Mở đầu
Trong thời kỳ quá đẫ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay phân phối thu nhập đang là một vấn đề mang tính thời sự và cấp bách. Do những nhân tố tàn dư của xã hội cũ, do nhiều thành phần kinh tế còn song song tồn tại nên kèm theo nó cũng có nhiều hình thức phân phối thu nhập dựa trên nhiều tiêu thức cơ bản khác nhau.
Theo lý thuyết kinh tế chính trị Mác- Lênin, phân phối thu nhập chính là một mắt xích quan trọng gắn liền các quá trình sản xuất và tái sản xuất, biểu hiện các mối quan
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2087 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân phối thu nhập - Thực trạng và giải pháp thực hiện công bằng phân phối thu nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hệ sản xuất trong xã hội. Việc phân phối thu nhập khong công bằng sẽ dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực như phân hoá giàu nghèo, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Vì thế xã hội tư bản trỏ thành một xã hội mà người bóc lột người, mâu thuẫn giữa ông chủ và người lao động ngày càng sâu sắc, không thể dung hoà và điều chỉnh. Khác với xã hội tư bản, xã hội chủ nghĩa của chúng ta đang từng bước khắc phục những nhược điểm đó để từng bước xây dựng một xã hội thất sự công bằng, dân chủ, văn minh dựa trên mối quan hệ bình đẳng giữa người với người. Trong bối cảnh đó phân phối thu nhập cũng đõng một vị trí quan trọng, nó trở thành một trong những chìa khoá mở ra sự bình đẳng và phát triển nói chung của nền kinh tế cũng như của mỗi cá nhân. Vì vậy, nghiên cứu về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thật sự cần thiết trong cả lý luận và thực tiễn, từ đó có một cách nhìn tổng quát hơn về tình hình xã hội nước ta hiện nay và nhờ vậy chúng ta có thể xây dựng những chiến lược để có một hình thức phân phối thu nhập hoàn hảo nhất.
Nội dung
I. Lý luận về phân phối
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vị trí của phân phối. 1.1Bản chất và vị trí của phân phối
1.1.1.Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất
Quá trình tái sản xuất xã hội gồm bốn khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Bốn khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau.phân phối là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng . Quy mô, cơ cấu và trình độ sản xuất quy định quy mô và cơ cấu của phân phối, phân phối không thể vượt quá trình độ hiện có của lực lượng sản xuất xã hội. Nếu phân phối phù hợp với sự phát triển của sản xuất có lợi cho việc động viên tính tích cực của người lao động thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, còn nếu không phù hợp thì nó sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất.
Phân phối bao gồm: phân phối cho tiêu dùng sản xuất (sự phân phối tư liệu sản xuất, tư liệu lao động của xã hội vào các ngành sản xuất), là tiền đề điều kiện và là một yếu tố sản xuất, nó quyết định quy mô cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất và phân phối thu nhập quốc dân, hình thành thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội . Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quy định. Tuy là sản vật của sản xuất nhưng phân phối có ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất , nó thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Theo Anghen: “phân phối không phải chỉ đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất và trao đổi, nó cũng có tác động trở lại đến sản xuất và trao đổi”.
Phân phối và trao đổi có quan hệ mật thiết với nhgau. Trao đổi là sự tiếp tục của phân phối, phân phối có quan hệ với tiêu dùng, việc tăng hoặc giảm sản phẩm phân phối đều có tác động trực tiếp đến mức độ tiêu dùng. Như vậy phân phối là một khâu độc lập tương đối trong quá trình tái sản xuất, nó luôn có tác động qua lại một cách biện chứng với các khâu khác của quá trình tái sản xuất và phân phối là phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
1.1.2. phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất
Quan hệ phân phối chỉ là quan hệ sản xuất dưới một góc độ khác, là sự phản ảnh quan hệ sản xuất về mặt kinh tế. Theo Mác: “quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản xuất ấy- xét về quan hệ giữa người với người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Vì vậy mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau. Sự biến đổi của lịch sử lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối, quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu và đối với sản xuất : có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu, có thể làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu.
