Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000

Tài liệu Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000: ... Ebook Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000

pdf117 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2070 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ THANH XUÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ THANH XUÂN Chuyên ngành : LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG QUÍ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008 LỜI CẢM ƠN Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực cố gắng của riêng bản thân tôi, còn nhờ sự tận tình giúp đỡ của các cơ quan và của nhiều người, như: PGS.TS Phùng Quý Nhâm, các giảng viên Trường ĐHSP TP. HCM, gia đình và bạn bè... Để tỏ lòng tri ân, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến tất cả mọi người. Xin cám ơn PGS.TS Phùng Quý Nhâm, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập cũng như nghiên cứu đề tài. Xin cám ơn các giảng viên thuộc tổ bộ môn Lý Luận Văn Học, khoa Ngữ Văn và các cán bộ phòng KHCN – SĐH của Trường ĐHSP TP.HCM đã trang bị kiến thức cũng như tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Xin cám ơn Sở Giáo dục Bình Thuận, Ban Giám hiệu cùng các cán bộ, giáo viên Trường trung học phổ thông Chuyên Trần Hưng Đạo Bình Thuận đã ưu ái tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn cũng như khoá học này. Xin cảm ơn và tỏ lòng tri ân sâu sắc đến tất cả mọi người trong gia đình tôi, những người đã luôn giúp đỡ, chia sẻ mọi khó khăn và luôn động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Cuối cùng đó là lời cảm ơn chân thành gửi đến sự giúp đỡ và động viên từ phía bạn bè. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Thời kì đổi mới được đánh dấu bắt đầu từ năm 1986 và kéo dài đến tận ngày nay. Song song cùng sự biến đổi của xã hội, văn học cũng có nhiều thay đổi. Thời kì này, văn xuôi phát triển mạnh, có nhiều sự đổi mới. Trong cuốn Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã nhận xét về tình hình sáng tác văn xuôi của thời kì này: “mở rộng đề tài và các phương thức tiếp cận, chấp nhận cả lãng mạn, tượng trưng, huyền thoại, viễn tưởng, quan niệm cởi mở hơn về vai trò của chủ thể nhà văn, về điển hình hoá, về các kiểu ngôn ngữ trần thuật, nhìn chung là khuyến khích sự đa dạng về hình thức và phong cách biểu hiện” và “chúng ta được mùa về truyện ngắn và tiểu thuyết”. Đặc biệt là tiểu thuyết. Cũng theo sự thống kê của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ thì từ năm 1980 đến năm 1996, độc giả đã được đón nhận đến 360 cuốn tiểu thuyết, trong đó nổi bật là tên tuổi những nhà tiểu thuyết như: Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Khuất Quang Thụy, Chu Lai, Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Khắc Trường, Triệu Bôn, Ngô Ngọc Bội, Vũ Huy Anh, Bảo Ninh, Hoàng Ngọc Hà, Nhật Tuấn, Ông Văn Tùng, Xuân Đức, Nguyễn Trí Huân, Phan Tứ... Sau này, còn xuất hiện thêm nhiều tác giả, tác phẩm khác. Với số lượng tác phẩm, tác giả như thế, có thể nói, để tìm hiểu, nghiên cứu tất cả các đề tài, nội dung của tiểu thuyết thời kì này là một điều khó, thậm chí không thể. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu một khía cạnh nội dung của tiểu thuyết thời kì này, đề tài mang tên: “Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000”. Lí do để chúng tôi chọn đề tài này là: Thứ nhất, đề tài này có liên quan đến những tiểu thuyết đoạt giải của Hội Nhà Văn, đã được công bố rộng rãi và được công chúng đón nhận. Thứ hai, các tiểu thuyết đều nằm trong giai đoạn 1986-2000, là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng, mở đầu thời kì đổi mới và kết thúc một thế kỉ. Thứ ba, khi tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết thời kì đổi mới, người ta chủ yếu xoáy sâu vào các nội dung như: vấn đề chiến tranh, vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề số phận con người trong thời kì mới, sự thay đổi trong những quan niệm về giá trị con người... Ít người chú ý tới khía cạnh nội dung phản ánh hiện thực nông thôn trong các tác phẩm. Chính vì những lí do kể trên mà chúng tôi quyết định chọn đề tài này. Chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu đề tài sẽ phần nào đó đóng góp một cách nhìn khách quan và tương đối toàn diện cho bức tranh xã hội Việt Nam trong thời kì vốn được xem là cực kì nhạy cảm này. 2. Lịch sử vấn đề Đề tài chủ yếu tập trung khảo sát ba tiểu thuyết Thời xa vắng (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng) và Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), những tiểu thuyết đã đoạt giải chính thức của Hội nhà văn nên thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu và độc giả. Trong quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu, chúng tôi sưu tập được một số bài viết nghiên cứu về các tiểu thuyết này. Cụ thể như: Hoàng Ngọc Hiến trong bài “Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu” đăng trên tạp Tạp chí văn nghệ quân đội, số 4, năm 1987 đã tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Thời xa vắng trong giới hạn vấn đề số phận cá nhân, số phận của người nhà quê trước những biến động của xã hội, cụ thể là cuộc đời, số phận của nhân vật Giang Minh Sài. Theo Hoàng Ngọc Hiến thì anh nông dân Giang Minh Sài “ “người nhà quê” của Lê Lựu hai lần khốn khổ, vừa xung đột với hệ tư tưởng gia trưởng, vừa xung đột với thành phố ở bộ phận phức tạp nhất của nó là đàn bà, con gái.”[16, tr119], thế nên cuộc sống của anh cứ bùng nhùng, bế tắc, vướng vào hết bi kịch này đến bi kịch khác. Và từ những vấn đề thuộc về nhân vật, thuộc về tác phẩm, tác giả Hoàng Ngọc Hiến suy luận đến những vấn đề lớn, những vấn đề bức xúc của xã hội suốt một thời: “Lê Lựu chỉ đụng đến đề tài “người nhà quê và đô thị” một cách ngẫu nhiên: chỉ là câu chuyện thương tâm một “anh nhà quê” chơi trèo với thành phố bị bại. Trên đất nước ta sau khi thống nhất, không phải cán bộ tiếp quản nào cũng trở thành người chủ của thành phố, không ít “người nhà quê” tiếp xúc với đô thị đã bị bại hoàn toàn, sống dở chết dở, điêu đứng bi thảm, sự thất bại của họ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc”[16, tr119]. Thiếu Mai cũng trong Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4, năm 1987 có bài: “Nghĩ về một “thời xa vắng” chưa xa”. Bài viết của Thiếu Mai nghiên cứu khá sâu sắc cả khía cạnh nội dung lẫn nghệ thuật của Thời xa vắng. Ở khía cạnh nội dung, tác giả phân tích sự tác động của hoàn cảnh đến quá trình hình thành tính cách của nhân vật. Trong tác phẩm, nhân vật Giang Minh Sài cả cuộc đời đã phải gánh trên vai hệ tư tưởng gia trưởng, những quan niệm, những định kiến... khiến cho anh không lúc nào được sống bằng chính cuộc đời của mình, chỉ biết nghe và chiều ý mọi người, đến nỗi theo lời của tác giả Thiếu Mai thì: “trong con người anh, luôn luôn tồn tại hai thế lực: chống đối và khuất phục. Hai thế lực ấy ngày càng phát triển, càng mâu thuẫn, và đẩy bi kịch trong con người Sài lên một mức độ ngày càng cao hơn.” [32, tr121]. Và cũng theo sự đánh giá của Thiếu Mai thì “ Lê Lựu đã tỏ ra hiểu nhân vật của mình đến tận chân tơ kẽ tóc, đến tận những ngọn ngành sâu thẳm nhất của tình cảm, suy nghĩ. Xót xa cho cuộc đời Sài bao nhiêu, tác giả lại giận dữ lên án cách sống, cách ứng xử thiếu bản lĩnh của anh ta bấy nhiêu” [32, tr122]. Mà đâu chỉ có Sài, bên cạnh anh còn biết bao nhiêu người cũng làm những điều mình không muốn chỉ vì không dám làm phật ý hay làm khác với mọi người xung quanh như ông đồ Khang, anh Tính, chú Hà, Chính uỷ Đỗ Mạnh, anh Hiền, anh Hiển... Nói cách khác, Sài và những nhân vật liên quan đến tấn bi kịch của cuộc đời anh vừa là đại diện cho những cá nhân riêng lẻ nhưng cũng là sản phẩm chung của “một thời, thời xa vắng, nhưng chưa xa là bao”, cái thời mà do hoàn cảnh lịch sử của nó, ý thức cá nhân phải tạm lu mờ, nhường chỗ cho những vấn đề lớn lao mang ý nghĩa dân tộc. Đấy là xét về mặt nội dung. Xét về mặt nghệ thuật, mặc dù “nhiều người có ý cho là văn Lê Lựu không chuốt, mộc quá, và không phải là không có những câu què, hoặc trúc trắc, thậm chí có câu ngữ pháp chưa chỉnh” , nhưng tác giả Thiếu Mai vẫn cho rằng tiểu thuyết Thời xa vắng được xây dựng bằng “một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan, không thêm bớt, tô vẽ, đặc biệt là không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp phần đáng kể vào sức thuyết phục, hấp dẫn của tác phẩm” [32, tr.123]. Tuy chưa thích thú với kết cấu ba phần mà phần kết “khó chấp nhận vì tính chất bất hợp lí của nó, và vì nó thể hiện một sự áp đặt do ý muốn chủ quan của tác giả” [32,tr.125]. Thế nhưng, với tác giả Hiếu Mai, Thời xa vắng “tuy vẫn còn có những nhược điểm, còn thiếu một sự chặt chẽ, nhất quán cần thiết, nhưng với ưu điểm rất trội của nó, nó là một thành công, một đóng góp vào nền văn học đang có đà phát triển khởi sắc cùng chúng ta mấy năm vừa qua.” [32, tr.125] Đinh Quang Tốn trong cuốn Tản mạn và chính kiến văn chương có bài: “Lê Lựu - Thời xa vắng”. Trong bài viết này, Đinh Quang Tốn muốn nói đến sự hoá thân của cuộc đời tác giả Lê Lựu vào trong các tác phẩm của mình. Trong khi giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu, những dấu ấn cá nhân của tác giả để lại trong các sáng tác..., Đinh Quang Tốn có vài dòng nhận xét về tiểu thuyết Thời xa vắng: “Thời xa vắng viết về hậu phương miền Bắc trong cuộc chống Mĩ cứu nước với cả cái vui và cái buồn, cái nồng nhiệt và sự non nớt, những quầng sáng và những bóng mờ, có cả nụ cười và nước mắt...” [49, tr.18]. Nhìn chung, đề tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mĩ có nhiều người viết, nhưng theo sự đánh giá của Đinh Quang Tốn thì: “Lê Lựu là người viết thành công nhất” [49, tr.22] và “ Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu, thì Lê Lựu là một trong tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện đại, chọn lấy 30 tác phẩm, thì có mặt Thời xa vắng. Nói thế để thấy, trong văn học Việt Nam hiện đại, Lê Lựu đã có một vị trí đáng kể.” [49, tr.22] Trung Trung Đỉnh trong bài “Dương Hướng và Bến không chồng” đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 12 năm 1991 đã đưa ra một số nhận xét về mặt đề tài, nội dung và kết cấu của tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng. Về mặt đề tài, tác giả Trung Trung Đỉnh nhận xét: “ Có người nói, tiểu thuyết Bến không chồng viết về đề tài nông thôn. Lại có người nói, tiểu thuyết này viết về đề tài chiến tranh. Có người lại cho rằng đây là cuốn sách viết về đề tài xã hội. Tất cả đều có đấy, nhưng theo tôi Dương Hướng không nhằm vào đề tài. Anh khai thác đến tận cùng thân phận những nhân vật chính....” [8, tr.99]. Để lí giải cho ý kiến của mình, tác giả bài viết đã đưa ra dẫn chứng về cuộc đời, thân phận các nhân vật như: nhân vật Nguyễn Vạn suốt cả đời gìn giữ cái bóng của vinh quang mà đánh mất đi cái chính yếu là bản thân mình, cá nhân mình; các nhân vật nữ như bà Nhân, bà Khiêm, mụ Hơn, cô Hạnh, cô Thủy, cô Dâu..., mỗi người một hoàn cảnh, một thân phận khác nhau và đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc; Về mặt nội dung, tác giả Trung Trung Đỉnh cảm nhận được sự chân thật, giản dị trong ngòi bút hiện thực của Dương Hướng qua việc miêu tả ngôi làng Đông, những con người của làng Đông, những