Lời nói đầu
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tất yếu,khách quan không doanh nghiệp nào có thể tránh né.Tư tưởng bảo hộ trông chờ vào Nhà nước sẽ bị đào thải.Tất nhiên, thành công tới đâu còn tùy thuộc vào sức cạnh tranh,tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp.Do vậy các doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc,vì sự sống còn của mình,để đáp ứng yêu cầu khi việt nam đã và đang tham gia quá trình toàn cầu hóa.
Đảng ta cũng chỉ rõ:”Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nội dung cơ bản về đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp . phân tích tình hình đầu tư trong hệ thống Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội,tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân”.Vì vậy,vấn đề nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doang nghiệp nhà nước(DNNN) được đặt ra hết sức cấp bách. Đại hội §ảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặc đổi với chính sách và cơ chế kinh tế nói chung, thị trường và Sản xuất kinh doanh nói riêng:Xóa bỏ cơ chế bao cấp(nhà nước chịu hoàn toàn trách nhiệm),thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần;cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Các DNNN được quyền tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng cùng với nó, DNNN phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Các DNNN đều phải chịu trách nhiệm trước đồng vốn mình bỏ ra, làm sao cho có lãi để tồn tại và phát triển được.
DNNN là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc gia, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Nhà nước. Có ý nghĩa quyết định đến sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện Đại hoá đất nước và trong quá trình hội nhập.
Đầu tư phát triển tác động đến cả tốc độ và chất lượng tăng trưởng , tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Chỉ có trên cơ sở đầu tư đúng , trọng tâm , trọng điểm và đồng bộ cơ cấu đầu tư hợp lý…mới làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH . Đầu tư tác động đến sự phát triển của khoa học và công nghệ . Không thể có công nghệ hiện đại, phù hợp nếu không đầu tư tương ứng hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện nay DNNN cũng đang đứng trước một số khó khăn bất lợi về vốn, bộ máy chậm thích ứng với sự biến đổi của thị trường, lắm tầng nấc, trung gian, nhiều sự ràng buộc lẫn nhau, phần lớn cán bộ rất thụ động. Do đó, đi tìm lời giải về vấn đề nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cho khu vực DNNN là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực.
Qua nghiên cứu và được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Từ Quang Phương, em quyết định chọn đề tài “Nội dung cơ bản về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình đầu tư trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước.”
Song do kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy giáo để việc nghiên cứu của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I.Nội dung cơ bản về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
1/Khái niệm chung:
a/khái niệm:
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư,là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất(nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ(tri thức, kỹ năng…) gia tăng năng lực sản xuất,tạo thêm việc làm và tìm mục tiêu phát triển.
Theo nghĩa hẹp nguồn lực sử dụng trong đầu tư phát triển là vốn.Theo nghĩa rộng,nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn đất đai,lao động,máy móc,thiết bị,tài nguyên.Như vậy,khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
b/Đối tượng:
Là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định.
-Trên quan điểm phân công lao động xã hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và theo lãnh thổ.
-Trên góc độ tính chất và mục đích của đầu tư,đối tượng của đầu tư chia thành 2 nhom chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận.
-Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng,đối tượng đầu tư chia thành: loại được khuyến khích đầu tư,loại không được khuyến khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư.
-Từ góc độ tài sản,đối tượng đầu tư chia thành: những tài sản vật chất(tài sản thực:là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động) và tài sản vô hình( phát minh sang chế,uy tín thương hiệu…)
c/ Mục đích:
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phat triển bền vững,vì lợi ích quốc gia cộng đồng và nhà đầu tư.Trong đó ,đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,tăng thu nhập quốc dân,góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí,tối đa lợi nhuận nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực….
d/ Chủ đầu tư
Đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định.Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao quản lý,sử dụng vốn đầu tư(luật đầu tư 2005). Chủ đầu tư chiụ trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu tư,chịu trach nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi trường môi sinh do đó có ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Thực tế quản lý còn có những nhận thức không đầy đủ về chủ đầu tư.
