Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển. Tình hình đầu tư phát triển trong hệ thống Doanh nghiệp nhà nước

Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển. Tình hình đầu tư phát triển trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC I. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN. 1. Các khái niệm chung. - Đầu tư: là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế xã hội (KT-XH) để mong thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau trong tương lai. Đầu tư hay hoạt động đầu tư là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2686 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển. Tình hình đầu tư phát triển trong hệ thống Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn. Nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác. Biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra trên đây được gọi là vốn đầu tư. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá,...), tài sản trí tuệ ( trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật,…) và nguồn nhân lực. Có nhiều cách phân loại đầu tư. Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại ngưòi ta phân chia ra thành : - Đầu tư tài chính : là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty). - Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. - Đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực, khoa học công nghệ .. : là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh, hoạt động xã hội khác. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, xây lắp, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền KTXH. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển. 2. Khái niệm đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển Đối tượng của đầu tư phát triển: là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. -> Theo quan điểm phân công lao động xã hội thì có hai nhóm đối tượng chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. -> Theo góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư được chia thành hai nhóm chính la công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận -> Theo góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư được chia thành loại khuyến khích đầu tư, loại không khuyến khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư -> Theo góc độ xem xét mức độ tài sản, đối tượng đầu tư được chia thành: những tài sản vật chất và tài tài sản vô hình - Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô hình. Mặc dù đầu tư là ở hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai. - Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực… - Chủ đầu tư của đầu tư phát triển là người sỡ hữu vốn hoặc được giao quản lý, sử dụng vốn đầu tư. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi sinh và do đó, có ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. 3. Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển. Theo cách tiếp cận dựa vào lĩnh vực phát huy tác dụng của đầu tư phát triển, đầu tư phát triển bao gồm: * Đầu tư phát triển sản xuất * Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chung của nền kinh tế * Đầu tư phát triển văn hóa giáo dục * Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật * Đầu tư phát triển khác Theo cách tiếp cận dựa vào quá trình hình thành và thực hiện đầu tư, đầu tư phát triển bao gồm : * Đầu tư cho hoạt động chuẩn bị đầu tư * Đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư * Đầu tư trong quá trình vận hành Ở đây chúng ta chọn cách tiếp cận dựa vào khái niệm đầu tư phát triển, theo đó khái niệm nội dung của đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư phát triển các tài sản vật chất và đầu tư phát triển các tài sản vô hình. * Đầu tư phát triển các tài sản vật chất gồm: đầu tư phát triển xây dựng cơ bản và đầu tư vào hàng tồn trữ. - Đầu tư xây dựng cơ bản : là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố định của doanh nghiệp. Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm các hoạt động như xây lắp và mua sắm máy móc thiết bị. Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị. Đầu tư xây dựng cơ bản trong khối nhà nước tuy có nhiều kết quả tốt song việc thất thoát trong lĩnh vực đầu tư này đang rất lớn. Đây là một trong những vấn đề làm “đau đầu” của Chính phủ ta. - Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ: Việc xác định quy mô đầu tư hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiệp là rất cần thiết. Trong danh mục hàng tồn trữ gồm nguyên vật liệu, bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành. Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ củng khác nhau. * Đầu tư phát triển tài sản vô hình gồm: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học, kỹ thuật, đầu tư xây dựng thương hiệu, quảng cáo… - Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp vì chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao thì mới tao ra hiệu quả cao nhất. Do đó đầu tư phát triển nguồn nhân lực phải được quan tâm tối đa, là việc làm hết sức cần thiết. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động; đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế; đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động. - Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ. Nhằm phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới. Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao. Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Đặc biệt việc nhập các công nghệ cũ, đã lỗi thời trên thê giới còn rất phổ biến ở Việt Nam. Có rất ít các trung tâm nghiên cứu lớn, các trường đại học với nhiều chuyên gia đầu nghành củng chưa phát huy được vai trò nghiên cứu. Cùng với đà phát triển của kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ ngày càng tằng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp. - Đầu tư cho hoạt động marketing cũng là một lĩnh vực đầu tư hết sức quan trọng, đặc biệt là trong các doanh nghiệp thương mại. Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu…Đầu tư cho hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp 4. Vai trò của đầu tư phát triển. - Trước hết cần phải xác định rõ rằng đầu tư nói chung có một vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế, là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Nếu không có đầu tư thì không có phát triển. Nhìn trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải, kéo sản lượng và mức giá cân bằng tăng theo. Về cung, khi đầu tư đã có thành quả thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, đường tổng cung dịch chuyển xuống dưới, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó mức giá chung giảm. Tăng tiêu dùng tiếp tục kích thích sản xuất tăng hơn nữa. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. - Đầu tư có tác động to lớn đến việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ từ bên ngoài. Dù là tự nghiên cứu phát minh hay là nhập công nghệ từ bên ngoài đều phải có đầu tư. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. - Đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao ( 9-10%) thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế nhiều mặt, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư đã quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. - Ngoài ra đầu tư còn có tác động giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, xoá đói giảm nghèo, phát huy lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị … của những vùng có khả năng phát triển nhanh để làm đầu tàu cho các vùng khác. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư ít nhất phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR mỗi nước. - Đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ thì đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đối với các cơ sở hoạt động phi lợi nhuận, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. - Đầu tư phát triển có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế bởi vì nó tạo ra các tài sản cố định. Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư để sản xuất ra của cải vật chất đặc biệt, tạo ra cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Tất cả các ngành kinh tế chỉ có thể tăng nhanh khi có đầu tư xây dựng cơ bản , đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đầu tư phát triển xây dựng cơ bản nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Đầu tư phát triển sẽ tạo điều kiện để phát triển mới, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất ở các doanh nghiệp, sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển y tế, văn hoá và các mặt xã hội khác. Đầu tư phát triển góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác động tích cực cho vùng nghèo, người nghèo, hộ nghèo khai thác các tiềm năng của vùng, vươn lên làm ăn khá giả. Từ đó đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng miền, ngành nghề, khu vực và phân bố hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh. - Đầu tư phát triển của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò quan trọng hết sức to lớn, bởi vì vốn dành cho đầu tư phát triển của nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong ngân sách của toàn xã hội. Đầu tư phát triển của nhà nước góp phần khắc phục những thất bại của thị trường, tạo cân bằng trong cơ cấu đầu tư, giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác đầu tư phát triển của nhà nước được tập trung vào những công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh đó cũng cần phải thấy rằng đầu tư phát triển của nhà nước nếu không được quản lý một cách hợp lý sẽ dễ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả hơn là đầu tư phát triển từ các nguồn vốn khác. II. