biểu hiện tinh thần dũng cảm, chăm chỉ có trách nhiệm, tài giỏi và hết lòng trung thành. Như vậy Lê Nin đã gắn trực tiếp lao động với thành quả lao động và năng suất lao động.
Tuy vậy theo Cac Mac phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong khuôn khổ “ Pháp quyền tư sản”, tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng hoá, theo nguyên tắc sự trao đổi hoàn toàn ngang giá. Sự bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung cấp, sự bình đẳng ấy còn thiếu sót là “ Với một công việc ngang nhau và do đó với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia.
2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh
Hồ Chủ Tịch là vị lãnh tụ của toàn thể dân tộc Việt Nam, cả cuộc đời người cống hiến cho cách mạng chỉ với mục đích duy nhất là nước ta được độc lập, mọi người đều hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Sau khi giải phóng Miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội , Hồ Chí Minh rất quan tâm đến phân phối thu nhập. Chủ tich Hồ Chí Minh ý thức rằng đảm bảo cho nhân dân đủ no là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nó bắt nguồn từ đòi hỏi bức thiết của người dân do đó Người nhắc nhở phải đẩy mạnh sản xuất. Người nói: “ Đời sống ví như chiếc thuyền, sản xuất ví như nước. Mực nước lên cao thì con thuyền càng nổi lên cao.” Cho nên “ Các cấp bộ Đảng cần phải thấy hết khả năng của địa phương, nhận rõ trách nhiệm đối với đời sống nhân dân…, để cố gắng hơn nữa trong phát triển kinh tế …”, phát triển sản xuất là điều kiện để nâng cao đời sống nhân dân phải ra sức sản xuất và thực hành tiết kiệm nhưng phải phân phối cho công bằng hợp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “ Sản xuất được nhiều, đồng thời phải phân phối cho công bằng. Muốn phân phối cho công bằng cán bộ phải chí công vô tư, thậm chí có khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt thòi một phần nào. Chớ nên coi cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác”. Tư tưởng phân phối phải công bằng được chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm và luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên, những người có chức có quyền phải chăm lo thực hiện, phải ra sức phải ra sức phát triển thực hiện tiết kiệm lại phải phân phối cho công bằng hợp lý, từng bước cải thiện ăn, ở, học, phục vụ sức khoẻ và giải trí của của nhân dân. Đặc biệt chú ý các vùng bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ già yếu, gia đình thương binh liệt sỹ, có công với cách mạng. Tư tưởng phân phối công bằng hợp lý của chủ tich Hồ Chí Minh được gắn liền với yêu cầu phải làm tốt chính sách bảo đảm xã hội. Hồ Chí Minh nhắc nhở “ Quần chúng rất thông cảm với hoàn cảnh thiếu hàng, quần chúng chỉ phàn nàn việc phân phối không công bằng, vẫn còn một số cán bộ lạm dụng chức quyền, quan liêu, xa rời quần chúng…”. Người đề nghị phải làm tốt công tác lưu thông phân phối: “ Khi có vật tư, hàng hoá thiếu, mà phân phối không đúng, thì gây ra căng thăng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân phối có hai điều quan trọng luôn luôn nhớ:
Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên”
Người đề nghị phải “ Làm đúng nguyên tắc phân phối theo lao động” Người còn nêu rõ “ Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều được phân phối nhiều, lao động ít được phân phối ít. Không nên có tình trạng người giỏi, người kém, việc dễ, việc khó cũng công bằng như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân, phải tránh chủ nghĩa bình quân”
Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những quan điểm, tư tưởng cơ bản vềphân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Những quan điểm và tư tưởng mang đậm tính nhân văn và tư tưởng của người.
3. Quan điểm của Đảng ta về phân phối thu nhập
Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối thu nhập là một nội dung quan
trọng trong chính sách kinh tế – xã hội của đất nước, liên quan trực tiếp đến cuộc sống của hàng chục triệu người, đến động lực phát triển kinh tế , đến ổn định chính trị xã hội và nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước. Đảng ta xác định phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở sự đóng góp thực tế của mỗi người về lao động, tài năng, vốn sản xuất… vào quá trình sản xuất kinh doanh. Để thực hiện phân phối công bằng cần phải:
- Có sự bình đẳng giữa người góp vốn và người góp sức lao động trong phân chia kết quả sản xuất.
- Sự binh đẳng giữa người góp vốn được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai góp nhiều được phân chia nhiều, ai góp ít được phân chia ít.
- Sự bình đẳng giữa những người lao động được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai làm nhiều, làm tốt được hưởng nhiều, ai làm ít, ai làm hỏng phải chịu phạt, mọi người có sức lao động.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định : “ việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân …, áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế .
Phải thực hiện phân phối một cách công bằng “ ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”. trong quá trình phân phối kết quả sản xuất phải : “thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lảo động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động”. đây là quan điểm mới về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta bắt nguồn từ mục tối cao của Đảng là dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
4. Nguyên tắc phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
4.1. Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng của phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội VIII của Đảng đã đề ra những quan điểm chỉ đạo việc hoạch định hệ thống chính sách xã hội
- Tăng trưởng kinh tế phải liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả lao động
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động
Khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo. Thu hẹp dần về trình độ phát triển về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, tầng lớp dân cư, đại hội IX nhấn mạnh: “ Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ, phát triển sản xuất tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện công bằng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”.