e/ Nguồn lực đầu tư:
Là bao gồm tất cả tiền vốn ,đất đai lao động,máy móc ,thiết bị,tài nguyên… là tất cả những gì có thể tham gia vào quá trình sản xuất,kinh doanh..
f/Yếu tố thời gian
Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình diễn ra trong thời kỳ dài và tồn tại vấn đề”độ trễ thời gian”.Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành kết quả đầu tư.Đầu tư hiện tại nhưng kết quả cho ở tương lai. Đặc điểm này của đầu tư cần đượng quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển.
2/ Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Qui mô tiền vốn, vật tư,lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường vốn rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khe đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.Qui mô vốn đầu lớn đòi hỏi phải có giải pháp huy động vốn và tọa vốn hơp lý,xây dựng chính sách ,qui hoạch ,kế hoạch đầu tư đúng đắn,quản lý chặt chẽ vốn đầu tư,thực hiện đầu tư trọng điểm. Lao đọng sử dụng cho các dự án rất lớn,đặc biệt đối với dự án trọng điểm quốc gia.Do đó công tác tuyển dụng,đào tạo,sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ mooyj kế hoạch định trước,sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư,đồng thời,hạn chế mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do “vấn đề hậu dự án”tạo ra như việc bố trí lại lao động,giải quyết lao động dôi dư…
Thời kì đầu tư kéo dài. Thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động.Nhiều công trình lớn lại năm kê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư,cần tiến hành phân kì đầu tư,bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình,quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư,khắc phục tình trạng thiếu vốn,nợ đọng vốn đầu tư trong xây dựng cơ bản.
Thời gian vận hành các keets quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi công trình đưa vào hoạt động cho đến khi phát huy tác động lâu dài,có thể tồn tại vĩnh viễn như kim tư tháp AI CẬP,nhà thờ La Mã ở Rôm,…Trong suốt quá trình vận hành,các thành quả đầu tư chịu tác động hai mặt,cả tích cực và tiêu cực,của nhiều yếu tố tự nhiên,chính trị kinh tế xã hội…Để thích ứng với đặc điểm này,công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý một số nội dung sau:
-Thứ nhất,cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô về nhu cầu htij trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai,dự kiến khả năng cung từng năm và vòng đời dự án.
-Thứ hai,quản lý tốt quá tình vận hành,nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng,hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn,tránh hao mòn vô hình.
-Thứ ba,chú ý đúng mức đến yếu độ trễ thời gian trong đầu tư.Đầu tư trong năm nhưng chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà tư năm sau và kéo dài trong nhiều năm.Đây là đậc điểm riêng của nhiều lĩnh vực đầu tư,ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thương phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên,do đó,quá trình thực jieenj đầu tư cũng hư thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tư nhiên,kinh tế xã hội vùng.Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung sau:
Trước tiên cần phải có chủ trương đầu tư và quyết đúngđịnh đầu tư đúng.Đầu tư cái gì ,sản xuất bao nhiêu là hợp lý… cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng,dựa trên cơ sở khoa học.Ví dụ ,công suất xây dựng nhà máy tuyển than ở khu vực mỏ.Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì qui mô nhà máy sàng tuyển không nên quá lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án.
Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý.Để lựa chọn địa điểm thực hiên đầu tư đúng phải dựa trên những căn cứ khoa học,dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế,chính trị, xã hội,môi trường,văn hóa…Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu tư cụ thể hợp ly nhất,sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể,tạo điều kiện nâng cao hiêu quả vốn đầu tư.