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là loại hình doanh nghiệp được thừa nhận tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.Tuy nhiên, do đặc điểm hình thành, vai trò, phạm vi hoạt động… không giống nhau nên quan niệm về DNNN cũng không giống nhau. Thông thường, DNNN là những loại hình doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư, xây dựng và chi phối hoạt động sản xuất và kinh doanh. DNNN có nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp quốc hữu hoá, xí nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp công…Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, DNNN được hiểu la ”những doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ toàn bộ hoặc một phần sở hữu và Nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của doanh nghiệp”. Ở Việt Nam, nhận thức về DNNN là cả một quá trình gắn liền với các giai đoạn lịch sử. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước hiên nay, nền kinh tế Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hinh thức sở hữu khác nhau như sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp… Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu đó có ba loại hình thức doanh nghiệp là: DNNN, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hỗn hợp (công ty cổ phần…), trong đó DNNN la nòng cốt của thành phần nhà nước, giữ vị trí chu đạo. Chính thực tế này đặt ra vấn đề cần nghiên cứu nghiêm túc khái niệm DNNN và cần nghiên cứu đầy đủ hơn về khái niệm này theo hướng ngày càng phù hợp hơn với thực tế. Theo Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), “DNNN là tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư các chủ sở hữu. DNNN là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật”. Để phù hợp với tình hình mới Luật DNNN được ban hành ngày 24/4/1995 đã đưa ra định nghĩa như sau: “ Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao , DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên, chỉ đến khi luật DNNN ra đời thì nhận thức về DNNN mới đầy đủ sát với thực tế hơn và để phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế và xu thế hội nhập của nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì theo nghị quyết số 14/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 quy định về doanh nghiệp nhà nước như sau: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.” Luật Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được Quốc hội ban hành ngày 26-11-2003, có hiệu lực thi hành ngày 1-7-2004, thay thế cho Luật DNNN ban hành ngày 20-4-1995. Việc ban hành Luật DNNN lần này có tác dụng rất quan trọng trong việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của Luật DNNN năm 1995, như quy định chặt chẽ hơn các vấn đề về quản lý tài chính, tiền tệ doanh nghiệp, mở rộng thẩm quyền, đồng thời xác định rõ ràng hơn trách nhiệm của giám đốc, quy định rõ mối quan hệ giữa Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị... Từ khái niệm trên có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp nhà nước : Thứ nhất về mức độ sở hữu vốn trong doanh nghiệp, Nhà nước là chủ sở hữu đối với toàn bộ hoặc đa số vốn trong doanh nghiệp và vì thế nhà nước có thể chi phối được những hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp Thứ hai Nhà nước kiểm soát đối với quá trình ra quyết định của DNNN bằng việc nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 50% vốn. Song điều này không có nghĩa la nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp bởi lẽ, nhà nước và DNNN là những chủ thể pháp lý tách bạch và độc lập với nhau. Nhà nước đóng vai trò là người chủ sở hữu đối với doanh nghiệp người đầu tư vốn, còn DNNN là chủ thể kinh doanh độc lập có tư cách pháp lý như mọi chủ thể kinh doanh của các nhà đầu tư khác trong nền kinh tế. Thứ ba Doanh nghiệp nhà nước là đối tượng quản lý của nhà nước, phải thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hộido Nhà nước giao cho. Tóm lại quan niệm về doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét từ các góc độ khác nhau, thay đổi theo từng thời kỳ, gắn với thực tiễn đổi mới kinh tế xã hội 20 năm qua ở nước ta. Trong điều kiện tiến tới hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu nhưng vẫn đảm bảo đường lối độc lập tự chủ về kinh tế của nước ta hiện nay, tạo mọi thuận lợi phát huy hiệu quả vốn Nhà nước và tiềm năng về vốn của mọi thành phần kinh tế khác thì phải nhận thức đúng phù hợp về khái niệm doanh nghiệp Nhà nước . 2. Phân loại doanh nghiệp Nhà nước. Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp Nhà nước khác nhau. Ở đây bài viết trình bày một số cách phân loại DNNN mà sẽ được sử dụng trong nghiên cứu. Thứ nhất : Dựa vào mục đích hoạt động chia DNNN thành hai loại: DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. DNNN hoạt động kinh doanh là loại doanh nghiệp có chức năng chủ yếu là hoạt động kinh doanh trên số vốn và tài sản Nhà nước được giao. Mục tiêu chủ yếu của loại doanh nghiệp này là thu lợi nhuận và doanh nghiệp tự quyết định loại sản phẩm kinh doanh trên cơ sở tuân thủ pháp luật. DNNN hoạt động công ích là loại doanh nghiệp thuộc khu vực vô vị lợi, hoạt động với chức năng chủ yếu là đáp ứng nhu cầu của xã hội bằng những sản phẩm, dịch vụ cụ thể, không thể thiếu được trong quốc kế dân sinh. Yếu tố lợi nhuận không đóng vai trò quan trọng Thứ hai: căn cứ theo mức độ đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chia DNNN thành hai loại: Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước là những doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư toàn bộ vốn điều lệ để thành lập. Doanh nghiệp cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là những doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư trên 50% vốn điều lệ và Nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp. Thứ ba: căn cứ vào lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế DNNN được chia thành hai loại: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. DNNN hoạt động sản xuất vật chất là những doanh nghiệp trực tiếp tham gia sản xuất, tạo ra các sản phẩm , hàng hóa cho xã hội. DNNN hoạt động thương mại dịch vụ là những doanh nghiệp tham gia vào khâu lưu thông phân phối của quá trình tái sản xuất hoặc lĩnh vực dịch vụ, nhưng không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm vật chất. 3. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước có vai trò rất quan trọng điều này được thể hiện tại Nghị quyết 05 Hội nghị lần thứ ba BCHTƯ Đảng khoá IX: kinh tế Nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN. DNNN phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ lực trong hội nhập quốc tế. Theo chúng tôi cần nhấn mạnh một số điểm dưới đây về vai trò của kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là DNNN: Vai trò chính trị: Một là, DNNN nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến an ninh, quốc phòng quốc gia. Hai là, DNNN tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng (tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế) để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò xã hội: Được thể hiện ở một số điểm sau: Thứ nhất,DNNN đi đầu trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng, đặc biệt đối với địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, nơi các vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Nếu lợi nhuận là mục tiêu cở bản của doanh nghiệp tư nhân thì đối với DNNN, ngoài mục tiêu kinh doanh còn nhiều mục tiêu cở bản khác. Lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất mà trước hết phải xem xét đến lợi ích chính trị- xã hội- kinh tế của đất nước. DNNN phải có mặt và phát triển tại các lĩnh vực mà các doanh nghiệp khác không muốn hoặc không có khả năng làm, để đảm bảo cung cấp các hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho nhu cầu của các tầng lớp dân cư. Vì vậy, hiệu quả của DNNN có thể là hiệu quả kinh tế, hoặc hiệu quả xã hội, hoặc cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Do đó trong nhiều trường hợp các DNNN hoạt động trong lĩnh vực công ích phải đặt mục tiêu lợi nhuận xuống hàng thứ yếu. Thứ hai, DNNN đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho việc xây dựng xã hội mới. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở các quốc gia trên thế giới, bên cạnh nhiều mặt tích cực, người ta cũng nhận thấy những khuyết tật vốn có. Những khuyết tật cơ bản của nền kinh tế thị trường bao gồm: Một là, do theo đuổi mục tiêu làm cho chi phí biên cá nhân nhỏ hơn chi phí biên xã hội, gây ra ảnh hưởng ngoại ứng, ô nhiễm môi trường. Hai là, việc cung cấp sản phẩm công cộng thường không hấp dẫn các doanh nghiệp vì lợi nhuận ở khu vực này thường thấp trong khi đòi hỏi đầu tư lớn. Trong tình hình đó, DNNN đóng vai trò tạo điều kiện khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Để góp phấn hạn chế khuyết tật thứ hai, các DNNN không những phải xuất hiện ở lĩnh vực cung cấp sản phẩm công cộng, mà quan trọng là phải cung cấp sản phẩm công cộng một cách có hiệu quả. Vai trò kinh tế: DNNN phải là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác động đến các quá trình kinh tế xã hội, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mối cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDH. Doanh nghiệp Nhà nước có vai trò kinh tế chung rất quan trọng. Vai trò ấy thể hiện chủ yếu ở chỗ khắc phục thất bại thị trường, điều tiết vĩ mô, nhằm làm cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả, công bằng, ổn định. Đồng thời DNNN nắm giữ các ngành then chốt và thực sự trở thành công cụ để Nhà nước điều tiết và định hướng phát triển XHCN. DNNN là công cụ để Nhà nước điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế, đặc biệt cơ cấu kinh tế ngành, vùng lãnh thổ, phát triển hạ tầng cơ sở và xây dựng từng bước nền Công nghiệp hiện đại. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước được thể hiện không phải ở việc phát triển tràn lan mà lựa chọn các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn để phát triển. Kinh tế Nhà nước nắm giữ phần lớn những cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, dịch vụ công cộng…, những lĩnh vực mà tư nhân các thành phần kinh tế khác không được làm, không muốn hoặc không đủ năng lực đầu tư. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, quyết định đầu tư trước hết phải là của doanh nghiệp, hộ gia đình trong nền kinh tế, do vậy trước hết phải huy động đầu tư phát triển từ khu vực tư nhân. Quyết định ấy bị dẫn dắt bởi chính nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên có những lĩnh vực mà tư nhân sẽ không đầu tư hoặc đầu tư không hiệu quả, đòi hỏi đầu tư của nhà nước. Cụ thể là nhà nước nên đầu tư sản xuất hàng hoá công. Nhà nước phải trực tiếp đầu tư để cung cấp một số hàng hoá tư nhân mà khu vực tư nhân không thể, không muốn đầu tư. Ví dụ như hàng hoá tư nhân chi phí cao ( nước sạch, …). Nhà nước phải đầu tư để sản xuất một số hàng hoá tư nhân vì lý do chính trị xã hội, mà nếu không có việc sản xuất các loại hàng hoá này thì nền kinh tế sẽ không có hiệu quả Ngoài vai trò kinh tế chung, nhà nước có hai vai trò cơ bản hết sức quan trọng trong lĩnh vực đầu tư phát triển của toàn xã hội: Một là tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động đầu tư phát triển được tiến hành. Hai là khuyến khích, dẫn dắt hoạt động đầu tư phát triển theo định hướng nhất định trên cơ sở quyết định quy hoạch, kế hoạch, cấp phát ngân sách, cho vay vốn hoặc các biện pháp điều tiết khác.Vai trò của nhà nước trong hoạt động đầu tư phát triển được thể hiện rõ thông qua chính hoạt động đầu tư phát triển của nhà nước cũng như việc điều tiết, thúc đẩy, hỗ trợ đầu tư khu vực ngoài nhà nước( tư nhân và đầu tư nước ngoài) và thông qua việc quyết định kế hoạch, quy hoạch. Ở một góc độ cụ thể hơn, ta có thể thấy vai trò của nhà nước thể hiện trên các khía cạnh như chi tiêu, cấp phát ngân sách, cho vay vốn ưu đãi; đầu tư phát triển để tạo ra hàng hoá công; đầu tư phát triển để thực hiện việc cung cấp công cộng một số hàng hoá tư nhân; chính sách bao tiêu một số sản phẩm và dịch vụ từ đầu tư phát triển được lựa chọn để giữ vững cầu, ổn định giá cả và thúc đẩy tăng trưởng; đầu tư cho nghiên cứu và phát triển; thi hành chính sách thuế khoá liên quan đến hoạt động đầu tư phát triển; quản lý nhà nước về đầu tư phát triển (quản lý cá nhân và tổ chức tham gia đầu tư phát triển , quản lý sản phẩm của đầu tư phát triển ); xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động đầu tư phát triển; thanh tra, kiểm tra hoạt động đầu tư phát triển ,... Công tác xử lý các vướng mắc, các phát sinh trong quá trình thực hiện và vận hành dự án đầu tư phát triển CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỜI KỲ 2000 – 2006 I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG HỆ THỐNG DNNN THỜI KỲ 2000 - 2006 DNNN tiếp tục là lực lượng nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua, tỷ trọng đầu tư của khu vực này trong tổng mức đầu tư toàn xã hội vẫn được duy trì theo các năm, đóng góp rất lớn về đầu tư trong tổng đầu tư của xã hội. Đây là nguồn vốn các doanh nghịêp chủ động trong việc huy động và sử dụng theo đúng yêu cầu của các doanh nghịêp. Nguồn vốn này được tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, bổ sung thiết bị để nâng cao công suất, chất lượng sản phẩm và một phần dùng để đầu tư xây dựng mới, mở rộng sản xuất kinh doanh. Nếu nguồn vốn huy động được từ doanh nghiệp nhà nước được sử dụng có hiệu quả hơn sẽ góp phần trực tiếp cho tăng trưởng nhanh kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh trong từng sản phẩm. Một số kết quả chính đã đạt được trong năm 2003 như sau: - Doanh thu khu vực DNNN đạt 470.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm 2002 và 11% so với năm 2001, đã đóng góp 40% GDP của cả nước, tăng 0,5% so với năm 2001; - Nộp ngân sách đạt 87.000 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2002 và 69% so với năm 2001 chiếm trên 60% tổng thu NSNN ; - Lợi nhuận thực hiện đạt 21.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm 2002 và 31,2% so với năm 2001 ; - Chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 3 năm 2001 - 2003 của DNNN đạt mức 10%/năm, xấp xỉ mức bình quân trong 10 năm 1991-2000 (11%). Trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, sức cạnh tranh được nâng cao, dần dần thích nghi với cơ chế thị trường. DNNN hoạt động công ích đi vào thực chất hơn, đảm bảo đa số sản phẩm, dịch vụ thiết yếu của xã hội, đặc biệt cho quốc phòng - an ninh, đồng bào vùng sâu, vùng xa. Cải cách DNNN được đẩy mạnh theo hướng tiếp tục đa dạng hóa sở hữu các DNNN, đạt kết quả vượt bậc so với 5 năm trước 1996 - 2000. Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp lại theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 theo hướng đa dạng hóa sở hữu với các hình thức cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Tổng số doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại trong 5 năm qua vượt xa cùng thời kỳ trước đó. Các doanh nghiệp sau khi sắp xếp lại hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao được tính cạnh tranh, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Từ 2001 - 2004 cổ phần hoá được 1.654 DNNN và bộ phận DNNN (sau đây gọi chung là DNNN) chiếm 73% tổng số DNNN cổ phần hoá từ năm 1992 đến nay (2.242 DNNN cổ phần hoá). Trong đó, năm 2001: 205 doanh nghiệp: năm 2002: 164 doanh nghiệp: năm 2003: 532 doanh nghiệp; năm 2004: 753 doanh nghiệp. Nhiều đơn vị thực hiện tốt lộ trình cổ phần hoá theo đế án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, điển hình là: Bộ Xây dựng (đạt 125%), Bộ Công nghiệp (đạt 106%), Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (đạt 182%), Tổng công ty Dệt May Việt Nam (đạt 133%), tỉnh An Giang (đạt 130%), tỉnh Hải Dương (đạt 116%), tỉnh Vĩnh Phúc (đạt 115%), thành phố Hồ Chí Minh (đạt 109%), thành phố Cần Thơ (đạt 109%), tỉnh Nam Định (đạt 109%), tỉnh Hà Tây (đạt 103%). Theo kế hoạch, năm 2005 sẽ thực hiện cổ phần hoá 724 DNNN, hoàn thành cơ bản 104 Đề án sắp xếp DNNN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án cổ phần hoá toàn Tổng công ty Thương mại và Xây dựng (Bộ Giao thông - Vận tải) và Tổng công ty Điện tử và Tin học (Bộ Xây dựng). Ngoài ra, một số đề án cổ phần hoá các Tổng công ty lớn đang được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định như Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng VINACONEX (Bộ Xây dựng); Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Đây sẽ là bước quan trọng để triển khai đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá DNNN. Nhìn chung, kết quả hoạt động kinh doanh của các DNNN sau khi cổ phần hóa đều tốt hơn theo hướng tăng vốn sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và tăng thu nhập cho người lao động Bên cạnh hình thức cổ phần hoá là giải pháp mang tính đột phá trong quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN, các hình thức khác như giao, bán, chuyển DNNN thành công ty TNHH 1 thành viên cũng được triển khai mạnh, làm đa dạng hoá các hình thức sắp xếp, đổi mới cơ chế quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Ngoài ra, còn thực hiện các hình thức tổ chức lại, giải thể và phá sản DNNN làm ăn kém hiệu quả. Sau 4 năm thực hiện (2001 - 2004), cả nước thực hiện giao 127 doanh nghiệp, bán 76 doanh nghiệp, sáp nhập 390 doanh nghiệp, hợp nhất 133 doanh nghiệp, giải thể 134 doanh nghiệp, phá sản 18 doanh nghiệp, chuyển sang công ty TNHH 1 thành viên 55 doanh nghiệp, thành lập mới ._.67 doanh nghiệp[2]. Trong quá trình sắp xếp DNNN, doanh nghiệp đã quan tâm giải quyết chế độ cho người lao động dôi dư theo Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN. Tính đến hết năm 2004, đã có 1.342 doanh nghiệp được Bộ Tài chính duyệt cấp kinh phí cho 62.305 người nghỉ việc hưởng theo chế độ lao động dôi dư với tổng số tiền khoảng 1.803 tỷ đồng. Trong đó, có 6.448 người nghỉ hưu trước tuổi với số tiền là 111,1 tỷ đồng; 55.257 người hưởng trợ cấp mất việc làm với số tiền là 1.698,4 tỷ đồng. Chính sách đối với những lao động dôi dư phù hợp với thực tế, quyền lợi được bảo đảm, góp phần bình ổn thị trường lao động dôi dư, giảm nhẹ gánh nặng cho xã hội, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sau khi thực hiện các hình thức sắp xếp. Bên cạnh đó Đảng và chính phủ cũng không ngừng hoàn thiện khung pháp lý theo hướng dần bình đẳng với các doanh nghiệp khác; dần hình thành các Tổng công ty mạnh, Tập đoàn kinh tế lớn. Kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khoá XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 thay thế Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Luật DNNN năm 2003 đã có thay đổi lớn về khái niệm DNNN, DNNN được hiểu là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH. Ngày 24 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty nhà nước, đây là cơ sở để các Bộ, ngành, địa phương tập trung đầu tư cho những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực then chốt, mang tính chất ổn định kinh tế - xã hội mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn. Ngày 09 tháng 8 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 153/2004/NĐ-CP về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập theo mô hình công ty mẹ - công ty con, làm nền tảng hình thành các Tổng công ty mạnh, thay đổi cơ chế quản lý từ quan hệ hành chính sang quan hệ dựa vào tỷ lệ góp vốn. Hiện nay, đã có 47 tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập xây dựng đề án chuyển đổi hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, một số doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đi vào hoạt động. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép xây dựng thí điểm đề án các Tập đoàn kinh tế hoạt động trong một số lĩnh vực mang tính then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế như Bưu chính - Viễn Thông; Dầu khí; Điện lực; Xi măng... Tóm lại, với tình hình phát triển doanh nghiệp trong nước trong 5 năm qua đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phát huy mạnh mẽ tiềm năng của khu vực kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác xã, kinh tế trang trại... Đóng góp của từng thành phần kinh tế vào quá trình tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế cũng có nhiều thay đổi, theo hướng giảm tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế dân doanh. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì những yếu kém, tồn tại vẫn còn là vấn đề bức xúc, chưa được giải quyết triệt để ở nhiều lĩnh vực. Điển hình là tình trạng thất thoát, lãnh phí vốn đầu tư phát triển diễn ra khá là phổ biến nhất là trong xây dựng cơ bản, diễn ra trong nhiều dự án đâu tư, thuộc các nguồn vốn, ở các ngành, các địa phương và trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư. Năm 2002, Thanh tra Nhà nước thanh tra 17 dự án có tổng mức đầu tư là 9.385 tỷ đồng, tổng giá trị vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra là 6.407 tỷ đồng. Tổng số sai phạm về kinh tế và tài chính được phát hiện ở 17 dự án là 871 tỷ đồng, chiếm 13,6% tổng số vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra. Năm 2003, Thanh tra Nhà nước thanh tra 14 dự án lớn với tổng mức đầu tư là 8.193 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn đầu tư được thanh tra là 6.450 tỷ đồng. Qua thanh tra đã phát hiện nhiều sai phạm về kinh tế do làm trái các quy định của Nhà nước là 1.235 tỷ đồng, chiếm khoảng 19% số vốn được thanh tra. Trong tổng số vốn được phát hiện có sai phạm nói trên, Thanh tra Nhà nước đã kiến nghị thu hồi 357 tỷ đồng, chiếm 5,5% tổng số vốn được thanh tra. II. NỘI DUNG VÀ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG HỆ THỐNG DNNN 2000 - 2006 1. Đầu tư phát triển xây dựng cơ bản. Thực trạng cơ sở hạ tầng: Một trong nhiều yêu cầu để Việt Nam gia nhập vào WTO là phải minh bạch trong việc kiểm toán chi thu của quốc gia. Do đó, lần đầu tiên trong lịch sử Đảng CSVN đã đưa ra bản báo cáo từng phần ngân sách nhà nước năm 2005. Theo đó, riêng trong lãnh vực quốc doanh, 19 tổng công ty và ngân hàng quốc doanh trên 4.447 quốc doanh toàn quốc, cho thấy kết quả kiểm toán hoàn toàn đưa đến việc thua lỗ và công ty quốc doanh đã làm kinh tế theo một chính sách phi kinh tế . Sau đây là vài con số thua lỗ cũa các công ty quốc doanh trong năm 2005: Ngành dệt may lỗ 328 tỷ Đồng ; ngành giấy lỗ 199 tỷ Đồng ; ngành lương thực lỗ 183 tỷ Đồng (1 tỷ Đồng tương đương 60.000 Mỹ kim). Tổng số nợ của 16 doanh nghiệp các ngành kễ trên là 47,000 tỷ đồng, tương đương với 80% tổng tài sản của các công ty. Do đó, những công ty trên hoàn toàn không còn khả năng thanh toán phần nợ. Cơ sở hạ tầng yếu kém trong một thời gian dài là một trong những nguyên nhân chính khiến các DNNN làm ăn thua lỗ. Một số các nguyên nhân khác như là trình độ quản lý, tác phong làm việc kém chuyên nghiệp, luật pháp chưa chặt chẽ, kém linh hoạt… Các DNNN quy mô vẫn chua lớn. Nhiều DNNN có trình độ công nghệ dưới mức trung bình của thế giới và khu vực. Thiết bị, dây chuyền lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, trong đó có 38% đang chờ thanh lý. Chi phí sản xuất công nghiệp còn rất cao, hạn chế mức tăng giá trị gia tăng. Cụ thể là giá trị sản xuất mấy năm gần đây tăng 15%/năm, nhưng giá trị gia tăng chỉ tăng 10%. Tốc độ đổi mới công nghệ chậm, chỉ khoảng 10% trong thời gian qua. Các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao, hiện đại như: điện tử, tin học... mới chỉ chiếm vài phần trăm giá trị sản xuất công nghiệp; dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao không nhiều. Một số DNNN có nhiều máy móc, thiết bị tuy được đầu tư hiện đại nhưng không huy động hết công suất (nhiều doanh nghiệp có hiệu suất sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50-60%) hoặc tổng vốn đầu tư lớn dẫn đến chi phí khấu hao, chi phí lãi vay trong giá thành sản phẩm cao. Nguyên nhân sâu xa là trình độ công nghệ lạc hậu hiện nay, điều mà nhiều đại biểu Quốc hội đã lên tiếng khi bàn thảo về Dự án Luật Chuyển giao Công nghệ. Khi cả nền kinh tế Việt Nam chỉ có chưa đầy 2% số doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao, mà rất hiếm có DNNN lọt vào số 2% này, thì thực trạng hiện nay là hậu quả tất yếu không thể tránh khỏi. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái Lan là 30%, Malaysia là 51%, Singapore là 73%. Theo cuốn “Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu trên cơ sở cắt giảm chi phí” do Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) chủ biên, (Nhà xuất bản Tài chính tháng 7 năm 2006), tình trạng công nghệ ở nước ta hiện nay đang ở vào hoàn cảnh Singapore những năm 60 của thế kỷ trước. Thực trạng đầu tư phát triển xây dựng cở bản trong DNNN. Trong những năm gần đây, việc phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc. Đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và hiệu quả của đầu tư cho thấy nhanh hơn, rõ ràng hơn. Chính vì vậy vốn đầu tư vào lĩnh vực này được xem là quan trọng nhất, đặc biệt với các nước đang phát triển.Việt Nam hiện đầu tư hơn một phần ba giá trị GDP; khoảng 9% được đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Kết quả là Việt Nam đang nhanh chóng đuổi kịp các nước láng giềng về dịch vụ cung cấp và chi phí. Điện khi hóa và điện thoại là những tiến bộ lớn nhất, hệ thống đường bộ cũng được mở rộng đáng kể. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phàn nàn về cơ sở hạ tầng giao thông không đầy đủ; giá điện và điện thoại quá đắt đỏ. Để đạt được tiến bộ hơn nữa trong phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi phải đa dạng nguồn vốn điều tiết đúng đắn hỗ trợ thu hồi chi phí và khuyến khích cạnh tranh cũng giúp thu hút tư nhân vào tham gia vào phát triển cơ sở hạ tầng và góp phần phát triển kinh doanh hơn nữa ở Việt Nam. Hiện đã có một số sáng kiến đầy hứa hẹn trong hầu hết các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng đặc biệt là tăng tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Tuy nhiên, phần lớn các bên tham gia kinh doanh là các DNNN. Nhìn về tương lai, trong những năm tới, không thể chỉ dựa vào sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân để giải quyết nhu cầu về cơ sở hạ tầng trông đợi khu vực kinh tế này đáp phần lớn nhu cầu. Trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở, phát triển kinh doanh đặc biệt phụ thuộc vào chất lượng đầu tư công và việc đặt giá phù hợp cho dịch vụ cung cấp. Vốn đầu tư phát triển của DNNN được huy động từ nhiều nguồn, bao gồm vốn ngân sách, vốn vay và vốn tự có. Tỷ trọng của từng nguồn vốn không giống nhau vì thay đổi tuỳ thuộc chính sách huy động vốn trong từng thời kỳ. Trong những năm đầu của thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước XHCN, để DNNN vượt qua những khó khăn ban đầu và làm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thì nguồn vốn ngân sách Nhà nước được sử dụng cho đầu tư phát