Hiệu quả là sự vận hành kinh tế nhằm bằng mọi khả năng thoả mãn mọi nhu cầu của mọi người trong điều kiện bị ràng buộc về tài nguyên và kỹ thuật.Công bằng về cơ bản là một khái niệm thuộc về lĩnh vực hình thái ý thức, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như chính trị, đạo đức, tâm lý. Do đó phải phân phối hợp lý giữa hiệu quả và công bằng phân phối. Không phải phân phối thu nhập không công bằng là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế mà trái lại sự phân phối thu nhập công bằng trên thực tế chính là điều kiện để tăng trưởng kinh tế . Bởi vì, thu nhập thấp và mức sống thấp của phần lớn người dân sẽ làm cho tình trạng dinh dưỡng, sức khoẻ và giáo dục kém, do đó sẽ làm giảm năng suất lao động của họ, vì thế dẫn đến kinh tế phát triển chậm. Sự phân phối thu nhập công bằng có tác dụng như một hình thức kích thích vật chất và tâm lý đối với quần chúng tham gia vào phát triển kinh tế .Đồng thời tăng thu nhập cho người nghèo cũng sẽ tăng nhu cầu đối với các nhu yếu phẩm, sự tăng lên của nhu cầu sẽ kích thích sản xuất, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Vì thế, phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể theo quan điểm “ được cái này thì mất cái kia” tức là muốn tăng trưởng kinh tế cao thì phải hy sinh công bằng, mà phải đảm bảo sự thống nhất giữa công bằng và hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sự thống nhất giữa hiệu quả công bằng là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu chung của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân nhưng điều đó lại tuỳ thuộc vào sự tăng trưởng của của cải xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả là biện pháp quan trọng để tăng của cải, nếu không chú ý tới hiệu quả, tách rời mục tiêu phát triển và tăng thêm của cải thì xã hội sẽ đình trệ, đất nước sẽ lạc hậu. Do đó tìm cách nâng cao hiệu quả tăng thêm của cải là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Nhưng mục đích nâng cao hiệu quả, tăng thêm của cải không phải là để thoả mãn nhu cầu và sự hưởng lạc của một số ít người mà là để thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của toàn thể nhân dân. Vì thế đồng thời với việc nhấn mạnh mục tiêu hiệu quả cần phải thực hiện phân phối thu nhập._. công bằng. Như vậy sự vận động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải thống nhất giữa hiệu quả và công bằng không nên thiên lệch về phía nào. Tuy nhiên sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu sẽ hình thành khoảng cách thu nhập, nhưng khoảng cách thu nhập cần được giữ ở mức vừa phải hợp lý. Chỉ có như vậy mới kích thích việc nâng cao hiệu quả kinh tế , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Nếu khoảng cách thu nhập quá nhỏ hoặc quá lớn sẽ dẫn đến mở rộng mâu thuẫn giữa công bằng và hiệu quả, làm giảm sút hiệu quả kinh tế , không có lợi cho sự tiến bộ và phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Do vậy phân phối thu nhập phải đảm bảo sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng.
4.2 Những nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế nước ta không còn là nền kinh tế tự cung tự cấp mà là nền kinh tế thị trường.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đưa ra quan điểm: “ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý bảo hộ quyền lợi của người lao động”
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu là sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân( gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân). Từ ba hình thức hình thức sở hữu cơ bản đó và hình thành nhiều thành phần kinh tế . Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài , trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế thị trường có nhiều quy luật: Cung cầu, giá tri, cạnh tranh … như vậy một cách khách quan kinh tế thị trường vừa tạo điều kiện để xoá đói giảm nghèo vừa không ngừng tạo ra sự giàu nghèo mới trong xã hội. Chúng ta không hy vọng chỉ lợi dụng mặt tăng trưởng và hiệu quả của cơ chế thị trường mà loại bỏ mặt phân phối không công bằng của nó. Bởi vì bản thân sự không công bằng chính là cơ chế kích thích sáng tạo qua tác động lợi ích cá nhân của cơ chế thị trường gây ra. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ phân phối, vì vậy tương ứng mỗi thành phần kinh tế , mỗi hình thức sở hữu có nguyên tắc phân phối thu nhập phù hợp.