Đầu tư pháy triển có độ rủi ro cao. Do qui mô vốn lớn,thời kì kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài…nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư
Phát triển thương cao.Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân,trong đó nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém,chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu..có nguyên nhân chủ quan như giá nguyên liệu tăng,giá bán sản phẩm giảm,công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế.Như vậy để quản lý hoạt động đầu tue phát triển hiệu quả,cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro bao gồm:
-Thứ nhất ,nhận diện rủi ro đầu tư.Có nhiều nguyên nhân rủi ro,do vậy,xác định được đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp khăc phục phù hợp.
-Thứ hai, định giá mức độ rủi ro.Rủi ro xảy ra co khi rất nghiêm trọng,nhưng co khi chua đến mưc gây nên những thiệt hại về kinh tế. Đánh giá đúng mức độ rủi ro sẽ đưa ra những biện pháp phòng và chống phù hợp.
-Thứ ba, xây dựng các biên pháp phòng và chống rủi ro mỗi loại rủi ro và mức độ rủi ro nhiều hay ít sẽ có biện pháp phòng và chống tương ứng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại do rủi ro này gây ra.
3/Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm nhiều nội dung, tùy theo cách tiếp cận.
Căn cứ vào lĩnh vực phát huy tác dụng, đầu tư phát triển bao gồm các nội dung: đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng-kĩ thuật chung của nền kinh tế, đầu tư phát triển văn hóa giáo dục, y tế và dich vụ xã hội khác, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật và những nội dung đầu tư phát triển khác.Cách tiếp cận này là căn cứ để xác định quy mô vốn đầu tư, đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động cho từng ngành, lĩnh vực trong nền kinh ế quốc dân.
Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm:đầu tư những tài sản vật chất (tài sản thực) và đầu tư phát triển những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển những tài sản vật chất gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và đầu tư vào hàng tồn trữ. Đầu tư phát triển tài sản vô hình gôm các nội dung: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học, kỹ thuật, đầu tư xây dựng thương hiệu, quảng cáo….
Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố định của doanh nghiệp.Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính như:xây lắp và mua sắm máy móc thiết bị.Trong doang nghiệp, đặc biệt doang nghiệp sản xuất kinh doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho tàng, các công trình kiến trúc,mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị… Hoạt động đầu tư và đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị.
Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ. Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên nhiên vật liệu, bán thàng phẩm và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp. Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng khác nhau.Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại dịch vụ.Tỷ trọng đầu tư vào hàng tồn trữ trong tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp thương mại thường cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác.Do vậy, xác định quy mô đầu tư hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiệp lại rất cần thiết.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp.Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo dành thắng lợi trong cạnh tranh.Do vậy,đầu tư nang cao chất lượng nhân lực là rất cần thiết.Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gôm đầu tư cho hoạt động đào tạo (chính quy,không chính quy,dài hạn,ngắn hạn,bồi dưỡng,nghiệp vụ…) đội ngũ lao động;đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe,y tế;đầu tư cải thiện môi trường,điều kiện làm việc của người lao động….Trả lương đúng và đủ cho người lao động cũng được xem là hoạt động đầu tư phát triển.
Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu,triển khai,ứng dụng công nghệ.Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao.Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn.Cùng với đà phát triển của kinh tế đất nước và doanh nghiệp,trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này ngày càng tăng,tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.
Đầu tư cho hoạt động marketing.Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp.Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo,xúc tiến thương mại,xây dựng thuong hiệu… Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Mục đích của cách tiếp cận này là xác định tỷ trọng,vai trò của từng bộ phận trong tổng đầu tư của đơn vị.
Xuất phát từ quá trình hình thành và thực hiện đầu tư,nội dung đầu tư phát triển bao gồm:đầu tư cho các hoạt động chuẩn bị đầu tư,đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư và đầu tư trong giai đoạn vận hành.Nội dung đầu tư phát triển trong mỗi giai đoạn lại bao gồm nhiều nội dung chi tiết khác nhau.