cảnh sinh hoạt thường nhật, những nếp nghĩ, tình cảm, cách cư xử... tự nhiên, gần gũi như nó đang diễn ra trước mắt người đọc, khiến người đọc như đang được sống trong không khí của làng, được hòa nhập vào cuộc sống của người dân; Còn về kết cấu của tiểu thuyết, Trung Trung Đỉnh chỉ ra: “Cuốn sách được kết cấu một cách hồn nhiên, thuận theo chiều thời gian, theo sự kiện chung của đất nước trong khoảng thời gian đó, và theo sự đến với thân phận từng nhân vật. Chính vì thế anh không mất nhiều thời gian trong việc tính toán chương hồi, mặc dù vẫn có chương hồi” [8, tr.99]. Ở đây, tác giả Trung Trung Đỉnh cũng có chỉ ra những mặt hạn chế của cuốn tiểu thuyết này, đó là quá trình dẫn dắt “có những chỗ sắp xếp vụng và đôi khi lại thiếu sự tế nhị của nghề nghiệp”, “ phần đầu dài quá. Câu chữ có chỗ hơi luộm thuộm quá. Cái cười của cô Dâu cứ hi hí thế, e tự nhiên chủ nghĩa quá” [8, tr.100]... Thế nhưng, tác giả bài viết lại đánh giá “đây là nhược điểm của người say”, đấy là biểu hiện cái say của người nghệ sĩ Dương Hướng giữa làng Đông. Nhưng cuối cùng, ưu điểm vẫn là chủ yếu, tác giả Trung Trung Đỉnh thừa nhận: “Anh chiếm lĩnh được tâm hồn người đọc bằng sức hút của tấm lòng yêu thương nhân hậu, tự nhiên, không ồn ào văn vẻ với một bút lực dồi dào đầy trách nhiệm. Dương Hướng là người có bản lĩnh, dám chịu trách nhiệm trước những số phận bi ai, không né tránh nửa vời khiến cho thiên truyện càng tới những trang cuối càng dồn nén, dồn nén đến nghẹt thở” [8, tr.98] Về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Hữu Sơn, trong cuốn Điểm tựa phê bình văn học có bài: “Bóng đêm - Một phương diện tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma” chủ yếu khảo sát thủ pháp nghệ thuật, cụ thể là thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết này. Theo tác giả Nguyễn Hữu Sơn thì tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma “không có những trang miêu tả, thể hiện thời gian tâm lí, tâm trạng gây ấn tượng như Sầu đong càng lắc càng đầy – Ba thu dồn lại một ngày dài ghê! (Truyện Kiều), song chính mối liên hệ giữa các biến cố, sự kiện với thời điểm nảy sinh các biến cố, sự kiện đó mới là đặc điểm chính yếu tạo nên đặc trưng thời gian cho tác phẩm” [43, tr.131-132]. Và đặc trưng thời gian của tác phẩm là thời gian bóng đêm. Các phân đoạn mở đầu hay kết thúc trong tác phẩm cũng gắn liền với cảnh chiều tà, bóng tối. Phần lớn những thời gian được đặc tả trong tác phẩm là thời gian bóng đêm, hơn thế nữa “chúng lại thuộc về đêm cuối tháng không trăng sao, hoặc có trăng thì chỉ thấy hình hài kì dị, không bao giờ được miêu tả như cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên” [43, tr.133]; Đêm cũng là thời điểm bộc lộ thân phận, tính cách của con người: ngay đầu tác phẩm là những hồi ức về chuyện mấy mươi năm trước lão Quềnh đã từng gặp ma và ăn ở với ma trong đêm, rồi đến cảnh đám ma cụ cố Đại trong đêm, cảnh Thó lợi dụng đêm tối bê trộm hũ rượu, cảnh bí thư Thủ và phó công an Cao đã bày trận địa giả đẩy bà Son phải ra mặt chống ông Phúc - người tình của bà năm xưa nay là là kẻ thù của dòng họ nhà chồng cũng được tiến hành trong đêm, bà Son bị dồn đẩy cũng lao mình xuống sông tự vẫn giữa đêm tối...; Thời gian bóng tối là thời gian của ma quỉ, hắc ám, hiểm họa, là sự đồng lõa với tâm địa đen tối của từng con người, những phe nhóm , những “chi bộ gia đình”, những sự ăn chia ngấm ngầm của các đối thủ, hay nói cách khác nó là thời gian cho phần ma trong con người được bộc lộ....Chính vì thế, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã kết luận: “Thời gian đêm tối là sự thống lĩnh trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, đồng thời nó lấn át ánh sáng của trăng sao, càng vượt qua, thậm chí triệt tiêu sự mô tả ánh bình minh, mặt trời, nắng ấm rực rỡ, hoa nở, chim bay...”. Và trong khi khảo sát cái không khí hắc ám, ngột ngạt của bóng tối trong tác phẩm, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã tìm ra một tầng giá trị khác của tiểu thuyết này: “phải chăng ý nghĩa thanh lọc, khát khao hoàn thiện tính người, dứt bỏ bóng đêm ma quỉ mới chính là thông điệp tác giả muốn gửi tới bạn đọc”[43, tr.135]. Lê Thị Tâm Hoài trong luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu đề tài: “Người phụ nữ trong ba tiểu thuyết đoạt giải năm 1991”. Bến không chồng của Dương Hướng và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường là hai trong số ba tiểu thuyết đó. Ở bài viết này, tác giả Lê Thị Tâm Hoài đi sâu khai thác hình ảnh, vẻ đẹp và bi kịch của những người phụ nữ thể hiện trong ba tiểu thuyết. Đọc bài viết này ta sẽ thấy bà Nhân, cô Hạnh...(Bến không chồng), bà Son, cô Đào...(Mảnh đất lắm người nhiều ma) đã được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Họ đều là những người phụ nữ đẹp, đẹp ở hình thể, đẹp ở tâm hồn, đẹp trong bản năng... Nhưng cuộc đời họ cũng đầy bất hạnh, đầy bi kịch chỉ vì họ sinh ra là phụ nữ, họ phải chịu đựng biết bao áp lực, định kiến ở đời.... Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều bài viết chúng tôi muốn lấy làm ví dụ minh họa cho sự quan tâm, những vấn đề nghiên cứu khác nhau của các tác giả về ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma. Có thể nói, khi nghiên cứu ba tiểu thuyết này, các nhà nghiên cứu hầu như không phân tích sâu bức tranh xã hội nông thôn thể hiện trong các tác phẩm, mà chỉ chạm tới, chỉ nói qua. Dẫu không phải là tiền sử của vấn đề luận văn nghiên cứu, nhưng các bài viết vẫn có giá trị tham khảo rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng vấn đề nông thôn không mới, không đặc biệt trong nghiên cứu văn học, cũng không mới trong phạm vi nghiên cứu các tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma. Nhưng việc đi sâu nghiên cứu bức tranh nông thôn miền Bắc Việt Nam một cách có hệ thống dựa trên ba tiểu thuyết kể trên lại là một việc tương đối mới mẻ, tương đối khái quát. 3. Đối tượng nghiên cứu Viết về nội dung nông thôn Việt Nam giai đoạn 1986-2000, có thể kể tên nhiều tác phẩm như: Thuỷ hoả đạo tặc (Hoàng Minh Tường), Người giữ đình làng (Dương Duy Ngữ), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu)... Nhưng, trong phạm vi đề tài nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung khảo sát bức tranh nông thôn miền Bắc Việt Nam qua ba tác phẩm: Thời xa vắng (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường). 4. Phạm vi nghiên cứu. Nhìn chung, các tiểu thuyết thời kì đổi mới phản ánh nhiều vấn đề xã hội như: vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chiến tranh, vấn đề con người và quan niệm về giá trị con người trong thời kì mới... Ở đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề của nông thôn miền Bắc qua một số tiểu thuyết như đã xác định ở trên. 5. Mục tiêu của việc nghiên cứu - Những đóng góp. Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng tới những mục tiêu sau: Thứ nhất, trong khi nghiên cứu các vấn đề thuộc về nông thôn được trình bày trong ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, chúng tôi sẽ cố gắng phác hoạ những tồn tại và nảy sinh trong bức tranh văn hoá làng quê Việt Nam thời kì đổi mới. Thứ hai, chúng tôi quan tâm đến vấn đề con người cũng như quan tâm đến việc phát hiện những chuyển biến trong lối sống, tâm lí, tình cảm của người nông dân trước sự thay đổi của xã hội. Thứ ba, bên cạnh những tìm tòi về nội dung thể hiện của tác phẩm, chúng tôi cũng thực sự chú ý đến phong cách chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực của các tác giả. Đạt được những mục tiêu kể trên, đề tài cũng có những đóng góp nhất định, đó là đưa ra một cái nhìn tương đối khách quan, toàn cảnh về nông thôn miền Bắc Việt Nam trong thời kì mới. Thêm nữa, những điểm hạn chế của đề tài, thiết nghĩ, cũng có thể tạo hứng thú cho những ai cùng có mối quan tâm đến vấn đề này. 6. Phương pháp nghiên cứu. Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu và mục đích cần hướng tới của luận văn, chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích - loại hình: Nắm vững đặc trưng, phương pháp luận loại hình thể loại tiểu thuyết để khái quát bức tranh nông thôn, tìm ra và phân tích những vấn đề chung, những biến đổi của xã hội, của con người và những bi kịch mà con người phải chịu đựng sau luỹ tre làng. Phương pháp lịch sử: Trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn xem xét sự vận động và chuyển biến của xã hội theo xu thế tất yếu của nó, để từ đó cố gắng tiếp cận một cách đầy đủ nhất những quan điểm của tác giả về đời sống, xã hội và con người thể hiện trong các tiểu thuyết. Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng không nhiều, nhưng chúng tôi có sử dụng để so sánh ba tiểu thuyết kể trên với một số tiểu thuyết khác cùng thời có phản ánh những vấn đề liên quan đến vấn đề luận văn đang nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có ý thức vận dụng những hiểu biết về thi pháp học hiện đại kết hợp với cảm thụ truyền thống để nghiên cứu, chiếm lĩnh tác phẩm theo quan niệm của mình. Đồng thời, cũng có ý thức tham khảo những ý kiến đánh giá, nhận xét đã có về từng tác phẩm. Nhưng, cái chính yếu là chúng tôi luôn cố gắng cảm nhận tác phẩm dựa trên ý nghĩa bản thân nó. Chúng tôi hi vọng những gì thể hiện trong luận văn này sẽ hạn chế được phần phiến diện chủ quan. 7. Kết cấu luận văn. Luận văn gồm 113 trang. Ngoài hai phần dẫn luận và kết luận, luận văn có ba chương: Chương I: Bức tranh văn hoá làng quê trong ba tiểu thuyết: Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma. Chương II: Bi kịch của con người nông thôn. Chương III: Nghệ thuật miêu tả hiện thực. Chương 1 BỨC TRANH VĂN HOÁ LÀNG QUÊ TRONG BA TIỂU THUYẾT: THỜI XA VẮNG, BẾN KHÔNG CHỒNG, MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA 1.1 . Bức tranh nông thôn đa dạng với nhiều phong tục tập quán Nền văn hoá truyền thống Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nền văn hoá nông nghiệp. Cuộc sống của mỗi người Việt Nam đều gắn bó mật thiết với xóm làng, quê hương. Chính bởi vậy, nói đến văn hoá làng quê là đề cập đến một bức tranh nhiều màu sắc của sự đa dạng phong phú những phong tục tập quán. Phong tục tập quán là những nền nếp đã lan truyền rộng rãi, thói quen phổ biến, có từ lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác. Nội dung phong tục tập quán bao hàm tất cả mọi mặt trong đời sống xã hội. Trong văn hoá Việt Nam, phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Tuy nhiên, khi nghiên cứu phong tục tập quán, một thực tế cần phải nhìn nhận là có những phong tục tập quán tốt, tích cực, có những phong tục tập quán không tốt, tiêu cực. Dẫu vậy, dù tốt hay không tốt, dù tích cực hay tiêu cực thì những phong tục tập quán ấy cũng góp phần hình thành nên sự đặc sắc của văn hoá nông thôn, sự đặc sắc của văn hoá dân tộc. Trong cái ý thức tiểu nông tồn tại từ bao đời, người nông thôn thường có quan niệm: “ăn cây nào rào cây ấy”, ở các làng quê Việt Nam, người ta thường có xu hướng thích đề cao làng mình. Với họ, làng mình cái gì cũng nhất, cái gì cũng hơn thiên hạ: “Đình làng Đông to nhất. Cây quéo làng Đông cao nhất. Cầu đá làng Đông đẹp nhất; nước sông Đình cũng mát nhất” [18, tr.9]. Chính vì vậy, bất cứ địa danh nào nổi bật của địa phương cũng được người ta nâng niu bằng vô số những câu chuyện huyền