4.1.Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
Phân phối theo là đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nếu xoá bỏ phân phối theo lao động, thì chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sẽ không được thực hiện về mặt kinh tế, quyền bình đẳng của người lao động trở nên ít tác dụng, tính định hướng XHCN khó được thực hiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nêu lên nguyên tắc: " Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn vào các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội chứ không phải trong mọi xã hội, điều này được Mác trình bày trong " Phê phán cương lĩnh GoTa", ông vạch rõ rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi các khoản cần thiết, để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì cuộc sống cộng đồng, toàn bộ sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc. Mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã trừ đi số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội. Mác coi đây là nguyên tắc phân phối cơ bản trong chủ nghĩa xã hội vì nó là thành quả của lao động, tác động trực tiếp vào tính tích cực của lao động xã hội. Đó còn là nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng cho những người sản xuất ngang nhau, tham gia vào quỹ tiêu dùng xã hội khi làm công việc ngang nhau. Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là sự vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nó được thực hiện trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Kết quả lao động cụ thể của mỗi người, của một doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chỉ có thể được thừa nhận, bán được sản phẩm hàng hoá. Hiệu quả kinh tế được thể hiện ở kết quả lao động của cá nhân và tập thể trong doanh nghiệp. Yêu cầu của phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế trong những điều kiện lao động như nhau, những lao động mang lại kết quả như nhau thì được trả công bằng nhau, những lao động mang lại kết quả khác nhau thì được trả công khác nhau.
Quá trình phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được thực hiện thông qua hai khâu phân phối với các chủ thể tham gia là nhà nước, doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp. Khâu thứ nhất tổng thu nhập của doanh nghiệp trước hết được phân chia giữa nhà nước và doanh nghiệp.Khâu thứ hai phân phối thu nhập trong nội bộ doanh nghiệp với tư cách là chủ thể tiến hành và dựa trên cơ sở kết quả lao động của mỗi người. Hai khâu phân phối trên không thể tách rời nhau, sự kết hợp chúng tạo thành cơ chế phân phối thu nhập của doanh nghiệp. Phân phối thu nhập qua hai khâu vừa bảo đảm quyền của chủ sở hữu vốn tài sản tại doanh nghiệp, thực hiện chức năng quản lý của nhà nước, vừa đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp trong phân phối thu nhập. Bên cạnh đó, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế còn thực hiện dưới hình thức tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng và phúc lợi xã hội.
Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động sau khi đã hoàn thành các công việc theo chức năng, nhiệm vụ được thoả thuận trong hợp đồng lao động. Lương tối thiểu là một hình thức phân phối căn cứ vào mức sống tối thiểu và tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của một nước trong từng thời kỳ và mỗi vùng trong một nước. Việc quy định tiền lương tối thiểu bằng văn bản có tính chất pháp lý tạo ra lưới an toàn cho người lao động thu nhập thực tế của người lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu tuỳ thuộc vào kết quả lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu tuỳ thuộc vào kết quả lao động và hiệu quả của doanh nghiệp.
Phụ cấp lương là chế độ được hình thành bởi sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Các loại phụ cấp đó gồm phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút lao động, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp làm thêm giờ... Ngoài ra còn áp dụng một số chính sách phụ cấp lương cho các ngành nghề ưu tiên phát triển như giáo dục, đào tạo, y tế...
Tiền thưởng là khoản các doanh nghiệp lấy từ lợi nhuận để phân phối nhằm khuyến khích, động viên người lao động hoặc tập thể làm việc tốt, có thành tích đặc biệt.
Phúc lợi xã hội cũng là một hình thức làm tăng thêm thu nhập cho người lao động do kết quả lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể được thông qua xây dựng nhà ở, công trình phục vụ công nhân về vui chơi, giải trí …
4.2 Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản là một đòi hỏi tất yểu và cũng là một nguyên tắc phân phối cơ bản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Tương ứng với cơ cấu sở hữu như vậy đòi hỏi phải thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối thep kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu. Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản là một tất yếu và có ý nghĩa thực tế, do đó cần xem nó cũng là một nguyên tắc phân phối cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
4.3 Phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Trong xã hội ngoài những người có sức lao động và vốn góp vào quá trình sản xuất, nhờ đó nhận được thu nhập dưới hình thức tiền lương hay tiền công lợi tức, còn có những người không có khả năng lao động hoặc hết khả năng lao động mà xã hội vẫn phải đảm bảo đời sống cho họ. Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng XHCN, nên phân phối thông qua phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
II. Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam
Thực trạng các chính sách phân phối thu nhập
Chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương là bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội liên quan trực tiếp đến lợi ích, phân phối thu nhập của hàng triệu người lao động, ảnh hưởng tới sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, nhà nước với tư cách là chủ thể sở hữu, nhà nước quyết định chính sách phân phối thông qua việc ban hành hêj thống lương bao gồm lương tối thiểu, hệ thống thang lương, bảng lương. Tiền lương và thu nhập của người lao động từng bước gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh mối quan hệ giữa tiền lương, tiền thưởng và lợi nhuận được giải quyết hợp lý hơn
Tuy nhiên mối quan hệ giữa tiền lương và các điều kiện thực hiện còn chứa đựng những yếu tố chưa phù hợp với cơ chế thị trường nên thực hiện tác dụng rất hạn chế, hệ thống thang bảng lương do nhà nước ban hành phức tạp, ít tác dụng. Nhà nước thống nhất quản lý chi phí tiền lương ở đầu vào còn chưa chặt chẽ. Nhà nước quy định mức lương tối thiểu và không có ý khống chế mức lương tối đa nhưng khống chế tốc độ tăng tiền lương phải thấp hơn năng suất lao động. Những cải cách này tuy đã giảm được sự can thiệp của nhà nước nhưng việc khống chế quỹ lương, thưởng, phúc lợi đã hạn chế tính tích cực sáng tạo của người lao động, không khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các ngành. Các chế độ phụ cấp ban hành để cuốn hút được người lao động làm việc ở những nơi khó khăn, bù đắp được hao phí lao động chưa tính được trong tiền lương. Các chế độ phụ cấp lương hiện hành vừa trùng lặp về ý nghĩa khuyến khích vừa không quy định rõ cách tính, vừa tạo ra mâu thuẫn trong quan hệ cân đối tiền lương giữa các ngành nghề, chưa đủ mức để khuyến khích những người đến công tác ở những nơi khó khăn, vùng xa, miền núi hẻo lánh.
