Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - Công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 - 2010)

Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Với đà phát triển đi lên của đất nước, đặc biệt là từ sau khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển hướng quản lý nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết quả là hơn mười năm qua tình hình kinh tế xã hội của cả nước nói chung và của Bến Tre nói riêng đã có bước phát triển mới. Đời sống của nhân dân trong tỉnh đã có nhiều khởi sắc, thu nhập bình quân đầu người từ 101,8 USD năm 1991 tăng lê

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - Công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 - 2010), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n 187,8 USD năm 1994 và chỉ tiêu cuối năm 2000 là 280 USD. Tuy nhiên, sự chuyển biến đó đến nay vẫn còn chậm chạp, đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân vẫn ở vào hạng "nghèo" trong khực vực mặc dù tiềm năng kinh tế - xã hội có thể cho là không thua kém các tỉnh bạn bao nhiêu; có lẽ đây là tình trạng khá phổ biến ở các tỉnh đa phần là nông nghiệp. Thực tế trên đã được Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đánh giá: "nền kinh tế tỉnh ta phát triển chưa vững chắc một số mặt yếu kém chậm được khắc phục như công nghiệp chế biến yếu, thiết bị lạc hậu. Cơ sở hạ tầng dù các năm qua ta có nhiều cố gắng để xây dựng nhưng nhìn chung vẫn còn kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng. Thiếu đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và cán bộ kỹ thuật giỏi" [3, 36]. Sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh còn thấp so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, theo số liệu thống kê cuối năm 1999, tỉnh Bến Tre có gần 5,2% lực lượng lao động thất nghiệp, trong khi số lao động tăng bình quân mỗi năm là 16.500 người và dân số phi nông nghiệp lại giảm từ 8,9% năm 1990 xuống còn 3,2% năm 1998. Vậy nguyên nhân từ đâu? Chúng tôi nghĩ rằng có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất là lao động, đào tạo nguồn lao động, tổ chức sử dụng nguồn lao động. Do đó nếu có chủ trương chính sách đúng, thật sự hợp lý về việc phân công lao động vào các ngành sẽ tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội ở Bến tre phát triển nhanh và vững chắc. Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đã quan tâm đến vấn đề sắp xếp, tổ chức lao động để giải quyết việc làm cho người lao động; khẳng định đây là vấn đề bức bách hiện nay đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân trong cả nước, đặc biệt là đối với nông nghiệp, nông thôn, trong đó có tỉnh Bến Tre phải thực hiện. Căn cứ vào vị trí địa lý, vào đặc điểm kinh tế - xã hội, vào thực trạng phân công lao động thể hiện qua thành quả lao động của từng ngành, dựa vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của tỉnh Bến Tre, là phấn đấu để thu nhập bình quân đầu người 440 USD/năm; muốn thực hiện được các mục tiêu chiến lược đó thì vấn đề "Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 - 2010)" là vấn đề đòi hỏi phải được thực hiện có hiệu quả. Do đó chúng tôi đã chọn đề tài này. 2. Tình hình nghiên cứu Phân công lao động xã hội là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn kinh tế - xã hội rất lớn. Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu vấn đề này ở những góc độ khác nhau, trong đó bàn nhiều về phân công lao động ở phạm vi từng địa phương, từng ngành, tiêu biểu như: "Bàn về phân công lại lao động xã hội ở Việt Nam" của Chế Viết Tấn, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982; "Phân công lại lao động xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vấn đề lao động quân sự'" của Nguyễn Đăng Khoa, chuyên ngành kinh tế chính trị, Trường đại học Biên Phòng; "Phân công lại lao động ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình (1996 - 2000)" của Nguyễn Văn Vọng, chuyên ngành kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; "Về phân công lao động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp" của PTS Hồ Vũ, Lao động và xã hội, tháng 2/1996, tr. 18; "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự gắn bó với phân công lại lao động xã hội" của PGS.PTS Phan Thanh Phố và Trần Huy Năng, Lao động và xã hội, 1/1994; ""Thay đổi phân công lao động theo giới" một số vấn đề đặt ra" của Lê Ngọc Văn, Khoa học về phụ nữ, 2/1999; "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nhìn từ phân công lao động xã hội" của Nguyễn Hữu Thảo, Phát triển kinh tế, số 92, 6/1998... Các công trình nghiên cứu nêu trên đã khai thác, nêu bật những tiềm năng thúc đẩy phân công lao động xã hội của từng ngành ở từng địa phương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã phân tích khá sâu sắc thực trạng và bước đầu nêu ra những giải pháp thúc đẩy phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề ở nước ta nói chung. ở Bến Tre, trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre thời kỳ 1999 - 2010 đã đề ra "từ nay đến năm 2010 nền kinh tế - xã hội của Bến Tre sẽ tiến tới hoàn chỉnh dần cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long" [26, 19]. Hiện nay, chúng tôi chưa tìm thấy đề tài nào bàn về phân công lao động theo hướng này; vì vậy, chúng tôi vận dụng một số hiểu biết của mình để góp phần tìm hiểu thêm về thực trạng phân công lao động và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phân công lao động xã hội nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế ở Bến Tre hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài và lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi xác định mục đích của đề tài là trên cơ sở những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân công lao động xã hội và khảo sát thực trạng lực lượng lao động, phân công lao động hiện nay của Bến Tre mà đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phân công lao động theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ hiện đại trong vòng mười năm tới của Tỉnh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Khái quát lại những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về lao động, về phân công lao động về cơ cấu kinh tế làm cơ sở khoa học cho đề tài. 3.2.2. Phân tích một số đặc điểm cơ bản về tự nhiên, kinh tế - xã hội có quan hệ trực tiếp đến tiến trình phân công lao động và hoàn thiện cơ cấu kinh tế của Bến Tre. Những đặc điểm này làm tiền đề cho việc phân công lao động mới. Khảo sát thực trạng lực lượng lao động và thực chất của việc sử dụng lực lượng lao động hiện nay, trên cơ sở đó rút ra những kết luận có căn cứ xác thực đề xuất một số giải pháp trước mắt cho việc phân công lao động theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế mới nói trên của địa phương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi không có tham vọng và cũng không có khả năng nghiên cứu hết những nội dung của phân công lao động xã hội mà chỉ tập trung nghiên cứu dự kiến phân công lao động đã được đề ra qua các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, nghiên cứu phân công lao động theo hướng từng bước hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế của Bến Tre từ nay đến năm 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài thực hiện trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về lao động, phân công lao động và cơ cấu kinh tế. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Về phương pháp chung: Chúng tôi dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Về phương pháp cụ thể: Chúng tôi sử dụng các phương pháp kết hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và các phương pháp nghiên cứu khác. 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Lần đầu tiên thực trạng của việc phân công lao động ở tỉnh Bến Tre được trình bày một cách có hệ thống. - Nêu được hệ thống giải pháp có ý nghĩa thực thi thúc đẩy quá trình phân công lao động trên địa bàn tỉnh theo hướng hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ vào năm 2010. 7. ý nghĩa của luận văn - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề xây dựng lực lượng lao động, tổ chức phân công lao động xã hội nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế mới trên địa bàn tỉnh Bến Tre. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ lãnh đạo tỉnh Bến Tre trong việc tổ chức phân công lao động theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ của tỉnh đến năm 2010. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Phân công lao động xã hội với việc hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế 1.1. Khái lược một số vấn đề lý luận cơ bản về phân công lao động xã hội và cơ cấu kinh tế 1.1.1. Lao động Trong bất cứ xã hội nào con người cũng phải lao động để tồn tại. Lao động là "quá trình hoạt động tự giác, hợp lý của con người, nhờ đó, con người làm thay đổi các đối tượng tự nhiên và làm cho chúng thích ứng để thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động là điều kiện đầu tiên và cơ bản của sự tồn tại của con người. Nhờ lao động, con người đã tách khỏi thế giới động vật, đã có thể chế ngự lực lượng tự nhiên và bắt chúng phục vụ lợi ích của mình, biết chế tạo công cụ lao động, có thể phát huy khả năng và kiến thức của mình; tất cả những điều đó gộp lại đã quyết định sự phát triển tiến bộ hơn nữa của xã hội" [25, 222]. Lao động là hoạt động tự giác, có tổ chức, có kế hoạch của con người và chỉ có ở con người. Trong tự nhiên mặc dù hoạt động của một số loài vật có vẻ giống như hoạt động của con người, tuy nhiên "việc sử dụng và sáng tạo ra những tư liệu lao động, tuy đã có mầm mống ở một vài loài động vật nào đó, nhưng vẫn là một nét đặc trưng riêng của quá trình lao động của con người" [ , 269]. Hoạt động tự giác đầu tiên của con người là hoạt động tác động vào tự nhiên, cho nên theo C.Mác "lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [ , 266]. Trong quá trình đó con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên một cách có mục đích, có ý thức nhằm biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Vì vậy, trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là yếu tố cơ bản, điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người, là một sự tất yếu vĩnh viễn, một điều kiện chung của sự trao đổi chất giữa con người với giới tự nhiên. Khi xã hội loài người sản xuất ra sản phẩm để trao đổi thì thực thể xã hội chung của tất cả các hàng hóa đó là lao động. Như vậy, lao động sản xuất là một quá trình hoạt động của con người do kết hợp giữa các yếu tố sức lao động, công cụ lao động và đối tượng lao động. Nếu tách riêng biệt của từng yếu tố đó thì chúng ở trạng thái khả năng mà thôi. C.Mác giải thích: "Tiêu dùng sức lao động, đó chính là lao động" [13, 265]. Vậy sức lao động là gì? C.Mác cho rằng: "Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [13, 251]. Thế nên, sức lao động là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhất trong quá trình lao động. Nó phát động và đưa các tư liệu lao động vào hoạt động. Nó là yếu tố chi phối của quá trình sản xuất, đồng thời cũng là yếu tố mang lại lợi ích cho quá trình sản xuất. Sự phân công lao động xã hội phát triển càng sâu sắc, sự xã hội hóa nền sản xuất càng cao thì tính chất xã hội của sức lao động của mỗi người càng nhiều hơn. Qua sự phân tích ở trên có thể khái quát mấy đặc trưng cơ bản của lao động: - Lao động là sự vận dụng sức lao động thông qua công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên trong quá trình sản xuất ra những giá trị sử dụng. - Lao động của con người là hoạt động tự giác, có ý thức. - Lao