Chương II :THỰC TRẠNG CHUNG CỦA HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1 CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp của Chính phủ, sau quá tŕnh sắp xếp, đổi mới DNNN, đến nay cả nước hiện có 1.720 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước được tổ chức dưới h́nh thức tập đoàn kinh tế (7 đơn vị), tổng công ty nhà nước (86 đơn vị) và công ty nhà nước độc lập (1.099). Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ ở 524 doanh nghiệp thành viên, giữ trên 50% vốn điều lệ ở 738 doanh nghiệp thành viên và dưới 50% vốn điều lệ ở 672 doanh nghiệp đă cổ phần hóa.
Từ 2001 Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một trong những vấn đề đang được đẩy mạnh ở nước ta, nhưng việc thực hiện một cách có hiệu quả không đơn giản. Vì vậy, sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa, rất cần có sự nhìn lại thực trạng, đánh giá triển vọng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong những năm tới.
Theo báo cáo gần đây của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước (tháng 5-2006), trong 15 năm qua, nước ta đã thực hiện cổ phần hóa được 2.935 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có 80% số doanh nghiệp mới thực hiện cổ phần hóa từ năm 2001 đến nay. Từ số liệu trong Báo cáo này, bước đầu có thể phân tích thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp ở một số khía cạnh sau:
Từ 2001 đến 2005 số doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá và trở thành các công ty cổ phần có vốn nhà nước đã tăng lên khá nhanh cả về số lượng công ty, lẫn năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp hằng năm của Tổng cục Thống kê từ năm 2000 cho thấy, từ số lượng công ty cổ phần có vốn nhà nước chỉ có 305 doanh nghiệp trong năm 2000 đã lên 470 doanh nghiệp trong năm 2001, tăng 54,1%; lên 557 doanh nghiệp trong năm 2002, tăng 18,7%; lên 669 doanh nghiệp trong năm 2003, tăng 19,9%; lên 815 doanh nghiệp trong 2004, tăng 21,8% và lên 1.096 doanh nghiệp trong năm 2005, tăng 34,5%. Sau 5 năm đã tăng thêm 791 doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, tăng gấp gần 3,6 lần và bình quân mỗi năm tăng 158 doanh nghiệp, tương ứng với tốc độ tăng bình quân là 29,8%/năm.
Do số doanh nghiệp được cổ phần hoá ngày càng tăng cao và số doanh nghiệp nhà nước chưa cố phần hoá ngày càng giảm đi nên tỷ trọng các công ty cổ phần có vốn nhà nước đã chiếm ngày càng lớn, từ 5,3% vào thời điểm cuối năm 2000 đã lên chiếm 26,8% đến thời điểm cuối năm 2005 và ngược lại doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn đã từ chiếm 94,7% cuối năm 2000 xuống chỉ còn 73,2% đến cuối năm 2005
Đối tượng cổ phần hóa. Nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa chọn doanh nghiệp nhà nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cổ phần hóa.sSự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được rõ những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần hóa đề ra.
- Cơ cấu vốn điều lệ. Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh nghiệp.
Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%).
Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” của nhà nước.
- Cơ cấu cổ đông. Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần.
Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Phân tích một số bài viết nghiên cứu về quá trình cổ phần hóa trên báo chí, chẳng hạn bài “Cổ phần hóa - quỹ đạo nào để bảo toàn, phát triển thị trường vốn?” đăng trên báo Tài chính; qua những thông tin từ Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, có thể nhận thấy việc đánh giá về hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có những ý kiến không giống nhau. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, sau khi cổ phần hóa, có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần tăng ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy động vốn xã hội cũng tăng lên, chấm dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm. Chỉ có 10% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kém hiệu quả vì trước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp này đã hoạt động rất kém, nội bộ mất đoàn kết, không thống nhất; mặt khác còn do sự can thiệp không đúng của chính quyền địa phương...
