đặt vấn đề
Từ khi ra đời cho đến nay, lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Cuộc đấu tranh đó trước hết xuất phát từ việc lý giải vấn đề căn nguyên của thế giới.
Đứng trước vô số các sự vật, hiện tượng, quá trình của thế giới xung quanh, các nhà triết học đều đưa ra câu hỏi cái gì đã tạo ra chúng trong rất nhiều ý kiến khác nhau đó, tựu trùng lại, có hai loại ý kiến đối lập nhau.
Có loại ý kiến cho rằng, cái sinh ra các sự vật, hiện tượng phong p
18 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2028 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phạm trù vật chất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hú, đa dạng của thế giới xung quanh chúng ta là tinh thần quan điểm này là quan điểm duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng tư duy, ý thức của con người là xuất phát điểm, là nguyên nhân, cội nguồn của mọi sự vật, hiện tượng chúng chẳng qua chỉ là những phức hợp của các cảm giác, tư giác vv… của chúng ta mà thôi. Còn chủ nghĩa duy tâm khách quan thì luận giải rằng có một thực thể tinh thần tồn tại trước thế giới vật chất, tự nhiên, xã hội và con người là ý niệm tuyệt đối. Đối lập với chủ nghĩa duy tâm là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy vật cho rằng thế giới này là vật chất, vật chất là cơ sở tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng; mọi sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta chỉ là sự biểu hiện các dạng khác nhau của vật chất đang vận động ( quan điểm duy vật ). Đối với chủ nghĩa duy vật nói chung, phạm trù vật chất là phạm trù xuất phát, cơ bản, trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống triết học của mình.
giải quyết vấn đề
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm. Ngay từ lúc mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, giống như mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người và với sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi sự tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là " ý chí của thượng đế " là " ý niệm tuyệt đối ". Chẳng hạn, Platôn nhà triết học duy tâm khách quan lớn nhất thời cổ cho rằng, vật chất bắt nguồn từ "ý niệm ", sự vật cảm tính là cái bóng của " ý niệm". Mặt khác, ông tỏ ra căm thù chủ nghĩa duy vật, nhất là các môn đồ của Đômôcrit. Hêghen nhà duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức cho rằng vật chất là do " ý niệm tuyệt đối sinh ra ". Mặt khác, ông có thái độ thiên lệch đối với chủ nghĩa duy vật, đã cố tình xuyên tạc, vu khống triết học duy vật của Hêrclít và Êpiquya. Béccli đã hệ thống hóa một số quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan đưa ra một công thức chung " tồn tại tức là được tri giác ". ý nghĩa của công thức này là mọi sự vật chỉ tồn tại trong chừng mực con người cảm thấy chúng, cái gì ngoài tri giác là không tồn tại, không có chủ thể thì không có khách thể. Công thức này đã phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật chất, kể cả con người, tất yếu dẫn tới chủ nghĩa duy ngã , nghĩa là ngoài cái"tôi " ra thì không có cái gì hết.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cửu , tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
I/. Quan niệm về vật chất trong triết học trước Mác
1/. ở thời kỳ cổ đại:
Các nhà triết học duy vật cổ đại thường coi vật chất là một vật thể nào đó, cụ thể, mang lại tính trực quan cảm tính, có thể là vật thể hữu hình. Xu hướng chung của các nhà triết học thời kỳ này là như vậy và cho rằng các vật thể đó là những đơn vị cuối cùng, tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Các quan điểm:
- Quan điểm nhất nguyên: Là quan điểm xuất phát từ nhận thức trực quan sinh động, cảm tính, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới đều được bắt nguồn từ một nguyên thể đầu tiên rõ rệt.
Ví dụ: Talet cho rằng: Vật chất là nước, nước là yếu tố đầu tiên, mọi sự vật đều sinh ra từ nước, nước cấu thành ra cả vũ trụ, con người, vạn vật và tồn tại dưới nhiều trạng thái khác nhau, khi phân huỷ lại biến thành nước. Mọi vật đều có sinh ra và mất đi, biến đổi không ngừng, chỉ có nước là tồn tại mãi mãi, quan niệm rằng nước là cái nhỏ nhất. Khác với Talet, Anaximen cho rằng, vật chất là không khí chứ không phải là nước. Theo ông không khí là nguồn gốc của mọi vật, không khí sinh ra mọi vật bằng sự tản ra hay ngưng tụ của nó vạn vật đều bắt nguồn từ vật chất đầu tiên là không khí và lại quay trở về không khí, không khí là vô tận, là vĩnh viễn là biến động. Với Hêraclít, lửa là cái đầu tiên sinh ra và thế giới nói chung, những sự việc riêng lẻ và ngay cả linh hồn cũng từ lửa mà ra đ vật chất là lửa.