triển thường chiếm tỷ trọng lớn nhất. Từ sau quá trình chuyển đổi cơ chế, DNNN đã phát triển, trưởng thành về cả thế và lực. Kết quả là, những năm gần đây, Nhà nước đã không còn cấp phát vốn cho các doanh nghiệp như trước mà đầu tư cho DNNN thông qua hình thức cho vay. Tỷ trọng vốn ngân sách tăng chậm và ổn định ở mức cao, nguồn vốn tự có của DNNN đã chiếm vị trí xứng đáng và vốn vay vẫn tiếp tục giảm dần trong tổng vốn đầu tư phát triển của DNNN. Như chỉ ra trong bảng 1, quy mô và tỷ lệ vốn NSNN chi đầu tư phát triển của DNNN tăng liên tục trong thời kỳ 2000-2006, năm 2000 chiếm 43,6%, năm 2001 chiếm 44,7%, năm 2002 chiếm 43,8%, năm 2003 chiếm 45,0%, năm 2004 chiếm 49,5%, năm 2005 chiếm 54,4% và tính toán sơ bộ năm 2006 chiếm 54,1%. Vốn vay tăng về quy mô song giảm khá nhanh về tỷ trọng cơ cấu, năm 2000 đạt 27774 tỷ đồng và chiếm 31,1& đến năm 2006, theo tinh toán sơ bộ đạt 41200 tỷ đồng và chiếm 22,3%. Chi tiết qua các năm như trên bảng báo cáo. Vốn của các DNNN và nguồn vốn khác tăng đều đặn trong suốt thời kỳ các năm 2000-2006. Mức biến động qua các con số nêu trên đã phản ánh xu thế thay đổi tất yếu theo chiều hướng tích cực. Vốn tự có là phần vốn tự tích luỹ từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN và bộ phận vốn khấu hao được để lai doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn quan trọng và rât có ý nghĩa trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý vốn, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là điều kiện để tái đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rống sản xuất nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Như chỉ ra ở bảng 1, vốn tự có tăng đều về quy mô, tuy giảm về tỷ trọng nhưng giảm chậm. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là phần vốn hỗ trợ DNNN đầu tư phát triển được thực hiện theo cơ chế mới, tức chuyển từ hình thức cấp phát vốn sang hình thức tín dụng ưu đãi đã tạo động lực thúc đẩy các DNNN năng động hơn. Nguồn vốn này là nguồn hỗ trợ quan trọng cho DNNN song không phải là nguồn vốn duy nhất, song đang chiếm tỷ trong lớn nhất. Đây là một vấn đề cần được chú ý giải quyết trong thời gian tới để có thể đảm bảo được tính độc lập, tự chủ của các doanh nghiệp nhà nước. Quy mô vốn đầu tư của DNNN vào từng ngành nhiều hay ít có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành đó, đến việc thay đổi cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và dẫn đến hiệu quả đầu tư khác nhau giữa các ngành. Vốn đầu tư phát triển được tập trung sử dụng và đầu tư đồng bộ với công nghệ hiên đại cho những ngành có tốc độ tăng trưởng cao. Bảng 2: Vốn đầu tư theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế Nguồn: tổng cục thống kê (trang Web: ) Cơ cấu vốn đầu tư phát triển của DNNN chia theo ngành kinh tế (sản xuất và thương mại dịch vụ) trong những năm qua đã có sự chuyển dịch tích cực.Vốn đầu tư phát triển dành cho các ngành công nghiệp của DNNN có xu hướng tăng lên nhanh, đặc biệt trong các năm 2003, 2004. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển của DNNN dành cho ngành nông nghiệp giảm từ năm 2000-2003 và tăng dần từ năm 2004-2006. Thể hiện sự chuyển dịch mạnh mẽ của cơ cấu nền kinh tế, từng bước hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa. 2. Đầu tư phát triển tài sản vô hình : 2.1/ Thực trạng nguồn nhân lực và đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước: Thực trạng nguồn nhân lực : Ngay từ đầu năm 2006, những tín hiệu khả quan về tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ đầu tư trong và ngoài nước, hàng loạt doanh nghiệp mới ra đời, mở rộng quy mô sản xuất đã tạo ra sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn lao động đã qua đào tạo ở vùng kinh tế trọng điểm, trong đó nổi cộm là 3 địa phương TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương. Hiện nay, nguồn nhân lực đang là điểm yếu của chúng ta. Nếu nguồn cung nhân lực có chất lượng không được cải thiện, thì chỉ trong vòng 2 – 3 năm tới, dù có nhà đầu tư, nhưng cũng không có người làm. Một số ngành kinh tế, do phát triển quá nhanh, đã nảy sinh những thách thức không nhỏ về tuyển dụng nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Hơn nữa, việc mặt bằng tiền lương còn trênh nhau ở các khu vực, ngành nghề cũng là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến sự biến động, di chuyển lao động và cuối cùng là, sự thiếu hụt nhân lực ở các doanh nghiệp, khu công nghiệp – khu chế xuất. Trong doanh nghiệp nhà nước những bất cập trong chính sách đãi ngộ cán bộ được thể hiện 1 cách rõ ràng khi mà ở nhiều nơi các doanh nghiệp nhà nước đang phải trả mức lương cho nhiều giám đốc, các chuyên gia vượt khung để giữ người. Với Doanh nghiệp Nhà nước, điều này đang có ý nghĩa rất quan trọng trong nỗ lực cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản trị của doanh nghiệp Nhà nước… Một điểm yếu dễ nhận thấy ở các doanh nghiệp Việt Nam là, thiếu vắng những nhà lãnh đạo doanh nghiệp có tầm nhìn toàn cầu, có khả năng quản trị kinh doanh một cách khoa học và bài bản. Hàng năm đều có một lượng sinh viên không nhỏ tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng dạy nghề nhưng tình trạng thiếu hụt lao động có trình độ cao vẫn không giảm. Do việc đào tạo nhân lực tại các trường trong nước hiện nay rất yếu, không thể sử dụng được. Giáo trình đại học tuy in mới nhưng nội dung cũ mấy chục năm, lạc hậu rất nhiều so với thực tế, không cập nhật được thông tin, công nghệ mới… Thế nhưng, nếu doanh nghiệp chủ động cử người đi đào tạo ở nước ngoài với chi phí cao thì lại gặp khá nhiều khó khăn từ cơ quan quản lý Nhà nước. Đây là một bất cập trong chính sách đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, cơn sốt thiếu lao động đang lan rộng. Vì thế, nếu không giải quyết tốt, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung và tiến độ đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp. Chính vì thế, để khắc phục sự hẫng hụt nguồn nhân lực, đã có không ít doanh nghiệp buộc phải đi thuê lao động nước ngoài. Tuy nhiên việc thuê lao động nước ngoài chỉ phù hợp với những vị trí quản lý và cùng không thể đi thuê mãi được. Đối với lực lượng công nhân lành nghề, cán bộ quản lý chuyên môn ở tầng trung và tầng thấp nhất thiết phải được đào tạo ngay trong nước. Lực lượng lao động nước ta đông đảo (khoảng 40 triệu lao động vào năm 2005), nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (khoảng 23% năm 2003). Một bộ phận lớn thanh niên trong độ tuổi 18 – 23 (khoảng 80%) bước vào thị trường lao động, nhưng chưa qua đào tạo nghề. Lao động phổ thông dư thừa lớn, song thiếu lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý, cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao. Lực lượng lao động nước ta còn hạn chế về ý thức, tác phong công nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực hành nghề chưa đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực của người sử dụng lao động, nên còn một tỷ lệ đáng kể lao động qua đào tạo không tìm kiếm được việc làm thích hợp hoặc làm không đúng với trình độ và nghề được đào tạo. So với các nước trong khu vực, thứ bậc xếp hạng về chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn thấp (Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 so với Trung Quốc là 5,73/10 và Thái Lan là 4,04/10). Nước ta không chỉ thiếu lực lượng lao động kỹ thụât, mà còn thiếu trầm trọng cả đội ngũ cán bộ hành chính, cán bộ quản lý chất lượng cao. Nhìn vào biểu đồ có thể thấy rõ được sự gia tăng về số lượng lao động trong DNNN từ 2088531 năm 2000 lên 2264942 lao động năm 2003 nhưng đến năm 2005 số lao động giảm xuống còn 2040859, tỷ trọng trong cơ cấu lao động cả giao đoạn 2000-2005 lại giảm từ 59,05% xuống còn 32,69%. Từ năm 2000-2003 tổng số lao động trong doanh nghiệp nhà nước tăng thêm 176411 người (tăng 8,45%). Tuy nhiên trong cơ cấu lao động từ năm 2000-2003 thì tỷ lệ lao động trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước lại giảm từ 59,05% xuống còn 43,77%. Điều này chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của nguồn nhân lực trong 2 khu vực còn lại là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực ĐTNN có sự phát triển mạnh mẽ, đánh dấu rõ nét quá trình mở cửa, hội nhập ngày sâu rộng của nền kinh tế nước ta. Từ năm 2000 – 2005, số lượng lao động trong khu vực này đã tăng 3 lần và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng tăng lên 2,86 lần. Đầu tư phát triển cho nguồn nhân lực: Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong DNNN được thể hiện qua hai nội dung chủ yếu là đầu tư cho giáo dục và đầu tư cho hoạt động tay nghề. Những năm qua, nhận thực được hậu gia nhập WTO sẽ gặp nhiều khó khăn ở tất cả mọi mặt, trong đó có cả nguồn lao động trong nước, Nhà nước đã không ngừng tăng chi ngân sách cho lĩnh vực GD&ĐT với giá trị tăng tuyệt đối trong 3 năm liên tiếp gần đây (2006-2008) đều trên dưới 10.000 tỷ đồng/năm. Theo các báo cáo của Bộ GD&ĐT, ngân sách Nhà nước cho giáo dục năm 2006 tăng so với năm 2005 là 13.940 tỷ đồng, năm 2007 tăng so với năm 2006 là 11.400 tỷ đồng, năm 2008 dự kiến tăng so với năm 2007 là 9.430 tỷ đồng. Riêng