thoại, truyền thuyết hoá chúng; một mặt, để bồi dưỡng thêm sự gắn bó, lòng tự hào của người dân; mặt khác, để cho bất cứ ai đến làng mình, nghe chuyện làng mình cũng phải nhớ, cũng phải ấn tượng... Cái làng Đông của Bến không chồng dẫu nhỏ bé và cũng bình dị như bao làng quê khác, nhưng nó lại là cái kho của những huyền thoại. Từ dòng sông, bến nước, đến bãi tha ma của làng đều ẩn chứa bao câu chuyện thần bí. Nào là chuyện về hồ “mắt tiên” quanh năm trong vắt, là nơi mà đàn bà con gái làng Đông có nỗi oan khuất đều trốn ra hồ tắm để được giải oan. Người ta kể rằng, cô Ngần – một người con gái đẹp nhất làng Đông - bị cha mẹ ép gả cho người cô không yêu nên đêm tân hôn cô trốn ra hồ nước giữa đồng tự vẫn, từ đó, cái hồ nước tanh hôi như một vũng nước trâu đằm, lau sậy um tùm, cá rúc, quốc lủi hôi xì, đỉa bơi cung quăng, ếch nhảy chòm chõm... bỗng trở nên trong vắt quanh năm, cỏ lau lụi tàn, quốc, cú lủi sạch, đỉa cũng mất tăm và chính nhờ hồ mắt tiên mà gái làng Đông da cô nào cũng trắng mịn, mang nhiều nét khêu gợi của tiên nữ; Nào là chuyện gò ông Đổng, nơi yên nghỉ của người con trai làng Đông dũng cảm, không chết nơi trận mạc mà chết khi trở về nghe tin vợ ngoại tình. Và người ta bảo trai làng Đông cũng có chí khí khác thường vì mang dòng máu của người chiến binh năm xưa; Nào là chuyện về con ma ở gốc ruối đầu cánh mả Rốt chuyên hãm hiếp những người đàn bà goá chồng; Nào là chuyện ba ba thuồng luồng ngoài bến sông... Rồi đến cái làng Giếng Chùa trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, quanh năm vật lộn với cái ăn cái mặc, với việc chia ruộng đất, với những mưu đồ về địa vị..., cũng tồn tại không ít giai thoại. Làng Giếng Chùa không biết từ bao giờ tồn tại câu ca: “Ai may được ngọc Giếng Chùa , rủi ai núi Bụt thả bùa trêu ma”. Các câu chuyện được kể đều liên quan đến câu ca đó. Người ta kể rằng hồi làng còn chùa, còn chiếc giếng làng to bằng gian nhà kè đá ong trước cửa tam quan, người ta có thể bắt được ngọc ở đó. Hay những câu chuyện ma mãnh trên núi ông Bụt: ma trêu người trần, ma quyến rũ người trần... Mỗi làng đều xây dựng những kho truyền thuyết khác nhau và không thua kém nhau về mức độ hấp dẫn. Những kho truyền thuyết ấy được hình thành từ tình yêu làng quê thôn xóm thiết tha, sâu lắng, xuất phát từ nhận thức giản đơn, ngây thơ của người dân và ý thức muốn tôn vinh làng, tôn vinh những con người của làng mình. Bởi thế nên, thế hệ trước nối thế hệ sau, luôn nhắc nhở nhau một ý thức: đã là người làng mà “không biết tích làng là hỏng”. Làng không chỉ là những truyền thuyết, cuộc sống thực của các làng quê với sự đa dạng, phong phú về các quan niệm, về đời sống tín ngưỡng, về những mối quan hệ giữa con người với làng, giữa người với người trong đời sống thường nhật... cũng là một cái mỏ vô tận cho ta khai thác, thưởng thức. Trong đời sống tín ngưỡng, người Việt Nam nói riêng, người phương Đông nói chung tiếp thu tư tưởng phật giáo, thường hay có tục thờ cúng ông bà tổ tiên. Đây là một nét văn hoá đẹp. Đối với các dòng họ ở nông thôn, mỗi năm họ có một ngày giỗ tổ, hay còn gọi là ngày chạp tổ. Việc này do tộc trưởng chủ trì. Người trưởng họ có một thứ quyền lực riêng. Trưởng họ còn thường được hưởng ruộng hương hoả, tự điền để lấy kinh phí lo việc họ. Ruộng hương hoả, tự điền nhiều thì lễ to, nhà thờ họ lớn, tế khí đầy đủ và ngược lại. Sau này, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không còn ruộng hương hoả, những người trong họ sẽ cùng nhau đóng góp theo các xuất đinh của từng gia đình ( gia đình có bao nhiêu nam thì tương đương bằng ấy xuất đinh) để lo sửa sang nhà thờ họ, cúng kính, cỗ bàn... Ngày giỗ tổ hàng năm là ngày con cháu sinh sống, làm ăn ở khắp mọi nơi về họp mặt đông đủ để tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã chết và để những người còn sống trao đổi thông tin về cuộc sống, thắt chặt thêm tình anh em máu mủ ruột già, dây mơ rễ má... Dòng họ Nguyễn trong Bến không chồng cũng có những ngày giỗ tổ như thế. Họ Nguyễn to nhất làng Đông. Từ đường họ Nguyễn cũng to nhất làng Đông. Ngôi từ đường ấy gồm ba gian cùng với một gian hậu cung, nơi đặt bàn thờ tổ: “Ba gian từ đường có hai hàng cột cái và hai hàng cột con, cả thảy là mười sáu cột. Những chiếc cột lim to một ôm đẫy cứ đen bóng lên. Các chân cột đặt tảng đá xanh nổi vân trắng, nền từ đường lát đá đỏ, ngoài thềm lát đá xanh. Gian hậu cung cuốn bằng gạch chỉ vữa trộn mật với vôi, cát, rắn như đá. Trên bệ thờ là những con rồng sơn son thiếp vàng rực rỡ, cỗ ngai đặt ở giữa bệ thờ, có bát hương to lúc nào cũng toả khói thơm ngát. Gian giữa từ đường thêm bốn câu đối trên bốn cột cái” [18, tr.22]. Đấy chính là mồ hôi nước mắt của cả họ tộc qua bao đời đã để lại. Cái cơ ngơi ấy do cụ Nguyễn Nghiên, người đứng đầu dòng họ Nguyễn lúc bấy giờ cai quản. Gia đình cụ Nguyễn Nghiên mấy đời độc đinh, sau cụ Nguyễn Nghiên, đến con trai ông là Nguyễn Khiên, rồi cuối cùng là Nghĩa – cháu nội ông. Lễ chạp tổ được nói đến trong tiểu thuyết rơi vào đời ông Nguyễn Khiên, khi ông mới hơn bốn chục tuổi. Đấy là cái lễ chạp tổ đầu tiên sau ngày hoà bình, vì vậy, các cụ trong họ bảo phải làm thật to. Họ bàn bạc, tranh cãi và cuối cùng quyết định “chín chục mâm, mỗi mâm hai bát năm đĩa. Ban sắp cỗ gồm bảy tay dao thớt, sáu đàn bà ngồi bếp, hai thanh niên bổ củi, bốn cô gái gánh nước. Ngoài ra còn các nhân vật chén bát sai vặt.” [18, tr.25]. Có thể nói, ngày chạp tổ chính là ngày hội, là thế giới tinh thần, vật chất của cả họ. Mỗi năm có một ngày chạp tổ, mỗi nhà một cảnh, quanh năm làm ăn, bỗng dưng lại tụ tập đánh chén một bữa, đoàn kết, thân mật, không phân biệt sang hèn, không phân chia địa vị: “từ ông giáo Thảo đức độ có tiếng, đến nhà chú Bỉnh chuyên đi trộm khoai, trộm chuối, từ ông Hưng phó chủ tịch đến nhà chú Dĩ ba đời gắp cứt trâu...” [18, tr.27]. Dẫu rằng việc tổ chức giỗ chạp linh đình, rùm beng như vậy có hơi tốn kém về thời gian và tiền bạc, lại dễ nảy sinh mê tín dị đoan... Nhưng chính việc ấy, nếu được tổ chức đúng mức, sẽ phát huy được thuần phong mĩ tục, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân ta. Như đã nói ở trên, cũng như một số nước phương Đông khác, phần đông người dân Việt theo tín ngưỡng phật giáo, có tập tục thờ cúng người chết vì họ tin rằng con người có phần hồn, phần xác, có kiếp trước, kiếp sau. Cái quan niệm ấy có thể khiến người ta sống tốt hơn, lương thiện hơn để tu nhân tích đức cho hậu thế, tránh quả báo ở đời. Thế nhưng, cái suy nghĩ ấy cũng làm hình thành trong nhân dân biết bao điều mê tín, bao hành động ngây thơ, mù quáng đến là tức cười. Bà đồ Khang (Thời xa vắng) thấy con trai bị cảm lạnh, mê man bất tỉnh, không đi kiếm thầy thuốc mà vội vàng ra sân để “gọi hồn, gọi vía” con về. Quan niệm dân gian cho rằng con người ta, con trai có “ba hồn bảy vía”, con gái có “ba hồn chín vía”. Hồn, vía có thể thoát khỏi xác khi giật mình, khi sợ hãi quá, khi ngủ hoặc là khi ngất xỉu... Thằng Sài sợ đòn, trốn cha ngoài cánh đồng trong một đêm sương giá nên bị cảm đến mức hôn mê. Với niềm tin như thế, bà đồ Khang và mọi người hốt hoảng cầu gọi: “Ba hồn bẩy vía thằng Sài đâu thì về”, Bẩy vía ba hồn Sài ơi về với mẹ đi con”, “Bẩy vía ba hồn thằng Sài ở đâu tthì về với bố , với mẹ Sài ơi”... Cũng may, ngoài gọi hồn, gọi vía, người ta còn kết hợp với những cách giải cảm dân gian khác nên thằng Sài mới thoát chết. Cũng từ những quan niệm mê muội, ấu trĩ ấy mà làng Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) lổn nhổn, lẫn lộn người với ma, ma với người. Người ta tin vào cái tài cai trị phần âm của làng của cô Thống Bệu, dù rằng ai cũng biết cô “vừa giỏi việc âm, lại vừa tài việc dương”, bởi cô cũng có vợ và con đàn cháu đống hẳn hoi. Người ta tin vào những câu chuyện ma do người này người kia kể. Người ta cũng tin rằng người chết có thể nhập hồn vào người khác để trả lốt những ân oán, nợ nần trên cõi trần... Bởi vậy mà cái xã hội Giếng Chùa nhỏ bé xảy ra biết bao chuyện lạ lùng, ma nhập vào người, người đội lốt ma, có người mê tín, có người lợi dụng chuyện._. mê tín..., khiến cho làng Giếng Chùa tồn tại toàn những ma là ma, cả ma sống và ma chết... Bức tranh văn hoá làng quê có lẽ thể hiện sinh động nhất trong các mối quan hệ của con người trong đời sống thường nhật. Tiền thân là một xã hội phong kiến tồn tại suốt hơn một ngàn năm, ảnh hưởng sâu sắc những chuẩn mực đạo đức theo quan điểm Nho, Phật, Đạo nên khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa rồi đến nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời thì những quan điểm ấy vẫn luôn thực sự ăn sâu bén rễ trong nhân dân. Chính vì thế, trong gia đình người Việt Nam nói chung luôn có sự nề nếp, có trên có dưới, quan hệ cha – con, chồng – vợ, anh - chị – em với vai vế rõ ràng. Chẳng thế mà, cha để di huấn bảo phải đào mộ kẻ thù để giải quyết ân oán, dù sợ run nhưng Trịnh Bá Hàm (Mảnh đất lắm người nhiều ma) vẫn cứ thực hiện. Thủ (Mảnh đất lắm người nhiều ma) đường đường là một bí thư đảng uỷ xã, ai cũng nể, cũng sợ, nhưng lại tuyệt đối “chưa bao giờ Thủ dám trái lời ông anh cả” [52, tr.81]. Rồi tất cả những người phụ nữ như bà đồ Khang, vợ Tính, Tuyết (Thời xa vắng), bà Khiên, bà Nhân (Bến không chồng), bà Son, bà Dần (Mảnh đất lắm người nhiều ma)...cũng cung cúc tuân theo đạo đức phong kiến tồn tại từ bao đời: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Cả đời họ chỉ biết tuân phục, hi sinh và cống hiến. Bên cạnh những người đàn ông của đời mình, họ cam chịu kiếp dây leo, không một lúc nào dám tự sống, sống cho riêng mình. Con người bên cạnh cuộc sống riêng tư, những mối quan hệ riêng tư, còn tồn tại với vai trò là tế bào của xã hội. Nói như vậy có nghĩa là ta đang nói đến mối quan hệ giữa con người với làng xã, hay nói cách khác là nói đến trách nhiệm của người dân khi sống trong làng. Cha ông ta nói: “phép vua thua lệ làng”. Có nghĩa là bên cạnh những luật lệ chung của quốc gia, luôn tồn tại những thứ “hương ước” của riêng từng làng được hình thành và điều chỉnh qua nhiều đời, không người dân nào dám chống đối và nó cũng không dễ gì bị phá bỏ. Và những “lệ làng” ấy hầu như đều hướng tới mục đích xây dựng, phát triển làng tốt hơn, nền nếp hơn, phồn thịnh hơn. Con đường chính giữa làng Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) dài gần một cây số được lát toàn bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh – Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên trải qua bao nhiêu thời gian, nó vẫn chắc khừ. Có một con đường sạch sẽ, đẹp đẽ như vậy là vì từ xưa làng có lệ mỗi đám cưới phải nộp 200 viên gạch: “Trai làng lấy gái làng nộp 200, thế tức là mỗi bên chỉ có 100 viên thôi. Nhưng nếu trai làng gái làng đi lấy vợ lấy chồng ở đất khác, thì gia đình cũng cứ phải chồng đủ 200 viên” [52, tr.5]. Ngoài ra, làng còn qui định những người đỗ tú tài trở lên, những người nhận chức từ lí trưởng trở lên cũng phải mừng làng 200 viên gạch. Những cô gái hoang thai cũng phải tạ làng 200 viên gạch. Đấy là chưa kể những người đi xa về như ông Quản Ngư cũng bày tỏ nỗi nhớ làng bằng việc tặng cho làng 200 viên gạch ... Người ta cống hiến cho làng bằng nhiều cách, có người tự nguyện, có người bị cưỡng ép, có người vui vẻ, có người oán hận... Nhìn chung, đường làng được lát bằng cả những niềm vui, niềm hạnh phúc, sự kiêu hãnh về chức danh, và được