Các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất vừa có tính lịch sử. Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ trong bất kỳ xã hội nào, sản phẩm xã hội cũng được phân chia thành một bộ phận cho tiêu dùng, một bộ phận dự trữ và một bộ phận tiêu dùng chung cho xã hội. Tính lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù hợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội đó.nghĩa là quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất,quan hệ phân phối có tính chất lịch sử nhất định . Chủ nghĩa Mác viết “quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một quan hệ sản xuất lịch sử nhất định nào đó,mỗi hình thái phân phối đều biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy. Chỉ thay được quan hệ khi đã cách mạng hoá được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy.
1.2. Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của Mác
Theo sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của C Mac ở tầm vĩ mô :“trong tổng sản phẩm xã hội phải khấu đi”:
Một là :phần để thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng.
Hai là : một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất
Ba là : một quỹ dự trữ huặc quỹ bảo hiểm đề phòng những tai nạn,những rối loạn do các hiện tượng tự nhiên gây ra,...Những khoản khấu trừ như thế nào”thu nhập không bị cắt xén của lao động”là một tất yếu kinh tế ,và khấu trừ nhiều hay ít là tuỳ theo những tư liệu và những lực lượng sản xuất hiện có
Còn lại phần kia của tống sản phẩm thì dành làm vật phẩm tiêu dùng.Trước khi phân phối cho cá nhân lại còn phải khấu trừ .
Một :những chi phí quản lí chung,không trực tiếp thuộc về sản xuất
Hai :những khoản dùng để cùng chung nhau thoả mãn những nhu cầu như trường hoc, cơ quan y tế
Ba :Quỹ cần thiết để nuôi những người không có khả năng lao động
Cuối cùng là sự phân phối , Như vậy C Mác đã vạch ra hai bước phân phối ,bước thứ nhất là phân chia tổng sản phẩm xã hội thành sáu khoản phải khấu trừ và toàn bộ tư liệu tiêu dùng, bước thứ hai là phân phối toàn bộ tư liệu tiêu dùng cho những ngưòi lao động.
Sơ đồ phân phối của C Mác là sơ đồ phân phối ở tầm vĩ mô,vạch rõ khái quát việc phân phối tổng sản phẩm xã hội. Nó vừa đảm bảo tái sản xuất mở rộng ,vừa đảm bảo thoả mãn nhu cầu chung của xã hội và của cá nhân,cũng như sự tiến bộ xã hội
1.3 Lý luận phân phối theo lao động của C Mác
Khi nghin cứu nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa tư bản C mác đã chỉ ra rằng,giá trị mới sáng tạo ra được phân chia cho các giai cấp dựa vào sự đóng góp của các yếu tố sản xuất :một bộ phận được phân phối cho người sở hữu sức lao động theo giá trị sức lao động,bộ phận khác được phân phối cho người sở hữu tư liệu sản xuất
Là những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học,C Mác và Ph Anghen đã sáng tạo ra nguyên tắc phân phối theo lao động .Hai ông đã sáng tạo và phát triển những mần mống tư tưởng về phân phối theo lao động của chủ nghĩa xã hội khoa học: “lấy lao động để làm thước đo để phân phối ”
Lý luận phân phối theo lao động của C Mác gồm hai bộ phận :điều kiện tiền đề để phân phối theo lao động nguyên tắc và phương thức phân phối theo lao động , tiền đề để thực hiện phân phối theo lao động gồm hai mặt có quan hệ hết sức chặt chẽ vối nhau
Một :phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa
Hai : phân phối theo lao động được thực hiện trong điều kiện kinh tế dựa trên chế độ sở hữu. Dựa trên những điều kiện tiền đề đó C Mác đã vạch ra những nguyên tắc và phương thức phân phối theo lao động .Theo C Mác, chủ thể phân phối là những người lao động căn cứ để phân phối là thời gian lao động ,phương thức thực hiện phân phối theo lao động là phiếu lao động