- Quan điểm đa nguyên thể:
Do một số nhà triết học cho rằng thế giới sự vật, hiện tượng do một số yếu tố vật chất đầu tiên tạo thành. Chẳng hạn: Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Empeđôclơ và trường phái triết học không chính thống lêkayata ở ấn Độ cổ đại cho rằng bốn yếu tố: đất, nước, lửa, không khí sinh ra mọi vật. Bốn căn nguyên đó là tồn tại vĩnh viễn, không tự sinh ra, không tự mất đi.
Quan điểm đa nguyên thể giải thích rằng sự biến đổi của giới tự nhiên là do sự kết hợp khác nhau của những yếu tố vật chất đầu tiên. So với quan điểm nhất nguyên thể thì quan điểm đa nguyên thể là một bước tiến nhất định trong quá trình nhận thức về vật chất.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất thuộc về các nhà nguyên tử luận Lơxíp và Đêmôrít. Hai ông định nghĩa vật chất là nguyên tử, căn nguyên của mọi vật là nguyên tử. Đó là các phần tử cực kỳ nhỏ, không thể phân chia được, không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình dạng, tư thế và trật tự sắp xếp. Nguyên tử có nhiều hình dáng khác nhau: hình que, ôvan, bầu dục, tròn… và sự sắp xếp theo các trình tự khác nhau, trật tự khác nhau tạo ra sự đa dạng về vật. Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn không do ai sáng tạo ra và cũng không thể bị hủy diệt. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới là do sự kết hợp và phân giải của các nguyên tử mà thành.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng thuyết nguyên tử cổ đại là một bước phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật chất triết học, tạo thành cơ sở triết học cho nhận thức khoa học sau này. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử, thuyết nguyên trở cổ dại cũng chỉ là những phỏng đoán giả định, nó không thoát khỏi hạn chế chung của các nhà triết học trước đó: quy luật vật chất về dạng cụ thể của vật chất.
2/. Thời cận đại: Thế kỷ XVII, XVIII, phát huy truyền thống của các nhà duy vật thời cổ đại. Các nhà triết học trong giai đoạn này cũng đồng nhất vật chất với nguyên tử (vật chất trùng nguyên tử). Nhưng do khoa học tự nhiên phát triển mạnh đặc biệt là môn cơ học, với xu thế chung các nhà triết học thời kỳ này như: Galilê, Đêcáctơ, Niutơn, Bêcơn, Hôpbach, vv… coi vật chất đồng nhất với khối lượng và khối lượng là bất biến. Đồng thời do ảnh hưởng của phương pháp tư duy siêu hình, những quan niệm trên đã được coi như những chân lý hoàn chỉnh, bất di bất dịch. Việc quan niệm khối lượng của các vật thể là bất biến, không phụ thuộc vào vận động là một trong những sai lầm ở thời kỳ này. Neutơn đã đồng nhất khối lượng với vật chất, coi vận động của vật chất chỉ là vận động cơ học, tách rời vận động không gian, thời gian, thời gian với vật chất. Theo Neutơn, nguồn gốc của vận động ở bên ngoài vật chất, ông gắn vận động của vật chất với cái kích đầu tiên của thượng đế. Đó là những quan điểm của các nhà triết học thời kỳ này.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một số phát minh quan trọng trong khoa học tự nhiên đặc biệt trong lĩnh vực vật lý học đã đem lại những hiểu biết mới về cấu trúc của vật chất, nó đã làm thay đổi căn bản quan niệm cổ truyền về vật chất. Cụ thể là vào năm 1895, Rơnghen nhà vật lý lục người Đức đã phát hiện ra tia X ( tia Rơnghen) năm 1896, Bécơnen, nhà vật lý lực người Pháp phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã chứng tỏ rằng nguyên tử không phải là không thể phân chia được và không thể chuyển hoá sang các nguyên tử khác, bác bỏ quan niệm siêu hình cho rằng nguyên tố hoá học là bất biến. Năm 1891, Tômxơn nhà vật lý học người Anh đã phát hiện ra điện tử. Điện tử là một trong những yếu tố tạo nên nguyên tử. Phát minh này chứng tỏ rằng nguyên tử không phải là đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vật chất. Đến đầu thế kỷ XX, năm 1901 nhà vật lý học người Đức kan - phman đã phát hiện ra hiện tượng rất quan trọng là trong quá trình vận động, khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Như vậy, khối lượng cũng không phải là cái bất biến. Phát minh này đã phủ nhận hoàn toàn quan điểm siêu hình coi khối lượng là bất biến và vật đồng nhiệt vật chất với khối lượng.