Thứ hai, theo kết quả nghiên cứu, đến thời điểm này chưa có doanh nghiệp nhà nước nào sau khi cổ phần hóa biến thành tư nhân hóa. Tuy nhiên, trong đánh giá của Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Đặng Văn Thanh - người tham gia đoàn giám sát của Quốc hội - bên cạnh việc công nhận một số kết quả do cổ phần hóa mang lại, cũng đã chỉ rõ: có tình trạng, một số doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đang dần chuyển hóa thành doanh nghiệp tư nhân do một số cổ đông đã bán, chuyển nhượng số cổ phần của mình, hoặc làm trung gian thu gom cổ phần cho tư nhân ngoài doanh nghiệp nắm giữ, có trường hợp đã nắm hơn 50% tổng giá trị cổ phần danh nghĩa để trở thành chủ nhân đích thực của doanh nghiệp. Theo ông Thanh, đây là điều trái với chủ trương cổ phần hóa của Đảng và Nhà nước.
.Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc điểm khác với tính quy luật chung ở các nước:
- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong quá trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
- Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường.
- Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
2.Đầu tư tràn lan:
Đầu tư nhiều, hiệu quả thấp .
Với thế mạnh là... Nhà nước, các DNNN có lợi thế rất lớn về tài sản cố định (đặc biệt là đất đai), vốn đầu tư ngân sách, vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng,... trong so sánh với các thành phần kinh tế khác đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Thế nhưng đóng góp của DNNN cũng chỉ tương đương với khối này (xấp xỉ 40% GDP).
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong các DNNN vẫn mang theo một hình ảnh từ thời bao cấp đến nay, đó là trì trệ, kém năng động, ỷ thế độc quyền, đầu tư kém hiệu quả, sử dụng vốn lãng phí,... Bài báo đăng kết quả Kiểm toán của 19 đơn vị DNNN cho thấy có đến 21% đơn vị làm ăn thua lỗ trong năm 2004, 58% đơn vị lỗ luỹ kế đến cuối năm 2004.
Một điều dễ nhận thấy nữa là các DNNN cũng là nơi diễn ra phần lớn các vụ tham nhũng, lãng phí nổi cộm. Nhìn chung, khối DNNN đang làm chậm đà phát triển của cả nước một cách đáng kể.
Tình trạng các doanh nghiệp đã đầu tư ra ngoài lĩnh vực chính quá lớn, đặc biệt là đầu tư vào các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bất động sản... Việc đầu tư ra ngoài của các tập đoàn, tổng công ty làm phân tán nguồn lực, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giữ vai trò chủ lực của nền kinh tế. Đặc biệt, việc ồ ạt đẻ non ra nhiều ngân hàng trong một thời gian ngắn luôn tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống tài chính và nền kinh tế. Việc các tập đoàn thành lập ngân hàng là rất dễ hỗ trợ đầu tư cho các dự án kém hiệu quả của tập đoàn. Đây là bài học đắt giá của nhiều nước mà Việt Nam cần tránh!
Phần lớn các tập đoàn, tổng công ty khi thành lập đều xác định vốn điều lệ trên cơ sở vốn sổ sách. Vì vậy, không phản ánh được thực chất nhu cầu, biện pháp sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Số vốn huy động của 70 tập đoàn, tổng công ty đến 31/12/2007 lên đến 448.269 tỉ đồng, trong khi đó, vốn chủ sở hữu chỉ đạt 323.208 tỉ đồng. Việc tự huy động vốn đã dẫn đến tình trạng một số tổng công ty có hệ số vay nợ/vốn chủ sở hữu quá cao, rất đáng lo ngại.