2. Quan điểm của chủ tịch Hồ CHí Minh và Đảng ta về phân phối
2.1 .Quan điểm củachủ tịch Hồ CHí Minh về phân phối
Xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nghèo,nông nghiệp lạc hậu,đó là đặc điểm to lớn nhất của ta. Chủ tịch Hồ CHí Minh ý thức rằng, đảm bảo cho nhân dân đủ no là nhiệm vụ quan trọng nhất.Phát triển sản xuất là điều kện để nâng cao đời sống nhân dân,phải ra sức sản xuất và thực hành tiết kiệm nhưng phải phân phối cho công bằng,hợp lý. Chủ tịch Hồ CHí Minh từng nói.“sản xuất được nhiều,đồng thời phải phân phối cho công bằng”tư tưởng phân phối công bằng được Hồ CHí Minh rất quan tâm và luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên phải quan tâm đến đời sống nhân dân đặc biệt chú trọng các vùng bị chiến tranh tàn phá,các cháu mồ côi, các cụ già yếu và gia đình các liệt sĩ,thương binh,bộ đội.ở đây tư tưởng phân phối công bằng, hợp lý của chủ tịch Hồ CHí Minh được gắn liền với yêu cầu phải làm tốt chính sách bảo đảm xã hội
Chủ tịch Hồ CHí Minh nêu nguyên tắc phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Trong thư gửi đại hội hợp tác xã và độ sản xuất nông nghiệp tiên tiến vùng đồng bằng miền bắc ,người đề nghị phải làm đúng nguyên tắc phân phối theo lao động Bằng những bài viết xuất phát từ thực tiễn Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã để lại.cho chúng ta những quan đIểm tư tưởng cơ bản về phân phối
2.2 Quan đIểm của đảng ta về phân phối
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối thu nhập là một nội dung trong chính sách kinh tế xã hội của đất nước .Đảng ta xác định phân phối phải trên cơ sở đóng góp thực tế của mỗi người về lao động ,vốn ,tài sản vào quá trình kinh doanh .Để thực hiện phân phối công bằng cần phảI
+Có sự công bằng giữa những người góp vốn với người góp sức lao động
+ Sự bình đẳng giữa những người lao động được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai góp nhiều được nhiều
+ Sự bình đẳng giữa những người lao động được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai làm nhiều làm tốt được hưởng nhiều
Với quan điểm này phân phối công bằng trước hết phải được thực hiện ở việc phân phối hợp lý tư liệu sản xuất . Trong phân phối kết quả sản xuất phải thực hiện nhiều hình thức phân phối,lấy phân phối theo kêt quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội ,đi đội với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động . Quan điểm trên thể hiện đặc trưng của quan hệ phân phối trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Lấy phát triển kinh tế làm phương tiện
3. Nguyên tắc phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
3.1 phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
Thu nhập quốc dân là bộ phận còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi bù đắp những tư liệu sản xuất đã sử dụng là những giá trị mới do lao động xã hội tạo ra trong một năm.Thu nhập quốc dân là cơ sở quyết định tích luỹ và tiêu dùng của xã hội
Quan hệ phân phối của mỗi xã hội do quan hệ sản xuất xã hội quyết định.Phân phối thu nhập quốc dân là phân phối giữa những người, những yếu tố tham gia vào quá trình tạo ra thu nhập quốc dân .Thu nhập trong nền kinh tế thị trường theo nghĩa rộng bao gồm doanh thu của chủ doanh nghiệp và thu nhập của các yếu tố sản xuất
Còn theo nghĩa hẹp,thu nhập là phần trả công chon chủ các yếu tố sản xuất như tiền lương lợi nhuận,lợi tức,địa tô phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường là phân phối về tiền lương, lợi nhuận.lợi tức,địa tô cho các yế tố sản xuất .
Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường có vai trò quan trọng trong nền phát triển kinh tế . Có thể xem xét vai trò của nó dưới các phương diện khác nhau
Thứ nhất: phân phối thu nhập co ảnh hưởng to lớn đối với sản xuất .C Mác đã từng nói tới vai trò phân phối đối với sản xuất. Trên phương diện phân phối trực tiếp các yếu tố cho quả trình sản xuất. Nó nối liện sản xuất với sản xuất. Điều này có nghĩa là nó đảm bảo các yếu tố đầu vào cho các doanh nghiệp đảm bảo các nguồn lực phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh để cung cấp hàng hoá trên thị trường sản phẩm , sự phân phối các nguồn lực diễn ra thông suốt để đảm bảo quá trình tái sản xuất được tiến hành một cách liên tục.
Thứ hai: Phân phối thu nhập quyết định tiêu dùng của các chủ thể yếu tố sản xuất . Thông qua phân phối thu nhập các chủ thể yếu tố sản xuất có được thu nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường sản phẩm, dịch vụ. Về cơ bản, qui mô phân phối quyết định qui mô tiêu dùng. Các chủ thể nhận được thu nhập nhiều thì mức tăng tiêu dùng sẽ càng cao hơn về tuyệt đối.
3.2. Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3.2.1 Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Xuất phát từ yêu cầu của các qui luật kinh tế khách quan và từ đặc điểm kinh tế – xã hội nước ta, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập đó là vì:
-Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
- Thứ hai: Trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều hình thức kinh doanh khác nhau.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế này có nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều thnàh phần kinh tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thời kì, kể cả các thành phần kinh tế nhà nước cũng có các phương thức kinh doanh khác nhau, do đó, kết quả và thu nhập là khác nhau. Hơn nữa, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh tham gia vào nền kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường, thậm chí khác nhau cả sự may mắn… Do đó, khác nhau về thu nhập. Vì vậy, không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất , trái lại có nhiều hình thức khác nhau.
3.2.2 Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
+ Phân phối theo lao động
Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở , sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần vốn của các thành viên bằng nhau. Các thành phần kinh tế này đều dựa trên chế độ công hữu xã hộichủ nghĩa về tư liệu sản xuất ở các trình độ khác nhau. Người lao động làm chủ tư liệusản xuất, nên tất yếu cũng làmm chủ phân phối thu nhập. Vì vậy phân phối phải vì lợi ích lao động.
+ Tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất là vì:
- lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu vì phân phối do sản xuất quyết định.
- Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới vệc mỗi người có sự cống hiến khác nhau, do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội của mỗi người để phân phối.
- Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm sống, là nghĩa vụ và quyền lợi. Trong những điều kiện đó, phải phân phối theo lao động để khuyến khích cống hiến của người lao động.
Qua đây cho ta thấy rằng phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về tư liệusản xuất, phù hợp với trạng thái sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy việc thực hiện phận phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản xuất ngày càng phát triển.
+ Căn cứ để phân phối theo lao động là
- Số lượng lao động được đo bằng thời gian lao động hoặc số lượng
sản phẩm làm ra
- Trình độ thành thạo lao động và chất lượng sản phẩm làm ra.
- Điều kiện và môi trường lao động: lao động nặng nhọc hay nhẹ nhàng.
Tính chất của lao động.
+ Phân phối theo lao động được thực hiện qua những hình thức cụ thể:
- Tiền công trong các đơn vị sản xuất – kinh doanh.
- Tiền thưởng.
- Tiền phụ cấp.
-Tiền lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp
+ Phân phối theo lao động có tác dụng là:
Một : nó đáp ứngđược đòi hỏi cấp bách về công bằng xã hội đang đặt ra ở nước ta,nó kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của sản suất xã hội và lợi ích của từng cá nhân người lao động.