Những phát minh trong vật lý đã chứng minh rằng sự đồng nhất với những dạng cụ thể của vật chất, với những thuộc tính của vật chất như chủ nghĩa duy vật trước Mác quan niệm là căn cứ để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy vật, bảo vệ những luận điểm duy tâm. Các nhà triết học của chủ nghĩa duy tâm đã cho rằng “vật chất tiêu tan mất” làm cho toàn bộ nền tảng của chủ nghĩa duy vật bị sụp đổ hoàn toàn.
II/. Quan niệm về vật chất trong triết học Mác – Lênin:
Theo Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù “ rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được”
. Khi định nghĩa phạm trù này, không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó là trong quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
ở định nghĩa này. V.I.Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
Trước hết là cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan theo V.I.Lênin là “cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người”. Trong đời sống xã hội, “vật chất là cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”. Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì khác hơn: “thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh”.
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên, phạm trù vật chất trong định nghĩa của V.I.Lênin có nhiều ý nghĩa to lớn.
- Khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”, V.I.Lênin đã thừa nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”, V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh…) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất. Đồng thời, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới.
1/. Định nghĩa vật chất (theo quan điểm Lênin)
Vật chất được Lênin theo và viết về vật chất trong tác phẩm “V.I.Lênin: toàn tập, Nhà xuất bản Tiến Bộ M.1980”.
Lênin đã bác bỏ quan điểm của các nhà triết học trước và chỉ ra rằng: không phải” vật chất tiêu tan mất”, mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất, mà chỉ là giới hạn của nhận thức của con người về tổ chức, kết cấu của nó mà thôi.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học, Lênin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
2/. Phân tích định nghĩa vật chất theo quan điểm Lênin
Khi định nghĩa phạm trù vật chất, Lênin đòi hỏi cần phải phân biệt vật chất với tính cách là phạm trù triết học với các khái niệm của khoa học tự nhiên về các đối tượng sự vật cụ thể ở các trình độ kết cấu và tổ chức khác nhau và các thuộc tính khác nhau tương ứng của chúng.
Lênin cũng chỉ ra phương pháp định nghĩa phạm trù vật chất là phạm trù rộng lớn nhất trong hệ thống các phạm trù nên không thể định nghĩa nó bằng phương pháp định nghĩa thông thường: quy khái niệm cần định nghĩa vào một khái niệm rộng lớn và chỉ ra những đặc điểm khác biệt. Ví dụ: Định nghĩa hình chữ nhật người ta quy nó vào hình bình hành “hình chữ nhật là hình bình hành có hai đường chéo bằng nhau”. Khác với các định nghĩa trên, định nghĩa phạm trù vật chất, Lênin đã đối lập vật chất với ý thức và chỉ ra thuộc tính căn bản phổ biến phân biệt vật chất với ý thức.
Trong định nghĩa, chúng ta nhận thấy có hai mặt của một thuộc tính mà Lênin gọi là “đặc tính” duy nhất của vật chất đó là.
Vật chất là “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy, chúng ta hiểu vật chất là thực tại khách quan, là tất cả những cái gì tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào vào cảm giác, ý thức con người. Tất cả những cái gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, với cảm giác, và đem lại cho chúng ta trong cảm giác, trong ý thức là vật chất. Thuộc tính này đã thể hiện lập trường của chủ nghĩa duy vật, vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức, của cảm giác. Cảm giác, ý thức của con người là sự phản ánh thực tại khách quan. Con người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất.