Trước tình hình biến động của giá làm cho tiền lương thực tế, đời sống của dân cư nói chung ngày càng sa sút, đã gây ra sự phản ứng của các đối tượng trong xã hội, trong các đơn vị sản xuất kinh doanh có thể phân ra ba loại xí nghiệp
Loại xí nghiệp làm ăn thực sự có lãi, có điều kiện phát triển chưa nhiều. Loại này lương và thu nhập thực sự gắn với kết quả sản xuất kinh doanh, khi thu nhập của họ quá cao không bị điều tiết.
Loại xí nghiệp ở trạng thái bấp bênh, nay lãi mai lỗ, sản xuất không ổn định. Loại này thường tìm mọi cách để tăng thu nhập, thậm chí xí nghiệp đang lỗ mà thu nhập người lao động vẫn cao, nguồn thu nhập này được tạo ra một cách không chính đáng.
Loại xí nghiệp làm ăn thua lỗ liên tục thiếu việc làm có nguy cơ giải thể thu nhập của người lao động thực chất là ăn dần vào vốn cho đến khi toàn bộ tài sản bị khánh kiệt nhưng không chịu phá sản như các xí nghiệp tư nhân
Toàn bộ những thực tế này đã tạo ra sự chênh lệch về tài năng của người lao động tạo ra, mà phần lớn không phải do sự chênh lệch về tài năng của người lao động tạo ra. Nhà nước còn thực hiện sự phân phối gián tiếp qua ngân sách cho công nhân viên chức. Ví dụ, vấn đề phân phối nhà ở tuy đã có quyết định 150CP nhưng khi thực hiện lại rất tuỳ tiện, chế độ trang cấp đồ dùng gia đình, chế độ chi cho phương tiện đi lại thì tuỳ từng gia đình, từng đơn vị cũng thực hiện khác nhau không thống nhất.
Tuy vậy việc giải quyết tiền lương ở nước ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị trường thống nhất. Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị, sức lao động, chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động làm công ăn lương. Nhà nước và công đoàn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu của người lao động, tiền lương chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc thực hiện chế độ tiền lương. Song chính sách tiền lương không đảm bảo đời sống của người lao động làm công ăn lương, của người nghỉ hưu, tiền lương được tiền tệ hoá ở mức thấp, do đó vừa không được hạch toán đủ vào giá thành vừa che dấu sự phân phối không công bằng. Cơ chế quản lý tiền lương còn nhiều sơ hở. Khó khăn lớn nhất hiện nay là nhà nước chưa có cơ chế và giải pháp để giám sát thu nhập thực của người lao động đặc biệt là đối với lao động quản lý doanh nghiệp để có biện pháp xử lý phù hợp, việc quản lý tiền lương vẫn còn mang nặng tính hành chính, tập trung quan liêu bao cấp, chính sách tiền lương là một mặt quan trọng về sở hữu nhưng phân phối chưa được minh bạch. Do đó phải thực hiện cải cách tiền lương, thực hiện công bằng hơn tạo động lực tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác, tăng trưởng kinh tế, thay đổi phương thức quản lý về lao động tiền lương.