Hai : nó khuyến khích người lao động phát huy mọi năng lực của bản thân vào trong sản xuất. Điều này góp phần nâng cao trình độ người lao động đồng thời xoá bỏ dần sự khác nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Từ đó, tăng dần sự thống nhất khối liên minh công - nông - trí thức, tăng cường sức mạnh thống trị của giai cấp công nhân trong xã hộichủ nghĩa.
Ba : Tạo điều kiện cho sự phân bổ và sử dụng nguồn lao động được ổn định trong cả nước, đảm bảo cho sản xuất xã hội phát triển cân đối và có kế hoạch.
Bốn : Góp phần giáo dục quan điểm thái độ, kỉ luật lao động với mỗi thành viên xã hội. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích vật chất của bản thân người lao động nên người lao động sẽ có ý thức hơn trong công việc của mình, từ đó mà ra sức đẩy mạnh sản xuất.
Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với các hình thức Phân phối đã có trong lịch sử. Tuy phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn chế không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu như nước ta hiện nay.
phân phối theo vốn và theo tài sản cố định
- Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần , tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một hình thức phân phối nhất định. Nếu thành phần kinh tế quốc doanh tâp thể phân phối theo lao động, thì các thành phần kinh tế khác lại có các hình thức khác rất đa dạng và rất khác nhau. Tuy nhiên điều đó không làm mất tính định hướng xã hội chủ nghĩa bởi chúng ta đảm bảo nguyên tắc lấy phân phối theo lao động làm chính đồng thời phải sử dụng các hình thức khác. mặt khác chúng ta thừa nhận nguyên tắc phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản, đó không chỉ là tất yếu mà còn có ý nghĩa thực tế vì nó phù hợp với tình trạng nền kinh tế của đất nước và tác dụng tốt cho sự phát triển kinh tế xã hội phù hợp với lợi ích của người lao động.
- Bất kì sự chiếm hữu nào đối với tư liệusản xuất đều nhằm mục đích thu nhập. Các hình thức thu nhập là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu các yếu tố sản xuất. Người sở hữu vốn và tư liệu sản xuất có đóng góp vào quá trình sản xuất phải nhận được thu nhập dưới hình thức tương ứng. Chỉ có như vậy người có vốn và tài sản mới đầu tư vốn và tài sản của mình vào sản xuất kinh doanh, mới huy động được mọi nguồn vốn trong xã hội để phát triển sản xuất. Bên cạnh đó vốn và tư liệu sản xuất là những yếu tố đầu vào của sản xuất, tuy chúng không tạo ra giá trị mới nhưng chúng có tác dụng nhất định trong quá trình tạo ra của cải xã hội. Với ý nghĩa đó kết quả sản xuất kinh doanh cần phải được phân phối theo mức đóng góp của các yếu tố đó.
Đặc điểm của nước ta trong thời kỳ quá độ là đi lên từ một nền sản xuất nhỏ, tình trạng thiếu vốn, phân tán vốn là phổ biến. Quá trình sản xuất, tích tụ, tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn nằm trong tay người lao động nhỏ. Để sử dụng nguồn vốn này chúng ta chấp nhận phân phối kết quả của sản xuất kinh doanh dưới hình thức lợi tức và lợi nhuận.
Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quĩ phúc lợi xã hội
- Bên cạnh phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đóng góp, phân phối ngoài thù lao lao động được xem như những tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ của đất nước để đảm bảo công bằng xã hội. Sở dĩ phải có nguyên tắc này vì trong xã hội ngoài những người có sức lao động và có vốn góp vào quá trình sản xuất. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó:
- Góp phần phát huy tích cực lao động cộng đồng của mọi thành viên trong xã hội.
- Nâng cao thêm mức sống toàn dân đặc biệt đối với nhữnh người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng.
- Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới.
-Quĩ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quĩ đó chỉ có ý nghĩa tích cực khi được qui định và sử dụng hợp lí.