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã bao quát cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Định nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận sâu sắc đối với nhận thức khoa học và thực tiễn. Nó đã khắc phục được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác quy vật chất vào các dạng cụ thể cảm tính hoặc vào một thuộc tính cụ thể nào đấy của vật chất. Trong hiện thực khách quan mọi sự vật hiện tượng của thế giới vật chất đều có liên hệ, chuyển hoá qua lại, biến đổi và phát triển . Nên việc quy vật chất vào nguyên tử, dạng cụ thể của vật chất như chủ nghĩa duy vật trước Mác đã làm, tất yếu sẽ vấp phải mâu thuẫn không thể tránh khỏi khi mà khoa học tự nhiên vượt qua giới hạn nguyên tử, đi vào nghiên cứu điện tử hạt cơ bản khác.
Định nghĩa của Lênin về vật chất còn chống lại các quan điểm duy tâm (cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan) về vật chất. Hơn nữa, định nghĩa này đã tạo ra cơ sở lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Chính vì không chỉ ra được dạng vật chất của đời sống xã hội, nên khi giải thích các hiện tượng xã hội, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm. Định nghĩa của Lênin về vật chất bao quát cả dạng vật chất trong xã hội đó là tồn tại xã hội. Tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
Là sự khái quát các thành tựu của các khoa học tự nhiên định nghĩa của Lênin về vật chất có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học, giúp cho nhận thức khoa học tránh được các cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng vật lý học cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Phân loại các dạng vật chất: Chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở luận giải khoa học đã khẳng định vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của chúng ta. Điều đó đúng nhưng chưa đủ vì phải cần thiết các dạng vật chất khác nhau. Ngoài cách phân loại triết học như vậy còn có các cách phân loại sau:
- Nếu theo thuộc tính cấu trúc ị vật chất được chia thành hai dạng cụ thể.
Dạng 1: Các dạng vật thể bao gồm các hạt vĩ mô, vĩ mô ở các trạng thái khác nhau và các hạt có khối lượng tĩnh tạo nên chúng ị phân biệt được các vật thể khác nhau đ vật thể vật chất.
Dạng 2: Vật chất tồn tại dưới dạng trường như trường điện cơ, trường hấp dẫn, trường sinh học vv… Tuy các trường có khác nhau nhưng đặc trưng chung của trường là chúng được phân bố liên tục trong không gian, trong chân không và chúng luôn luôn lan truyền với một vận tốc không đổi, có số bậc tự do vô hạn.
- Nếu xét theo sự biến đổi mọi quan điểm phát triển ị vật chất chia thành các dạng vật chất vô cơ, hữu cơ, nhóm vật chất hữu sinh, nhóm vật chất dưới dạng xã hội.
Vật chất tác dụng đến giác quan con người, con người cảm giác tri thức không có một loại vật chất nào mà khi tác động đến giác quan con người lại không gây cho con người cảm giác là tri thức. Vật chất là nguồn gốc khách quan của tri thức và con người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất. Vậy định nghĩa vật chất trên của Lênin đã giải quyết được cả hai mặt về vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường của duy vật.
III/. Quan niệm về vận động của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động và vận động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận động không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất.
Sự phát triển của nhận thức khoa học đã khẳng định rằng: Vận động không phải chỉ là sự di chuyển vị trí, trong không gian mà theo nghĩa chung nhất, là sự biến đổi nói chung. Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Vận động bao hàm mọi sự biến đổi nói chung, thì luận điểm đó đã bao hàm luận điểm thứ hai vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính không tách rời của vật chất vận động là phương thức tồn tại của vật chất, điều đó có nghĩa là vật chất tồn tại bằng nhiều cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không thể có vật chất không có vận động và ngược lại. Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là sự tự thân vận động, bởi vì tất cả các dạng vật chất bao giờ cũng là một kết cấu bao gồm các yếu tố, các mặt, các quá trình trong sự liên hệ tác động qua lại. Chính sự tác động qua lại giữa các yếu tố, các mặt, các quá trình đã dẫn đến sự biến đổi nói chung. Quan điểm về vận động là tự vận động hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động họ không đi tìm nguồn gốc của vận động ở bên trong bản thân sự vật mà quy nguồn gốc của vận động bên trong bản thân sự vật mà quy nguồn gốc ấy về thân nhiều linh hoặc vào chủ thể nhận thức. Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt đi. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, các vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Ăngghen lần đầu tiên đã phân loại các hình thức vận động cơ bản dựa trên những thành tự của khoa học tự nhiên và triết học như sau:
+ Vận động cơ học: Là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý - sự vận động của các phân tử của hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện vv..