CHẠY THEO LỢI NHUẬN NHẤT THỜI
Tại hội nghị sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp (23/4/2008), hầu hết các tập đoàn, tổng công ty đều cho rằng, nhà nước cần tạo điều kiện để họ đầu tư vào các lĩnh vực trên, vì có như thế mới xoay được vốn làm ăn(!). Ông Phạm Thanh Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinashin, lý giải rằng, do đặc thù của ngành kinh doanh tàu thủy cần vốn lớn, Nhà nước không bổ sung vốn nên Vinashin phải đầu tư vào tài chính, bất động sản để kiếm vốn đầu tư cho các dự án lớn hơn. Ông Bình cho rằng, tập đoàn đầu tư vào các công trình phúc lợi, khu nghỉ dưỡng, bệnh viện ngành là cần thiết để “lấy ngắn nuôi dài”. Và rằng “chúng tôi đầu tư ra ngoài đâu chỉ vì chạy theo lợi nhuận”! Lý giải của ông Bình tại hội nghị đã không được sự đồng tình của các đại biểu.
Kinh doanh tài chính, bất động sản thì hoàn toàn không thể “ngắn” và nếu không “chạy theo lợi nhuận” thì lấy gì để nuôi được “dài”? Tương tự, ngành điện cũng “lấy ngắn nuôi dài” khi đầu tư sang lĩnh vực khác. Nhiều đại biểu Quốc hội đã hết sức bức xúc trước việc tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đem số tiền lớn đầu tư xây dựng khu resort ở miền Trung - một lĩnh vực không liên quan gì đến ngành điện, một dự án rất... khả nghi, góp phần làm cho lạm phát gia tăng.
Có thể nói, trong hai năm 2006, 2007, các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm và bất động sản phát triển mạnh và đem lại lợi nhuận cao nhất. Vì vậy, một số tập đoàn kinh tế đã thả phanh đầu tư vào “những ngành kinh tế béo bở” - nói theo cách của ông Chủ tịch Hội đồng quản trị EVN. Ngược lại, bước sang năm 2008, tình hình đã thay đổi một cách nhanh chóng và không thể lường trước được. Đặc biệt, thời điểm hiện nay, các lĩnh vực trên đã và đang có độ rủi ro rất cao.
5 tháng đầu năm nay, lạm phát vẫn tiếp tục gia tăng, thị trường chứng khoán đang giảm sút mạnh, chỉ trong 5 tháng đầu năm 2008 đã mất hơn 50%. Trong bối cảnh chung như vậy, đa số các hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp nhà nước cầm chắc thua lỗ... Thị trường bất động sản đóng băng. Rồi, kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, bảo hiểm ngày càng khó khăn. Chính sách tiền tệ của nhà nước trong cuộc chống lạm phát luôn có nhiều thay đổi... Nỗi lo doanh nhiệp nhà nước “đá nhầm sân”, “trật đường ray” đang lộ rõ. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, khi bong bóng tài chính/bất động sản vỡ mà lãi suất ngân hàng tăng cao thì rất dễ xảy ra vỡ nợ hàng loạt của các doanh nghiệp.
3.Doanh nghiệp nhà nước nợ đọng kéo dài,đang bên bờ vực phá sản:
Các DNNN nợ đọng, nợ xấu kéo dài, đang bên bờ vực phá sản... chính là hệ lụy của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. C̣u theo một chuyên gia kinh tế khác th́ các DN này là những "người khổng lồ" yếu bóng vía và đang làm kinh tế tụt hậu.
Thực trạng những "con nợ” thuộc diện phải xử lý hiện ra sao? Những vướng mắc, rào cản đang tồn tại đó sẽ được xử lý như thế nào?
DNNN nợ xấu bao nhiêu?
Đây là câu hỏi mà có lẽ chưa cơ quan quản lư nào trả lời chính xác được; bởi lẽ cho đến nay, hệ thống các cơ quan quản lý chưa có thống kê đầy đủ nào về t́nh trạng nợ xấu này. Tuy nhiên các cấp quản lư chỉ có thể đoán ước rằng: Đây là số tiền... khổng lồ lên đến vài chục ngàn tỉ.
Ngay từ năm 2005, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thống kê dư nợ cho vay DNNN đă chiếm đến 33,2% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Đặc biệt, NHNN đă có cảnh báo về t́nh trạng nợ xấu đang có xu hướng tăng.