1.2. Chính sách xoá đói giảm nghèo.
Bản chất của vấn đề nghèo đói là do quy luật phát triển kinh tế xã hội không đồng đều dẫn đến phân tầng xã hội và phân hoá giàu nghèo. Nghèo đói đanglà một trong những vấn đề bức xúc của Việt nam hiện nay và đựơc nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách để giảm hộ đói nghèo, đảm bảo cho những hộ đói nghèo được hưởng phúc lợi xã hội, y tế giáo dục … điều này đã được đảng ta xác định :" Tăng thu nhập cải thiện một bước đời sống vật chất văn hóa của nông dân, giảm mức tăng dân số, khắc phục nạn suy dinh dưỡng, tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xoá đói giảm nghèo, nhất là các vùng cao vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng…". Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương thực hiện xóa đói giảm nghèo với một loạt chính sách và các giải pháp được đồng bộ triển khai thực hiện. Nghị quyết đại hội VIII đã khẳng định xoá đói giảm nghèo là một trong 11 chương trình kinh tế xã hội giai đoạn 1996-2000. Chính phủ chỉ đạo Bộ lao động thương binh xã hội xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và chỉ đạo các bộ ngành các cấp uỷ Đảng chính quyền, các tổ chức huy động nguồn lực thực hiện chính sách và mục tiêu giảm nghèo. Quyết định 13/1998/QĐ-TTG về việc thành lập ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chuyển nội dung từ hoạt động phong trào sang nội dung phát triển kinh tế, những mục tiêu về xóa đói giảm nghèo đã chính thức được chính phủ cân đối nguồn lực từ ngân sách. Nhà nước đã ban hành hệ thống văn bản chính sách hỗ trợ trực tiếp xóa đói giảm nghèo đã từng bước xây dựng và tổ chức chỉ đạo có hiệu quả ở hầu hết các địa phương. Hệ thống chính sách một mặt tạo dựng giá đỡ cho người nghèo, mặt khác cũng chính là công cụ nhằm thực hiện mục tiêu của đảng và nhà nước. Nhiều hệ thống chính sách hỗ trợ y tế, giáo dục, tín dụng, đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nước sạch đã thực hiện tốt ở nhiều địa phương. Hệ thống chính sách xóa đói giảm nghèo gồm:
Chính sách đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn và sắp xếp lại dân cư.
Chính sách hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề.
Chính sách hỗ trợ tín dụng với người nghèo.
Chính sách hỗ trợ vể giáo dục.
Chính sách hỗ trợ vể y tế.
Chính sách hỗ trợ người nghèo cách làm ăn và khuyến nông - lâm - ngư.
Chính sách hỗ trợ nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ xoá đói giảm nghèo và cán bộ ở các xã nghèo.
Chính sách định canh, định cưm, di dân vùng kinh tế mới.
Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
Chính sách hỗ trợ tăng cường cán bộ xã nghèo.
Tuy nhiên nước ta còn nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, ngân sách nhà nước còn hạn chế chưa đảm bảo đầu tư cho xã nghèo, người nghèo chưa đầu tư đúng mức cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc miền núi, vùng căn cứ kháng chiến cũ. Mặc dù Đảng có nhiều chính sách triển khai nhưng khi thực hiện còn nhiều khó khăn cán bộ chưa có kinh nghiệm và chưa tạo lập được nhiều mô hình, một số mô hình đã có thì việc tổng kết nhân rộng còn hạn chế. Môi trường bền vững cho xoá đói giảm nghèo như: đất đai, thuế xuất nhập khẩu, bảo hộ tiêu thụ nông sản phẩm…. Trình độ nhận biết về xóa đói giảm nghèo còn nhiều hạn chế nhất là đối với cán bộ cấp cơ sở.
1.3 các chính sách xã hội:
trong công cuộc đổi mới, đời sống của nhân dân được nâng cao, nhà nước càng ngày càng đảm bảo cho nhân dân được hưởng sự chăm sóc từ quỹ phúc lợi của xã hội. Nhà nước đã điểu chỉnh , bổ sung , sửa đổi liên tục theo quan điểm huy động mọi lực lượng trong xã hội bao gồm nhà nước , cộng đồng , gia đình cùng tham gia thực hiện chính sách xã hội.
Lĩnh vực giáo dục:
Chính sách giáo dục có vai trò quan trọng đặc biệt trong phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí phục vụ quá trình phát triển đất nước. Vấn đề giáo dục đựơc coi là vấn đề quốc sách nên nhà nước ta rất coi trọng và có nhiều chính sách để phát triển giáo dục. Trong nền kinh tế thị trường , lĩnh vực Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt:
Sự nghiệp giáo dục được cơ cấu lại, đa dạng hoá các loại hình trường học. Hệ thống giáo dục và đào tạo , tạo điều kiện mở rộng cho người họclựa chọn.
Đa dạng hoá các hình thức cung cấp các dịch vụ giáo dục bao gồm dịch vụ của nhà nước và tư nhân.
Thực hiện xã hội hoá giáo dục, tạo điều kiện cho người dân , nhất là người nghèo được tiếp cận với dịch vụ giáo dục, khuyến khích phát triển các trường ngoài công lập từ mầm non đến đại học, làm giảm sức ép cho giáo dục công lập.
Bên cạnh giáo dục tiểu học, nhà nước còn thực hiện một số chính sách đốí với con em người nghèo như miễn giảm học phí, thành lập quỹ học bổng cho học sinh nghèo vay...
Tuy nhiên lĩnh vực giáo dục vẫn còn nihều bất cập, tình trạng thiếu giáo viên , cơ sở vật chất học tập, số lượng học sinh phải học ca ba... vẫn còn tương đối phổ biến. Thực hiện triển khai chính sách giáo dục còn nhiều thiếu, yếu và không đồng bộ... ở bậc đaị học tỷ lệ giảng viên trình độ còn thấp. Nhiều học sinh trong độ tuổi vẫn chưa được đến trường , đặc biệt là đối tượng yếu thế trong xã hôị người nghèo , trẻ em vùng sâu, vùng xa, trẻ em mồ côi, lang thang hè phố . chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so với học sinh đầu cấp còn thấp.