động là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. - Trong quá trình lao động con người không những sáng tạo ra lịch sử mà còn sáng tạo ra cả chính bản thân mình. - Lao động do đó là một phạm trù vĩnh viễn. Những đặc trưng nêu trên của lao động đồng thời cũng nói lên lợi ích của lao động. Giai cấp thốngtrị lợi dụng những đặc trưng đó của lao động, biến nó thành công cụ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị thông qua quá trình tổ chức và phân công lao động xã hội. 1.1.2. Phân công lao động xã hội Phân công lao động xã hội là sự phân chia những người lao động thành nhiều loại để chuyển những lao động cụ thể khác nhau vào những ngành sản xuất khác nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội tạo nên sự tách rời giữa các ngành sản xuất xã hội, hình thành những ngành sản xuất chuyên môn hóa và những vùng sản xuất chuyên môn hóa. Phân công lao động xã hội theo Lênin là sự phân chia, sự tách rời nhau giữa các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Trong mỗi ngành đó lại chia ra nhiều loại nhỏ. Phân công lao động xã hội là nét đặc trưng của nền kinh tế hàng hóa, phân biệt nền kinh tế hàng hóa với nền kinh tế tự nhiên. Như vậy, phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành ngành, thành loại, thành thứ khác nhau để sản xuất ra các giá trị sử dụng hay hàng hóa khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định của xã hội. C.Mác viết: "Toàn bộ những giá trị sử dụng hay vật thể hàng hóa khác nhau thể hiện toàn bộ những lao động có ích, cũng nhiều hình nhiều vẻ, cũng chia ra bấy nhiêu loại, giống, họ, nhánh và biến chủng khác nhau - nói tóm lại là thể hiện sự phân công lao động xã hội" [13, 72]. Theo khái niệm đó, phân công lao động là sự tồn tại đồng thời của nhiều loại lao động và sự phân chia đó làm tách rời các loại lao động khác nhau. Đồng thời tạo nên mối liên hệ tất yếu phụ thuộc lẫn nhau giữa các loại lao động đã được phân chia. Sự ràng buộc giữa chúng do sự bảo đảm những điều kiện vật chất của sản xuất quyết định. Theo từ điển Triết học, phân công lao động "là hệ thống các loại lao động, chức năng sản xuất công việc nói chung được phân biệt theo những dấu hiệu của mình và đồng thời tác động qua lại lẫn nhau, cũng như là hệ thống các mối liên hệ xã hội giữa chúng". "Phân công lao động xã hội với tư cách là hoạt động của con người, khác với sự chuyên môn hóa, là một quan hệ xã hội có tính chất tạm thời trong lịch sử. Sự chuyên môn hóa lao động là việc phân chia các loại lao động theo đối tượng; nó trực tiếp biểu hiện sự tiến bộ của các lực lượng sản xuất và góp phần thúc đẩy sự tiến bộ đó" [24, 436]. Trong các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội như sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng thì phân công lao động xã hội thuộc phạm trù sản xuất. Bởi vì, theo khái niệm phân công lao động xã hội bao hàm sự phân chia lao động và các điều kiện sản xuất khác trong xã hội. Như vậy, phải có sự phân công này thì quá trình sản xuất mới diễn ra, sản xuất là khởi điểm của quá trình tái sản xuất. Nếu không có sản xuất thì các quá trình tiếp theo như phân phối, trao đổi, tiêu dùng không thể có được. Phân công lao động thuộc phạm trù sản xuất nên nó là phạm trù vĩnh viễn, tuy nhiên hình thức biểu hiện của nó sẽ thay đổi. Phân công lao động xã hội hình thành trong quá trình lao động sản xuất xã hội, nó có bước phát triển từ thấp đến cao, từ giản đơn đến tỷ mỷ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động rõ nét nhất mỗi khi xuất hiện hình thái kinh tế xã hội mới. Như vậy, xét về tính chất của phân công lao động thì nó thuộc về quan hệ sản xuất. C.Mác cho rằng: "Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc bộc lộ rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công theo lao động... Những giai đoạn phát triển khác nhau của phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu" [14, 11]. Tóm lại, "phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa lao động và theo đó là chuyên môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau" [7, 116]. Phân công lao động xã hội bao gồm sự phân công lao động nói chung, phân công lao động đặc thù và phân công lao động cá biệt. - Phân công lao động đặc thù. Trong quá trình phát triển của bản thân mỗi ngành sản xuất, phân công lao động lại được diễn ra trong nội bộ mỗi ngành. Tức là khi công cụ lao động có bước phát triển và trình độ sản xuất của người lao động ngày càng nâng lên thì sự phân chia trong cùng ngành cũng ngày càng phát triển. Phân công lao động trong nông nghiệp là sự phân công lao động đặc thù. Trong ngành nông nghiệp, lúc đầu việc trồng trọt và chăn nuôi không phân định rõ, dần dần hình thành việc chuyên trồng trọt, chuyên chăn nuôi; trong trồng trọt lại phân công lao động chuyên trồng cây lượng thực, chuyên trồng cây công nghiệp. Mặt khác, cũng trong ngành nông nghiệp, lúc đầu sản xuất và chế biến nông sản gắn chặt nhau như một chức năng kinh tế, dần dần chế biến nông sản mới hình thành một cách riêng biệt có chức năng kinh tế khác với sản xuất nông nghiệp và tách khỏi sản xuất nông nghiệp. Phân công lao động trong nông nghiệp có hai hình thức cơ bản, đó là phân công lao động theo ngành và phân công lao động theo vùng lãnh thổ. Sở dĩ có sự phân công lao động theo vùng lãnh thổ là do đặc điểm riêng biệt của sản xuất nông nghiệp, vì sản xuất nông nghiệp gắn rất chặt với điều kiện tự nhiên: đất đai, thời tiết, khí hậu từng miền, từng vùng lãnh thổ. Tóm lại, theo C.Mác thì sự phân công lao động đặc thù là sự phân chia ngành sản xuất ra thành loại và thứ. - Phân công lao động cá biệt Phân công lao động là một phạm trù gắn liền với tất yếu kỹ thuật của sản xuất. Sản xuất chuyên môn hóa đòi hỏi lao động phải chuyên môn hóa. Chuyên môn hóa trong nông nghiệp khác hẳn với chuyên môn hóa trong công nghiệp. Phân công lao động trong công nghiệp là phân công lao động độc chuyên, còn phân công lao động trong nông nghiệp là phân công lao động theo chuyên khâu. Phân công lao động trong xí nghiệp hay phân công lao động cá biệt như C.Mác thường gọi là sự phân công trong xưởng thợ. Đó là sự phân công công việc cho người lao động cá biệt, là sự phân chia chức năng, nhiệm vụ giữa những người lao động cùng sản xuất ra một sản phẩm trong nội bộ từng xí nghiệp riêng biệt. C.Mác - Ph.Ăngghen viết: "Nếu chỉ xét riêng bản thân lao động thì người ta có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn như nông nghiệp, công nghiệp v.v... là sự phân công lao động chung và sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành loại và thứ - là sự phân công lao động đặc thù, còn sự phân công lao động trong xưởng thợ là sự phân công lao động cá biệt" [13, 509-510]. ở nước ta, phân công lao động trong hợp tác xã nông nghiệp vừa có sự phân công lao động đặc thù (phân công lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp) vừa có sự phân công lao động cá biệt (tổ chức các tổ, đội lao động phân công công việc cho từng người lao động). Như vậy, phân công lao động cá biệt, tổ chức lao động gắn liền với quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất. 1.1.3. Cơ cấu kinh tế 1.1.3.1. Khái niệm Trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế chỉ rõ trình độ kinh tế, nó xác định nền kinh tế của một quốc gia đang ở trình độ cao hay thấp; vì vậy, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Để nhận dạng cơ cấu kinh tế của một quốc gia, người ta thường dựa vào quy mô của từng ngành, vị trí kinh tế và sự tác động của nó đối với toàn bộ nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Cũng như phân công lao động xây dựng, cơ cấu kinh tế không chỉ được hình thành một cách thụ động trong những điều kiện khách quan; con người có thể xác lập cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ hơn; tuy nhiên, không thể tùy tiện mà cần dựa vào trình độ mọi mặt của người lao động, dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội hiện thực và yêu cầu sản xuất - tiêu dùng của xã hội để phân công lao động vào các ngành kinh tế theo hướng cơ cấu kinh tế mới, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Do đó, cơ cấu kinh tế có quan hệ mật thiết với phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội hình thành các lĩnh vực, các ngành mới. Các lĩnh vực, các ngành kinh tế trong xã hội có quan hệ với nhau; chúng vừa hợp tác, hỗ trợ nhau, vừa cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển; trong quá trình đó cơ cấu kinh tế hình thành. Như vậy, phân công lao động xã hội và sự tác động giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế là cơ sở để hình thành cơ cấu kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Bởi vì lực lượng sản xuất phát triển thúc đẩy phân công lao động xã hội, khi phân công lao động có sự tự giác thì nó là một mặt trong quan hệ sản xuất, mà cơ sở để hình thành cơ cấu kinh tế là phân công lao động xã hội. Khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế, C.Mác cho rằng: đó là một sự phân chia về mặt chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của quá trình tái sản xuất xã hội. Rõ ràng, giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế có quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối ổn định trong những điều kiện cụ thể. Xem xét cơ cấu kinh tế, người ta không chỉ hình dung nó ở phạm vi của một quốc gia, mà cả của một ngành, một địa phương, thậm chí cả của một khu vực gồm nhiều quốc gia trên thế giới. Bởi vì, khi nền kinh tế thị trường phát triển rộng rãi, đòi hỏi quốc tế hóa đời sống kinh tế của người lao động, thì nhiều khu vực kinh tế trên thế giới có ưu thế riêng, hình thành cơ cấu kinh tế riêng của khu vực. Từ những vấn đề nêu trên, có thể khái quát cơ cấu kinh tế như sau: cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế, chúng có quan hệ hữu cơ với nhau và được sắp xếp theo vị trí, tỷ lệ nhất định cho phù hợp với những điều kiện cụ thể. 1.1.3.2. Nội dung cơ cấu kinh tế Như đã phân tích ở trên, nghiên cứu cơ cấu kinh tế thực chất là nghiên cứu cơ cấu kinh tế kỹ thuật và cơ cấu kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân, trong đó có cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. Cơ cấu kinh tế kỹ thuật là quan hệ tỷ lệ về lao động, thiết bị, vốn... và sự tác động của chúng trong nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế xã hội là quan hệ về vị trí, vai trò và sự tác động của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, cơ cấu ngành kinh tế cũng phát triển đa dạng. Cơ cấu ngành kinh tế là cơ cấu kinh tế được sắp xếp theo vị trí, vai trò của các ngành như: nông - công nghiệp - dịch vụ hoặc có sự đảo ngược giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân tùy vào điều kiện cụ thể. Cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ biểu hiện các quan hệ: - Giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ về cơ cấu kinh tế kỹ thuật, cơ cấu kinh tế xã hội. - Giữa nội bộ các ngành kinh tế về cơ cấu kinh tế kỹ thuật, cơ cấu kinh tế xã hội, bao gồm: + Quan hệ giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. + Quan hệ giữa công nghiệp, TTCN, xây dựng. + Quan hệ giữa các dịch vụ: du lịch, thương mại, thông tin, giao thông vận tải,... Trong ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế còn biểu hiện ở quan hệ giữa trồng trọt và chăn nuôi. Trong ngành trồng trọt, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa trồng cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp. Cơ cấu cây trồng công nghiệp biểu hiện quan hệ giữa cây công nghiệp ngắn ngày và cây công nghiệp dài ngày. Cơ cấu kinh tế cho cây lương thực biểu hiện quan hệ giữa cây lúa và cây màu khác. Trong ngành ngư nghiệp, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Trong ngành nuôi trồng và đánh bắt hải sản lại bao gồm quan hệ giữa: Nuôi thủy sản nước ngọt, nuôi thủy sản nước mặn. Thủy sản ngắn ngày và dài ngày. Nuôi cá, tôm và các thủy sản khác. Đánh bắt trên sông, trên biển,... Trong ngành công nghiệp, cơ cấu kinh tế thể hiện quan hệ giữa: công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp. Sản xuất tư liệu tiêu dùng trong những ngành này còn có quan hệ giữa những ngành nhỏ khác. Công nghiệp khai thác trên biển, khai thác nội địa. Trong ngành xây dựng, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa quy hoạch xây dựng, thiết kế xây dựng và ngành trực tiếp thi công xây dựng. Về cơ cấu kinh tế vùng: Nghiên cứu cơ cấu kinh tế vùng là nghiên cứu cơ cấu kinh tế của một vùng lãnh thổ có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương đương nhau. Vì thế, vùng kinh tế không chỉ được đề cập đến những vùng rộng lớn trong một quốc gia mà còn đề cập đến những vùng có phạm vi nhỏ trong một địa phương, một tỉnh. Nội dung cơ cấu kinh tế vùng thể hiện quan hệ: Giữa các vùng kinh tế trong một nền kinh tế nhất định. Giữa các ngành trong nội bộ vùng kinh tế. Khi đề cập đến cơ cấu kinh tế vùng, cần nghiên cứu quan hệ giữa vùng đồng bằng với vùng cao. Trong vùng đông fbằng cũng cần nghiên cứu cơ cấu kinh tế giữa những vùng: nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Trong vùng cao cũng cần nghiên cứu cơ cấu kinh tế giữa vùng gò đồi với vùng núi. Tóm lại, nội dung cơ cấu kinh tế gồm nhiều mối quan hệ giữa các ngành, các vùng kinh tế. Nắm vững mối quan hệ này, có tác động thích hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, từng vùng mới mong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.1.3.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển nói chung, muốn có một nền kinh tế phát triển đều phải dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi nước mà xây dựng cơ sở kinh tế ban đầu để đi lên nền sản xuất lớn. Những nước này đều tiến hành xây dựng và hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ và khi có nền kinh tế phát triển ổn định đều có xu hướng chuyển dịch sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ. Riêng Việt Nam, là một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, từ một xã hội sau chiến tranh tàn khốc cho nên cơ cấu kinh tế khởi đầu là nông nghiệp thuần túy, sau nhiều năm cơ cấu kinh tế đã chuyển dần từng bước sang cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Qua thực tiễn, phân công lao động xã hội đã phát triển, đã hình thành mô hình cơ cấu kinh tế mới là cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ và xu hướng chung của các địa phương trong cả nước là chuyển dịch dần sang cơ cấu kinh tế này. Để có một nền kinh tế phát triển theo kịp với các nước trong khu vực, Việt Nam phải cố gắng chuyển dần sang cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ, đặc biệt đối với những tỉnh đất hẹp người đông như tỉnh Bến Tre thì càng phải chuẩn bị những điều kiện để chuyển dần sang cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ mới có thể có một nền kinh tế phát triển được, nhưng trước mắt Bến Tre vẫn là một tỉnh với nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Vì thế những năm trước mắt Bên Tre vẫn phải theo hướng xây dựng cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ngày càng hiện đại, tạo tiền đề vật chất sau năm 2010 chuyển sang xây dựng cơ cấu kinh tế mới hiện đại, phù hợp cơ cấu kinh tế của cả nước. ở nước ta hiện nay, xu hướng xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ là cơ sở để tổ chức đội ngũ lao động, phân công lao động cho phù hợp với yêu cầu của những ngành nghề trong nền kinh tế. Vì vậy, xu hướng phân công lao động xã hội hiện nay là phân công lao động theo hướng ưu tiên cho công nghiệp mới đến nông nghiệp và dịch vụ. 1.2. tác động của phân công lao động xã hội đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế 1.2.1. Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển Lịch sử kinh tế - xã hội chỉ cho chúng ta thấy rằng quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là quá trình không ngừng phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lớn mạnh đó là nhờ tác động của phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được sự phân công lao động xã hội thì đòi hỏi lực lượng sản xuất phải đạt được trình độ phát triển nhất định. Trong xã hội công xã nguyên thủy cũng đã hình thành bước đầu sự phân công lao động, tuy nhiên sự phân công lao động đó mới ở hình thức đơn giản nhất, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đương thời, mang đậm nét giới tính. Chẳng hạn đàn ông thì săn bắn, đánh cá; đàn bà thì hái lượm hoa quả, trông nom việc nhà, làm nghề nông và chăn nuôi v.v... Còn người già thì chế tạo công cụ lao động thô sơ. C.Mác - Ph.Ăngghen đã viết: "Lúc đầu chỉ là sự phân công lao động trong hành vi theo giới tính và về sau là phân công lao động tự hình thành hoặc hình thành một cách tự nhiên", do những thiên tính bẩm sinh (như thể lực chẳng hạn) do những nhu cầu, do những sự ngẫu nhiên" [9, 44-45]. Sang chế độ chiếm hữu Nô lệ và chế độ Phong kiến do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội cũng ngày càng phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 của CNTB đã đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đến trình độ cao. Hàng loạt máy móc, công cụ sản xuất chuyên môn hóa ra đời đã làm cho quá trình chuyên môn hóa lao động gắn chặt với chuyên môn hóa công cụ lao động, lao động càng chuyên môn hóa sâu thì công cụ lao động cũng ngày càng được hoàn thiện. Quá trình đó cũng thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. C.Mác cho rằng: Khi những công việc khác nhau trong một quá trình lao động bị tách khỏi nhau và mỗi một công việc bộ phận trong tay người công nhân bộ phận, đã có được cái hình thái thích hợp nhất và do đó cũng là hình thái độc chuyên, thì lúc đó nảy sinh sự cần thiết phải thay đổi công cụ trước kia dùng vào nhiều mục đích khác. Khi công cụ được chuyên môn hóa cao thì phân công lao động ngày càng phát triển, nhưng trong điều kiện chưa có công cụ chuyên dùng, nghĩa là trong khi còn phải lao động bằng công cụ thủ công là chủ yếu thì trong quá trình lao động con người bao giờ cũng muốn giảm nhẹ sức lao động của mình, thì riêng việc thực hiện phân công lao động xã hội cũng tạo ra một sức sản xuất mới và năng suất lao động cao hơn. "Trong nền sản xuất dựa trên cơ sở lao động thủ công, kỹ thuật chỉ có thể tiến bộ được dưới hình thức phân công thôi" [8, 535]. Điều đó cũng chỉ rõ là cùng một trình độ của lực lượng sản xuất, nhưng mỗi người làm một việc thì năng suất lao động sẽ cao hơn là khi người đó phải làm nhiều việc. Khi phân tích sự phân công trong công trường thủ công, C. Mác cũng chỉ ra rằng: Do phân tích hoạt động của các nghề thủ công, do chuyên môn hóa các công cụ, do đào tạo công nhân bộ phận, do chia nhóm và kết hợp vào tổng cơ cấu, sự phân công trong công trường thủ công tạo ra một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội. Nghĩa là tạo ra một tổ chức lao động xã hội nhất định, cùng với điều đó thì cũng đồng thời phát triển một sức sản xuất mới, có tính chất xã hội của lao động. Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, lực lượng sản xuất có bước phát triển vượt bậc và cũng là sự phát triển mạnh mẽ của sự phân công lao động xã hội. Trong giai đoạn này, do sự phát triể._.n mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ kinh tế đã mang tính chất quốc tế, tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất càng lớn thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa càng gay gắt. Muốn duy trì chủ nghĩa tư bản, bảo vệ những lợi ích độc quyền của giai cấp tư sản, nhà nước tư sản đã can thiệp ngày càng sâu vào quá trình kinh tế nói chung và sự phân công lao động nói riêng. Trong giai đoạn lịch sử này, phân công lao động xã hội vừa diễn ra tự phát theo yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường, vừa có sự tác động một cách tự giác theo các kế hoạch phát triển kinh tế và sử dụng nguồn lao động được chuẩn bị của nhà nước tư sản. Đến nay nhân loại đã trải qua và đang đi tới những phương thức sản xuất xã hội khác nhau, thực tiễn lịch sử đó đã chỉ cho chúng ta thấy: sự phát triển của phân công lao động xã hội luôn luôn được biểu hiện qua sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phát triển các hình thức phân công lao động xã hội cũng tác động mạnh trở lại đối với sự phát triển của lượng sản xuất. Mác - Ăngghen đã khẳng định: "Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc bộc lộ rõ nét nhất ở trình độ phát triển của phân công lao động xã hội" [9, 30]. Đồng thời sự phát triển của phân công lao động xã hội đến lượt nó lại thúc đẩy sức sản xuất của lao động phát triển. Mác Viết: "Sức sản xuất của lao động chủ yếu phải phụ thuộc vào sự phân công lao động" [12, 175]. Phân công lao động xã hội đã thúc đẩy quá trình sử dụng công cụ ngày càng hiện đại hơn làm tăng sức sản xuất của lao động xã hội và hiệu quả tất yếu dẫn đến năng suất lao động xã hội tăng lên. Năng suất lao động tăng lên nói lên trình độ tiến bộ của người lao động và trình độ, năng lực của người lao động trở thành điều kiện để sử dụng công cụ hiện đại. Nói về mối quan hệ này, Mác giải thích: "Việc phát triển sản xuất cơ khí cũng giống như việc mở rộng phân công lao động, sẽ dẫn đến một việc là: trong khoảng thời gian ngắn hơn có thể sản xuất được nhiều hơn gấp bội" [11,740]. Cũng vì thế mà một phát minh lớn nào về công cụ lao động về máy móc cũng đều đem lại một sự phân công lao động mới hơn và ngược lại mỗi lần phân công lao động cao hơn lại thúc đẩy sự ra đời những phát minh mới về máy móc. Đến lượt nó máy móc ảnh hưởng đến sự phân công lao động đến mức khi người ta đã tìm được cách đưa một phần máy móc vào nghề chế tạo một vật phẩm nào đó thì nghề chế tạo ấy tách thành 2 ngành kinh doanh độc lập với nhau. C. Mác - Ph.