- Mặc dầu đây chưa phải là phân phối theo nhu cầu như trong giai đoạn cao trong chủ nghĩa cộng sản, nhưng nó là một hình thức phân phối quá độ, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Vì vậy thực hiện hình thức phân phối này có tác dụng đảm bảo công bằng hơn trong xã hội, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa những nhóm người có thu nhập khác nhau.
II. Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam
1. Thực trạng phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay.
- Trong những năm đổi mới vữa qua, chúng ta đã từng bước xoá bỏ cơ chế phân phối bình quân, bao cấp, thực hiện chế độ phân phối theo nguyên tắc thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác nhau vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua các loại phúc lợi xã hội đi đôi với chính sách điều tiết hợp lí, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
Quá trình đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từng bước nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư. Từ năm 1990 đến nay, Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng GDP cao, liên tục so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính trên cơ sở của tăng trưởng kinh tế thu nhập bình quân đầu người tăng lên qua các năm:
Bình quân thu nhập đầu người của nước ta đã tăng lên qua các năm. Tỉ lệ nghèo đói ở nước ta giảm từ 30% với 3,8 triệu hộ năm 1992 xuống còn 11% năn 2000. Số xã nghèo giảm từ 1900 xã năm 1995 xuống còn 1182 xã năm 1998. Thu nhập bình quân đầu người tăng lên gần hai lần từ 200 USD năm 1990 lên 386 USD năm 2000.
Mặt khác mức chênh lệch về thu nhập ở nước ta so với mức trung bình của thế giới. Theo tiêu chuẩn đánh giá của ngân hàng thế giới, tỉ lệ thu nhập của 40% số hộ có mức thu nhập thấp nhất trong tổng số thu nhập của các hộ dân cư nếu 12% là bất bình đẳng cao, từ 12% - 17% là bất bình đăng vừa và lớn hơn 17% là tương đối bình đẳng. Đối với tiêu chuẩn trên thì tỉ lệ ở nước ta năm1995 là 21,1%, năm 1996 là 20,97%, năm 1999 là 18,7% thuộc loại nước có thu nhập tương đối bình đẳng.
Mặc dù sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở nước ta thấp, tỉ lệ nghèo đói giảm nhanh nhưng mức chênh lệch phân phối thu nhập giữa các vùng và trong một vùng lại có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Giữa vùng miền núi và trung du Bắc Bộ với vùng Đông Nam Bộ là 2,5 lần năm 1999. Hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo cũng tăng. Năm 1999 so với năm 994 cả nước tính chung tăng 2,4 lần.
Có thể nói ở một chừng mực nhất định, diễn biến của tình hình phân phối thu nhập trong thời gian qua là hết sức thuận lợi và hợp lý. Sự phân phối ấy góp phần quan trọng tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao trong những năm gần đây. Nhưng điều đó không phủ nhận là nó còn chứa đựng những nhân tố bất hợp lý cản trở sự tăng trưởng tiếp theo của nền kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến văn hoá giàu nghèo và công cuộc xóa đói giảm nghèo.
Một là: việc phân phối thu nhập qua hệ thống lương của nhà nước còn nhiều bất hơp lý
Hai là : hệ thống chính sách liên quan đến phân phối thu nhập ngoài vấn đề tiền lương của nhà nước có vai trò hết sức quan trọng vẫn chưa được nhìn nhận đúng mức
Ba là : do điều kiện của nền kinh tế khả năng đáp ứng phúc lợi xã hội của nhà nước chưa cao
Bốn là :giải quyết việc làm cho người lao có thu nhập là vấn đề còn lan giải
2. Thực trạng các chính sách phân phối
2.1 Chính sách tiền lương đối với phân phối thu nhập
Tiền lương là một phạm trù kinh tế đó là sự biểu hiện bằng tiền của sản phẩm cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, được phân phối cho người lao động dựa vào số lượng và chất lượng lao động mà họ đã hao phí trong quá trình lao động.