lát bằng cả những nỗi khổ đau ê chề, sự tủi cực của những mảnh đời. Nhưng đấy là lệ làng, không ai dám cãi, không dễ phá bỏ, ai không tuân theo thì chỉ có cách bỏ làng mà đi. Những định chế của làng cùng lối sống thuần nông khiến cho cuộc sống của người nông thôn vừa đa dạng vừa vô cùng phức tạp. Mối quan hệ giữa những con người trong làng trong xã cũng vì thế mà mang nhiều sắc thái, vừa cả nể vừa du di, vừa dễ dãi vừa khe khắt, vừa tình cảm, khắng khít vừa tọc mạch, ti tiện, vừa tự ti vừa tự tôn... Khác với lối sống thờ ơ, đèn nhà nào nhà ấy sáng ở thành phố, ở nông thôn, hầu như cả xóm, cả làng, cả xã đều biết nhau. Chính điều đó tạo nên quan hệ, lối sống tình cảm, gắn bó giữa các gia đình trong cộng đồng thôn, xã; tạo nên cái nếp sống đẹp “tối lửa tắt đèn có nhau” ở các làng quê. Thế nhưng, ngay trong cái tình đoàn kết, cái kiểu sống “tối lửa tắt đèn có nhau” ấy lại nảy sinh vấn đề phức tạp, nảy sinh tình trạng “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông”. Hay nói cách khác, người nông thôn hay có thói quen để ý, xét nét, thóc mách chuyện nhà người khác và lan truyền thông tin rất nhanh. Đến cái xóm Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) trong những ngày đói ta sẽ thấy ngay điều đó. Vào những ngày giáp hạt, xóm Giếng Chùa nổi tiếng sung túc nhất xã cũng rơi vào cảnh đói vàng mắt. Nhiều nhà nấu cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà phải luộc chuối xanh chấm muối. Những nhà thường xuyên túng bấn thì bây giờ đứt bữa hẳn. Cả làng, đi đâu cũng thấy những mặt người hao gầy, nhớn nhác hớt hải cứ tưởng như đang vội vã đi đâu, nhưng kì thực chẳng có việc gì hết, cứ ra vào quanh quẩn với cái bụng eo sèo. Ấy thế mà họ vẫn còn thời gian, sức lực để “quan tâm” đến cuộc sống của người khác. Họ biết được nhà bà đồ Ngật, “người vẫn quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách cái làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì cá chép cả con giãy đành đạch” [52, tr.6], nay cũng phải ăn bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng chăn gà. Họ cũng biết gia đình ông Quản Ngư, người “với hai bàn tay trắng đã chu du đến nửa vòng trái đất”, nói cái gì cũng “độn thêm tiếng Tây, lưỡi cứ đá ngược lên tận mái ngói, đến quăn cả mồm miệng” [52, tr.7], giờ cũng phải đóng cửa ăn cháo cám, đến nỗi thằng con bị táo bón phải ôm gốc khế, chổng mông lên cho ông bố lấy que “đào”. Và trong các cuộc họp chi bộ, họp xã..., người đi họp chưa về đến nhà thì người ở nhà đã tiếp nhận đầy đủ thông tin cuộc họp do “thông tấn xã vỉa hè” đưa lại... Cái gần gũi, tình cảm trong đời sống thôn quê đôi khi trở thành thóc mách, lắm chuyện. Nhưng chính điều đó lại trở thành một nét đặc trưng của văn hoá làng. Song hành với thói quen xét nét cuộc sống của những người xung quanh thì người nông thôn lại rất thích phô trương cuộc sống sung túc của mình cho làng xóm thấy. Bởi vì, trong tâm thức của họ luôn quan niệm rằng: “Con công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng như anh nhọ đít” [52, tr.75]. Chính vì thế, người ta thích mua sắm, tích cóp được chút tiền nào là lo sắm sửa đồ đạc. Thậm chí, đói cũng bóp bụng sắm. Nhà anh Tính (Thời xa vắng) ở trong cái làng Hạ Vị lụt lội và cũng chẳng giàu có gì, nhưng trong căn nhà của anh vẫn bầy biện và có cung cách ăn ở như bất cứ một nhà khá giả lịch sự nào trên tỉnh. Khi có khách quý đến nhà anh, họ sẽ được đón tiếp một cách khá long trọng, bài bản, đến nỗi, khách dù ăn cơm hay chỉ uống một cốc nước bột sắn cũng không có cảm giác làng Hạ Vị úi xùi. Sở dĩ như vậy là vì, trong khi cả làng Hạ Vị người ta không thể chấm thịt gà bằng thứ nước chấm gì khác ngoài món tiết luộc thì nhà Tính, dưới sự cố vấn của thằng cháu đã được đi tập huấn, tham quan cửa hàng ăn trên huyện, đã có đầy đủ những nguyên liệu bếp núc cần thiết như: hành, tỏi, hồ tiêu, ca ri, ớt khô, chanh, dấm, dâu ngâm, sắn dây, rượu thuốc... Khách đến sẽ được hưởng những mâm cỗ thịnh soạn, thức nào ra thức ấy, chứa chan tình cảm và kiến thức ẩm thực của chủ nhà...; Khách sẽ không thể biết được cái cảnh vợ con Tính sau đấy, đằng sau cánh cửa bếp, xì xụp bên những bát đĩa thừa thãi đã được dồn lại, cùng với bát bánh đúc ngô, một món ăn quen thuộc hàng ngày. Đến một vùng nông thôn đói nghèo như xóm Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) nhưng ngay trong những tháng giáp hạt khó khăn, người ta vẫn thi nhau sắm sửa nào là giường mô-đéc, tủ buýp-phê, tủ lệch đến sa-lông chân quỳ. Ông bà dạy: “tốt khoe ra, xấu xa che lại”. Người dân ở đây phát triển triệt để ý nghĩa lời dạy đó. Với họ, đói mà được ngồi sa-lông gỗ lát cũng vênh vang, mát mặt hơn là no bụng mà để người khác thấy được sự tọa tuệch trong cuộc sống của mình. Và trong quan niệm của họ thì “khách đến nhà làm sao biết trong bụng chủ nhà chứa những gì. Rau lang, sắn mốc hay cơm tám giò chả đã qua khỏi cửa miệng thì cũng là nhập khẩu vô tang, có giời lần!” [52, tr.75]. Thế là có bao nhiêu người ta cứ phô ra, không có cũng cố kiếm ra mà phô trương. Sở dĩ như vậy là vì họ không muốn ai coi thường nhà mình, nhất là coi thường vì sự bần hàn. Đầu tư cho cuộc sống của người sống đã đành, người ta còn đầu tư cho cả người chết. Trong khi nhiều người trong làng “cái thiếu, cái đói hiện lên từ ánh mắt mệt mỏi đến nước da mai mái và cặp môi khô, cả hàm răng cũng khô. Tiếng cười thiếu ăn khô tông tốc” [52, tr.21] thì nhà ông Vũ Đình Phúc tổ chức đám tang cho bố mình hết sức đàng hoàng, trang trọng, không nề hà tốn kém: ngả một con lợn hơn một tạ, đóng áo quan bằng gỗ dổi không cần phải sơn mà vẫn vàng ươm, mời phường bát âm lớn theo đúng nghi thức cổ truyền, tổ chức lễ cầu hồn hết sức tốn kém, làm cỗ mời cả làng... Họ Vũ Đình là họ lớn trong làng, ông Phúc muốn làm tất cả những việc ấy để dân làng nhìn vào, để cho dòng họ đối địch Trịnh Bá phải tức tối vì ghen tị. Hay xét nét, thích phô trương, tính câu nệ, cả nể..., những đặc điểm chung về tính cách của người nông thôn khiến cho họ đối xử với nhau trong cuộc sống thường nhật rất tình cảm nhưng cũng rất khách sáo theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Vợ chồng anh Tính (Thời xa vắng) đã xúc động đến run người khi Châu – vợ Sài về ra mắt đã sắm sửa một mâm cỗ nhỏ để cúng bàn thờ tổ gia đình chồng, mua mấy gói kẹo đưa chị dâu chia cho các cháu...Anh chị thích sự quan tâm chu đáo của Châu. Sự chu đáo ấy khiến cho anh chị yên tâm là cô em dâu người Hà Nội không hề xem thường gia đình chồng quê mùa lam lũ. Và với niềm xúc động chân thành đó, bao khó khăn, vất vả vì phải chạy đôn chạy đáo lo đồ cưới cho thắng em đều tiêu tan. Anh chị còn cố gắng hết sức, kể cả việc cắt phần ăn của các con để lo cho được một đám cưới “không hề có sự cách biệt giữa quê và tỉnh”. Hay như nhà ông Hàm (Mảnh đất lắm người nhiều ma), mỗi lần gặt, nhà nhiều ruộng phải nhờ anh em họ hàng. Và mỗi lần như vậy, ông Hàm lại tổ chức ăn rất sang: “cá kéo dưới ao, gà nhốt sẵn trong chuồng, rượu cất từ mấy hôm trước” [52, tr.176]. Những bữa ăn như vậy vừa là để chứng tỏ uy thế, sự sung túc của chủ nhà; vừa là để anh em trong gia đình thêm tình cảm; vừa là sự trả ơn tế nhị của chủ nhà. Trong quan hệ gia đình, người nông thôn còn giữ một mối quan hệ vừa tình cảm, thân mật vừa giữ kẽ, khách sáo đến vậy. Trong quan hệ xã hội, quan hệ xóm làng, sự câu nệ, khách sáo ấy lại càng lắm nhiêu khê. Như đã nói ở trên, Vũ Đình Phúc (Mảnh đấtlắm người nhiều ma) tổ chức đám tang cho cha rất linh đình, có cỗ bàn mời cả làng. Và trong cái đám tang ấy, dù đau xót vì cha chết, dù mệt mỏi vì là người đóng vai trò đứng mũi chịu sào, nhưng ông Phúc vẫn không quên phân công người ghi chép lại tên những người tới phúng viếng để “sau này người ta có đám, mình còn nhớ phúc đáp lại” [52, tr.33]... Có thể nói cuộc sống của nhân dân ba làng: làng Hạ Vị (Thời xa vắng), làng Đông (Bến không chồng), làng Giếng chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma), mỗi làng có một nét văn hóa riêng, có những tập tục riêng. Những sự khác biệt ấy tạo nên sự phong phú, đa dạng cho bức tranh văn hoá chung của dân tộc; đồng thời, cũng khẳng định nét đặc sắc riêng trong đời sống văn hoá tinh thần của mỗi vùng quê. Tìm hiểu những bức tranh văn hoá này, ta sẽ phần nào hình dung được các quan niệm, lối sống, tính cách của con người ở những nơi này. Chính điều ấy sẽ là chiếc chìa khoá mở cánh cửa khám phá những vấn đề nông thôn mà ba tác phẩm trên đã thể hiện. 1.2. Một xã hội nhức nhối những vấn đề nóng bỏng khó giải quyết 1.2.1. Nông thôn với những lý tưởng và niềm đau trong chiến tranh Trong ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, không tác phẩm nào miêu tả trực tiếp chiến tranh, nhưng chúng đều cập đến chiến tranh. Và trong những bức tranh loang lổ những dấu tích của chiến tranh ấy, người đọc vẫn cảm nhận trọn vẹn cái không khí rực lửa, lý tưởng cao đẹp, niềm khát khao cống hiến, niềm kiêu hãnh về thành tích chiến trận... Đồng thời, cũng qua những bức tranh loang lổ ấy..., độc giả cũng hình dung được phần nào những nỗi đau, những mất mát mà con người phải chịu trong chiến tranh, kể cả người ở tiền tuyến lẫn người ở địa phương. Hay nói cách khác, ở các tác phẩm này, chiến tranh được nhìn nhận cả dưới góc độ lý tưởng lẫn thực tế nghiệt ngã của nó. Dưới góc độ lý tưởng, chiến tranh đã đem đến lý tưởng sống, niềm tự hào, sự kiêu hãnh cho con người, là nơi khẳng định phẩm giá của con người tốt nhất suốt cả một thời, hết chống Pháp lại chống Mĩ. Chẳng thế mà Nguyễn Vạn (Bến không chồng), một thằng bé mắt toét đi ở chăn trâu cho nhà địa chủ Hào, quanh năm mặc quần cộc phơi tấm lưng trần đen nhánh trên lưng trâu, bỏ làng đi đã lâu, nay trở về đã hoàn toàn khác, tự tin, đĩnh đạc và “đố ai còn dám coi thường”. Bởi vì “chẳng gì Nguyễn Vạn cũng là lính Điện Biên chiến thắng trở về” [18, tr.6]. Vạn là anh hùng. Vạn là anh hùng của dân làng Đông, anh hùng của dòng họ Nguyễn, anh hùng của cả chính bản thân mình. Trong kháng chiến chống Pháp, Vạn đã tham gia bằng tất cả sự dũng cảm, sự liều lĩnh và có lẽ cả bằng khát khao muốn rũ bỏ cuộc sống tủi cực thủa ấu thơ. Thế nên,khi bị thương ngoài mặt trận, máu chảy ra ướt đẫm cả quần áo đau điếng mà Vạn vẫn cố cười: “Vạn cười rống lên để khỏi khóc, Vạn cười đến khi ngất xỉu lúc nào không biết nữa” [18, tr.6]. Những tháng năm đau thương và gian khổ ấy đã đem lại cho thằng bé Vạn thủa xưa một cuộc đời mới, một giá trị mới. Với “những tấm huân chương rủng rỉnh lấp lánh trên ngực áo Vạn”, người ta không nhớ thằng Vạn mắt toét, đầu trần chân đất nữa mà chỉ kính trọng, trìu mến khi nhắc đến chú Vạn, chú Vạn Điện Biên...