+ Vận động sinh vật, thể hiện ở hoạt động sống của cơ thể, ở sự trao đổi giữa cơ thể sống và môi trường.
+ Vận động xã hội là quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội đ cũng luôn luôn vận động.
Tuy có sự khác nhau về chất lượng, nhưng giữa các hình thức vận động có sự liên hệ, tác động, chuyển hoá qua lại. Sự phát triển của thế giới vật chất thể hiện qua sự liên hệ chuyển hoá từ những hình thức thấp đến hình thức vận động cao. Những dạng vật chất phức tạp như các cơ thể sống, xã hội loài người bao hàm nhiều hình thức vận động trong sự liên hệ, tác động qua lại, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác định. Trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động sinh vật, cơ giớ, vật lý, hoá học, song hình thức vận động sinh vật là hình thức đặc trưng cơ bản nhất, quy định sự khác biệt giữa cơ thể sinh vật với những dạng vật chất khoá. Bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản nhất, quy định sự káhoặc biệt giữa cơ thể sinh vật với những dạng vật chất khoá. Bằng sự phân loại các hình thức vận đọngo cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại các khoa học tương ứng với các đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Ngoài ra, tư tưởng về sự khác biệt và thống nhất của các hình thức vận động cơ bản của vật chất còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức: quy trình nhận thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất vậy vật chất tồn tại bằng cách vận động thông qua quá trình vận động và biểu hiện sự tồn tại của mình. Ăngghen đã nêu rõ vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất và không có loại vật chất nào tồn tại không có sự vận động.
Vận động và đứng im: Thế giới vật chất không đủ ở trong quá trình vận động mà còn có sự đứng tim tương đối. Nếu không có sự đứng im tương đối thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Vì vậy, đứng im chính là “điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất”.
Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng, thì đứng im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định các sự vật và hiện tượng. Nhưng đứng im là tương đối. Điều đó thể hiện ở những điểm sau đây:
+ Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
+ Sự đứng im của vật thể chỉ trong một thời gian xác định và chính trong thời gian đó đã nảy sinh những nhân tố dẫn đến phá vỡ sự im tạm thời của nó.
Như vậy, đứng im là tương đối tạm thời, nó biểu hiện một trạng thái vận động trong thăng bằng. Hay nói khái quát hơn, vận động của thế giới vật chất bao hàm trong nó có tính biến đổi và tính ổn định. Đứng im là sự vận động dưới một hình thức khác - hình thức ổn định.
Trong mối quan hệ giữa vận động và đứng im, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, đứng im là tuyệt đối, đứng im là tương đối, tạm thời.
IV/. Không gian và thời gian:
Đều là những hình thức tồn tại của vật chất, là những thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể. Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, cao thấp. Tất cả những cái đó được gọi là không gian, không gian là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện những thuộc tính như cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính. Nhưng các sự vật lại tồn tại trong trạng thái biếnđổi với độ nhanh, chậm khác nhau, kế tiếp và chuyển hoá lẫn nhau. Những thuộc tính đó là thời gian. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính: độ lâu của sự biến đổi, tình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất. Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động Lênin viết: “Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vạn động thể hiện vận động ở đầu ngoài không gian và thời gian”.
Thực ra không gian và thời gian là những phạm trù triết học đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhận thức. Ngay từ rất xa xưa người ta đã hiểu rằng bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan về mặt kích thước so với các khách thể khác… Các hình thức tồn tại như vậy của vật chết thể được gọi là không gian. Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của hiện tượng, ở sự kế tiếp trước sau của giai đoạn vận động… Những thuộc tính này của các sự vật được đặc trưng bằng phạm trù thời gian. Các đại lượng không gian và thời gian của sự tồn tại của sự vật, thông thường, được xem như là một cái gì đó hiển nhiên. Tuy vậy, trong lịch sử triết học, xung quanh các phạm trù không gian và thời gian đã từng có rất nhiều vấn đề nan giải, gây tranh cãi. Những người theo chủ nghĩa duy tâm.