Trong điều kiện nước ta hiện nay tiền lương là một trong những chính sách thu nhập chủ yếu nhất bởi nó là thu nhập của phần lớn các thành viên trong xã hội. Việc thực hiện chế độ tiền lương sao cho công bằng, hợp lí thể hiện bản chất xã hội là hết sức quan trọng đối với đất nước.
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội, là động lực trong việc tăng trưởng kinh tế và giải quyết công bằng, tiến bộ xã hội nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lí nhà nước, khai thác khả năng của người lao động. Cuộc cải cách tiền lương năm 1993 chúng ta đạt được một số mục tiêu nhất định do đó đã thống nhất mức lương tối thiểu trong toàn quốc làm cơ sở để giẩi quyết mối quan hệ phân phối giữa người sử dụng lao động và người lao động, thực hiện một bước tiền tệ hoá tiền lương Tính đến cuối tháng 2/1999 đối tượng hưởng lương và trợ cấp thường xuyên và trợ cấp từ ngân sách nhà nước là 6172997 người ( không kể lực lượng vũ trang ) chiếm 8,25 % dân số cả nước và tổng kinh phí tiền lương một năm là 2.161.008 tỷ bằng 55% tổng chi thường xuyên và 1/3 tổng chi ngân sách nhà nước năm 1999. Năm 2001tổng quỹ tiền lương gần 32000 tỷ đồng.
Xây dựng chính sách tiền lương đúng đắn có căn cứ khao học sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất tăng trưởng, cải thiện và nâng cao đời sống của người dân, thực hiện công bằng xã hội. Vì vậy Đảng và nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến cải cách chính sách tiền lương. Từ ngày hoà bình ở miền Bắc đến nay nhà nước ta đã ba lần cải cách chính sách tiền lương (1960, 1985, 1993 ). Nhà nước qui địng mức lương tối thiểu chung có từng thời kỳ tuỳ theo nguồn thu ngân sách và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mức lương tối thiểu thường xuyên thay đổi từ 120000 năm 1993 đến 2003 là 290000 đồng.
Tiền lương tối thiểu đã được luật hoá . Phương pháp xác định đã có căn cứ khoa học sát với thực tế đời sống, phù hợp với khả năng của nền kinh tế đã từng bước tiền tệ hoá tiền lương. Tuy nhiên mục tiêu tính đúng, tính đủ được đặt ra khá cao nhưng thực tế đạt được còn thấp. Mức lương tối thiểu qui định năm 1993 chỉ bằng 59,3% so với nhu cầu, giá tiêu dùng tăng và kinh tế tăng trưởng liên tục nên giá trị thực tế của tiền lương giảm dần không đảm bảo cho người lao động đủ sống bằng lương. Hệ thống thang bảng lương đã được xây dựng phù hợp theo đặc điểm và tính chất của từng ngành nghhề. Việc qui định mức tiền lương bằng hệ số so với mức lương tối thiểu là hợp lí, thuận tiện cho việc thay đổi các mức lương khi tiền lương tối thiểu thay đổi. Cần tạo các thang bảng lương tương đối giống nhau cả về mức lương và ngạch bậc thuận tiện khi chuyển từ ngạch này sang ngạch khác.
Tuy vậy việc thiết kế quá nhiều thang bảng lương sẽ gây phức tạp và trùng lặp. Các chế độ phụ cấp hiện hành: Đã thực hiện được yêu cầu bù đắp khuyến khích thu hút cán bộ công chức, công nhân viên làm việc.Còn nhiều điều bất hợp lí về chính sách tiền lương giữa các khu vực, các bộ phận cũng như các đơn vị sản xuất, giữa các ngành nghề.
Cơ chế tiền lương và thu nhập hiện hành bước đầu đã kiểm soát được biên chế và quĩ lương của các ngành các cấp thực hiện trả lương theo tiêu chuẩn, chức danh, từng bước xã hội hoá khu vực dịch vụ công.