Theo một chuyên gia kinh tế thuộc Bộ Công thương th́i đă từ quá lâu rồi, hệ thống các NH, không ít các chuyên gia kinh tế và nhà quản ly đă cảnh báo về tính trạng nợ xấu, t́inh trạng tiêu cực, làm ăn thua lỗ kéo dài dẫn đến nợ xấu của các DNNN.
Cụ thể theo tài liệu kiểm toán năm 2005, cơ quan này đă nêu hàng loạt các đơn vị nợ xấu khó đ̣i và chưa có biện pháp khắc phục như TCty lương thực Miền Nam, TCty Chăn nuôi, TCty Xây dựng công nghiệp, TCty Giấy... Bản thân các TCty này cũng được cảnh báo về t́nh trạng làm ăn thua lỗ với số lỗ luỹ kế từ gần 200 tỉ đồng đến dưới 500 tỉ đồng. Đặc biệt, chỉ 16 DNNN đă có số nợ trong năm lên đến 21.000 tỉ đồng; tổng nợ phải trả lên đến 47.000 tỉ đồng và chiếm tới hơn 80% tổng nguồn vốn.
Gần đây nhất, theo thống kê sơ bộ của riêng hệ thống các NH, th́ nhóm DNNN nợ xấu kéo dài gồm các TCty xây dựng công tŕnh giao thông thuộc Bộ Giao thông Vận tải. Đây là nhóm có số nợ kéo dài nhất, khó xử lư nhất. Theo ước tính th́ số nợ của các TCty này lên tới trên 12.300 tỉ đồng. Khối DNNN nợ xấu ít hơn bao gồm các TCty thuộc nhóm dịch vụ và chế biến... Tuy nhiên, gọi là ít song số nợ của khối các DN này cũng lên tới trên dưới 5.000 tỉ đồng. Nếu tính cả số các DN nợ đọng thuế th́ con số này cũng thêm khoảng vài ngàn tỉ đồng nữa.
Đối với các loại h́nh DN khác, họ buộc phải tuân thủ nguyên tắc "ràng buộc ngân sách cứng". Các DN phải tự chịu trách nhiệm về t́nh h́nh DN với h́nh thức lời ăn, lỗ chịu và rất khắt khe về kỷ luật tài chính.
Trong cạnh tranh, nếu thua lỗ họ phá sản ngay, c̣n nếu có lăi th́ đó chính là sự hiệu quả và trách nhiệm của DN. C̣n đối với DNNN, họ lại được Nhà nước ưu ái theo nguyên tắc "ràng buộc ngân sách mềm".
Cứ khi nào DN khó khăn th́ được hỗ trợ, thiếu vốn th́ cho vay, thậm chí là ban tặng cơ hội, hợp đồng... Đặc biệt, có khi DN làm ăn thua lỗ th́ lại bơm thêm vốn; khoanh hoặc xóa nợ... tóm lại là với rất nhiều ưu đăi bất hợp lư. Chính cơ chế này đă triệt tiêu khả năng cạnh tranh, tự vươn lên của DN; đồng thời rất nhiều DNNN ỷ lại và làm ăn theo kiểu "gà què ăn quẩn cối xay". Đồng thuận với quan điểm của TS Quang A, một chuyên gia kinh tế khác so sánh để thấy sự bất cập: Nếu như các loại h́nh DN khác rất sợ nợ xấu, nợ đọng..., bởi nếu "sức khoẻ tài chính" không lành mạnh th́ DN khó vay vốn, khó tiếp cận cơ hội làm ăn.
V́ì thế, họ tận dụng mọi khả năng tài chính, con người để tạo nguồn lực phát triển. Trong khi đó, rất nhiều DNNN được đầu tư tài sản, vốn nhưng lại sẵn sàng lăng phí; nhiều TCty hiệu suất sử dụng tài sản cố định chỉ đạt dưới 50%._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21929.doc