để thực hiện phân phối công bằng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hay ở các nhiệm vụ chiến lược khác thì vấn đề giáo dục luồn được coi trọng giáo dục , khi nhận thức của con người cao thì dễ dàng thực hiện tốt được các mục tiêu và kế hoạch đã được đặt ra.
b.Lĩnh vực y tế
việc chăm sóc sức khoẻ của người dân là mục tiêu của Đảng và nhà nước. Do đó việc phân phối thu nhập cũng là tạo điều kiện cho chăm sóc cho moị tầng lớp nhân dân. trong nền kinh tế thị trường, các chính sách y tế ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi.
Xoá bỏ bao cấp mang tính toàn bộ và tràn lan của nhà nước trong y tế thay đôỉ phương thức quản lý, từ việc cấp kinh phí theo đầu giường bệnh chuyển sang cấp theo đầu người.
đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ, tổ chức mạng lưới khám chữa bệnh từ chỗ quy định địa giới hành chính sang tổ chức cụm dân cư. Thực hiện chính sách xã hội hoá y tế, cho phép tư nhân hành nghề y dược. Khi người dân được chăm sóc tốt thì mới có sức khoẻ để thực hiện các mục tiêu về kinh tế xã hội đã được đặt ra.
c.bảo hiểm xã hội.
Hiện nay mạng lưới bảo hiểm xã hôị của nước ta được mở rộng với nhiều loại hình: bảo hiểm y tế, giáo dục, thân thể... số lượng người dân tham gia vào mạng lưới bảo hiểm càng nhiều vì nó mang lại lợi ích thiết thực và do thu nhập của người dân cao hơn trước . nhà nước ta cũng tạo điều kiện để mở rộng nhiều loại hình bảo hiểm để đảm bảo nhu cầu của người dân. bảo hiểm xã hội về hưu trí, về giáo dục... vấn đề đặt ra là phải thực hiện công bằng đảm bảo như nhau đối với mọi người dân.
2. Đánh giá kết quả chung và những vấn đề đặt ra dưới phân phối thu nhập.
Do những cải cách và mở cửa , nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển và đã đạt được những thành tựu đáng kể, thu nhập của người dân tăng cao so với trước, mức sống của nhân dân đựơc cải thiện không ngừng. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2002, của tổng cục thống kê, thu nhập bình quân đầu năm 2002 theo giá thực tế đạt 357.000 đồng / tháng, tăng 21% so với năm 1999, trong đó khu vực thành thị đạt 626.000 đồng/ tháng, tăng 21,1%và khu vực nông thôn đạt 275.000đồng/ tháng tăng 22,2%. Thu nhập của nhóm 20% hộ giàu đạt 877.000đồng/ tháng tăng 18,2%, nhóm 20% hộ nghèo đạt 108.000 đồng / tháng tăng 11,7%. Nét mới trong thời kỳ này là tốc độ tăng thu nhập của dân cư nông thôn cao hơn thành thị trong đó thu nhập của các vùng nghèo , vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cắn cứ cách mạng, các hộ nghèo , hộ chính sách... đã có nhiều tiến bộ rõ nét do tác động của những chương trình135, và các chương trình dự án khác về xã hội đã đi vào cuộc sống. Do thu nhập tăng và ổn định nên chi tiêu của các tầng lớp dân cư đều tăng. Mức chi tiêu cho đời sống bình quấnmột người một tháng năm 2001-2002 đạt 26,8 nghìn đồng bằng 75% thu nhập và tăng 21,4% so với năm 1999, trong đó chi tiêu của khu vực thành thị đạt 460.000 đồng /người/ tháng, tăng 26,3%. Mức chi tiêu cuả nhóm 20% số hộ nghèo tăng 11%, nhóm 20% số hộ nghèo tăng 18% so với năm 1999. mức sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện còn thể hiện trong đổi mới cơ cấu chi tiêu theo hướng giảm tỷ trọng chi cho ăn uống, tăng tỷ trọng chi tiêu cho văn hóa, giáo dục, giải trí, mua sắm đồ dùng có giá trị lớn xây dựng nhà cửa chi tiêucho ăn uống của dân cư giảm từ 63% (năm 1999) xuống 57%(năm 2002) nhưng lượng tuyệt đối về lương thực , thực phẩm tiêu dùng vẫn tắng. Nhóm hộ gia đình thuộc loại trung bình khá và giàu chi nhiều hơn cho nhu cầu ăn uống, mua sắm đồ dùng từ 3,8%(năm 1999)đến 8%(năm 2002). Chi tiêu chăm sóc sức khoẻ từ 4,6% lên 5,7% , giáo dục từ 4,6%lên 6,1%. Vì vậy nhìn chung cả nước điều kiện nhà ở đồ dùng trong nhà , phương tiện đi lại đều được cải thiện.