Nhưng thường phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian. Cantơ cho rằng không gian và thời gian chỉ là hình thức chủ quan của trực quan để xếp đặt các cảm giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn. Mặc dù không phải là người phủ nậhn sự tồn tại khách quan của các khách thể vật chất song cantơ lại là nhà triết học nêu lên sự hành nghề về tính khách quan của các thuộc tính không gian và thời gian của thế giới vật chất. Makhơ cũng cho rằng không gian, thời gian chỉ là một hệ thống liên kết chặt chẽ của chuỗi cảm giác. Theo Makhơ không phải con người với những cảm giác của mình tồn tại trong không gian và thời gian mà chính không gian và thời gian tồn tại trong con người, lệ thuộc vào con người và do con người sinh ra. Phê phán sai lầm đó của Makhơ, Lênin đã chỉ rõ: “Đó là một điều vô lý duy tâm rõ rệt nảy sinh ra một cách tất nhiên từ học thuyết nói rằng vật thể là những phức hợp cảm giác”. Các nhà duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII - XVIII do quá chú trọng đến việc phân tích các khách thể vĩ mô vận động trong tốc độ thông thường nên đã tách rời không gian và thời gian với nhau và tách rời không gian, thời gian với vật chất. Niutơn cho rằng không gian, thời gian và vận động là những thực thể nào đó ở bên ngoài vật chất và không có liên hệ với nhau. Khi phê phán quan điểm đó của các nhà duy vật siêu hình, Ăngghen viết các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian. Theo Ăngghen thì không gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và cả hai đều là thuộc tính cố hữu của vật chất. Chúng là hình thức tồn tại của vật chất. Không thể có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian, thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất. Đây là điều không thể hình dung trong ý thức thông thường. Đầu thế kỷ XX, thuyết tương đối của Anhxtanh ra đời, luận điểm thiên tài trên đây của Ăngghen đã được chứng minh một cách hùng hồn. Thuyết tương đối vạch ra một khía cạnh mới, cốt yếu của mối tương quan giữa gian, thời gian và vận động mà cơ học cổ điển chưa đạt tới. Thuyết tương đối cũng đem lại bức tranh về sự thống nhất giữa không gian và thời gian. Như vậy, thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất biến của không gian, thời gian cùng với sự vận động của vật chất, một lần nữa khẳng định không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau đây:
+ Tính khách quan, không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cùng tồn tại khách quan.
+ Tính vĩnh cửu và vô tận: Theo Ăngghen, vật chất vĩnh vửu có vô tận trong không gian và thời gian. Vô tận có nghĩa là không có tận cùng nào cả. Những thành tựu của vật lý học vi mô cũng như những thành tựu của vũ trụ học ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và tính vô tận của không gian và thời gian.
+ Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian. Tính ba chiều của không là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.
Không gian mà chúng ta đang xét là không gian hiện thực, không gian ba chiều. Nêu chú ý, trong toán học ngoài phạm trù không gian ba chiều còn có phạm trù không gian nhiều chiều vv… Đó là sự trừu tượng hoá toán học, một công cụ, toán học dùng để nghiên cứu các đối tượng đặc thù. Tính thống nhất vật chất của thế giới.
Tính thống nhất của thế giới luôn gắn liền với cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học có thể phản xạ hai khuynh hướng cơ bản về vấn đề này chủ nghĩa duy vật, khi coi vật chất trước, ý thức có sau, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất do đó tính thống nhất của thế giới là vật chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm có ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất, tính thống nhất của thế giới là ý thức tinh thần. Chủ nghĩa duy vật trước Mác có công lao lớn trong việc hình thành và phát triển nguyên tắc thống nhất vật chất của thế giới. Song, do họ đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất, nên nguyên tắc trên có hạn chế rất lớn, mâu thuẫn với các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó, đó là một nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thế giới xung quanh chúng ta dù đa dạng và phong phú như thế nào chăng nữa, nhưng bản chất của nó là vật chất. Khi khẳng định thế giới thống nhất ở tính vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng không thể được quy sự thống nhất đó về sự giống nhau, tương đối của các yếu tố, như nguyên tử chẳng hạn mà được hiểu. Trước hết, sự thống nhất thể hiện ở cơ sở thực thể duy nhất phổ biến, tồn tại vĩnh viễn và vô tận có ở tất cả các hình thức đa dạng, phong phú của thế giới đó là vật chất; thứ hai, sự thống nhất vật chất của thế giới còn gắn liền với sự liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố ở bên trong thế giới, là chính sự tác động qua lại dẫn đến vận động, phát triển . Nguyên tắc thống nhất vật chất của thế giới phải gắn liền với nguyê._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0013.doc