Ăngghen cho rằng: "Với việc sử dụng máy móc, phân công lao động trong xã hội đã tăng lên, công việc của người công nhân trong nội bộ công xưởng đã trở thành giản đơn hơn, tích tụ tư bản tăng lên, con người càng bị phân chia hơn" [10, 221]. Như vậy, phân công lao động xã hội đã kích thích sử dụng máy móc và nâng cao năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết quả của sự phát triển mới về phân công lao động xã hội. Tóm lại, phân công lao động với tư cách là sự chuyên môn hóa sản xuất, đã tạo điều kiện phát triển máy móc và nâng cao trình độ của người lao động, từ đó góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã đánh dấu 3 lần phân công lớn: Việc tách các bộ lạc chăn nuôi ra khỏi toàn khối bộ lạc là sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ nhất. Nó đã đẩy mạnh năng suất lao động xã hội và tạo tiền đề vật chất cho sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp. Trong lịch sử kinh tế xã hội có một giai đoạn sản xuất mà nghề thủ công là nghề phụ nằm trong nghề nông, đến khi nghề thủ công tách biệt khỏi nông nghiệp, điều đó được xem là sự phân công lao động xã hội lần thứ hai. Lần phân công này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao một bước nữa năng suất lao động xã hội. Nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển, sản xuất hàng hóa càng tăng là tác nhân kích thích việc hình thành tầng lớp thương nhân, ngành mới xuất hiện đánh dấu sự phân công lao động xã hội lần thứ ba. Lênin viết: Sự chuyên môn hóa lao động xã hội do bản chất của nó là vô tận, cũng giống như sự phát triển của kỹ thuật vậy. Muốn nâng cao được năng suất lao động của con người, ví dụ nhằm làm ra một bộ phận nào đó của một sản phẩm toàn bộ, thì cần làm cho việc sản xuất bộ phận đó được chuyên môn hóa, trở thành một ngành sản xuất riêng biệt, sản xuất được hàng loạt sản phẩm và vì lẽ đó có thể là cần phải sử dụng máy móc. Qua đây, chúng ta thấy việc chuyên môn hóa lao động cũng là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tăng thêm tính chất xã hội hóa của sản xuất. 1.2.2. Phân công lao động thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển Phân công lao động xã hội hình thành dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phân công lao động xã hội đã thúc đẩy những ngành sản xuất độc lập, những ngành sản xuất chuyên môn hóa tạo ra những sản phẩm mới thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng làm cho nền kinh tế hàng hóa phát triển ngày càng sâu, rộng và do đó cũng thúc đẩy thị trường phát triển mạnh. Do vậy, phân công lao động là điều kiện của nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của thị trường. Lênin đã khẳng định: "Sự phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa... phân công xã hội là nhân tố chủ yếu trong quá trình hình thành thị trường trong cả nước của chủ nghĩa tư bản" [8, 23]. Người còn kết luận: Như vậy sự phân công xã hội là cơ sở của toàn bộ quá trình phát triển của kinh tế hàng hóa của chủ nghĩa tư bản. Lịch sử kinh tế xã hội đã chỉ rõ phân công lao động xã hội càng cao thì thị trường càng đa dạng, phong phú. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển thì đồng thời số lượng các ngành sản xuất riêng biệt, độc lập cũng tăng lên. Khi nền kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển lại tác động đến tiến trình mới của sự phân công lao động xã hội. Tầng lớp thương nhân ra đời, như vậy chức năng tiêu thụ sản phẩm tách khỏi chức năng sản xuất, hình thành đội ngũ lao động chuyên làm trong lĩnh vực lưu thông. Sự chuyên môn hóa như trên là cơ sở cho sự tách rời giữa các ngành. Trong ngành công nghiệp, một khi đã sản xuất ra hàng hóa, tức là cũng đặt ra vấn đề cần trao đổi đầu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp. Rõ ràng kinh tế hàng hóa có vai trò tích cực đối với phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội không chỉ thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa nói chung phát triển mà còn làm phong phú thêm giá trị sử dụng của hàng hóa, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của nhân dân và góp phần mở rộng thị trường thế giới. 1.2.3. Phân công lao động xã hội góp phần củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Phân công lao động xã hội không chỉ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mà còn có tác động đến việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Như trên đã nói phân công lao động xã hội vừa phản ánh tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vừa là động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên quan hệ sản xuất lại là hình thức của lực lượng sản xuất nên chúng có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, do đó phân công lao động xã hội cũng góp phần củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Như ta đã biết, quan hệ sản xuất gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm, trong ba mối quan hệ đó thì quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất đã bao hàm sự phân công lao động xã hội và qua đó Nhà nước đã tác động vào quá trình phân công lao động xã hội. Nếu tác động phù hợp với quy luật khách quan sẽ có tác động tốt đến việc phát triển lực lượng sản xuất và do đó có tác động trực tiếp đến việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Nước ta đã chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế quản lý hành chính bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy, các hình thức mới của quan hệ sản xuất vừa phải phù hợp với quá trình tổ chức và phân công lao động xã hội, vừa phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong từng ngành, từng đơn vị sản xuất nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và tài nguyên của đất nước. Vấn đề này đã được nêu rõ trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII: "Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường là cốt để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ cho mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa" [1, 4]. Phân công lao động xã hội có tác động thúc đẩy việc hoàn thiện quan hệ sản xuất, nhưng việc thúc đẩy đó nhanh hay chậm, đúng định hướng hay không còn tùy thuộc vào phương thức quản lý nền kinh tế của Nhà nước. Đối với nước ta, thực tiễn đòi hỏi Nhà nước phải nhận thức cho được sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế thị trường đối với phân công lao động xã hội, từ đó có giải pháp và chính sách hợp lý tác động có hiệu quả đến tiến trình phân công lao động xã hội nhằm vừa thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển vừa hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nước ta. 1.2.4. Mối quan hệ của nhận thức với hiện thực khách quan trong tiến trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế Khi lãnh đạo quản lý nền kinh tế, bất kỳ Nhà nước nào cũng đều phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, điều kiện địa lý tự nhiên khác của đất nước, của địa phương để xác định cơ cấu kinh tế. Bởi vì, quá trình lao động sản xuất bao giờ cũng là sự kết hợp giữa lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động; tài nguyên thiên nhiên là đối tượng có sẵn trong tự nhiên, Nhà nước căn cứ vào loại tài nguyên nào nhiều hay ít mà tập trung lực lượng lao động để khai thác nhằm thu được nguồn lợi kinh tế nhanh nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Nhà nước còn phải căn cứ vào nguồn lao động về thể lực, trí lực, trình độ chuyên môn sản xuất, kinh nghiệm sản xuất mà phân bố lực lượng lao động vào các ngành nghề cho phù hợp với khả năng của người lao động, có như vậy mới tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo. Ngoài ra, nhà nước còn phải căn cứ vào điều kiện địa lý tự nhiên của các vùng trong nước, của từng địa phương mà bố trí lực lượng lao động nhằm khai thác thế mạnh kinh tế của đất nước. Do vậy, việc xác định cơ cấu kinh tế phải tùy thuộc vào các nguồn lực vật chất hiện có của đất nước mới mong thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế phải dựa trên thế mạnh kinh tế của quốc gia, của địa phương ở từng thời kỳ nhất định để xác định hướng sản xuất trọng tâm, xác định các ngành kinh tế, từ đó có hướng đầu tư về tài chính theo tỷ lệ thích hợp cho các ngành kinh tế, có kế hoạch đào tạo cán bộ, đào tạo đội ngũ lao động lành nghề cho từng ngành và phân bổ lao động cho hợp lý, do đó cơ cấu kinh tế mới dần dần hình thành và phát triển. Nhưng muốn có cơ cấu kinh tế hợp lý phải căn cứ vào khả năng dự đoán chủ quan của con người, trong đó thực tiễn khách quan là căn cứ quan trọng nhất. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế của một quốc gia là nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hay công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ,.... đều phải tùy vào lực lượng lao động trong nông nghiệp hay lực lượng lao động trong công nghiệp... là chủ yếu mà hình thành nên. Nếu không căn cứ vào thực tế phân công lao động xã hội mà tùy tiện hoạch định cơ cấu kinh tế thì sẽ không phát huy được sức mạnh của cơ cấu kinh tế mới, sẽ xem như lý luận không xuất phát từ thực tiễn và vì thế mà lý luận sẽ không phục vụ thực tiễn, cơ cấu kinh tế không thúc đẩy phân công lao động xã hội. Như vậy, phân công lao động xã hội và cơ cấu kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhau, hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế là cơ sở thúc đẩy phân công lao động xã hội và ngược lại. Xây dựng cơ cấu kinh tế mới là cơ sở để thực hiện sự phân công lao động xã hội mới. Phân công lao động xã hội càng phát triển, nhiều ngành, nghề mới được hình thành sẽ tác động mạnh đến tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nắm vững quan hệ này những nhà quản lý kinh tế sẽ quản lý tốt và kích thích nền kinh tế phát triển. Tóm lại, cơ cấu kinh tế không phải tự nó hình thành, nó cũng không thể do ý chí chủ quan của chủ thể quản lý vĩ mô; dù đó là cơ cấu kinh tế của cả nước, của một địa phương, hay cơ cấu nội bộ của một ngành kinh tế; mà phải là sự kết hợp nhuần nhuyễn lý luận, đường lối chiến lược kinh tế với hiện thực khách quan - có như vậy mới có thể xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, và hình thành từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Chương 2 Thực trạng phân công lao động xã hội và những vấn đề đặt ra hiện nay ở tỉnh Bến Tre Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở Bến Tre là một tất yếu như các tỉnh khác nông nghiệp, tuy nhiên do điều kiện kinh tế xã hội và điều kiện tự nhiên của tỉnh Bến Tre có những nét đặc trưng riêng, làm cho quá trình phân công lao động xã hội có những nét đặc thù. Điều đó đòi hỏi những người có trách nhiệm đối với quá trình này cần phải nắm bắt, nhất là việc xây dựng lực lượng lao động để hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ của tỉnh. 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến tiến trình phân công lao động của tỉnh 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên Bến Tre là một trong mười hai tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, nằm về phía Đông Nam của vùng. Tỉnh Bến Tre là một vùng đất thấp được bồi lắng qua nhiều thế kỷ bởi bốn nhánh sông Cửu Long (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên), hình thành nên ba dãy cù lao, trong đó có ba cù lao lớn là: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt mà cán quạt nằm ở phía thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như những nan quạt xòe rộng ra ở phía Đông. Phía Bắc của Bến Tre giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền; phía Tây và phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên; phía Đông giáp biển Đông với chiều dài hơn 65km. Diện tích tự nhiên vùng đất liền của tỉnh Bến Tre là 2.287 km2 (chiếm 0,68% diện tích cả nước và 5,68% diện tích đồng bằng sông Cửu Long) và vùng lãnh hải khoảng 20.000 km2. Địa hình tỉnh Bến Tre tương đối bằng phẳng, nơi cao nhất không quá 5 mét, thấp dần theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam và ra biển, trong đó địa hình có độ cao từ 1-2 mét chiếm trên 90% diện tích, toàn tỉnh bị ngập nước một phần khi có triều cường từ tháng 9 đến tháng 12. "Đặc điểm nổi bật của vị trí địa lý kinh tế là Bến Tre nằm ở cửa hệ thống sông Mê Công, tốc độ bồi lắng lớn, cùng với những khó khăn về xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghiệp, và đô thị là những tác động xấu từ bên ngoài như dễ bị xâm lấn mặn, ô nhiễm v.v..." [26, 2]. - Về đất đai của tỉnh Bến Tre gồm nhiều loại và được phân làm bốn nhóm chính: + Nhóm đất phù sa: diện tích khoảng 66.000 ha (35% diện tích toàn tỉnh) nằm trên khu vực phía Tây. + Nhóm đất phù sa nhiễm mặn (từ lợ đến mặn): hơn 96.000 ha (khoảng 50% diện tích toàn tỉnh) đã và đang được cải tạo cho nhiều mục đích sử dụng; từ trồng lúa, các cây công nghiệp như mía, dừa; cây ăn trái khác đến làm muối, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng. + Nhóm đất phèn: diện tích khoảng 15.000 ha, đang được cải tạo để trồng lúa. + Nhóm đất giồng cát: diện tích hơn 14.000 ha (khoảng 7% diện tích toàn tỉnh) thích hợp cho trồng rau màu, các loại cây lâu năm, cây công nghiệp ngắn ngày và là nơi tập trung dân cư. Gần đây do việc xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống thoát nước ra biển, nước mặn đã lấn sâu vào đất liền, thu hẹp đáng kể vùng ngọt và ngọt hóa của tỉnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên đất và nước, đặc biệt là hệ thực vật, làm biến động các hệ sinh thái của tỉnh Bến Tre. Tóm lại, thời gian qua quỹ đất của Bến Tre được sử dụng khá triệt để. Đáng chú ý là quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây công nghiệp và cây ăn quả, cũng như quá trình gia tăng các loại đất lâm nghiệp, diêm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và đất thủy lợi. Sự dịch chuyển cơ cấu sử dụng đất 8 năm qua khá cao (22%) và được đánh giá là đúng hướng. Nó đã có tác động tích cực lên gia tăng giá trị và cơ cấu sản xuất của khu vực I. Tuy nhiên, quỹ đất dành cho cơ sở hạ tầng và các công trình dân dụng vẫn còn thấp, chưa đáp ứng những yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội Bến Tre. - Về khí hậu: Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ bình quân là 27,30C; độ ẩm bình quân là 81-82%; số giờ nắng trung bình 7,2 giờ/ngày; lượng mưa hàng năm trung bình từ 1264mm đến 1498,2mm. ở Bến Tre phân bố thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5-11, mùa khô từ tháng 12-04; gió hướng Tây - Tây Nam vào mùa mưa và hướng Đông - Đông Bắc vào cuối mùa mưa và mùa khô. - Sông ngòi của tỉnh Bến Tre chằng chịt gồm 4 nhánh sông lớn (sông Tiền dài 90km, sông Ba Lai dài 70km, sông Hàm Luông dài 72km, sông Cổ Chiên dài 87km), và nhiều kênh rạch nối các con sông lại với nhau. Với "46 kênh, rạch chính có tổng chiều dài 343km, các con sông bao bọc và chia cắt làm cho tỉnh Bến Tre thành một cù lao bốn bề sông nước" [18, tr. 12]. Thủy triều ở Bến Tre lên xuống 2 lần mỗi ngày, mỗi tháng có 2 kỳ triều cường, đỉnh triều cường cao nhất vào tháng 10 đến tháng 12. Bến Tre bị nước mặn xâm nhập nghiêm trọng nhất vào mùa khô, độ mặn biến thiên theo từng tháng do ảnh hưởng của thủy triều, gió và lượng nước nguồn đổ về. Trong những năm gần đây, nhất là năm 1998 nước mặn xâm nhập sâu hơn, mặn 4% của tháng 4 năm 1998 đã bao phủ hơn 90% diện tích của tỉnh, đây là vấn đề bức xúc cho sản xuất và đời sống nhân dân. Theo đánh giá của ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre: "Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa và nền nhiệt cao, ổn định quanh năm, ít bão. Tuy nhiên, trong 10 năm gần đây, tình hình khí hậu thủy văn diễn biến khá phức tạp tạo nên tình trạng ngập lũ, bão lốc, xâm nhập mặn sâu và rộng trên hầu hết các địa bàn" [26, tr. 2]. Với điều kiện tự nhiên như trên, Bến Tre một mặt thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, lưu thông thuận tiện bằng đường thủy..., nhưng mặt khác tạo không ít khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống, do diện tích đất nhiễm mặn lớn vào mùa khô và cách trở lưu thông bằng đường bô, khó thu hút đầu tư quốc tế và kể cả trong nước. Để đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Bến Tre muốn phát triển kịp các tỉnh lân cận cần phải chú trọng xây dựng nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, cải tạo môi trường, phát triển ngành nghề thích hợp với điều kiện tự nhiên. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre 2.1.2.1. Về dân số ở Bến Tre có 15 thành phần dân tộc (Kinh, Hoa, Khơme, Thái, Tày, Nùng, Mường, Chăm, Ba Na, Ê Đê, Pháp, Mỹ, Mã Lai, Phi, ấn Độ) nhưng chủ yếu là người Kinh, các dân tốc khác rất ít và hầu như hòa nhập với người Kinh. Theo báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - xã hội năm 1999 của ủy ban nhân dân tỉnh, theo số liệu thống kê của Cục thống kê tỉnh Bến Tre, số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thì dân số Bến Tre năm 1997 hơn 1289 ngàn người, năm 1998 là 1.293.487 người, năm 1999 là 1.296.914 người, trong đó nữ là 669.483 người và nam là 627.431 người. Khu vực thành thị có 109.853 người, khu vực nông thông có 1.187.061 người chiếm 91,5% dân số của tỉnh. Mật độ dân số là 567 người/km2, gấp 1,4 lần mật độ bình quân của đồng bằng sông Cửu Long. Cơ cấu dân số thành thị - nông thôn năm 1990 là 7,49%-92,51%, năm 1998 là 8,75%-91,25%, năm 1999 là 8,5%-91,5%. Dân số phi nông nghiệp ở nông thôn giảm từ 8,9% năm 1990 xuống 3,2% năm 1998. Hiện nay, tỷ lệ tăng dân số của Bến Tre là 1,26%/năm, tỷ lệ sinh là 1,6%; nếu tính bình quân hai cuộc điều tra thì tốc độ tăng dân số trong mười năm qua là 0,61%/năm. Những số liệu trên cho thấy Bến Tre là tỉnh đất hẹp người đông, lao động việc làm đã và đang là những vấn đề dễ dàng đẩy quá trình phát triển kinh tế của tỉnh vào vòng luẩn quẩn. ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã nhận định: "Động thái biến động dân số cao, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu (trên 90% sống ở nông thôn), công nghiệp nông thôn thu hẹp, tìm kiếm việc làm khó khăn nên phần lớn số lao động, nhất là những người trong độ tuổi sinh đẻ dưới 30 tuổi đã di chuyển và lập nghiệp nơi khác, dẫn tới tỷ lệ lao động trẻ giảm, tỷ lệ sinh có xu thế giảm mạnh" [26, tr. 4]. Tuổi thọ bình quân của dân Bến Tre tương đương mức chung của cả nước, song lứa tuổi từ 15-29 tuổi chỉ chiếm khoảng 30-31% dân số trong 8 năm qua, thể hiện dân số không trẻ. Lứa tuổi lao động tăng 46,6%/năm 1990 lên 51,8% năm 1998, trong khi đó số trẻ dưới 14 tuổi lại giảm. Những năm gần đây, số lao động tăng bình quân 18.000 người/năm, năm 1999 tỷ lệ thất nghiệp là 5,1%; số người chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm chiếm 7%; 17% dân số thất nghiệp theo thời vụ, do vậy, có một bộ phận không nhỏ lao động hàng năm phải đi làm thuê ngoài thời vụ hoặc đi lập nghiệp ở các tỉnh và địa phương khác. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (dưới 6%), lao động trong độ tuổi tham gia các cấp học cũng rất thấp (2,68%). Dân số đông là hạn chế lớn và không thể thoái thác trong những năm phát triển tới của Bến Tre. Song trong điều kiện hội nhập mạnh mẽ với kinh tế của cả nước, kinh tế thế giới và kinh tế khu vực điều này có thể là một lợi thế so sánh lớn nếu nhìn vào thị trường lao động rộng lớn ở Đông Nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long, cả nước nói chung và các nước trong khu vực. Người lao động Bến Tre có truyền thống hiếu học, cần cù sáng tạo, điều cần có chính là một chiến lược phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm đúng hướng, hình thành thêm nhiều cơ hội mới cho tương lai phát triển kinh tế của tỉnh. 2.1.2.2. Đặc điểm kinh tế của tỉnh Bến Tre Trong những năm qua, tình hình kinh tế của Bến Tre tuy có bước phát triển nhưng nhìn chung "Nền kinh tế đang từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ chậm" [17, tr. 14]. Số liệu thống kê cho thấy GDP của tỉnh ở khu vực I (nông - lâm - ngư nghiệp) năm 1997 chiếm 2990 tỷ đồng, đạt 65,3% tổng sản phẩm của tỉnh; năm 1998 chiếm 3389 tỷ đồng đạt 66,5% tổng sản phẩm của tỉnh, năm 1999 chiếm 3856 tỷ đồng đạt 65,8%. ở khu vực II (công nghiệp - TTCN, xây dựng) năm 1997 chiếm 486 tỷ đồng, đạt 10,6% tổng sản phẩm của tỉnh; năm 1998 chiếm 536 tỷ đồng, đạt 10,5%, năm 1999 chiếm 609 tỷ đồng chiếm 10,4%. Tốc độ tăng trưởng từ 1990 - 1995 của khu vực I theo giá trị thị trường (giá so sánh 1994) là 5,4%, từ 1996 - 1998 là 6,5%. Tốc độ tăng trưởng từ 1990 - 1995 của khu vực II theo tổng sản phẩm của tỉnh là 8,6%, từ 1996 - 1998 là 7,9%. Về cơ cấu ngành nghề, Bến Tre bị hạn chế về địa lý lãnh thổ nên ít bị ảnh hưởng bởi sự tăng trưởng kinh tế của các trọng điêmr kinh tế trong vùng và các tỉnh lân cận. Do đó, mức độ đa dạng hóa ngành nghề sản xuất còn thấp, chủ yếu phát triển các ngành nghề truyền thống của địa phương như khai thác và chế biến nông - thủy sản, vì vậy, nền kinh tế của Bến Tre đang đứng trước những khó khăn thách thức như: + Những tồn tại yếu kém của nền kinh tế chưa khắc phục được trong nhiều năm qua vẫn còn rất nặng nền, trình độ phát triển của tỉnh còn thấp, quy mô sản xuất còn nhỏ bé. + Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế trong 3 năm (từ 1997 đến nay) diễn biến theo chiều hướng không thuận lợi; trong khi đó, những điều kiện để chặn đà giảm sút và tạo bước đi lên cho những năm sau còn hạn chế. + Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế còn lạc hậu, vấn đề đổi mới thiết bị, công nghệ triển khai rất chậm. + Những vấn đề bức xúc đặt ra trong lĩnh vực xã hội ngày càng gay gắt, nổi lên là vấn đề giải quyết việc làm, một bộ phận đời sống dân cư ở vùng nông thôn vẫn còn khó khăn, tiêu thụ sả phẩm sản xuất của nông dân không ổn định, các tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng làm hạn chế động lực phát triển kinh tế. + Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước của bộ máy các cấp chưa đồng bộ và đáp ứng kịp so với yêu cầu là cản trở lớn cho sự phát triển. + Bên cạnh đó, các tỉnh trong khu vực có điều kiện thuận lợi hơn tỉnh Bến Tre trong việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, cạnh tranh sản xuất và xuất khẩu; trong khi đó ở Bến Tre sản phẩm hàng hóa và môi trường thu hút vốn đầu tư đã yếu kém, sẽ càng khó khăn hơn trong bối cảnh mới. Tình hình chung về kinh tế Bến Tre từ 1991 đến nay cho thấy đóng góp chính cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn là khu vực I. Đây là khu vực có tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 5,83%/năm từ 1990 - 1998, trong đó giai đoạn 1990 - 1995 là 5,42%/năm và 1996 - 1998 có tăng nhanh hơn, tức 6,5%/năm. Tỷ trọng trong GDP của khu vực I vẫn thuộc loại cao và theo hướng gia tăng từ 60,3% năm 1990 lên 66,5%/năm 1998; năm 1999 tuy có giảm (65,8%) nhưng không đáng kể. Điều đáng chú ý là trong khi kinh tế cả nước gặp khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, tốc độ tăng trưởng giảm từ 8,2% năm 1997 xuống 5,8% năm 1998 thì kinh tế Bến Tre vẫn giữ mức tăng trưởng tương đối đều đặn. Khu vực II phát triển yếu, tốc độ tăng trưởng bình quân 8,37%/năm (8,64%/năm trong giai đoạn 1990 - 1995; 7,93%/năm trong 3 năm gần đây); tỷ trọng trong GDP của khu vực II giảm dần từ 17,7% năm 1990 xuống 10,4% năm 1999, mặc dù mấy năm gần đây tốc độ giảm có hạn chế (10,7% năm 1996, 10,6% năm 1997, 10,5% năm 1998) nhưng nhìn chung vẫn giảm. Khu vực III - khu vực dịch vụ tăng trưởng trung bình so với hai khu vực nói trên (8,2%/năm), nhưng từ năm 1996 đến 1999 tốc độ bị giảm nhiều, còn khoảng 7,33%/năm. Tỷ trọng trong GDP của khu vực III tăng từ 21,97% năm 1990 lên 23,84% năm 1999. GDP của tỉnh trên một người theo giá so sánh năm 1994 gia tăng từ 1,66 triệu đồng (tương đương 151 USD) năm 1990 lên 2,68 triệu đồng (tương đương 244 USD) năm 1998. So sánh với cả nước và xu thế của nó cho thấy GDP trên một người của Bến Tre hiện nay chỉ bằng 70% và khoảng cách ngày càng lớn. Về nhiều chỉ tiêu, đời sống nông dân có những cải thiện, song cũng có sự phân cực rõ rệt về thu nhập giữa dân cư nông nghiệp và phi nông nghiệp. Mức chênh lệch giứa GDP của tỉnh/người trong khu vực phi nông nghiệp và nông nghiệp ngày càng lớn, từ 2,53 lần năm 1990 lên 4,5 lần năm 1998. Do dân số phi nông nghiệp ở nông thôn giảm nên các hộ có thu nhập cao đều thuộc khu vực thành thị. Thực trạng kinh tế nói trên cho thấy mặc dù kinh tế Bến Tre đã có những chuyển dịch về cơ cấu nhưng chưa thật đúng hướng và còn rất chậm chạp, tất yếu phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển ngành nghề, nâng cao chất lượng hàng nông sản. Đây là điều không dễ dàng đối với một tỉnh còn nhiều khó khăn, đòi hỏi những nhà quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế chú trọng hơn nữa đến vấn đề phát triển ngành nghề, thực hiện phân công lao động xã hội hợp lý hơn. 