Đấy là niềm tự hào, niềm kiêu hãnh của Vạn, của cả họ tộc. Chẳng thế mà, đi đâu Vạn cũng nhắc đến nó. Nói chuyện với mọi người cũng: “hồi ở Điện Biên”. Răn dạy đám thanh niên trong xã cũng: “ hồi ở Điện Biên”. Xảy ra chuyện gì cũng ngẫm nghĩ, liên hệ tới “ hồi mình còn ở Điện Biên”... Vạn tự cho rằng mình “nên được người là nhờ cái thời đánh Pháp”. Những hào quang của quá khứ luôn mới, luôn sống động trong cuộc sống của Vạn. Nó yêu cầu Vạn sống tốt để xứng đáng với nó. Nó khiến Vạn giữ lại tất cả những kỉ niệm của một thời: chiếc ba lô, bộ quân phục rách nát đã vá đi vá lại... Và cái lí tưởng, nhiệt huyết của người lính Điện Biên năm xưa vẫn tồn tại, vẫn nguyên vẹn tươi mới trong trái tim bác Vạn, lão Vạn của những năm chống Mĩ. Khi làng Đông bị máy bay Mĩ vào không kích, cả làng ai cũng sợ, chỉ có Nguyễn Vạn một mình âm thầm lặng lẽ xách cây súng của thời Điện Biên năm xưa ra nằm trên gò phục bắn lại cho đỡ tức. Không có chiếc máy bay nào bị bắn rơi, nhưng không thể nào không ghi nhận sự nhiệt tình , lòng dũng cảm của ông trong chiến đấu. Có thể nói, Nguyễn Vạn luôn sống bằng những niềm tin, niềm kiêu hãnh, những chân lý mà cuộc đời binh nghiệp đã trang bị cho ông. Hình ảnh chú Vạn Điện Biên phần nào trở thành quan niệm thẩm mĩ về người đàn ông của làng Đông lúc bấy giờ. Và người ngưỡng mộ, chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ Vạn là đứa cháu trai trưởng họ của anh – Nghĩa. Ông bà Khiên chỉ có một mình Nghĩa. Nghĩa sẽ là trưởng tộc của dòng họ Nguyễn. Và, Nghĩa vừa mới lấy vợ, vẫn đang say đắm, ngất ngây trong cảm giác tân hôn. Vậy mà, tạm dứt bỏ tất cả, cũng như nhiều trai tráng của làng Đông, theo lời động viên của chú Vạn, của chính quyền xã, Nghĩa quyết định lên đường nhập ngũ. Khi đi, Nghĩa phải dấu cha, bởi ông Khiên nhất định không đồng ý: “tôi còn mỗi mình thằng Nghĩa. Cả họ Nguyễn nhà ta còn mỗi mình nó...” [18, tr.88]. Chính điều này đã khiến Nghĩa vô cùng ân hận. Nghĩa ân hận không phải vì đã trốn cha ra đi mà ân hận vì đã không hiểu nỗi lòng cha mình. Đúng là ông Khiên không muốn Nghĩa đi bộ đội mà muốn Nghĩa ở nhà lo việc họ tộc. Nhưng ông Khiêm cũng là người biết suy nghĩ, biết xấu hổ và trọng danh dự nên việc Nghĩa lén lút lên đường nhập ngũ khiến ông có cảm giác mình là kẻ hèn nhát, ích kỉ... Ông đã chết trong đau khổ. Nghĩa đau đớn vì khiến cha buồn, đau đớn vì không về kịp để gặp cha lần cuối. Thế đấy, để thực hiện được lý tưởng của người trai thời loạn, vì đất nước, Nghĩa phải quên tình nhà; vì sự nghiệp chung, Nghĩa phải tạm gác lại hạnh phúc riêng. Mà đâu phải chỉ có Nghĩa, ngoài Nghĩa ra còn những thanh niên khác của làng Đông cũng hăm hở ra trận, hăm hở cống hiến như: anh Thành thương binh, anh Biền, Hiệp, Hà, thằng Tốn...Mỗi người đều có mặt này mặt khác, nhưng cái phần hào hùng đẹp đẽ của họ thì thật đáng yêu và đáng trọng. Tiểu thuyết Thời xa vắng cũng khắc họa chân dung một loạt những con người say sưa tiến bước theo lý tưởng cách mạng, từ người cầm quân, quản lý chính trị cấp trung đoàn cho đến anh nông dân cù nần mới nhập ngũ. Họ cống hiến hết mình để phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mĩ. Sự oanh tạc của đế quốc Mĩ trên khắp đất nước đã làm bùng nổ lên lòng căm giận và ý chí quật cường vốn đã dư thừa của mỗi người dân. Mọi người thi nhau ra chiến trường. Người đã là quân nhân viết đơn tình nguyện đi B. Người đang là thanh niên ở nông thôn, ở nhà máy, ở trường học thì viết đơn xin nhập ngũ. Hầu như đã là thanh niên thời bấy giờ, ít ra ai cũng một lần tình nguyện cầm súng sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc, cho thắng lợi của miền Nam. Tất cả vì miền Nam ruột thịt. Có những lá đơn viết bằng mực. Có những lá đơn viết bằng bút chì. Thậm chí, có những lá đơn được viết bằng máu... Trong những lá đơn ấy, có hai lá đơn được viết bằng máu chích ra từ cánh tay của một chiến sĩ trung đoàn bộ phòng thủ bờ biển: Giang Minh Sài. Khi tình nguyện tham gia chiến trận, người ta thường hay xét đến động cơ. Nếu nói đến động cơ, Giang Minh Sài đi bộ đội, tình nguyện đi B hoàn toàn không phải thuần tuý là động cơ yêu nước, căm thù giặc Mỹ. Sài đi bộ đội là để trốn tránh cuộc sống hiện tại, cuộc sống làm chồng, trốn tránh tai tiếng của mối tình vụng trộm với Hương. Vì cái động cơ ấy, Sài sẵn sàng lao vào học tập, lao động không biết mệt mỏi, thậm chí sẵn sàng xung phong đến chỗ nguy hiểm, đến cái chết. Dẫu là vậy, nhưng khi vào đến chiến trường, trực tiếp đối diện với sự khốc liệt của chiến tranh, nhất là chứng kiến cái chết của Thêm, người đồng đội vì thương anh thèm rau, đi tìm miếng rau cho anh ăn khỏi xót ruột mà bỏ mạng thì Sài đã thực sự trở thành chiến sĩ. Sài đã chiến đấu hết mình, chiến đấu một cách ngoan cường và thông minh. Dưới tài chỉ huy của trung đội trưởng Giang Minh Sài, những khó khăn, nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe khi đến dốc “bung trôi”, ngầm “mất tích” được giải quyết nhanh gọn. Cũng nhờ tài phán đoán của Sài mà một trung đội thiếu của ta đã đánh tan một trung đoàn đủ của đối phương. Và chính Sài đã trực tiếp bắn rớt máy bay của giặc, bắt sống giặc lái. Chiến tranh đã làm cho một con người sống không có niềm vui, không có lý tưởng như Sài trở nên sống có ích, trở thành anh hùng. Chiến tranh đã biến anh thành con người bất chấp gian khổ, bất chấp hi sinh. Hay nói cách khác, đối với anh trong cuộc chiến đấu một mất một còn, từng giây từng phút này không hề có gian khổ, hi sinh, bởi vì không bao giờ anh nghĩ tới nó, cũng không bao giờ, ở đâu những hi sinh, gian khổ lại có thể cản được nhiệt tình cách mạng, ý chí kiên cường của anh. Xung quanh Sài còn nhiều người khác như: chính uỷ Đỗ Mạnh, anh Hiểu, anh Hiền, những người đồng đội, cấp trên của Sài. Những con người này cũng một lòng một dạ phục vụ cho cách mạng, cố gắng đào tạo ra những con người cách mạng đúng chuẩn mực phục vụ cho công cuộc kháng chiến của dân tộc. Ngay cả việc góp phần gây ra bi kịch của đời Sài cũng xuất phát một phần vì tình thương đối với Sài, một phần vì cố gắng thực hiện cho trọn vẹn nhiệm vụ trước Đảng. Một nhân vật khác chỉ xuất hiện thoáng qua trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma nhưng vẫn để lại ấn tượng trong lòng người đọc, đó là chính trị viên Thông. Trong một trận đánh giáp lá cà giữa bọn lính dù, lính thuỷ đánh bộ của địch với đại đội của Thông, do bên ta không cân sức, lại không quen đánh bộ binh nên nhóm quân do Thông chỉ huy bị chết gần hết, chỉ còn lại Thông và người chiến sĩ quân khí. Đau đớn trước những cái chết thê thảm của đồng đội, lại thêm việc phát hiện ra khẩu pháo mới chữa đang để trong ụ làm dự phòng đã bị địch chiếm mất, chính trị viên Thông đã tự kết liễu đời mình bằng một phát súng vào đầu. Tài sản của người lính trận là vũ khí, bị tước mất vũ khí, phải chăng anh chết vì uất ức trước một tổn thất quá lớn, và chết vì không làm tròn trách nhiệm của một người chỉ huy. Chiến tranh và những lý tưởng cao đẹp của nó đã tạo nên những bộ mặt, những cuộc đời chiến sĩ khác nhau. Vì lý tưởng cách mạng cao đẹp, người ta sẵn sàng hi sinh những nhu cầu cá nhân, những hạnh phúc riêng tư, hi sinh cả mạng sống của mình. Đấy là sự thể hiện cao nhất trách nhiệm của con người đối với đất nước, đối với dân tộc. Nhưng bên cạnh những lý tưởng cao đẹp ấy, thực tiễn của chiến tranh cũng vô cùng khốc liệt. Cái khốc liệt ấy tác động đến con người cả dưới góc độ vật chất lẫn tinh thần, nó gây lên biết bao bi kịch cho con người. Nguyễn Vạn (Bến không chồng) vì say mê với lý tưởng của đời mình, muốn gìn giữ chút hào quang thủa chiến trận mà đã quên đi con người cá nhân, quên đi những khát vọng hạnh phúc chính đáng của cá nhân. Đến khi được hưởng một chút hạnh phúc thì lại tự cho đó là điều tội lỗi, là tự đánh mất tên tuổi, đánh mất lòng kiêu hãnh của bản thân... Nguyễn Vạn là người quá lý tưởng hoá những gì mà mình theo đuổi nên mắc phải sai lầm. Mục đích của cách mạng là đem tới cho con người một cuộc sống mới vui vẻ, hạnh phúc, đâu phải khiến người ta sống khổ hạnh, đáng thương hơn. Cũng là những con người quá cứng nhắc trong việc thực hiện lý tưởng của Đảng, Hiểu, Hiền (Thời xa vắng) đã tiếp tay đẩy Sài lún sâu vào bi kịch của đời anh. Hiểu thì ngăn chặn tình cảm giữa Sài và Hương. Hiền thì theo sát Sài trong những ngày Sài về quê, khuyên nhủ và thậm chí như ra lệnh cho Sài phải yêu vợ, vào ngủ chung với vợ. Hiểu và Hiền làm tất cả những điều ấy xuất phát từ mong muốn những chiến sĩ trong khu vực mình quản lý đều tốt, đều tiến bộ; vì họ yêu quý, quan tâm đến Sài, không muốn lý lịch quân nhân của Sài có tì vết, ảnh hưởng đến việc vào Đảng và quá trình tiến thân của Sài..., Hiểu và Hiền, những người lãnh đạo phần tư tưởng lại mắc sai lầm về tư tưởng, vô tình đào tạo ra những con người “sống hộ”, yêu quý những gì mà chỉ huy yêu, ghét cái mà chỉ huy ghét, không có lối sống của riêng mình. Chính uỷ Đỗ Mạnh thức thời hơn về mặt tư tưởng, nhưng cũng như đa số cán bộ quân đội lúc bấy giờ, ông không dám bứt phá, không dám bước ra khỏi cái nếp quen trong suy nghĩ, trong cách quản quân lúc bấy giờ, vì vậy, dù hiểu, dù thương thằng cháu của bạn, nhưng ông cũng không làm được điều gì hơn cho Sài. Cũng vì những cái gọi là lý tưởng, đôi khi nó gây ra những chuyện buồn cười. Hiểu (Thời xa vắng) chỉ vì có một bộ đồ dân sự rất “kẻng”: “một sơ mi đuôi tôm trắng tinh, một quần kaki Pháp màu be, một săng đan quai vàng. Tất cả đều sát sỉnh, hợp với cái dáng cao thon và màu da trắng trẻo của anh” [trang 134] để mặc trong những ngày nghỉ mà mang tiếng “biến chất”, “cắm đuôi tiểu tư sản”, “có vấn đề”... Bao nhiêu tội thuộc về tư tưởng được gán cho Hiểu, và mặc dầu được chính uỷ Đỗ Mạnh bênh vực, Hiểu vẫn phải tự trở nên “giản dị”, “hoà mình với quần chúng”, “lập trường vững vàng”, “đạo đức trong sạch”, “tiến bộ”...bằng một sự cọc cạch phản bội lại cái đẹp. Có câu nói: “Mọi lý thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”. Những con người sống và làm việc theo một lý tưởng cao đẹp nhưng lại máy móc quá, cứng nhắc quá, thành ra gây khổ cho người khác và tự làm khổ chính mình. Chiến tranh không chỉ chi phối đến mặt tư tưởng mà còn gây đau thương trên tất cả các khía cạnh khác của cuộc sống con người. Chiến tranh khiến cho Nguyễn Vạn (Bến không chồng) có một vết thương ở bả vai và một ống chân bị gãy, làm bước đi của Vạn cứ tập tễnh. Chiến tranh khiến cho Nghĩa (Bến không chồng) không chỉ có tội làm cho bố anh chết trong đau khổ mà còn cướp mất đi khả năng làm cha của anh. Như đã nói ở trên, Nghĩa là con trai duy nhất trong gia đình, anh lại là trưởng tộc có trách nhiệm lớn nhất trong việc xây dựng dòng họ Nguyễn. Chiến tranh cướp mất khả năng làm cha của anh, có nghĩa là nó không chỉ cướp đi chính tương lai của anh mà còn cướp đi tương lai của cả dòng tộc nhà anh, khiến anh vô tình đem lại đau khổ, bất hạnh cho Hạnh và Thuỷ, hai người đàn bà yêu anh và luôn sẵn sàng hi sinh vì anh. Có niềm đau xót nào hơn! Chiến tranh cũng làm cho Thành (Bến không chồng) bị bom cháy bỏng toàn thân, dị dạng, xấu xí, mặt sần sùi phồng dộp lên đỏ lừ, đến nỗi, bố mẹ anh cũng không nhận ra con mình. Và với khuôn mặt ấy, người ta cảm thông, người ta thương xót, người ta vẫn quý mến bản chất con người anh, nhưng không có một cô gái nào dám gắn kết cuộc đời với một khuôn mặt gớm ghiếc đến như vậy. Ngay cả Cúc, nghe mọi người gán ghép, đã nhận trầu rồi cũng đành trả lại, chịu làm lẽ ông Ba Chương, chứ không tài nào yêu Thành được. Tuổi trẻ, sức trai đã cống hiến hết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, những tưởng rồi sẽ được hạnh phúc, nhưng đến khi trở về, Thành lại phải sống cả cuộc đời với khuôn mặt dị dạng, không vợ, không con. Những người đàn ông trực tiếp tham gia chiến trận phải chịu mất mát đau thương do chiến tranh đem lại đã đành, người ở hậu phương cũng chịu không ít khổ đau, đặc biệt là những người phụ nữ. Những người phụ nữ ấy là những người mẹ có con đi chiến trận. Bà Khiên (Bến không chồng), cả đời không biết nói dối, đã phải nói dối chồng để cho con trai lên đường nhập