Mặt đạt được của chính sách tiền lương là đã hình thành hệ thống quan điểm, nguyên tắc làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách tiền lương. Việc tiền tệ hoá và thay đổi cơ cấu tiền lương đã cơ bản xoá bỏ chế độ bao cấp, đảm bảo sự công bằng hơn trong phân phối. Quan hệ tiền lương được mở rộng từ 1 – 3,5 lên 1 – 10 đã khắc phục một bước tính bình quân trong chế độ tiền lương. Cơ chế quản lí tiền lương đã có bước thay đổi hợp lí hơn. Bước đầu gắn bó mức tiền lương với hiệu quả sản xuất kinh doanh và tiêu chuẩn chức danh công chức, viên chức tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ. Mối quan hệ giữa tiền lương với năng suất lao động, lợi nhuận được giải quyết hợp lí hơn bên cạnh đó nó còn những tồn tại căn bản. Tiền lương ngay từ khi ban hành năm 1993 đã thấp và trong quá trình thực hiện lại không được bù đủ, kịp thời theo chỉ số tăng giá sinh hoạt cho nên đã hạn chế tác dụng của tiền lương. Quan hệ tiền lương giữa khu vực hành chính sự nghiệp, sản xuất, kinh doanh hệ thống thang bảng lương, phụ cấp còn nhiều bất hợp lí. Cơ chế tiền lương với ngành sự nghiệp chưa hợp lí. Việc cải cách chính sách tiền lương chưa gắn với cải cách các chính sách có liên quan.
Mục tiêu đặt ra của tiền lương tối thiểu là tái sản xuất sức lao động và một phần tích luỹ để tái sản xuất mở rông sức lao động. Nhưng mức tiền lương tối thiểu thấp không đủ chi phí cho nhu cầu thiết yếu của người lao động và chậm được điều chỉnh.
hệ thống tiền lương tối thiểu chủ yếu được áp dụng trong khu vực kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Vì thế tiền lương tối thiểu chung chưa trở thành mạng lưới an toàn cho người làm công ăn lương trong xã hội.
Chưa phân biệt sự khác nhau giữa tiền lương tối thiểu của cán bộ công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước với tiền lương tối thiểu của khu vực có quan hệ lao động theo cơ chế thị trường.
Tiền lương tối thiểu chậm được điều chỉnh cho phù hợp với mức độ trượt giá và sự tăng trưởng kinh tế. Nếu so sánh chỉ số tăng lương tối thiểu với hệ số nhu cầu cần thiết thì chỉ số này còn thấp.
Việc điều chỉnh tiền lương còn chưa có tính chủ động mà do áp lực của xã hội coi là gánh nặng của ngân sách nhà nước. Tiền lương trong khu vực sản xuất kinh doanh đã tách rời căn cứ của nó là tốc độ tăng trưởng sản xuất, năng suất lao động và hiệu quả không phát huy được tính linh hoạt của tiền lương.
tiền lương tối thiểu theo cùng ngành chưa hợp lí. Lương tối thiểu theo cùng ngành chưa được ban hành mà chỉ qui định mức lương tối thiểu chung.
2.2 Chính sách bảo hiểm xã hội đối với phân phối thu nhập
Bảo hiểm xã hội thực chất là một hình thức thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động có tham gia đóng bảo hiểm. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chính sách bảo hiểm được thực hiện như là chính sách đãi ngộ, ban thưởng của nhà nước với công nhân viên chức theo nguyên tắc xã hội và đoàn kết.
Trước đây chế độ bảo hiểmxã hội gồm 6 loại trợ cấp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Quĩ bảo hiểm xã hội chủ yếu do ngân sách nhà nước bao cấp, các đơn vị lao động chỉ đóng góp một tỉ lệ nhỏ còn người lao động không phải đóng bảo hiềm xã hội. Từ sau Đại hội lần thứ 7 đi đôi với việc cải cách tiền lương nhà nước cũng đồng thời cải cách một bước chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội. Nội dung cải cách nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp, ỷ lại trong lĩnh vực bảo hiểm, thực hiện cơ chế đóng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33667.doc