2.1.2.3. Về các lĩnh vực xã hội Những năm gần đây đời sống dân cư bước đầu được cải thiện nhưng còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ khá và giàu có tăng nhưng số hộ nghèo còn nhiều. Theo điều tra của Sở Lao động - Thương binh và xã hội [25, tr. 8] năm 1998 Bến Tre có 45.996 hộ nghèo, chiếm 16,64% số hộ của tỉnh; năm 1999 có 58.084 hộ, chiếm 19% số hộ. Hội nghị về công tác xóa đói giảm nghèo năm 2000 ghi nhận còn 50.481 hộ nghèo, chiếm 16,79% [26, tr. 7]. Ngoài ra, trong năm 1999 có 107 trường hợp phải cứu trợ đột xuất với 4.585.000 đ và 562 trường hợp phải giải quyết trợ cấp thường xuyên. Nơi trung tâm xã hội của tỉnh đang nuôi dưỡng 56 người già cô đơn, trong đó có 9 đối tượng chính sách, quản lý 11 đối lượng lang thang. Làng SOS đang nuôi dưỡng 83 cháu. Như vậy, qua hai cuộc điều tra của năm 1998 và giữa năm 2000, chúng tôi nhận thấy số hộ dân tăng lên 8,77% nhưng số hộ nghèo cũng tăng lên cao hơn (9,75%). Điều đó chỉ rõ đời sống khó khăn của một bộ phận dân cư khá đông, mặc dù một năm qua có giảm nhưng vẫn còn cao hơn trước đó. + Hậu quả chiến tranh rất nặng nề, đã để lại cho Bến Tre 34.446 liệt sĩ, Nhà nước đã ghi nhận 1843 bà mẹ Việt Nam anh hùng, hiện nay có 573 mẹ còn sống và Bến Tre có trách nhiệm trực tiếp phụng dưỡng. Ngoài ra còn 530 thương binh nặng được nuôi dưỡng tại nhà, 132 thương binh nặng được xã hội chăm sóc. Nếu tính chung ở Bến Tre, Nhà nước đã đãi ngộ cho 18.015 gia đình thương binh 1.504 bệnh binh; trợ cấp thờ cúng liệt sĩ cho 1032 trường hợp; đãi ngộ 1283 cá nhân có công với cách mạng, 3976 cựu chiến binh. Năm 1999, Bến Tre đã xây dựng mới 203 nhà tình nghĩa, 38 nhà tình thương, nâng tổng số nhà tình nghĩa lên 1334 nhà. * Về giáo dục - đào tạo Giáo dục - đào tạo có vị trí vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển lực lượng lao động, là nền tảng cho sự phát triển xã hội, bởi thế Đảng ta đã khẳng định: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" [22, tr. 107]. ở Bến Tre, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có những chuyển biến tích cực, toàn tỉnh hiện có 12.247 giáo viên, công nhân viên, cán bộ quản lý; trong đó các cơ sở đào tạo có 247 giáo viên, với 191 giáo viên có trình độ Đại học và Sau Đại học. Số lượng và chất lượng học sinh các cấp tăng lên, hầu hết 159 xã đều có trường tiểu học và trung học cơ sở, cả tỉnh có 29 trường phổ thông trung học. Số giáo viên giỏi cấp tỉnh ngày càng nhiều (3 giáo viên), trong đó số đó có 3 giáo viên tiểu học đạt danh hiệu dạy giỏi cấp toàn quốc. Số học sinh thi đạt loại giỏi vòng tỉnh là 5.230 học sinh giỏi của trường chuyên đạt hạng nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Số học viên ở các trường dạy nghề ngày càng tăng (4736 học viên so với 536 học viên ở năm 1990) và như thế hiện nay cứ 4 người dân có một người đi học. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là: "Tỷ lệ học sinh bỏ học nhiều hơn so với năm học trước: Trung học cơ sở 5,25% (tăng 0,41%), trong đó học sinh hệ công lập 4,98%, hệ bán công 7,62%, trung học phổ thông 2,54%. Nguyên nhân chủ yếu là học sinh vùng sâu, vùng xa thuộc các hộ nghèo theo gia đình di dân tự do theo mùa vụ" [27, tr. 12]. Thực trạng về giáo dục đào tạo của tỉnh góp phần quan trọng vào việc xây dựng nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí, "tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo chưa đáp ứng kịp thời với những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà, việc giáo dục đạo đức, pháp luật và thể chất trong nhà trường chưa được chú trọng đúng mức; lượng đào tạo, thu hút nhân tài còn hạn hẹp" [11, tr. 19]. Trong đó nổi lên các vấn đề như: việc đào tạo và sử dụng người được đào tạo chưa thích hợp và cân đối giữa các ngành nghề; số sinh viên, học viên của tỉnh đang học ở các trường ngoài tỉnh từ đại học, cao đẳng, trung học chuyên ngh._. hội đồng thời cũng làm cho an ninh quốc phòng được cungr cố vững chắc. Hiện nay, Bến Tre với 783.818 người dân trong độ tuổi lao động, trong đó nam giới ở độ tuổi sẵn sàng chiến đấu bảo vệ ở cơ sở là 204.482 người, vì thế tỉnh đã quy hoạch và tiến hành phân bố lao động cho vùng biên giới phía Đông, nhằm chăn nuôi và khai thác thủy sản, đồng thời về lâu dài cũng tạo thành thế phòng thủ mới cho tỉnh và cho đất nước. Mặt khác, tỉnh đã có quy hoạch toàn diện lực lượng sản xuất và phân bố dân cư như sắp xếp mạng lưới các đô thị, cụm công nghiệp, bố trí lại các điểm dân cư ở nông thôn. Tất nhiên, quy hoạch này sẽ được điều chỉnh cùng với sự phát triển về khoa học kỹ thuật và những nhận thức mới về an ninh quốc phòng. 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện phân công lao động theo hướng hoàn thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre Theo định hướng phát triển của Bến Tre là từ nay đến năm 2010 nền kinh tế - xã hội của tỉnh sẽ tiến tới hoàn chỉnh dần cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ tạo cơ sở những năm sau đó chuyển dịch thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp và dịch vụ phát triển góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ định hướng trên, một trong những chỉ tiêu cơ bản mà tỉnh phấn đấu là GDP bình quân đầu người đạt khoảng 560 - 600 USD vào năm 2010. Để đạt được chỉ tiêu đề ra ngoài những giải pháp như tỉnh đã đề ra như: huy động vốn đầu tư, khai thác và sử dụng hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên, phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh hợp tác kinh tế trong ngoài nước, mở rộng và hoàn thiện thị trường ; Bến Tre cần thực hiện một số giải pháp để đẩy mạnh phân công lao động như sau: 3.2.1. Đẩy mạnh việc phân bổ lao động vào các ngành, nghề trong các vùng kinh tế Phân chia vùng kinh tế nhằm đầu tư đúng hướng sức người, sức của vào phát triển các ngành, nghề phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể nhằm đạt năng suất lao động cao hơn, tạo ra thu nhập cao cho người lao động, qua đó mà tăng cường năng lực tích lũy cho quá trình tái sản xuất mở rộng. Như trên đã nói, trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, tỉnh Bến Tre đã hình thành 3 vùng kinh tế, phân định ranh giới, diện tích và hoạch định những ngành, nghề cụ thể có thể phát triển có hiệu quả. Đối với vùng ngọt (vùng I), về chăn nuôi, có cơ cấu chủ yếu là chăn nuôi gia cầm và chăn nuôi heo trên quy mô gia đình. Nhưng nhu cầu của địa phương rất đa dạng và phong phú, vì vậy, quy hoạch nuôi heo, nuôi gia cầm là chưa đủ mà cần đưa vấn đề xây dựng nghề cá nước ngọt; vì lượng ao, đầm, mương vườn vùng ngọt không phải nhỏ, nhưng việc nuôi tôm nước ngọt mới đưa vào thí điểm và chắc chắn rằng nuôi tôm không phải dễ lại thêm chi phí rất cao. Trên thực tế, hàng ngày địa phương vẫn phải đưa cá nước ngọt từ các tỉnh lân cận về để đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương, mặc dù lượng cá biển có thừa, do đó nghề nuôi cá nước ngọt không thể không đặt ra. Về quy hoạch dân cư cho các vùng. Chúng ta đều biết trong quá trình sản xuất đòi hỏi sự két hợp lao động - tư liệu lao động và đối tượng lao động. ở Bến Tre đối tượng lao động trong tự nhiên thì nhiều như biển cần khai thác, ao hồ cần nuôi thả, đất đai cần tăng vụ; về tư liệu lao động, tỉnh có kế hoạch đầu tư cho từng ngành, nhưng về lao động cần phải có quy hoạch dân cư cho các vùng chưa được đề cập cụ thể. Trong phân công lao động xã hội, nhân khẩu là một yếu tố quan trọng và cần tập trung ở mức độ nhất định thì mới có thể thực hiện được sự phân công lao động, vì nếu trong vùng kinh tế có dân cư quá ít thì không thể phát triển ngành nghề. Tuy nhiên, vấn đề này còn tùy thuộc vào điều kiện sản xuất của từng địa phương, nhưng mật độ dân số đến một mức độ nhất định cho nhu cầu phát triển kinh tế vẫn là một nội dung có tỉnh quy luật của phân công lao động xã hội. Trong quá trình phân công lao động xã hội, nhiều địa phương rất quan tâm đến việc phân bố lao động và dân cư giữa các vùng trong tỉnh cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ . Riêng Bến Tre, vấn đề phân bổ lao động và dân cư giữa các địa bàn trong tỉnh đã diễn ra trong lịch sử và trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua theo thực tế khách quan. Nhưng để đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho năm 2010, tỉnh cần chủ động phân bố lại dân cư cho các vùng kinh tế, nhằm khai thác mọi tiềm năng của địa phương mà còn mang ý nghĩa quan trọng trong việc kết hợp kinh tế với củng cố an ninh quốc phòng. Suốt 15 năm qua, công cuộc đổi mới đất nước đã mang lại những thành tựu kinh tế - xã hội đáng trân trọng, Bến Tre cũng hòa cùng với sự phát triển chung đó của xã hội. Bến Tre là tỉnh nông nghiệp chậm phát triển, trong đó có nguyên nhân do sự phân bố lực lượng lao động chưa hợp lý nên chưa khai thác hết và có hiệu quả các tiềm năng kinh tế của tỉnh, vì vậy muốn phát triển kinh tế, thực hiện dần công nghiệp hóa các lĩnh vực, kết hợp giữa kinh tế và quốc phòng thì công việc cấp bách hiện nay là bố trí lại lực lượng lao động, phân bổ lại dân cư và vào các vùng, ngành kinh tế. Sự phân công lao động và phân bố dân cư giữa các vùng kinh tế trong tỉnh đòi hỏi cần được quán xuyến trong suốt quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hóa. Nội dung của việc bố trí lực lượng lao động giữa các vùng trong tỉnh hiện nay là giảm bớt số dân cư ở thành thị khi công nghiệp chưa yêu cầu tập trung quá đông đúc; sắp xếp lại các điểm dân cư cho từng huyện, xã. Phân công lao động kết hợp với phân bố dân cư hiện nay ở Bến Tre chủ yếu là để phát triển nông, ngư nghiệp. Khi có cơ sở nông, ngư vững chắc, thì tập trung sức phát triển công nghiệp; từ đó tiếp tục phân công lao động và tập trung dân cư, mở mang các khu kinh tế công nghiệp, dần dần hình thành những đô thị mới. Tóm lại, phân công lao động giữa các vùng trong tỉnh cần phát huy tính chủ động sáng tạo nghề của nhân dân lao động, chú trọng hơn nữa vấn đề bảo vệ môi trường, chú ý những mặt hàng tuy không xuất khẩu nhưng đáp ứng nhu cầu của địa phương và cần kết hợp chặt với việc phân bố dân cư mới mong đạt mục tiêu kinh tế - xã hội của năm 2010 và chuẩn bị phát triển công nghiệp giai đoạn tiếp sau. 3.2.2. Phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất cho hợp lý Phân công lao động dưới chế độ xã hội mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng lao động phân bố cho các ngành kinh tế quốc dân sẽ chuyển biến theo hướng là lao động trong các ngành công nghiệp, giáo dục, y tế, khoa học, dịch vụ tăng lên; còn lao động trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, trong bộ máy quản lý Nhà nước giảm xuống. Phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất là một trong những quan hệ tỷ lệ quan trọng của phân công lao động xã hội. ở những ngành sản xuất vật chất phát triển căn cứ vào số lượng người lao động tăng lên và năng suất lao động tăng, trong đó năng suất lao động quyết định đối với việc tăng của cải vật chất cho xã hội. ở những ngành không sản xuất vật chất, việc tăng khối lượng và mở rộng phạm vi phục vụ quần chúng gắn liền với việc số lượng lao động tăng lên ở những ngành này. Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp, dân số nông nghiệp ngày càng tăng (1990 là 1.028 ngàn người, 1998 là 1.105 ngàn người), tỷ lệ cũng tăng từ 83,41% lên 85,45% dân số. Dân số phi nông nghiệp ngày càng giảm (năm 1990 là 16,59%, năm 1998 là 14,55%). Thực trạng trên cho thấy lao động ở ngành nông nghiệp của Bến Tre còn quá lớn, điều này sẽ ảnh hưởng nặng nề cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Mặt khác, nó cũng thể hiện trình độ mọi mặt của những người lao động ở những ngành không sản xuất vật chất cũng thấp, vì lao động trong những ngành này đều có tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy, trong công tác quản lý điều hành chung của tỉnh, cần có sự chỉ đạo để chọn lọc và chủ động hơn nữa trong việc phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và các ngành không sản xuất vật chất. Về vấn đề này C.Mác đã cho rằng: "Với một số lượng sản phẩm như nhau, nhưng nếu số người sản xuất càng ít so với số người không sản xuất thì một nước lại càng giàu hơn. Bởi vì số lượng tương đối ít của người sản xuất chỉ là một biểu hiện khác của mức tăng tương đối của năng suất lao động" [9, tr.302]. Trong công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta, xu hướng chung là: + Giảm số lượng lao động trong các cơ quan quản lý hành chính hoặc tăng với nhịp độ rất chậm bằng con đường cải tiến và hoàn thiện các cơ quan Nhà nước. + Tăng nhanh số lượng lao động trong các ngành khoa học, văn hóa, giáo dục, bảo vệ sức khỏe và mở rộng dịch vụ công cộng. ở thời kỳ đầu của công cuộc xây dựng xã hội mới, việc xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng địa phương nhằm mở rộng phân công lao động tại chỗ, sử dụng càng cao quỹ thời gian lao động của cá nhân, của gia đình người lao động,... là điều cấp bách; tuy nhiên, cho đến nay ở những địa phương, đặc biệt là một số địa phương mà qua thời gian dài vẫn còn là tỉnh nghèo, trong đó có Bến Tre thì nên mạnh dạn sắp xếp lại lao động trong các ngành không sản xuất vật chất, để tất cả các ngành có thể tác động lẫn nhau, cùng nhau phát triển. 3.2.3. Đào tạo cán bộ quản lý, công lành nghề Tỉnh Bến Tre, sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đã thu được nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều mặt. Tuy nhiên, cho đến nay sự phát triển kinh tế của tỉnh vẫn chưa vững chắc, một trong những nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế của tỉnh trong thời gian qua chậm phát triển, có những mặt còn yếu kém mà trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã nêu là: thiếu đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và cán bộ kỹ thuật giỏi. Chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng trong số 2.907 cán bộ sản xuất kinh doanh thì phần lớn có tuổi đời trẻ, có kiến thức và năng lực quản lý kinh doanh. Nhưng một bộ phận đội ngũ cán bộ "có trình độ và năng lực quản lý kinh tế - xã hội chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mới, còn bất cập về nhiều mặt như: kiến thức về kinh tế thị trường , quản lý Nhà nước, pháp luật, kỹ năng hành chính, ngoại ngữ, tin học và kiến thức khoa học - công nghệ hiện đại"[29, tr.11]. Để đạt được chỉ tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho năm 2010, cần xây dựng chiến lược cán bộ, trong đó có cán bộ quản lý kinh tế nhằm đào tạo cán bộ có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết về khoa học công nghệ, pháp luật và thông lệ quốc tế; đào tạo cán bộ một cách có hệ thống theo từng ngành nghề, tránh tình trạng chắp vá, bổ nhiệm trước đào tạo sau như hiện nay. Việc bố trí sử dụng cán bộ quản lý cần chú trọng đến trình độ khoa học - công nghê, chọn người có lòng say mê đến công việc, có đầy tâm huyết để chăm lo cho việc phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động có chất lượng, cần tránh việc bố trí cán bộ chạy theo hình thức, chạy theo số lượng. Công tác quản lý kinh tế là hoạt động của con người, nó nằm trong hệ thống hoạt động nói chung của con người, cho nên nó có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác của Đảng, của Nhà nước và của các tổ chức quần chúng. Do đó, nó cần có sự phối hợp chặt chẽ của cả hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nhằm quản lý kinh tế không đi chệch hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm có sự hỗ trợ và điều chỉnh khi cần thiết. Do vậy, Tỉnh cần có chính sách bảo vệ sức khỏe cho người lao động, chính sách đối với giáo dục; thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ lao động đang làm việc để thích ứng với yêu cầu hiện tại về nhân lực. Báo cáo tại lớp nghiên cứu Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, giáo sư Trần Hồng Quân đã nhấn mạnh: "Công tác đào tạo phải giúp cho người lao động có thể thích ứng và cơ động trong thị trường sức lao động, có thể chuyển nghề, cho nên nội dung và phương pháp giáo dục - đào tạo phải có những thay đổi phù hợp với khoa học - công nghệ tiên tiến, với kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với quan hệ và giao lưu quốc tế mở rộng... do đó đào tạo ban đầu chính quy cần theo diện rộng, có tính cơ bản, kết hợp với bồi dưỡng cập nhật thường xuyên" [14, tr.36]. Mặt khác, cần chú trọng công tác đào tạo đội ngũ lao động. Mặc dù đến cuối tháng 8 năm 2000 "số lao động được dạy nghề tăng từ 6,3% lên 8%" [23, tr.7], nhưng rõ ràng là còn quá thấp. Vì vậy, cần phải khôi phục các trường đào tạo nghề hiện có, mở rộng diện và đối tượng đào tạo nhằm bổ sung một số công nhân kỹ thuật có tay nghề vào phục vụ cho các ngành công nghiệp. Tăng cường quy mô đào tạo nghề bằng nhiều hình thức để đạt được tỷ lệ lao động qua đào tạo cao hơn. Ngoài ra, tỉnh cần có chính sách đưa một bộ phận lao động đi đào tạo ở các trung tâm đào tạo lớn qua việc tuyển chọn nhiều mặt và hỗ trợ kinh phí, nhằm tạo đội ngũ lao động kỹ thuật đầu đàn cho tỉnh. Kết hợp chặt chẽ xây dựng những chương trình đào tạo kỹ thuật và dạy nghề với việc giáo dục phổ thông tại địa phương. Cần xây dựng và thực hiện quy hoạch việc bố trí sử dụng, đãi ngộ chuyên viên và học viên tốt nghiệp nhằm giữ lại đội ngũ này, đồng thời thu hút những người lao động có tay nghề cao đang làm việc ở các tỉnh khác. Trong việc đào tạo đội ngũ lao động, ngoài việc đào tạo nghề chuyên biệt, cần chú trọng thêm việc giáo dục phẩm chất đạo đức tác phong; trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh ý thức trách nhiệm, tôn trọng pháp luật,... tinh thần tự hào dân tộc, địa phương, cần giáo dục để người lao động xóa đi mặc cảm phải làm thuê cho tư nhân trong điều kiện cần thiết khách quan hiện nay. Sử dụng lao động thích hợp còn đòi hỏi chính quyền lưu tâm hơn cho đội ngũ lao động kế tục, do vậy cần tổ chức phổ biến luật giáo dục đến toàn dân nhằm mở mang dân trí. Tỉnh nên có chính sách miễn giảm tất cả các khoản đóng góp của học sinh tiểu học và mầm non, có như vậy mới có điều kiện thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở, hạn chế tối đa tình trạng các em chưa đến tuổi lao động phải lao động nặng nhọc. Ngoài ra, chính quyền cũng cần quy định và có chính sách hỗ trợ buộc người lao động có trình độ học vấn nhất định theo độ tuổi, tạo điều kiện để nâng dần trình độ nghề nghiệp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế. Chính quyền cũng cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những người lao động có trình độ cao, nhằm nâng cao tỷ lệ, lao động có tay nghề cao của tỉnh. 3.2.4. Bồi dưỡng, giáo dục các nhà kinh doanh trong các ngành tiểu, thủ công nghiệp nhỏ Mặc dù Bến Tre đã có đội ngũ các nhà kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; tuy nhiên, việc kinh doanh đem lại hiệu quả chưa cao, chưa thu hút nhiều lao động địa phương, chưa tiêu thụ hết nguồn nguyên liệu tại chỗ như dừa, trái cây khác; cho nên người nông dân phải bán dừa cho các tỉnh lân cận và cho Trung Quốc; trong khi nguồn lao động tại chỗ chưa sử dụng hết. Thực tế trên đòi hỏi phải đẩy mạnh bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ các nhà kinh tế để họ kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Bởi vì kinh doanh muốn đạt hiệu quả đòi hỏi người kinh doanh phải có kiến thức nhất định về chuyên môn sản xuất, về quản lý doanh nghiệp; phải nhạy bén với thị trường hàng hóa do mình sản xuất, nắm giữ thị trường và mở rộng thị trường sản phẩm của mình. Do vậy, chính quyền địa phương cần quan tâm bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ doanh nghiệp, vì đội ngũ này chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay. Hơn nữa, trong số họ phần lớn đều xuất thân từ những người nông dân cá thể nhỏ, ít nhiều gì họ cũng còn ảnh hưởng nặng nề tư tưởng của người sản xuất nhỏ, chưa từng tổ chức sản xuất với quy mô rộng lớn. Đào tạo, bồi dưỡng để các nhà kinh doanh hiểu biết hơn về nghiệp vụ quản lý, về yêu cầu của một sản phẩm trên thị trường, nghiệp vụ quản lý sẽ được nâng dần trong thực tiễn quản lý kinh doanh; tuy nhiên, nhà doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ cũng cần được trang bị kiến thức tối thiểu về quản lý doanh nghiệp, về quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta để họ thực hiện theo đúng chủ trương chính sách, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển. Đào tạo, bồi dưỡng để các nhà kinh doanh có tầm nhìn xa hơn, rộng hơn nhằm có kế hoạch lâu dài trong việc kinh doanh, vì phần lớn trong số họ, do thành phần xuất thân, nên khó tránh khỏi chỉ thấy lợi trước mắt mà quên việc kinh doanh lâu dài. Ngoài ra, đào tạo bồi dưỡng còn nhằm mục đích giúp các nhà kinh doanh đủ khả năng chuyển đổi nghề khi cần thiết. Để khuyến khích phát triển nghề mới, thúc đẩy phân công lao động, chính quyền địa phương cần có chính sách miễn thuế có thời hạn cho những nhà kinh doanh mới hình thành nghề mới hoặc giảm đáng kể thuế có thời hạn cho họ. Cần giúp đỡ tìm thị trường đầu tư hoặc thị trường bán hàng hóa có biện pháp ổn định, duy trì, phát triển thị trường đối với những sản phẩm mới của địa phương. 3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cơ sở Kết cấu hạ tầng là toàn bộ các ngành phục vụ các lĩnh vực sản xuất và không sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển các ngành của kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất xã hội và nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì vai trò của kết cấu hạ tầng sản xuất cũng tăng lên. ở Bến Tre, hệ thống kết cấu hạ tầng và công trình công cộng chưa đồng bộ, cho nên nó đã kìm hãm tốc độ phát triển của tỉnh trong những năm qua. Trong định hướng phát triển đến năm 2010, tỉnh có đề ra định hướng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và công trình công cộng đồng bộ như hệ thống giao thông chính kết hợp với các tuyến kinh tế đô thị, hoàn chỉnh hòa mạng bưu chính viễn thông, mở rộng và xây dựng mới các công trình y tế,... Tuy nhiên, tỉnh chưa có định hướng cho phát triển kết cấu hạ tầng và công trình công cộng ở cơ sở, nhưng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội thì phải ở từng cơ sở, từng xí nghiệp. Nếu kinh tế ở cơ sở không phát triển được thì không thể nói kinh tế của tỉnh phát triển. Vì vậy, để thúc đẩy phân công lao động xã hội nhằm hoàn chỉnh dần cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ hiện đại, cần phải có chủ trương và giải pháp xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cơ sở. Việc hoàn thiện dần kết cấu hạ tầng cơ sở ở nước ta nhiều địa phương đã tiến hành và đạt kết quả khá tốt. ở Bến Tre hiện nay: - Một là, chính quyền cần kêu gọi nhân dân thực hiện việc xây dựng những công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống ở cơ sở, bởi vì trong điều kiện kinh tế hiẹn nay, tỉnh khó có thể chu toàn đến tận cơ sở xã, phường. - Hai là, chính quyền cần mạnh dạn kêu gọi tư nhân, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đầu tư xây dựng và thu hồi vốn dần qua sự đóng góp của nhân dân. Có như thế mới mong đạt chỉ tiêu kinh tế xã hội đề ra. Việc kêu gọi nhân dân đóng góp hay tư nhân thực hiện những công trình phục vụ cho sản xuất ở cơ sở đòi hỏi phải có sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, sự ký kết hợp đồng của Nhà nước, có như thế thì mọi việc phục vụ cho sản xuất mới đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa. 3.2.6. Cần có chính sách hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp nhỏ nằm trong cơ cấu kinh tế cần khuyến khích Trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, các nhà doanh nghiệp tư nhân cũng như của Nhà nước vẫn phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Trong điều kiện về vị trí địa lý của Bến Tre hiện nay, vấn đề đầu tư để phát triển ngành nghề tư ngoài tỉnh về rất hạn chế, những nhà đầu tư trong tỉnh mới nổi lên vài năm gần đây chủ yếu là phát triển tiểu thủ công nghiệp, vốn rất nhỏ bé. Do vậy, để cho việc cạnh tranh của các doanh nghiệp theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chính quyền địa phương không chỉ gọi vốn đầu tư trong và ngoài tỉnh, mà cần có chính sách hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp nhỏ. Bởi vì, chỉ có kiến thức quản lý thì chưa đủ, cần phải có vốn để đủ sức cạnh tranh hàng hóa trên thị trường trong nước và vươn ra cạnh tranh với nước ngoài trên nhiều mặt. Nhiều doanh nghiệp nhỏ chỉ có vốn cố định, còn vốn lưu động của họ rất ít cho nên họ rất dễ bị thua thiệt dẫn đến ngưng hoạt động khi gặp đối thủ mạnh, đặc biệt là từ ngoài tỉnh như: - Về khoa học công nghệ, Bến Tre cần đầu tư nhiều. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, đối với những cơ sở tiểu thủ công nghiệp cần một số vốn để tu chỉnh, trang bị những công cụ ở mức thấp cho phù hợp với trình độ của người lao động, nhằm duy trì số lao động đang sử dụng và có thể từng bước thu hút thêm lao động tạo sự ổn định về kinh tế xã hội của tỉnh. - Về nguồn nguyên liệu, thực tiễn đã cho chúng tôi thấy rõ rằng các doanh nghiệp nhỏ không đủ vốn để chuẩn bị nguyên liệu đưa vào sản xuất liên tục, họ đành phải cho lao động từng thời kỳ; có nghĩa là không sử dụng hết khả năng lao động của người lao động, do phải chờ vòng quay của quá trình sản xuất. Như vậy, khi vòng quay đã đến, cần đưa nguyên liệu về sản xuất thì lại không còn nguyên liệu, do các doanh nghiệp ngoài tỉnh đã thu gom hết. Thế là Bến Tre đã nghèo lại càng nghèo so với các tỉnh lân cận vì không sử dụng hết thời gian lao động, mặc dù có nguyên liệu, có lao động tại địa phương. - Về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thị trường đòi hỏi chất lượng hàng hóa; khâu bảo quản, mẫu mã và cả về yêu cầu tiếp thị. Nhưng bảo quản hàng hóa, mẫu mã đòi hỏi một số vốn nhất định, do vậy việc hỗ trợ vốn cho các nhà kinh doanh nhỏ là điều cấp bách hiện nay. Về mặt này Bến Tre còn phải học hỏi nhiều ở các tỉnh bạn mới mong thoát khỏi cảnh nghèo nàn hiện nay. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm, tỉnh cũng cần có chính sách khuyến khích nhân dân đầu tư công nghệ chế biến, trước mắt là sơ chế trái cây bằng cách giảm hoặc miễn thuế có thời hạn; triển khai thực hiện dự án xây dựng nhà máy chế biến trái cây sớm hơn, không đợi đến năm 2006. Ngoài ra, tỉnh cần tạo điều kiện để trung tâm thương mại có thể ký hợp đồng bán một số loại nông sản dài hạn cho các tỉnh hoặc ra nước ngoài. Đó là giải pháp tình thế về thị trường tiêu thụ, nhưng về lâu dài, tỉnh cần quan tâm đẩy mạnh công tác hướng dẫn chọn giống, hướng dẫn kỹ thuật để có năng suất chất lượng cao đủ sức cạnh tranh với các tỉnh và cả nước. Kết luận 1. Phân công lao động xã hội là một quá trình tất yếu khách quan của xã hội loài người. Mỗi quốc gia có những bước tiến về phân công lao động xã hội khác nhau. Đối với nước ta, việc phấn đấu đi lên xã hội hiện đại để được "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" từ một nước nông nghiệp lạc hậu thì không thể không đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong tất cả các ngành, vùng kinh tế. Bến Tre không nằm ngoài xu thế chung của đất nước. 2. Phân công lao động xã hội là một quy luật của quá trình chuyển hóa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, một yếu tố động và cách mạng trong mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội ở Bến Tre cũng gồm nhiều nội dung, ở đây chúng tôi chỉ tập trung vài nét trong lĩnh vực kinh tế. Phân công lao động giữa các ngành kinh tế tập trung nghiên cứu thực trạng sản xuất của các ngành kinh tế để nắm bắt tình hình lao động và phân công lao động hiện nay. Từ đó nghiên cứu việc thực hiện phân công lao động nhằm khai thác có hiệu quả các lợi thế của tỉnh, hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông -công nghiệp - dịch vụ hiện đại đến năm 2010. Phân công lao động trong nội bộ ngành kinh tế được nghiên cứu thực trạng sản xuất của các ngành kinh tế, chỉ tiêu của tỉnh đến năm 2010 và quy hoạch cây trồng, vật nuôi, ngành sản xuất cụ thể, xác định các mũi kinh tế chính cũng là hướng phân công lao động trong nội bộ ngành. Phân công lao động giữa các vùng kinh tế trong tỉnh, tập trung nghiên cứu làm rõ điều cần thiết khách quan cho việc phát triển kinh tế, xác định các chỉ tiêu kinh tế đề ra cho các vùng cũng chính là đề ra hướng phân công lao động giữa các vùng kinh tế của tỉnh. Kết hợp phân công lao động tại chỗ với xây dựng vùng kinh tế trọng điểm, nghiên cứu những ưu thế của phân công lao động tại chỗ và hướng tập trung phát triển kinh tế ở vùng trọng điểm. Kết hợp phân công lao động với yêu cầu củng cố quốc phòng bảo vệ tổ quốc, nghiên cứu nguồn lao động trong độ tuổi sẵn sàng chiến đấu, khẳng định sức mạnh bảo vệ tổ quốc của người lao động, xác định vị trí kinh tế, quân sự vùng biển của Bến Tre trong hiện tại và mai sau. 3. Hiện nay nguồn lao động ở Bến Tre bộc lộ nhiều hạn chế: người lao động nhiều mà không mạnh, chưa có đội ngũ công nhân công nghiệp, công nhân lành nghề, còn một phần khá đông người lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm, trình độ người lao động trực tiếp sản xuất nông nghiệp với năng suất lao động thấp, lao động công nghiệp rất ít; phân công lao động chủ yếu là tự phát. Công tác giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp lao động có trình độ chuyên môn cao. Một bộ phận cán bộ sản xuất kinh doanh chưa đạt trình độ và nang lực quản lý kinh tế - xã hội ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mới, một bộ phận yếu về phẩm chất chính trị, đạo đức. Bên cạnh đó tội phạm và tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Những yếu kém trên đây có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan và cả chủ quan yêu cầu đặt ra cho Bến Tre hiện nay là phải tìm cách khắc phục những yếu kém, xây dựng cho được đội ngũ lao động thực sự đáp ứng yêu cầu hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ hiện đại và kể cả các ngành không sản xuất vật chất. 4. Để đáp ứng yêu cầu phân công lao động xã hội theo hướng hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở Bến Tre cần có những giải pháp khoa học cụ thể. Trong phạm vi của một luận văn tốt nghiệp cao học, chúng tôi xác định một số giải pháp cụ thể là: Phân vùng kinh tế để phân công lao động gồm vùng ngọt, vùng lợ, vùng mặn nhằm đạt được chỉ tiêu kế hoạch đề ra, mà muốn thực hiện được điều đó cần phát huy tính nhạy bén sáng tạo của người lao động trong việc phát triển nghề, cần chăm lo giải quyết việc làm, kể cả những người lao động từ Bến Tre còn đang đi tìm việc nơi khác, cần quy hoạch dân cư cho từng vùng kinh tế của tỉnh. Cải tiến công tác quản lý kinh tế, mà muốn thực hiện được cần có chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ và quan điểm sử dụng cán bộ của cả hệ thống chính trị. ổn định thị trường tiêu thụ sản phẩm qua việc thực hiện chính sách đầu tư công nghiệp chế biến, chính sách hướng dẫn chọn giống cây con, phát triển thêm nghề mới nhằm thực hiện tốt phân công lao động, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở qua việc tổ chức nhân dân lao động cùng nhau thực hiện hoặc kêu gọi tư nhân đầu tư. Chủ động phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và các ngành không sản xuất vật chất để các ngành thúc đẩy nhau phát triển. Thực hiện một số chính sách cụ thể như tổ chức bồi dưỡng, đào tạo các nhà kinh doanh tiểu thủ công nghiệp nhỏ; sử dụng lao động thích hợp thể hiện ở chế độ chính sách đãi ngộ người lao động có tay nghề cao, chính sách đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động; chính sách hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp nhỏ; xây dựng cơ sở hạ tầng. Những giải pháp đó là cần thiết và thực tế có khả năng thực hiện được. 5. Luận văn góp một phần nhỏ vào việc xác định trình độ lao động và tình hình phân công lao động đã được thể hiện ở thực trạng sản xuất của các ngành kinh tế trong tỉnh; khẳng định các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh nhằm hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ hiện đại từ nay đến năm 2010, từ đó đề ra những giải pháp cần thiết có thể phân công lao động hợp lý hơn nhằm đạt được chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh. Về lâu dài, Bến Tre cần có một chiến lược phát triển kinh tế xã hội, về quy hoạch phát triển kinh tế từng ngành, từng vùng mà tương ứng với nó là phải xây dựng một chiến lược khoa học về đào tạo nguồn lao động, về phân công lao động xã hội ở Bến Tre cho hiện tại và tương lai. Tài liệu tham khảo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Báo nhân dân ngày 29-6-1996. Bộ lao động - Thương binh và xã hội (2000), Nxb Thống Kê. C.Mác - Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, phần 1, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. C.Mác (1962), Hệ tư tưởng Đức, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác (1965), Các học huyết về giá trị thặng dư, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ăngghen - Lênin - Xtalin (1977), Về phân công lao động xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Bến Tre. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội. Giáo sư Trần Hồng Quân (Tháng 9/1996), Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 1996 - 2000 và định hướng đến 2020, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb CTQG Hà Nội, 1999. Lênin Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1976. Sở khoa học công nghệ và môi trường (Tháng 5/1999), Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Bến Tre. Sở Khoa học công nghệ và môi trường (tháng 10/1995), Đánh giá khái quát đặc điểm tự nhiên tài nguyên thiên nhiên tỉnh Bến Tre. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Bến Tre (1998), Báo cáo kết quả điều tra đời sống kinh tế - xã hội hộ nghèo. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Bến Tre (ngày 15/5/2000), Báo cáo về việc thực hiện công tác giải quyết việc làm của Trung tâm dịch vụ việc làm. Sở Lao động - Thương bình và xã hội Bến Tre (6/6/2000), Báo cáo công tác giới thiệu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (từ 1998 đến nay). Tạp chí cộng sản, số 15 (8/2000). Tỉnh ủy Bến Tre, Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII. Từ điển triết học (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội. Từ điển kinh tế chính trị học (1987), Nxb Sự thật, Hà Nội. ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Báo cáo phác thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre thời kỳ 1999 - 2010) (Tóm lược). UBND tỉnh Bến Tre, Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1999 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2000. UBND tỉnh Bến Tre, Hội nghị sơ kết một năm thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo (tháng 6/1999 - 6/2000) và kế hoạch 6 tháng cuối năm 2000. UBND tỉnh Bến Tre, Đề án tổng quan quy hoạch đào tạo cán bộ đến năm 2010. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2495.DOC
Tài liệu liên quan