ngũ. Nhưng khi nó đi rồi thì ốm o, gầy mòn trông ngày con trở về. Cũng như nhiều phụ nữ thương con thời bấy giờ, bà ước ao con bà bị cụt tay hay què chân, miễn là còn sống để trở về. Thậm chí, một giấc mơ bà cũng lấy đó làm tin để nhẩm tính ngày con trở về nhà. Đến khi Nghĩa được trở về, bà vẫn chưa hết buồn lo, bởi vợ chồng Nghĩa không có con. Nghĩa và Hạnh ly hôn, bà thương Hạnh nhưng vẫn phải đồng ý. Nghĩa cưới Thủy, bà không phản đối. Bởi vì, cả đời làm dâu nhà họ Nguyễn đầy cơ cực nhưng bà đã hoàn thành xong nhiệm vụ. Giờ đến cuối đời, bà chỉ mong con bà có đứa con trai để hoàn thành trách nhiệm trưởng tộc. Nghiệt ngã thay, cho Nghĩa bỏ Hạnh, bà đã tự coi như mình làm điều ác, vậy mà số phận vẫn không đem đến cho con bà, dòng họ Nguyễn nhà bà niềm hi vọng. Hay như bà Nhân (Bến không chồng). Bà Nhân đã cống hiến cho đất nước dường như tất cả những gì bà có: chồng và hai người con trai.Khi đất nước rạo rực trước tin chiến thắng Điện Biên thì ở nhà, chị Nhân đang vật lộn với một nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn: chồng chị đã hi sinh, để lại một mình chị với ba đứa con còn nhỏ dại. Nỗi đau mất chồng vừa nguôi ngoai, bà lại lần lượt tiễn hai con trai của mình lên đường chống Mĩ. Thế rồi, thằng Hà, con trai trưởng của bà cũng đi theo cha nó. Bà nhận tin báo tử của con trai bằng thái độ điềm tĩnh đến lạnh lùng, mặt chỉ hơi tái đi. Bà không gào, không khóc “mắt ráo hoảnh không có lấy giọt nước mắt” [18, tr.137]. Bà không khóc bởi ngày hôm trước mấy ông trên xã đi qua, ông nào cũng liếc mắt vào nhà, bằng linh cảm người mẹ, bà đã hiểu là có chuyện và đã âm thầm khóc khô cả nước mắt suốt đêm. Bà không khóc còn bởi vì bà là vợ, là mẹ liệt sĩ, bà phải “vững vàng” để làm gương cho những bà mẹ khác trong làng. Tưởng đâu những đau thương mất mát của đời bà đến thế là hết. Tưởng đâu chồng và đứa con trai đầu đã gánh hết mọi rủi ro, và bà đinh ninh thằng út sẽ không thể chết, nó sẽ trở về với bà. Nhưng điều đó không thành hiện thực. Bà lại phải tiếp tục nhận tin thằng Hiệp bỏ bà ra đi ngay ngày làng Đông đón nhận tin miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ai cũng thấy “cả làng Đông này chỉ có mỗi bà Nhân là đau đớn nhất” [18, tr.186]. Những mất mát quá lớn, sự đè nén cảm xúc trong bao nhiêu năm qua bao biến cố, bây giờ bà Nhân không cần và không thể giấu mình để làm gương cho người khác nữa. Bà gào khóc vật vã. Bà có cảm giác con người mình như hẫng đi, rơi tõm xuống một cái hố sâu thăm thẳm. Bà tự thấy mình là người có lỗi trong cái chết của chồng và các con. Đêm đêm, bà mơ thấy chồng con về hạch tội mình. Chồng bà trách: “Mình là kẻ giết người là mụ đàn bà ác độc! Tôi đã hi sinh rồi sao mình không để cho các con được sống?” [18, tr.215]. Thằng Hà cũng trách: “Bố và con đã đi rồi, sao mẹ không để cho em con được sống?” [18, tr.215]. Thằng Hiệp cũng oán hờn: “Sao mẹ lại vui mừng khi con đi vào chỗ chết?” [18, tr.215]. Người đàn bà khốn khổ ấy mãi ám ảnh trong cảm giác tội lỗi. Nhưng bà cũng chỉ làm những việc như nhiều người đàn bà cùng thời khác, hiến dâng cho tổ quốc những người thân yêu của mình, đi vận động thanh niên lên đường nhập ngũ, an ủi các mẹ, các chị có chồng đi chiến đấu và đau đớn đến xé lòng khi chính mình phải nhận sự an ủi của người khác. Đến cuối đời, bà chỉ còn chỗ dựa, niềm vui, niềm tin duy nhất là đứa con gái út. Nhưng chiến tranh cũng tước đoạt lốt chút niềm vui của tuổi già, khi cuộc hôn nhân của cái Hạnh không được trọn vẹn mà lí do cũng là ảnh hưởng hậu quả của chiến tranh. Chiến tranh còn đem bi kịch đến cho những người phụ nữ có chồng đi chiến đấu. Ta nhìn thấy điều ấy qua cuộc đời của những cô Hạnh, cô Lài (Bến không chồng), cô Lạc, chị Sang (Mảnh đất lắm người nhiều ma). Khi người đàn ông đi chiến đấu, người phụ nữ ở nhà chịu bao gian khổ. Lo phục dưỡng, chăm sóc bố mẹ chồng, gia đình nhà chồng, con cái. Lo lao động sản xuất... Và sự cực nhọc nhất không phải là những nghĩa vụ được gọi thành tên, mà nó không tên, nó nằm ngay tr._.cá của những người nhập cư luôn bị khinh thường, bị chèn ép, may mắn được đắc cử nên gió chiều nào theo chiều ấy, nhũn nhặn chờ thời, lúc thuận lợi là sẵn sàng đạp lên đầu lên cổ người khác mà tiến, kể cả những người hàng ngày Sửu vẫn tỏ ra cung kính, trung thành. Thử tưởng tượng một cái xã mà từ đầu xã đến cuối xã chỉ có khoảng năm cây số mà bị chi phối bởi một cơ cấu chính quyền be bét như vậy thì nó sẽ tồn tại như thế nào? Để củng cố quyền lực cho mình, các phe không ngừng tìm cách triệt hạ nhau. Họ không từ bỏ một thủ đoạn nào từ bịa đặt, vu khống, doạ nạt đến đào mồ cuốc mả, hãm hại, trù dập, kể cả đẩy người thân vào chỗ chết... Những con người ngay thẳng, chính trực như Tùng, như trung tá Chỉnh thấy hết những tiêu cực trong chính quyền xã, cũng trăn trở trước những thực tế diễn ra trước mắt, nhưng họ là số ít và họ cũng chưa đủ thế và lực để làm được một điều gì đó. Và bởi thế, hằng ngày những con người nơi đây sống với nhau, cư xử vói nhau lá mặt lá trái, thật giả khôn lường. Họ có thể vừa tỏ vẻ gần gũi thân thiện vừa thì thụt, xúi bẩy, kích động, ném đá giấu tay làm hại người khác. Họ cũng có thể bả lả nói cười, chén chú chén anh trong những bữa tiệc “đồng chí” nhưng trong bụng lại rủa nhau sau bữa rượu ấy sẽ sa chân lỡ bước chết dấp đi cho rảnh... Bằng những ngòi bút hiện thực sắc sảo, không né tránh, không khoan nhượng, các tác giả Lê Lựu, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường đã đưa đến cho người đọc những hình dung, những cảm nhận rõ nét nhất về những bước thăng trầm trong quá trình phát triển của nông thôn Việt Nam. Đấy là những sai lầm đáng tiếc trong thời kì cải cách ruộng đất, quá trình hợp tác hoá nông nghiệp của những năm 50, 60 của thế kỉ XX. Đấy là những thất bại không thể cứu vãn của mô hình hợp tác xã sản xuất theo lối quan liêu bao cấp của những năm 70, 80 của thế kỉ này. Thời kì đầu hợp tác xã còn làm tròn nhiệm vụ lịch sử của nó. Nhưng chúng ta đã thất bại khi xây dựng những mô hình hợp tác xã mở rộng với qui mô lớn trong khi trình độ văn hoá, tổ chức, quản lí của cán bộ vẫn còn trì trệ, lạc hậu, sản phẩm mồ hôi nước mắt của người lao động thực chất trở thành một thứ vô chủ mà những phần tử quan liêu, bè phái theo kiểu dòng họ tha hồ đục khoét, tham ô... Tình trạng xã hội này còn được phơi bày trong nhiều tiểu thuyết khác, mà Thủy hoả đạo tặc của tác giả Hoàng Minh Tường cũng có thể được kể đến như là một ví dụ tiêu biểu. Những vấn đề kể trên vừa có thể gọi là những hạn chế nhưng nó cũng là những tất yếu lịch sử khi mà quan hệ sản xuất phát triển không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Cái đáng quý là chúng ta biết thẳng thắn nhìn nhận và chấp nhận sự thật để khắc phục. Cả ba tác phẩm chỉ mới dừng lại ở việc phản ánh, chưa hướng tới một giải pháp cụ thể, hữu hiệu cho sự đổi mới phương thức quản lí và sử dụng con người, đổi mới phương thức sản xuất và quản lí kinh tế ở nông thôn. Dẫu vậy, các tác giả đã tỏ rõ sự quan tâm sâu sắc đến các vấn đề của nông thôn, dám nghĩ và dám nói những điều mình trăn trở trong tác phẩm. Đấy là sự thẳng thắn, nghiêm túc khi nhìn nhận những vấn đề xã hội. Còn một vấn đề khác cũng vô cùng thu hút sự quan tâm của các tác giả, đó là vấn đề con người, vấn đề số phận con người. Trong lịch sử loài người, con người chính là thước đo sự phát triển của xã hội. Xã hội nào mà trong đấy con người được hưởng tự do, được sống yên vui, no đủ, hạnh phúc, được tự bộc lộ mình, đấy là một xã hội phát triển. Còn trong một xã hội mà con người không có được những quyền tối thiểu của con người, không quan tâm đến vấn đề con người thì đấy chẳng qua cũng chỉ là một xã hội sơ khai, điêu tàn và ấu trĩ. Ấy thế mà trong suốt một khoảng thời gian tương đối dài của sự phát triển đất nước, vấn đề con người, con người cá nhân tạm thời bị nhạt nhoà, ít được quan tâm, hay nói đúng ra là nó bị tạm lãng quên. Ta có thể cảm nhận rõ điều ấy hai tiểu thuyết Thời xa vắng và Bến không chồng. Ở tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, cuộc sống của nhân vật Giang Minh Sài đã thể hiện điều đó. Cả cuộc đời Sài sống một cuộc sống như là sống nhờ, sống hộ, bị che lấp. Chưa bao giờ Sài tự sống cho mình, theo ý mình, tự quyết định được điều gì cho bản thân. Trong mối quan hệ nhỏ ở gia đình, Sài sống trong cái bóng của cha, của chú, của anh trai. Sài lấy vợ theo ý cha. Sài không được bỏ vợ dù trong lòng ghét cay ghét đắng là vì sợ chú, sợ anh. Sài đi nhập ngũ như lẩn trốn tất cả, lẩn trốn dư luận, lẩn trốn Hương, lẩn trốn tình yêu đầu đời trong sáng của mình là do quyết định của một hội đồng những người lớn trong gia đình luôn yêu thương, chăm sóc và lo lắng cho Sài. Còn trong mối quan hệ lớn với xã hội, Sài cũng lại luôn bị cái tập thể vô danh tính che lấp. Khi còn là một cậu thiếu niên, được bầu làm liên đội trưởng của xóm, Sài đã có ý thức sợ tai tiếng, sợ dư luận. Ghét vợ, không ngủ chung, không nhìn mặt vợ, thậm chí bát tương nào vợ đã chấm là Sài nhất định không chấm chung, nhưng ra ngoài vẫn phải đi cùng nhau, phải tỏ ra đoàn kết, phải tỏ ra yêu vợ cho mọi người thấy. Khi đi bộ đội, sống trong quân ngũ, thoát khỏi cái bóng của gia đình, Sài lại lặng lẽ sống, lao động và học tập theo những nguyên tắc, những kỉ luật của quân đội. Từ sau vụ cuốn nhật kí viết lại những tâm sự dành cho Hương, Sài càng co mình lại như một cái bóng vô cảm, không buồn, không vui, không giãi bày tâm sự, chỉ biết chăm chỉ làm việc cho khỏi mang cái án “tư tưởng có vấn đề”. Lãnh đạo của Sài: chính uỷ Đỗ Mạnh, anh Hiền, anh Hiển... là những người sống chuẩn mực và nguyên tắc. Họ luôn muốn lính tráng dưới quyền cũng là những người sống đúng chuẩn mực, đúng nguyên tắc, sạch sẽ, không tì vết... Đối với riêng Sài, họ yêu quý và chăm sóc Sài với tình cảm không chỉ là của những người chỉ huy có trách nhiệm mà còn là tình cảm của những người thân kì vọng vào đứa con, đứa em chăm chỉ, giỏi giang của mình. Đấy là niềm tự hào, niềm vinh dự. Nhưng chính nó đồng thời cũng là áp lực đối với Sài. Sài phải luôn cố gắng phấn đấu trong lao động, học tập, đó là việc tốt. Sài còn luôn phải che giấu đi những tình cảm, những cảm xúc thật của con người mình để cấp trên yên lòng, đấy là điều đáng xót xa. Hương đến đơn vị tìm Sài, anh Hiển giấu, Sài nuối tiếc đến tê tái lòng nhưng im lặng chịu đựng. Muốn viết thư cho Hương, cấp trên bảo đừng, Sài lại thôi trong đau khổ. Cấp trên bảo ngủ chung với vợ, Sài ngủ chung. Cấp trên bảo phải yêu vợ, Sài yêu, yêu một lần duy nhất trong đời. Nhìn chung, tình thương, uy lực, tính quyết đoán khi lo lắng cho cuộc đời Sài của cha, của chú, của anh, biến Sài thành một con người giống như một rôbốt biết thở, biết nói, biết làm việc. Đến tận tuổi trung niên, khi đã qua nhiều năm rèn luyện ngoài chiến trường với những chiến tích anh hùng nổi tiếng, trở lại thời bình, Sài mới được một lần tự quyết định cuộc sống cho mình, đó là quyết định cưới Châu, một cô gài Hà thành. Thế nhưng, như là không quen, lần đầu tiên, lần duy nhất Sài tự quyết định cuộc đời mình cũng lại là sai lầm, để rồi hôn nhân tan vỡ, Sài phải về sống một mình thui thủi, tìm kiếm sự thanh thản ở quê hương. Cuộc đời của Sài là một bi kịch kéo dài. Sở dĩ như vậy là do Sài sống nhưng không dám sống đúng nghĩa, không dám bộc lộ bản thân. Dõi theo cuộc sống của nhân vật, ta