Diện tích nhà ở bình quân đầu người tăng từ 9,7m2(1997-1998)lên 12,5m2(năm 2001-2002) tỷ lệ nhà tạm và nhà khác giảm từ 26% xuống 24,5% tỷ lệ nhà kiên cố và bán kiên cố tăng từ 74% lên 75,5% xe máy từ 24% lên 32,5% , hộ dùng nước máy làm nguồn nứơc ăn tăng từ 15% lên 17,6% trong thời gian tương ứng. Kết quả của tăng thu nhập và cải thiện mức sống các tầng lớp dân cư trong 3 năm đầu trong đó rõ nét nhất là giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo . năm 2003 ứơc tính tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn khoảng 12% đến 12,5% và đạt mục tiêu do quốc hội đề ra tại kỳ họp thứ 2(khoá XI) theo báo cáo của tổng cục thống kê đến ngày 21-10-2003 cả nước có 49,7 nghìn lượt hộ với 252,3 nghìn khẩu bị thiếu đói giáp hạt, chiếm 0,42% số hộ và 0,46% số khẩu nông nghiệp , giảm 45% so với cùng kỳ năm 2002.
Mức sống của nhân dân tiếp tục có chuyển biến tích cực thể hiện qua mức chi tiêu cho đời sống . bên cạnh việc tăng các khoản chi nâng cao chất lượng khẩu phần như chi mua thịt, trứng, đậu phụ , đường, sữa bánh kẹo thì nhiều khoản chi tiêu ngoài ăn uống cũng tăng cả về mức chi tuyệt đối và tỷ trọng trong chi tiêu đời sống của họ.
Khối lượng tiêu dùng một số mặt hàng bình quân 1 người / tháng
1999
2001-2002
Các loại gạo(kg)
13.5
12.01
Thịt các loại(kg)
1.23
1.28
Mỡ , dầu ăn(kg)
0.23
0.23
Trứng, gia cầm(quả)
2.04
2.21
đưòng , mật, sữa. bánh, mứt kẹo(kg)
0.33
0.41
Đạt được những thành tựu trên do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do tác động tích cực của các chính sách kinh tế xã hôị đúng đắn hợp lòng dân của đảng và nhà nước . các chính sách đó tạo thêm động lực mới thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định với công bằng . những hộ có thu nhập tương đối cao ngoài chi tiêu cho đời sống hàng ngày còn tích luỹ xây dựng nhà ở mua sắm đồ đắt tiền , sử dụng điện nước máy và các khoản chi tiêu khác góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Nét nôỉ bật về tăng thu nhập và cải thiện đời sống dân cư trong thời kỳ đựơc nhà nước quan tâm đầu tư thỏa đáng đạt được kết quả khả quan.
Nước ta là nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một mặt nó vưà tạo ra điều kiện xoá đói giảm nghèo để không ngừng tạo ra sự giàu nghèo mới trong xã hôị, chúng tao không hy vọng chỉ lợ i dụng mặt tăng trưởng và hiệu quả của cơ chế thị trường mà loại bỏ mặt phân phối không công bằng của nó đó là sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét giữa thành thị và nông thôn và giữa các vùng trong cả nước.
So sánh thu nhầpgiưa thành thị và nông thôn, khoảng cách về thu nhập ở mức sống có xu hướng ngày càng tăng. Mức thu nhập ở thành thị đạt 832,5 nghìn đồng/ tháng tăng 63,4% hay tăng 17,8% so với năm 1996 nếu loại trừ yếu tố lạm phát thì mức tăng 13,1% /năm( theo kết quả cuộc điều tra mức sống dân cư năm 1999 của tổng cục thống kê). mức thu nhập ở nông thôn đạt225.000 đồng/ tháng, tăng 19,7% và tăng 6,2% so với cùng kỳ, mức thu nhập hiện nay ở khu vực thành thị có xu hướng ngày càng dãn ra so với mức tăng thu nhập ơ r vùng nông thôn(17,8% /năm so với 6,2%/năm). nếu loại trừ mức tăng giá thì mức thu nhập ở nông thôn trong vòng 4 năm qua hâù như không tăng. Khoảng cách về thu nhập và chi tiêu của các hộ trong hai khu vực không giống nhau không những cao mà còn có xu hướng tăng dần theo thời gian do tốc độ tăng thu nhập dân cư thành thị hàng năm thường cao hơn dân cư nông thôn. tính ổn định thu nhập dân cư nông thôn còn thấp , nhất là nông dân vì nguồn thu của họ phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và điều kiện sản xuất. Mà trong những năm gần đây hay có những hiện tượng bất thường xảy ra hạn hán,lũ lụt, do đó nông ,lâm, ngư nghiệp bị ảnh hưởng giá nông sản không ổn định và có xu hướng giảm. mặc dù nhà nước đã có một số chính sách tích cực để thu hẹp khoảng cách chênh lệch này nhưng đến nay vẫn còn lớn, tỷ giá kéo giữa các mặt hàng nông sản và công nghiệp. Do vậy nhà nước cần có giải pháp giải quyết vấn đề này. đó là một vấn đề cấp bách để đảm bảo phân phối công bằng cho toàn xã hội.