thấy con người cá nhân, khát vọng của cá nhân bị chôn vùi, đấy là một cuộc sống nhạt nhoà, không hương không sắc. Bến không chồng của Dương Hướng cũng là một tiếng kêu thét đầy mạnh mẽ, thống thiết về số phận cá nhân bị vùi lấp, trong đó hình tượng nhân vật Nguyễn Vạn là tiêu biểu. Nguyễn Vạn là một con người quá tốt, suốt đời lo cho hạnh phúc của những người xung quanh, lo cho sự yên bình của làng Đông, nhưng đến một chút hạnh phúc của riêng mình thì không bao giờ dám. Một chút hạnh phúc riêng tư của bản thân, với Nguyễn Vạn cũng là tội lỗi, thậm chí là tội ác. Được lướt vội bàn tay trên thân thể chị Nhân, người đàn bà mà Vạn yêu thương hơn bản thân mình, Vạn cho đấy là tội lỗi. Trót “sờ tí” mụ Hơn, người đàn bà lẳng lơ, đĩ thõa luôn mời kéo Vạn, Vạn cho đấy là tội lỗi. Và sau một lần dám sống thật với đòi hỏi bản năng trong cơn say với Hạnh, Vạn nghĩ mình phạm tội ác không thể tha thứ... Vạn luôn quên mình vì danh dự, vì uy tín, vì trách nhiệm. Những thứ đó đem lại chút vinh quang cho cuộc đời Nguyễn Vạn. Nhưng cũng chính những thứ đó đã làm cho cuộc đời của Vạn trở nên khổ hạnh, cuối cùng giết chết Vạn. Những bi kịch xảy ra với các nhân vật Giang Minh Sài, Nguyễn Vạn không chỉ là bi kịch của mỗi cá nhân, một số cá nhân mà là bi kịch của số đông những con người trong một thời kì nhạy cảm của đất nước. Đấy là thời kì mà cả đất nước, cả dân tộc đang hướng đến những vấn đề lớn lao như: chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội, lí tưởng cách mạng... Phần đông các cá nhân đều quên mình hăng say thực hiện lí tưởng cách mạng. Đấy là những tình cảm, là phần nhiệt huyết quan trọng và đáng quý. Nhưng khi người ta quá theo đuổi lí tưởng sẽ có nguy cơ dẫn đến sai lầm, sẽ triệt tiêu con người cá nhân, biến các cá nhân thành những người máy giống nhau, không có nét riêng cá tính và tâm hồn, như thực tế đã được nói đến trong hai tác phẩm kể trên, điều này thật trái với mục tiêu xây dựng đất nước lấy con người, những vấ đề liên quan đến con người làm trọng tâm của đất nước ta. Nhìn chung, vấn đề vai trò của cá nhân, vị trí và quyền của từng con người như một cá nhân có thể bừng nở tự do và toàn diện là một vấn đề lớn của xã hội Việt Nam không chỉ thời bấy giờ mà cả ngày nay. Các tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Bến không chồng của Dương Hướng có phản ánh nhưng thực chất chỉ chớm chạm đến vết thương xã hội đó, tất cả vẫn còn lẻ tẻ, mờ nhạt chưa có sức khái quát cao. Bằng lối viết theo một kiểu phóng sự kéo dài, dựa ngay vào những sự việc xã hội có thật, những vấn đề đang được cả xã hội quan tâm trong từng giai đoạn, các tác giả Lê Lựu, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường đã phản ánh, phơi bày tất cả những nội dung xã hội ấy trong các tác phẩm của họ. Và trong đó, một cách thận trọng, rắn rỏi và đầy trách nhiệm, các tác giả đã bày tỏ chính kiến của mình trước thời cuộc. Dĩ nhiên, bên cạnh việc phơi bày, kể lể, tố cáo hiện thực thì các tác giả vẫn ngấm ngầm gửi vào trong những khát vọng, niềm tin vào một xã hội tiến bộ, đổi mới thực sự. Bởi vậy, bên cạnh giá trị văn chương, các tác phẩm còn mang nặng tính chính luận. Điều ấy không làm cho tác phẩm khô khan, mất tính văn chương mà trái lại càng làm tăng thêm sức hấp dẫn, càng thêm giá trị . KẾT LUẬN Xã hội nông thôn tưởng như chỉ có nét bình dị, yên ả với những xóm làng, những nóc nhà lặng lẽ bên những rặng tre, những cánh đồng, những dòng sông, những con suối...; với những con người chăm chỉ với ruộng với vườn, thuỷ chung gắn bó với quê hương; với những câu chuyện không bao giờ hết về cảnh vật, về đất, về người... Thế nhưng, hoà mình vào cuộc sống ấy, chúng ta mới thấy những điều không hề giản đơn, không hề tĩnh lặng. Nó cũng mang trong mình lắm điều nhiêu khê, bức bối, ngột ngạt. Toàn bộ những gì thể hiện trong luận văn này là những tìm tòi, cảm nhận của chúng tôi đối với ý tưởng, quan điểm, tình cảm của các tác giả Lê Lựu, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường về những vấn đề của nông thôn, cả những vấn đề đời thường cũng như những vấn đề mang tính đặc trưng, bản chất. Trong quá trình nghiên cứu, với ý thức lấy bức tranh hiện thực nông thôn làm tâm điểm, cùng với quan niệm luôn luôn coi trọng “cái tôi” của người sáng tác cũng như coi trọng ý nghĩa tự thân của tác phẩm, về vấn đề nông thôn Việt Nam được phản ánh trong ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, chúng tôi có thể đi đến một vài tổng kết: Về mặt xã hội, trong ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, hiện thực nông thôn Việt Nam đã được tái hiện một cách tương đối đầy đủ, rõ nét và sinh động với tất cả những cái hay, cái dở, cái tốt, cái chưa tốt, cái tích cực, cái tiêu cực.... Và tất cả những điều ấy đều hấp dẫn, đều khiến chúng ta phải tìm hiểu, phải suy ngẫm. Chúng ta bị cuốn hút bởi đời sống văn hoá tinh thần vô cùng phong phú của làng quê, trong đó chứa đựng biết bao điều kì thú với các câu chuyện huyền thoại, những phong tục, luật tục thể hiện ý thức, quan niệm, thế giới tinh thần của người nhà quê. Có biết bao những điều mang giá trị truyền thống, nhân văn, nhân đạo sâu sắc được duy trì như tục giỗ tổ, thờ cúng tổ tiên, quan hệ gia đình trên dưới rõ ràng, tình làng nghĩa xóm chân tình, khắng khít...Và, cũng có bao nhiêu hủ tục nhiêu khê còn tồn tại, còn kìm hãm những bước phát triển của làng quê như tục mê tín dị đoan, thói gia trưởng, quan hệ thân tộc phức tạp, tính tủn mủn, vụn vặt trong đời sống thường nhật,...Có thể nói, cái cổng làng chính là biểu tượng gianh giới hành chính cũng như gianh giới tinh thần giữa các làng xã. Cái cổng cứng cáp và giản đơn ấy cũng là biểu tượng của sự gói ghém, ràng buộc, đoàn kết nhau của những công dân trong làng. Cũng chính cái cổng ấy lại thể hiện sự bảo thủ, tính tự tôn, không muốn giao lưu, không thừa nhận những gì nằm bên kia cổng làng. Tất cả những điều ấy tạo nên một sự đa tầng, đa sắc màu cho thế giới văn hoá tinh thần của nông thôn khiến ta càng khám phá càng thêm ngỡ ngàng, thú vị. Cũng như thế, khi chứng kiến cuộc sống thực ở các làng quê, chúng ta cũng phải trăn trở cùng với những biến động trong cuộc sống của họ. Thời chiến tranh, các làng quê cùng đắm chìm trong không khí đau thương, mất mát, chia li. Không một làng quê nào không mang trên mình những dấu tích, tàn tích của chiến tranh. Làng quê nào cũng trở nên vắng vẻ, quạnh quẽ, vắng bóng đàn ông, đàn bà con gái thì ê hề, cô đơn, trống trải. Làng quê nào cũng có những cảnh cha mẹ chết không được thấy mặt con, cảnh những người phụ nữ vật vã giữ gìn danh tiết để chờ chồng nuôi con... Và làng quê nào cũng có những người anh hùng sẵn sàng quên mình, xả thân vì sự nghiêp giữ gìn và giải phóng đất nước. Một điều đáng quí là trong cuộc sống thường ngày, họ có thể vụn vặt trong những lợi ích cá nhân, tủn mủn trong những lo toan vun vén cho gia đình và có thể nhận thức của họ mới chỉ dừng bên trong cổng làng, nhưng khi đứng trước vận mệnh của đất nước, những con người “nông tri điền” cũng biết đến trách nhiệm, cũng biết đến hiến dâng, cũng biết đến hi sinh... Những ông bố bà mẹ hiến dâng cho tổ quốc những đứa con thân yêu, thậm chí là những đứa con cuối cùng như bà Nhân, ông bà Khiên, ông bà đồ Khang. Những chàng trai hiến dâng cho tổ quốc tuổi thanh xuân, sự hăng hái nhiệt tình, sức khỏe, thậm chí cả tương lai của bản thân và gia đình như lão Vạn Điện Biên, Thành, Nghĩa, Sài, Thông... Đứng trước thực tế đó thì không thể phủ nhận một điều: dù họ là ai, dù họ sống ở đâu, dù nhận thức của họ ở mức độ nào, nhưng đã là người Việt Nam thì bất cứ ai cũng có lòng yêu nước, dám hi sinh vì đất nước, vì dân tộc. Kết thúc chiến tranh, các làng quê lại bình thản đón nhận cuộc sống mới trong ngày hoà bình. Những chính sách mới, những chủ trương mới dày vò cuộc sống, sự bình yên của người nông dân. Nào là đấu tố địa chủ, cường hào ác bá, tay sai chỉ điểm bán nước hại dân. Nào là cải cách ruộng đất, đổi mới sản xuất theo mô hình hợp tác xã với cơ chế quan liêu bao cấp... Tất cả đều xa lạ với họ. Điều quan trọng là tất cả những điều ấy không đem lại cho họ cuộc sống thực sự no đủ, yên vui. Nhưng với bản chất hiền lành, chất phác, họ vẫn thích nghi, vẫn chấp nhận tất cả như một điều mặc nhiên phải thế. Chỉ đến khi ở nông thôn xây dựng những mô hình hợp tác xã mở rộng với cơ chế khoán trong sản xuất thì người nông dân mới thực sự sống, thực sự làm chủ cuộc sống của mình. Trong cơ cấu xã hội giảm được phần lớn những chức danh hữu danh vô thực, sống gửi ăn theo. Người nông dân làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít. Điều ấy tạo động lực, hứng khởi cho người dân hăng say sản xuất. Điều ấy làm cho người nông dân có cuộc sống ổn định hơn, nhẹ nhàng hơn, no đủ hơn. Cuộc sống người dân ngày càng khởi sắc, ngày càng khấm khá. Một bộ mặt mới của nông thôn dần hiện ra... Tuy nhiên, cái gì cũng có mặt trái của nó. Bên cạnh những chuyển biến khá tích cực ấy thì xã hội nông thôn cũng phân hoá mạnh mẽ, bộc lộ nhiều mặt hạn chế, nhiều tiêu cực, nhiều trì trệ. Con người nông thôn trước những đổi thay của xã hội, trước những đòi hỏi của cuộc sống cũng biến đổi theo. Trong họ đã xuất hiện những toan tính, mánh khoé để làm đầy nồi cơm, đầy bồ thóc của mình mà không cần để ý đến xung quanh. Tình làng nghĩa xóm dần được thay thế bằng những quan hệ mua bán, đổi trác. Thỉnh thoảng còn bắt gặp những người lợi dụng, giẫm lên đầu lên cổ người khác để kiếm lời. Trong nội bộ quần chúng nhân dân đã vậy, đối với những người nằm trong bộ phận lãnh đạo chính quyền, những người mà công việc của họ liên quan trực tiếp đến kinh tế, những người có quyền sinh quyền sát trong tay, có thể dựa vào địa vị để kiếm lợi... thì những toan tính, mánh khoé, sự gian ngoan càng bộc lộ nhiều. Bởi thế ở nông thôn, hiện tượng che mắt nhân dân để “chấm mút”, mưu lợi cá nhân diễn ra nhan nhản. Tình trạng chia bè kết phái trong hàng ngũ lãnh đạo ngày càng trở nên sâu sắc. Bởi thế mà một cái xã bé xíu mà chính quyền bị chia thành những mấy phe, chỉ toàn đối đầu, triệt tiêu đối thoại. Bởi thế nên những làng quê tưởng như mãi thanh bình, im ắng lúc nào cũng um sùm những chuyện cãi vã, kiện cáo, vu khống cho nhau. Bởi thế người ta sống với nhau lá mặt lá trái, miễn sao yên ổn và có lợi cho mình... Cuối cùng chỉ có nhân dân là phải gánh hậu quả, chịu khốn khổ. Trong tiến trình vận động, phát triển của đất nước, mỗi giai đoạn lịch sử đều mang những đặc điểm riêng. Giai đoạn này bộc lộ một tính chất, giai đoạn khác lại mang tính chất khác. Mỗi giai đoạn đều chứa đựng trong nó những vấn đề, những thành tựu và tồn tại. Tuy nhiên, khi nhìn nhận một cách khách quan thì dù là thành tựu hay tồn tại thì tất cả đều là những nấc thang trong một cái thang, đều là những tiền tố, là bàn đạp thúc đẩy xã hội phát triển theo chiều hướng tốt hơn. Tất nhiên, dù bức tranh cuộc sống có mang màu sắc nào thì trung tâm của bức tranh ấy vẫn là con người. Cuộc sống đưa đến cho con người bao điều kì diệu. Và cũng ẩn chứa trong nó biết bao ngang trái, đắng cay. Có một điểm chung nhất giữa ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma là cả ba tác giả dường như cùng có chủ tâm khắc hoạ bi kịch của người nông thôn thể hiện trong tất cả các mặt của đời sống xã hội. Tìm trong ba tác phẩm ta thấy những con người lặn hụp trong một