Sự phân hoá thu nhập và đời sống trong nội bộ dân khu từng khu vực từng vùng vẫn còn lớn và có xu hướng tăng nhanh. So 6 vùng kinh tế trong cả nước vùng Đông Nam Bộ đạt mức thu nhập cao nhất 527,8000 đ/ tháng tăng 11,8% tiếp đến là tây nguyên 344,7000 đ/tháng tăng 9,1%/năm, Bắc trung bộ 212,4000 đ/ tháng, tăng 6,9%/năm và thấp nhất là vùng tây bắc và đông bắc chỉ đạt 210000 đ/ tháng tăng 6,5%/năm(1996-1999). Mặc dù có đảng và nhà nước quan tâm và đầu tư chính sách cho các khu vực miền núi vùng sâu, vùng xa nhưng vẫn có sự chênh lệch lớn giữa các vùng , các miền vối nhau. Nếu như các vùng từ Tây Nguyên trở vào có mức thu nhập bình quân một người /một ngày trên 10000 đ thì khu vực miền núi phía bắc mức thu nhập bình quân 1 người/1ngày chưa đến 6000đ và nhiều nơi còn thấp hơn nữa. xu hướng ngày càng gia tăng chênh lệch giữa các vùng còn tiếp tục. Kết quả các cuộc điều tra do tổng cục thống kế công bố trong những năm gần đây cho thấy khoảng cách về thu nhập và chi tiêu giữa các nhóm hộ giàu (gồm 20% số hộ có thu nhập cao nhất với nhóm hộ nghèo gồm20% số hộ có thu nhập thấp nhất) có xu hướng dãn ra. Nếu so sánh thu nhập của 10% số hộ có thu nhập cao nhất với 10% số hộ có thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch giữa hai nhóm năm 2001-2002 chung cả nước là 13,86 lần trong khu vực thành thị là 14,22 lần, khu vực nông thôn là 9,4 lần. Sự chênh lệch về thu nhập như trên dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo thể hiện qua hệ số là 0,39 , năm 2002 đã tăng lên 0,42. như vậy cùng với kết quả tăng thu nhập của các tầnglớp dân cư trong những năm đổi mới sự bất bình đẳng về thu nhập có gia tăng không lớn. đó là một trong những vấn đề nổi bật hiện nay và giải quyết nhằm thu hẹp khoảng cách này. thu nhập bình quân đầu người 1 tháng năm 2001-2002 ở khu vực thành thị cao gấp 2,3 lần khu vực nông thôn. ở nông thôn thu nhập bình quân đầu người tuy có tăng lên nhưng còn ở mức thấp, nhất là thu nhập của người nghèo. Trong các vùng thì khu vực tây bắc , đông bắc và bắc trung bộ có mức sống thấp nhất và tỷ lệ nghèo cao nhất cả nước.
Chi tiêu cho đời sống và nhà ở của các tầng lớp dân cư cũng có sự phân hoá theo xu hướng phân hoá thu nhập. Khi so sánh nhóm có thu nhập cao nhất có mức chi không phải ăn uống gấp 7,6 lần so với nhóm thu thấp nhất(276 nghìn đống so với 36,6 nghìn đồng 1 người/ tháng). Do vậy những người giàu có điều kiện nhà ở, phương tiện đi lại, phương tiện sinh hoạt tốt hơn có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội cao hơn. các gia đình thuộc nhóm hộ trung bình , hộ khá và hộ giàu chi tiêu nhiều tiền hơn cho các nhu cầu ngoài ăn uống, tỷ trọng chi không phải ăn uống trong chi tiêu đời sống năm 2001-2002 tăng so với các năm đó và tăng dần theo nhóm hộ có thu nhập từ thấp đến cao.
Bảng hệ số chênh lệch về thu nhập giữa các hộ giàu và nhóm hộ nghèo từ năm 1994 đến năm 2002
( đơn vị tính: lần)
1994
1995
1996
1999
2002
6.5
7.0
7.3
8.9
8.14
Khu vực thành thị
7.0
7.7
8.0
9.8
8.1
Khu vực nông thôn
5.4
5.8
6.1
6.3
5.96
Vùng đồng bằng sông hồng
5.6
6.1
6.6
7.0
6.73
Vùng đông bắc
5.2
5.71
6.1
6.8
6.01
Vùng tây bắc
5.2
5.71
6.1
6.8
5.96
Vùng bắc trung bộ
5.2
5.7
5.9
6.95
5.82
Vùng duyên hải nam trung bộ
4.9
5.5
5.7
6.31
5.83
Vùng tây nguyên
10.1
12.7
12.8
12.9
6.75
Vùng đông nam bộ
7.4
7.6
7.9
10.32
8.73
Vùng đồng bằng sông cửu long
6.1
6.4
6.4
7.86
7.14
đất nước ta có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ có chính sách mở cửa mà nền kinh tế nước ta đã phát triển mạnh và đã đạt đựơc một số thành tựu kinh tế đáng kể trên rất nhiều mặt nhờ đó mà thu nhập của nhân dân tăng trong đó sự chi trả cho tiêu dùng cũng tăng lên, mức sống của nhân dân không ngừng đựơc cải thiện nhất là trong những năm gần đây. nhưng bên cạnh đó mức sống của nhân dân đều cao nhưng trong nền kinh tế thị trường lại._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0220.doc