cuộc sống mà con người cá nhân, ý thức cá nhân bị lãng quên, bị vùi dập, đấy là những con người như lão Vạn, như anh cu Sài. Họ mải miết sống theo lí tưởng, sống theo ý kiến, sự ngưỡng mộ của người khác, trong khi không dám làm điều gì, dành riêng điều gì cho bản thân. Tuy nhiên, đấy có thể là tư tưởng không đúng nhưng đấy là một tư tưởng phù hợp, cần thiết, ít nhất là cũng phù hợp, cần thiết với một thời, một giai đoạn nào đấy của xã hội. Ta cũng tìm thấy trong đó những con người gánh trên vai tấn bi kịch của lòng thù hận. Ở nhà quê, khi mà cái ăn cái mặc vẫn luôn là gánh nặng, người ta chỉ vương thù oán với nhau trong những chuyện hôn nhân, điền thổ. Và những mối thù ấy đều có một sức sống dai dẳng đến khủng khiếp, truyền từ đời này sang đời khác, mãi không thôi. Từ người già đến người trẻ, từ đàn ông đến đàn bà, từ con trai đến con gái...tất cả đều phải ghi nhớ, tất cả đều phải thực hiện lời nguyền của dòng họ. Trẻ con ghi nhớ bằng việc luôn luôn phải lắng nghe về những câu chuyện ân oán của đời trước. Người lớn ghi nhớ bằng cách giữ mình trong tình cảm, trong cư xử... Những mối thù ấy tồn tại qua bao đời, người ta lại không thể sống bằng tình cảm của người khác, nhất là khi đó là sự căm hờn, nên biết bao bi kịch, bao ngang trái đã xảy ra. Còn một thứ bi kịch nữa mà các tác giả đề cập đến, đó là bi kịch nảy sinh từ sự hãnh tiến, khát vọng quyền lực của con người. Vì cái quan niệm “một miếng giữa làng hơn sàng xó bếp” mà biết bao còn người vì ham quyền lực mà bị chính quyền lực sai khiến. Vì cái bả lợi danh ấy mà họ sẵn sàng trở nên man trá. Vì chút địa vị trong xã hội mà họ sẵn sàng quên đi luân lí, đạo đức, thậm chí giết cả người thân mà không hối cải. Nhưng quyền lực không chính đáng sẽ bị loại bỏ, bị đào thải, đấy vẫn là thông điệp ngầm mà các tác giả muốn gửi đến người đọc. Giai đoạn 1986 – 2000 là một giai đoạn cực kì nhạy cảm của lịch sử xã hội Việt Nam, đánh dấu chặng đường mười lăm năm đất nước chúng ta bước những bước chập chững, dò dẫm trong sự đổi mới. Như người bị nhốt trong bóng tối lâu ngày bước ra ánh sáng, chúng ta choáng ngợp, lúng túng trong thời mở cửa. Xã hội mới. Nhịp sống mới. Nền sản xuất mới... Nhưng con người, nhất là người quản lí chưa đổi mới. Thế nên, những sai lệch, những yếu kém là tất yếu. Bằng cái nhìn khách quan và nhạy cảm, cả ba tác giả Lê Lựu, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường đã nhìn ra, phân tích và phản ánh tất cả những vấn đề của nông thôn một cách cụ thể, rõ ràng và sinh động. Ngòi bút hiện thực của các tác giả đã giúp chúng ta được nắm bắt cuộc sống nông thôn từ góc độ tinh thần, vật chất lẫn tâm lí. Đấy là thể hiện cá tính “cái tôi” trong sáng tác. Đấy cũng là sự thành công của các tác giả. Tuy nhiên, dẫu rằng phản ánh hiện thực một cách mạnh mẽ, tự tin, không né tránh, nhưng hầu như cả ba tác giả mới chỉ nêu ra, chạm tới các vấn đề, chứ chưa thực sự đối đầu với những vấn đề họ nêu ra. Nhưng đấy cũng là một điều tất yếu. Nếu đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể có thể thấy, cái giai đoạn nhạy cảm kia có giá trị như một bước đà. Trong quá trình phát triển xã hội, những tồn tại của nó như những vết xước, đau nhưng gây hại không đáng kể. Và việc các tác giả mới chỉ dừng lại để nhìn, để chạm vào nó thôi cũng là phù hợp. Trên đây là tất cả những gì chúng tôi tìm kiếm, khám phá được từ các tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma. Với luận văn này, có thể sự đóng góp chưa thật sự nhiều, nhưng đó là kết quả của một quá trình nghiên cứu nghiêm túc. Những gì đã được và chưa được, những điều thừa và thiếu, những cái hay cái dở... của luận văn này hi vọng sẽ gợi cảm hứng cho những người khác tiếp tục nghiên cứu làm cho vấn đề được hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Lan Anh (2007), Ở đất kẻ thù, NXB Văn học – Công ty văn hoá truyền thông Võ Thị 2. Ngô Vĩnh Bình (1991), “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (8). 3. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ Văn hoá thông tin và thể thao, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. ( Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu). 4. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục, Hà Nội. (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch) 5. Hồng Diệu (1991), “Về Mảnh đất lắm người nhiều ma”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (8). 6. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội. 7. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới”, Tạp chí Văn Nghệ Quân đội, (3), tr.99-104 8. Trung Trung Đỉnh (1991), “Dương Hướng và Bến không chồng”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (12), tr.98-99. 9. Hà Minh Đức (Chủ biên) (1998), Chặng đường mới của văn học Việt Nam, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 10. Hà Minh Đức (Chủ biên) (1991), Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, NXB Sự Thật, Hà Nội. 11. Phan Hách (2001), Người đàn bà buồn, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội. 12. Nguyễn Văn Hạnh (1972), “Một số điểm cần nói rõ thêm về vấn đề nghiên cứu tác phẩm văn học”, Tạp chí Văn học, (6), tr.117-126. 13. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳng Như Phương (1995), Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TP HCM. 14. Phạm Hoa (1991), “Mảnh đất lắm người nhiều ma - Bức tranh gắn chặt với hiện thực”, Báo Quân đội nhân dân thứ 7, (5). 15. Phạm Thị Hoài (2004), “Nhà văn thời Hậu Đổi Mới”, 16. Hoàng Ngọc Hiến (1987), “Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu”, Tạp chí văn nghệ quân đội,(4), tr.118-119. 17. Nguyễn Minh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 18. Dương Hướng (1998), Bến Không Chồng, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội. 19. –leipzig.de..., “Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam”. 20. “Việt Nam - Đất nước con người”. 21. Nguyễn Vy Khanh, “Thế kỷ tiểu thuyết”, 22. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, NXB Thanh Niên, Hà Nội. 23. M.B. Khrapchenco (1985), Cá tính sáng tạo, hiện thực và con người,2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch). 24. Lê Quý Kỳ, “Văn học thời đổi mới”, Sách “Văn học thời luận”, NXB Văn học, Hà Nội. 25. Lê Đình Kỵ (1984), Tìm hiểu tác phẩm văn học, NXB TP. Hồ Chí Minh. 26. Tôn Phương Lan (1998), “Một số vấn đề trong văn xuôi thời kì đổi mới”, Chặng đường mới của văn học ( Hà Minh Đức chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 732-738. 27. Đoàn Lê (2001), Cuốn gia phả để lại, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội. 28. Nguyễn Văn Long (2006), “Nhìn lại tiến trình vận động văn học Việt Nam từ 1975 đến nay”, Báo Hà Tây Online. 29. Lê Lựu (2002), Chuyện làng Cuội, NXB Văn học, Hà Nội. 30. Lê Lựu (1989), Thời xa vắng, NXB Tác Phẩm Mới, Hà Nội. 31. Phương Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 32. Thiếu Mai (1987), “Nghĩ về một “Thời xa vắng” chưa xa”, Tạp chí Văn nghệ quân đội,(4), tr.120-125. 33. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội. 34. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội. 35. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ TP. hồ Chí Minh. 36. Bảo Ninh (2005), “Tiểu thuyết thời đổi mới”, Báo Văn nghệ trẻ. 37. Nguyên Ngọc (2004), “Văn xuôi Việt Nam hiện nay, logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng”, 38. Lã Nguyên (1998), “Văn học nghệ thuật trong bước chuyển mình”, Báo Văn nghệ, (45), tr.7-10 39. Dương Duy Ngữ (2001), Người giữ đình làng, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 40. Thanh Phước (1991), “Cấu trúc, cái dở nhất của tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma”, Tạp chí Văn học và dư luận, (7), tr.52-53. 41. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn chương những năm 80 và vấn đề dân chủ hoá nền văn học”, Tạp chí Văn học, (4). 42. Từ Sơn (1990), “Đổi mới xã hội và đổi mới văn học”, Báo Văn nghệ, (13). 43. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Bóng đêm - Một phương diện tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma”, Điểm tựa phê bình văn học, tr.131-135... 44. Trần Đình Sử (2003), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 45. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, NXB Văn hoá tư tưởng, Hà Nội. 46. Hoà Thu (2001), “Người giữ đình làng”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (3), tr.108-109 47. Lý Hoài Thu (2001), “Tiểu thuyết - Tầm vóc hiện thực và số phận con người”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (2),tr.105-108. 48. Đỗ Lai Thuý (1994), “Một cách nhận diện thời kì văn học vừa qua”, Phụ san Văn nghệ, tháng 6. 49. Đinh Quang Tốn (1997), “Lê Lựu - Thời xa vắng”, Tản mạn và chính kiến văn chương, tr.12-23. 50. Hoàng Minh Tường (1996), Thuỷ hoả đạo tặc, NXB Văn học. 51. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 52. Nguyễn Khắc Trường (2003), Mảnh đất lắm người nhiều ma, NXB Hội Nhà Văn. 53. Nguyễn Văn Xuất (2001), “Hình tượng và ngôn từ trong tiểu thuyết”, Khoa Ngữ văn một phần tư thế kỉ, NXB Đại học Sư phạm, TP. Hồ Chí Minh, tr.147-154. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: BỨC TRANH VĂN HÓA LÀNG QUÊ TRONG BA TIỂU THUYẾT: THỜI XA VẮNG, BẾN KHÔNG CHỒNG, MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA 1.1. Bức tranh nông thôn đa dạng với nhiều phong tục tập quán............................ 10 1.2. Một xã hội nhức nhối những vấn đề nóng bỏng khó giải quyết....................... 19 1.2.1. Nông thôn với những lí tưởng và niềm đau trong chiến tranh............ 19 1.2.2. Quan hệ lao động sản xuất đầy khắc nghiệt........................................ 32 1.2.3. Sự đối đầu khốc liệt giữa các dòng họ ................................................ 39 1.3. Con người nông thôn trước những biến đổi của xã hội..................................... 44 1.3.1. Lối sống theo kiểu “một người làm quan cả họ được nhờ”, dựa vào uy danh dòng họ .................................................................... 44 1.3.2. Sức mạnh nằm trong tay kẻ lắm tiền .................................................. 50 Chương 2: BI KỊCH CỦA CON NGƯỜI NÔNG THÔN 2.1. Con người bị trói buộc bởi uy danh dòng họ.................................................... 55 2.2. Con người nô lệ của khát vọng quyền lực ........................................................ 64 2.3. Con người cam chịu khuất phục trước định kiến của gia đình, dòng họ ............................................................................................................. 72 Chương 3: NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ HIỆN THỰC 3.1. Bức tranh làng quê được miêu tả chân thực, cụ thể mà sinh động................... 82 3.2. Những người nông dân thuần chất được phát hiện dưới nhiều góc độ tâm lí khác nhau làm nên sự đa dạng nhưng cũng đầy phức tạp của cuộc sống sau luỹ tre làng ................................................................................ 89 3.3. Nghệ thuật miêu tả hiện thực khách quan, không né tránh, phản ánh được bản chất xã hội nông thôn Việt Nam đương thời .................................... 95 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 104 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 110 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7616.pdf