phần ngân sách cho chi thường xuyên của năm 2006 là 42.625 tỷ đồng, của năm 2007 là 51.860 tỷ đồngNăm 2001 ngân sách nhà nước chi cho GD chiếm 15,1%, năm 2002 là 15,6%, năm 2003 là 16,4%, năm 2004 là 17,1% và năm 2005 là 18%. Tuy nhiên, với tổng số tiền từ ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo như năm 2006 là 54.798 tỷ đồng thì ngành giáo dục đã dùng tới 81,8% tổng số tiền này để chi thường xuyên, số tiền để chi cho đầu tư chỉ là 10.000 tỷ đồng, chiếm 18,2%(70-80% dùng để trả lương cho giáo viên). Tỷ lệ này khi về các địa phương còn tiếp tục mất cân đối nghiêm trọng hơn. Với 40.458 tỷ đồng ngân sách giáo dục rót về các địa phương thì có tới 34.578 tỷ để dành cho việc chi thường xuyên, chi cho đầu tư chỉ là 5.880 tỷ đồng. Như vậy, với tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục như năm 2006 thì chủ yếu số tiền này chỉ được dùng vào chi tiêu thường xuyên, tiền dành cho đầu tư hầu như không đáng kể. Trong khi đó, tiền đầu tư ở đây được tính cho những việc như nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, trường lớp, đổi mới phương pháp dạy và học... Trong các năm 2005, 2004, tình hình chi cũng tương tự khi chi thường xuyên của năm 2005 chiếm tới 83,2%, năm 2004 là 82,3%. Về việc sử dụng tiền cho các chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo cũng có sự "thiên vị" rõ rệt khi riêng việc đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa đã "ngốn" tới 1.120,5 tỷ đồng, trong khi đó, chi cho các chương trình khác như phổ cập giáo dục tiểu học chỉ có 150 tỷ; đưa cán bộ tin học và đưa tin học vào nhà trường 78 tỷ; bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất hệ thống trường sư phạm 275 tỷ; tăng cường cơ sở vật chất trường học 516 tỷ; tăng cường năng lực đào tạo nghề 500 tỷ...Chúng ta đã huy động được nhiều nguồn lực của xã hội đầu tư cho GD: cùng với việc tăng chi ngân sách nhà nước cho GD, nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước tăng lên đáng kể, chiếm khoảng 25%-30% tổng nguồn tài chính đầu tư cho lĩnh vực GD, trong đó học phí và đóng góp xây dựng trường khoảng 25%. Nguồn vốn vay ODA cho ngành giáo dục hằng năm khoảng từ 4.200 đến 4.600 tỷ đồng – tức ở mức 260 triệu đến 280 triệu đô-la Mỹ (riêng năm 2006 chỉ còn 1.200 tỷ đồng tương đương với chừng 75 triệu đô-la Mỹ). Theo so liệu năm 2005, nguồn vốn vay ODA (4.640 tỷ đồng) chiếm trên 10% tổng chi ngân sách cho giáo dục (42.943 tỷ đồng); chiếm trên 60% khoản chi đầu tư cho giáo dục (7.226 tỷ đồng). Ngân sách Nhà nước chi cho hoạt động tay nghề, tức công tác đào tạo, đào tạo lại nguồn lao động của DNNN. Để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu và việc thu hút lao động có trình độ chuyên môn cao từ các trường đại học, cao đẳng và trường dạy nghề đào tạo nguồn nhân lực. Quy mô đầu tư cho hoạt động dạy nghề chưa nhiều và không ổn định giữa các năm. Nguồn vốn đào tạo nghề tăng nhưng vẫn còn thấp, chưa tương xứng với chỉ tiêu đào tạo. Và thực tế đã có nhiều tổ chức tư nhân trong nước, nước ngoài đã tham gia vào lĩnh vực này, đặc biệt là các trường dạy nghề có quy mô nhỏ, đã và đang đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực phục vụ, lĩnh vực đào tạo lai cũng là một tất yếu. Tiến trình sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN gắn liến với tiến trình sắp xếp lại tổ chức, bố trí lại lao động trong doanh nghiệp theo hướng sử dụng hiệu quả hơn và nâng cao năng suất lao động của khu vực DNNN. Tiến trình đó, đồng thời với quá trình đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nên vấn đề dôi dư lao động là thực tế khách quan cần được giải quyết. Trong những năm gần đây ngân sách Nhà nước không ngừng tăng chi cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Năm 2004, kinh phí cho đào tạo nghề tăng thêm 70 tỉ đồng so với 2003 (nâng tổng kinh phí đào tạo nghề lên 200 tỉ đồng), trong đó có 30 tỉ để dạy nghề cho thanh niên dân tộc và thanh niên nông thôn. Năm 2005, Nhà nước cấp 11,5 tỉ đồng từ ngân sách vào lĩnh vực dạy nghề ngắn hạn từ 6 đến 11 tháng dành cho người khuyết tật. Năm 2006, Nhà nước cấp 18,5 tỉ đồng, năm 2007 cấp 20 tỷ đồng từ ngân sách cho lĩnh vực này trong đó Hiệp hội sản xuất, kinh doanh của người tàn tật Việt Nam được nhận 10% để tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật. Các DNNN đã hình thành các quy đào tạo nghề như VINACONEX, TCT Bưu chính viễn thông, TCT Than, TCT Thép… Tuy nhiên với lĩnh vực dạy nghề, đầu tư từ ngân sách nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, nhất là trong dạy nghề dài hạn, do thời gian học dài, chi phí đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị, nguyên vật liệu thực tập tốn kém, trong khi người học chủ yếu là người nghèo nên khả năng đóng góp chỉ khoảng 10%, còn 90% nguồn đầu tư là từ ngân sách nhà nước. Các cơ sở dạy nghề ngoài công lập hiện nay cũng mới chỉ tập trung đào tạo những nghề đơn giản, đầu tư thấp, chưa có nhiều cơ sở đào tạo nghề cơ khí, kỹ thuật cao, quy mô tuyển sinh học sinh mới chỉ đạt 35,6%, rất thấp so với chỉ tiêu 60% vào năm 2010. Quy mô đầu tư cho hoạt động dạy nghề chưa nhiều và không ổn định giữa các năm. Nguồn vốn đào tạo nghề tăng nhưng vẫn còn thấp, chưa tương xứng với chỉ tiêu đào tạo. Và thực tế đã có nhiều tổ chức tư nhân trong nước, nước ngoài đã tham gia vào lĩnh vực này, đặc biệt là các trường dạy nghề có quy mô nhỏ, đã và đang đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực phục vụ. 2.2/ Thực trạng KHCN và đầu tư phát triển KHCN trong DNNN. Thực trạng khoa học công nghệ: Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KH&CN thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động KH&CN của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực. Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KH&CN với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. 2006 qua khảo sát cho thấy, có một sự khác biệt cơ bản giữa doanh nghiệp VN với doanh nghiệp thế giới. Trong khi họ có mối quan tâm hàng đầu đến khoa học công nghệ, thị trường thì doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu quan tâm đến cơ chế chính sách.   Cuộc điều tra được tiến hành với hơn 41.000 doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phố phía Bắc. Bộ Kế hoạch Đầu tư cho rằng, đây là những số liệu đáng tin cậy, có thể sử dụng vào mục đích nghiên cứu và hỗ trợ các doanh nghiệp. Trong số gần 11.000 doanh nghiệp được điều tra thì có 39,6% doanh nghiệp có nhu cầu thông tin về cơ chế chính sách liên quan, 25,9% doanh nghiệp có nhu cầu về thông tin công nghệ mới, 22,6% có nhu cầu thông tin về thị trường. Điều này cho thấy, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến các thông tin về kỹ thuật và công nghệ trong khi đây là những thông tin phục vụ trực tiếp cho sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Trong khi đó, thực tế, chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp đạt trình độ khoa học tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này cho thấy các doanh nghiệp trong nước có năng lực công nghệ và khả năng cạnh tranh rất thấp. Về tình hình sử dụng công nghệ thông tin, tuy có đến 60,2% doanh nghiệp sử dụng máy vi tính, nhưng số doanh nghiệp sử dụng mạng nội bộ chỉ có 11,55% và chỉ có 2,16% xây dựng Website. Thực trạng số doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử và khai thác thông tin qua mạng thấp là một cản trở lớn đối với quá trình hội nhập. Mặc dù rất yếu về công nghệ nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp lại có tỷ lệ rất thấp: chỉ có 5,6% doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo. Các chuyên gia thuộc Bộ Kế- hoạch Đầu tư cảnh báo rằng, điều này cần phải được khắc phục trong thời gian trước mắt vì đây là yếu tố quyết định thành bại của doanh nghiệp trên thương trường. Trong lĩnh vực đào tạo, việc chú trọng đến học hỏi kinh nghiệm từ các doanh nhân thành đạt được quan tâm nhiều nhất với 46,39% trong số hơn 26.000 doanh nghiệp được hỏi có câu trả lời. Bên cạnh đó có 42,24% số doanh nghiệp muốn các chuyên gia quản lý nhà nước giảng dạy; trong khi các nhà nghiên cứu và nhà tư vấn ít được đề nghị hơn chỉ ở mức 15,2%. Qua phản ánh của các doanh nghiệp, những khó khăn đã được nói đến rất nhiều của doanh nghiệp về vốn, xúc tiến thương mại, đất đai tiếp tục được nhắc đến nhiều lần. Trong số hơn 32.000 doanh nghiệp đề cập tới các vấn đề này thì có 70% doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn; 50,6% gặp khó khăn về mở rộng thị trường, 41% gặp khó khăn về đất đai... Cụ thể, nếu như mới chỉ có 32% doanh nghiệp được tiếp cận với các nguồn vốn nhà nước mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, thì gần 70% còn lại vẫn rất khó tiếp cận các nguồn vốn chính thức. Qua điều tra, các doanh nghiệp cũng cho biết chỉ có 5,2% được tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, gần 23% rất khó tiếp cận và có đến hơn 70% không hề được tham gia. Cuộc điều tra cũng cho thấy có đến 90% doanh nghiệp có quy mô dưới 5 tỷ đồng. Các chuyên gia cho rằng, với quy mô nhỏ bé và khả năng cạnh tranh kém, nếu bản thân các doanh nghiệp không tập trung đổi mới, nâng cấp thiết bị công nghệ thì rất khó cạnh tranh. Bên cạnh đó, cần hình thành các chương trình riêng để trợ giúp nhằm hỗ trợ khu vực này nâng cao năng lực cạnh tranh như: nhanh chóng lập các quỹ bảo lãnh tín dụng, xây dựng một chương trình xúc tiến xuất khẩu dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Đầu tư phát triển chi cho khoa học công nghệ năm 2003 chỉ chiếm 2% ngân sách, rất nhỏ so với các nước. Khu vực doanh nghiệp, cả quốc doanh và ngoài quốc doanh, chưa đóng góp được bao nhiêu cho nghiên cứu phát triển khoa học-công nghệ. Theo sách khoa học-công nghệ VN năm 2003, cả nước có 3.600 công trình nghiên cứu khoa học được công bố, trên 7.000 bài báo khoa học đăng tải trong nước. Trong khi đó, chỉ có 400 công trình được đưa ra công bố ở các tạp chí nước ngoài. Ngay cả trong 400 công trình này, chỉ có 1/3 công trình là dùng nguồn nội lực trong nước; còn lại là do hợp tác quốc tế. Thực tế của nền sản xuất VN còn quá thấp, phần lớn các doanh nghiệp (nhà nước) đòi hỏi đối với khoa học-công nghệ chưa thật bức bách. Chính vì còn khó khăn để tìm con đường đi vào sản xuất nên nhà khoa học mệt mỏi. Các doanh nghiệp của chúng ta vẫn phải du nhập công nghệ hiện đại của nước ngoài. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước (còn được bảo hộ khá nặng) không mặn mòi lắm với khoa học-công nghệ trong nước bởi nhiều lý do. Vì khi đầu tư thử nghiệm công nghệ mới nào của VN cũng có thể gặp rủi ro. Còn mua của nước ngoài có thể đắt hơn, nhưng ít rủi ro, chưa kể có thể có yếu tố tiêu cực. Xin lưu ý rằng, nghiên cứu triển khai là khâu rất tốn kém, mà thiếu nó thì độ rủi ro trong áp dụng thành tựu khoa học-công nghệ rất cao Đầu tư phát triển cho khoa học công nghệ trong hệ thống DNNN: Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nước ta hiện nay là đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước để đưa nước ta thành nước công nghiệp vào năm 2020, trong đó việc ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) là thách thức đặt ra hiện nay. Trong nhiều năm qua Nhà nước đã ưu tiên nhiều nguồn lực tài chính dành cho KHCN, tạo điều kiện thuận lợi để ngành này tham gia vào tất cả các lĩnh vực trong cả nước, từng bước giữ vai trò dẫn dắt. Từ những kết quả đầu tư ban đầu đến nay theo đánh giá KHCN Việt Nam đã có những bước đi đúng hướng tạo nền tảng cho những bước đi tiếp theo. Từ xuất phát điểm rất thấp Việt Nam trở thành nước có công nghệ viễn thông phát triển nhanh, hệ thống năng lượng đủ đáp ứng nhu cầu nền kinh tế quốc dân, ngành công nghệ sinh học có khả năng tạo ra nhiều cây trồng vật nuôi có năng suất cao, vượt trội. Mới đây để tạo tiền đề cho việc thúc đẩy kinh tế của các vùng miền năm 2003, Chính phủ đã thô._.ành viên dưới mô hình “công ty mẹ - công ty con”. 1.5 Xây dựng hoàn thiện thể chế, hành lang pháp lý thông thoáng để quản lý hoạt động đầu tư Khung thể chế luật pháp là một trong những nhân tố vĩ mô, có ảnh hưởng quan trọng đến việc huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN. Để tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư nói chung của các DNNN tham gia hoạt động kinh tế. Dưới đây là một số giải pháp liên quan đến việc sửa đổi quy chế đấu thầu và xây dựng những định chế tài chính thích hợp để hạn chế hiện tượng nợ nần dây dưa trong việc thanh toán vốn đầu tư XDCB của nhiều DNNN. Thứ nhất về quy chế đấu thầu. Phải sửa đổi quy chế này theo hướng: pháp lệnh hóa những quy định, chế tài xử phạt các hành vi vi phạm quy chế đấu thầu, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, nhằm lựa chọn cho nhà thầu có năng lực nhất thực hiện công trình. Trong các công trình XDCB, tình trạng thất thoát xảy ra rất nhiều, và do rất nhiều nguyên nhân, do chủ đầu tư, do ban quản lý dự án…Do đó cần quy định cụ thể đâu là hành vi vi phạm và có chế tài xử lý đối với từng hành vi vi phạm. Ngoài ra, việc lạm dụng đấu thầu đã làm giảm tính cạnh tranh trong đầu thầu và là nguyên nhân của các hành động tiêu cực. Quy chế đấu thầu khuyến khích áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, nhưng trên thực tế số gói thầu thực hiện đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu vẫn chiếm tỷ lệ cao. Do vậy, cần có sự sửa đổi các quy định vể công tác đấu thầu. Nên có các quy chế xử phạt rõ ràng cả về hành chính và bằng tiền đối với cá nhân đơn vị làm trái quy định. Thứ hai sửa đổi,bổ sung, luật phá sản, tạo điều kiện thuận lợi, cho phép phá sản doanh nghiệp nhằm làm cho tài chính doanh nghiệp lành mạnh hơn, làm cho khu vực DNNN hoạt động nói chung và đầu tư nói riêng có hiệu quả hơn. Thứ ba cần có những định chế tài chính thích hợp để hạn chế tình trạng nợ nần dây dưa trong việc thanh toán vốn đầu tư XDCB. Đầu tư dàn trải là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả đầu tư của chủ nợ (DNNN nhận thầu) và con nợ ( DNNN chủ đầu tư) giảm sút. Đầu tư dàn trải dẫn đến nợ đọng trong xây dựng cơ bản của nhiều DNNN. Để khắc phục tình trạng nợ đọng trong XDCB, cần nhiều giải pháp đồng bộ, đặc biệt cần có xế tài từ các cơ quan chức năng. Một số giải pháp như sau. Một là, nhà nước cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm của các bên trực tiếp tham gia ký hợp đồng, cũng như trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Chẳng hạn, Nhà nước cần có quy định cho phép ngân hàng và các cơ quan chức năng khác được quyền tham gia vào hoạt động của chủ tài khoản bằng việc cưỡng chế đối với các đơn vị có khả năng tài chính nhưng cố tình trây ỳ, không chịu trả nợ. Hai là, phải có giải pháp tích cực chống hiện tượng lách luật của nhiều DNNN hiện nay. Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng nợ dây dưa khó đòi trong hoạt động XDCB là tình trạng lách luật của chủ đầu tư. 1.6 Tăng cường cải cách thủ tục hành chính Hiện nay thủ tục hành chính liên quan đến việc đầu tư của các doanh nghiệp, kể cả DNNN cũng đang rất rườm rà, có nhiều vướng mắc. Lâu nay cải cách hành chính được coi là một khâu tạo ra đột phá; tuy nhiên, luôn luôn bị chậm, ngay cả thanh tra công vụ cũng làm chậm. Nếu cải cách hành chính làm tốt hơn thì hiệu quả đầu tư phát triển sẽ cao hơn. Cơ chế “một cửa” trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn tồn tại nhiều bất cập. Nhiều địa phương tuy là “một cửa” nhưng lại rất “nhiều bàn”. Hay là một doanh nghiệp muốn đầu tư, làm thủ tục xin cấp phép dự án củng cần rất nhiều thời gian, làm châm tiến độ, và mất đi một phần không nhỏ cơ hội của chủ đầu tư. Vì vậy, thời gian tới, các cơ quan chức năng, mà ở đây là Quốc hội, Bộ kế hoạch và đầu tư, các địa phương cần tăng cường cải cách thủ tục hành chính hơn nữa. Cơ chế “một cửa” cần phải làm đúng như tên gọi của nó, chứ không phải chỉ là hình thức. Thủ tục cấp phép cho một dự án ở các địa phương cần thông thoáng và đơn giản hơn nữa. 1.7 Tăng cường vận động xúc tiến và kêu gọi thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Chủ trương phát huy nội lực là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có những lĩnh vực, những dự án nếu không huy động vốn nước ngoài thì khó có thể đầu tư hoặc đầu tư rất chậm. Do đó phải cân đối nội lực với ngoại lực phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta trong từng thời kỳ. Cần rà soát lại các quy hoạch phát triển ngành theo hướng đảm bảo cân đối nguồn vốn đầu tư. Đối với những ngành lĩnh vực, dự án mà vốn trong nước khó có thể đáp ứng đủ, cần khuyến khích nước ngoài đầu tư. Vì thế, trước mắt cần rà soát lại danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài để điều chỉnh, bổ sung những dự án quy mô lớn cần kêu gọi đầu tư, hoàn chỉnh nghiên cứu tiền khả thi của các dự án với các thông số kinh tế kỹ thuật cần thiết để tạo điều kiện cho việc tuyên truyền vận động đầu tư. Đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá và cắt giảm một số chi phí sản xuất nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh và xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân để trình Quốc hội trong thời gian sớm nhất. Tập trung nghiên cứu các chính sách về đất đai, bất động sản để khơi thông dòng vốn đầu tư vào các dự án kinh doanh bất động sản, xây nhà để bán và cho thuê, tạo bước đột phá về đầu tư vào lĩnh vực rất có tiềm năng này. Bên cạnh đó, cần sớm ban hành tiêu chuẩn, điều kiện cấp phép cho các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực đào tạo đại học để có cơ sở xem xét thẩm định cấp phép cho các dự án đã trình hồ sơ. Tiếp tục rà soát các dự án đã được cấp phép, trên cơ sở đó tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc nhằm thúc đẩy triển khai dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động kinh doanh có hiệu quả qua đó nâng cao uy tín của môi trường đầu tư nước ta. Triển khai nhanh và có hiệu quả các Nghị định mới của Chính phủ như Nghị định 27/2003/NĐ- CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 24/2001/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại VN, Nghị định 38/2003/NĐ- CP về chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Đổi mới căn bản hoạt động xúc tiến đầu tư theo hướng chủ động, có hướng đích, có trọng điểm. Chính sách vận động xúc tiến đầu tư cũng phải có độ linh hoạt và mềm dẻo nhất định, có phương thức vận động riêng với các nước, các tập đoàn đa quốc gia. Với các doanh nghiệp là DNNN, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào những đơn vị này với tỷ lệ phù hợp. Hiện nay, không phải chúng ta nắm giữ 51% là an toàn, là có quyền quyết định mọi việc lớn nhỏ của doanh nghiệp. Theo quy định của Việt nam và cũng là thông lệ quốc tế, các quyết định quan trọng của doanh nghiệp phải được 75% cổ đông thông qua. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư nước ngoài mà sở hữu 25,1% cổ phần thì mọi chủ trương kế hoạch phải dừng lại để đợi ý kiến của họ, tức chính cổ đông thiểu số sẽ có tiếng nói quyết định. Vấn đề của Việt Nam hiện nay là chưa rõ nhà đầu tư nước ngoài đang thực sự sở hữu bao nhiêu phần trăm trong các công ty cổ phần nói chung và DNNN nói riêng ở Việt Nam. Do đó giải pháp quan trọng nhất hiện nay đối với vấn đề đầu tư nước ngoài vào các DNNN là phải lập ra một cơ quan giám sát hoạt động đầu tư của các quỹ đầu tư nhà nước của các quốc gia khác tại Việt Nam. 1.8 Ban hành các chính sách cụ thể nhằm thu hút và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đầu tư Sau khi cổ phần hóa các DNNN, các DN cần ưu tiên đầu tư vào nguồn vốn nhân lực, tuyển chọn đội ngũ quản lý, nhân viên giỏi vào làm việc, sẵn sàng trả mức lương cao cho người biết làm việc đúng nghĩa. Đội ngũ lao động chất lượng cao, làm việc với năng suất cao sẽ góp phần gia tăng lợi nhuận gấp nhiều lần cho DN”. Chạy đua với các DN nước ngoài, nhiều DNNN đã khởi động kế hoạch thu hút nhân tài, nhân viên giỏi vào làm việc. Cuộc đua giành giật nguồn vốn nhân lực càng tăng tốc ngay sau khi VN gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng thương hiệu, tăng thị phần trong nước lẫn ngoài nước, các DNNN đều coi trọng việc đầu tư cho đội ngũ quản trị viên cao cấp, nhân viên chuyên nghiệp hóa. Thế nhưng, nỗi lo lớn nhất là tìm đâu ra người tài, nhân viên giỏi? Nhu cầu tuyển lao động cao cấp, nhất là các vị trí quản trị, lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật tăng vọt trong năm 2006. Thế nhưng, trong khi cầu tăng đột ngột thì chỉ có khoảng 30% ứng viên đáp ứng nhu cầu tuyển lao động chất lượng cao trên thị trường lao động hiện nay. Các vị trí quản trị viên trung cao cấp đang được các công ty săn lùng ráo riết là giám đốc điều hành, giám đốc tài chính, giám đốc tiếp thị, giám đốc nhân sự, trưởng phó phòng các bộ phận chuyên môn…thêm vào đó sắp tới, sẽ có nhiều quỹ đầu tư của nước ngoài, tập đoàn dịch vụ bán lẻ, dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo hiểm… đổ bộ vào VN. Vì thế nhu cầu tuyển nhân sự trung, cao cấp của lĩnh vực này rất lớn. Những ngành nghề được coi là “hot” và khan hiếm lao động là bảo hiểm, kiểm toán viên, chuyên viên phân tích tài chính - chứng khoán, công nghệ thông tin. Tùy theo ngành nghề, các vị trí giám đốc điều hành, giám đốc tài chính, giám đốc marketing, giám đốc thương hiệu, giám đốc quỹ đầu tư có mức lương bình quân từ 1.000 đến vài ngàn USD hoặc cao hơn. Do vậy cạnh tranh thu hút nguồn nhân lực cao cấp ngày một gay gắt hơn khi có nhiều lao động nước ngoài muốn tìm việc làm ở Việt Nam. VN hiện có khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế và đi cùng với nó là sự gia tăng số lượng các DN mới - khoảng 30.000 DN mỗi năm - đã làm giảm đáng kể số người thất nghiệp. Theo thống kê chính thức, số lượng người thất nghiệp, tính chung cho toàn quốc vào khoảng 5.3% - số liệu thực tế có thể cao hơn chút ít. Khoảng 10% số người lao động đang công tác trong các cơ quan, đoàn thể nhà nước, 88% trong các DN ngoài quốc doanh và 2% trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Lĩnh vực nông nghiệp vẫn đang thu hút nhiều lao động nhất (57%), tiếp đến là dịch vụ (25%), công nghiệp (17%). Một điều dễ nhận thấy là lực lượng lao động nước ta đông đảo nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (khoảng 23% năm 2003). Một bộ phận lớn thanh niên trong độ tuổi 18 – 23 (khoảng 70%) bước vào thị trường lao động, nhưng chưa qua đào tạo nghề. Lao động phổ thông dư thừa lớn, song thiếu lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý, cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao. Dù đã chuyển qua nền kinh tế thị trường khá lâu nhưng chúng ta vẫn thiếu chiến lược đầu tư đào tạo từ gần đến xa cho chương trình phát triển nguồn nhân lực trung, cao cấp, đạt chuẩn quốc tế. Vì thế hội nhập vào “thế giới phẳng” - môi trường toàn cầu hóa, đoàn thuyền kinh tế VN đang bị hụt hẫng vì thiếu tướng giỏi, quân tinh luyện. Nhìn tổng thể, bức tranh chung về lao động chất lượng cao vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng. Hàng năm, VN có khoảng 200.000 sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng (CĐ), đại học (ĐH) và có thêm hàng trăm người bổ sung vào danh sách đạt trình độ sau đại học. Thế nhưng chỉ có một phần nhỏ trong tổng số lao động có trình độ cao này có thể đáp ứng nhu cầu tuyển dụng nhân lực trung cao cấp của thị trường lao động. Lý giải điều này, một chuyên gia nhân sự cho rằng các chương trình đào tạo ở các trường CĐ, ĐH nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành nên phần đông cử nhân, kỹ sư ra trường đều thiếu kỹ năng thực hành, tiếp cận công việc chậm, hiệu quả làm việc thấp; khả năng sáng tạo, làm việc độc lập mờ nhạt. Do vậy, nhấn mạnh đến mấu chốt quan trọng để tạo ra nguồn nhân lực cao cấp, chất lượng cao là sự hiệp lực từ nhà đào tạo - người sử dụng lao động - người lao động. Cả “ba nhà” này đều phải hướng tới mục tiêu tạo ra nguồn nhân lực cao cấp, đạt chuẩn, đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa của thị trường lao động. Theo đó, nhà đào tạo phải cung ứng cho xã hội sản phẩm nhân lực đạt chuẩn và được DN chấp nhận mua. DN cũng phải chủ động đặt hàng nhà đào tạo, tạo điều kiện hỗ trợ người lao động thực hành, nâng cao kỹ năng tay nghề. Người lao động phải thay đổi tư duy vươn tới đạt chuẩn về bằng cách nâng cao kỹ năng, kiến thức nghề nghiệp, tác phong làm việc để hội nhập cùng với DN. Ngoài ra, để thu hút nhân tài, ngoài việc trải thảm đỏ mời gọi nhân viên giỏi, người biết làm việc, các DN nên có chiến thuật riêng giữ chân nhân viên của mình. Giải pháp cho các doanh nghiệp hiện nay trong vấn đề duy trì và thu hút nhân lực Vấn đề tuyển dụng và duy trì nhân lực, đặc biệt là nhân lực chủ chốt là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Và thực sự tại thời điểm hiện nay đó là vấn đề rất lớn thách thức đối với doanh nghiệp. Nguồn nhân lực là tài sản, nhưng là tài sản rất di động. Họ có thể từ bỏ doanh nghiệp bất kỳ lúc nào, thậm chí tài sản này có thể bị “đánh cắp” bất cứ lúc nào, nếu doanh nghiệp không có một chính sách phù hợp. Để giải quyết những vấn đề này cần có những giải pháp sau.       Thứ nhất doanh nghiệp phải tạo ra thương hiệu tốt trên thị trường (là điều tự hào, hãnh diện của nhân lực khi được làm việc trong doanh nghiệp đó).Tiếng lành, tiếng dữ đều đồn xa, nên cố gắng đừng để tiếng dữ đồn xa, nó sẽ ảnh hưởng đến tuyển dung, nhân lực.        Thứ hai có quy trình sử dụng minh bạch. Nghĩa là phải dựa trên năng lực thực sự của ứng viên để bố trí và đãi ngộ.        Thứ ba doanh nghiệp cần có chiến lược dài hạn về nhân lực. Nó được thể hiện trong việc phát triển nghề nghiệp cho người lao động, có chiến lược đào tạo về kỹ năng, cần phải chủ động tạo dựng nhân lực cao cấp từ chính nguồn nhân lực của mình. Ban đầu việc thiếu đào tạo bài bản, ít kinh nghiệm cọ xát là không tránh khỏi nhưng doanh nghiệp phải biết lọc ra những cá nhân có tố chất phù hợp với hoạt động và chính sách phát triển của doanh nghiệp mình. Sau đó tiến hành đưa nguồn nhân lực tiềm năng này đi tham gia nhiều khoá đào tạo ngắn. Các nhân lực cấp cao sẽ phải được đào tạo toàn diện theo các môn học cơ bản, cần có trong bất cứ chương trình MBA cấp tiến nào như: khả năng lãnh đạo, quản trị nguồn nhân lực, marketing, quản lý quy trình sản xuất, dịch vụ,... Từ đó, mặt bằng chung về trình độ nhân lực cao cấp của các doanh nghiệp sẽ được cải thiện từng bước và quan trọng là không gây ngắt đoạn quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.       Thứ tư về chính sách lương bổng, doanh nghiệp cố gắng làm sao có chính sách lương bổng hợp lý và cạnh tranh (ít nhất là ở vị trí chủ chốt). Cuối cùng, môi trường làm việc (người lao động cảm thấy được tôn trọng, được tham gia vào quá trình ra quyết định của doanh nghiệp và có cơ hội dể phát triển toàn diện).Liên minh Công nghiệp Đan Mạch (DI) là một hiệp hội doanh nghiệp hàng đầu tại Đan Mạch. DI sử dụng hai cách tiếp cận để thu hút nhân tài. Trước hết là cơ chế lương bổng và đãi ngộ. Họ đưa ra một mức lương phù hợp được tính toán trên cơ sở thị trường làm sao đủ sức thu hút lao động có trình độ cao vào làm việc. Kế đến là môi trường làm việc. Họ nỗ lực để tạo ra một môi trường làm việc hết sức năng động với trách nhiệm cao đối với từng cá nhân. Điều này kết hợp với một thương hiệu, một danh tiếng đã được thiết lập, một tổ chức có sức mạnh về tài chính cũng như khả năng tham gia vào chính sách mạnh mẽ đã giúp (DI) thu hút được nhiều nhân tài đến làm việc và gắn bó với tổ chức. DI cam kết tạo cho người lao động một sự gia tăng mạnh mẽ về tri thức được tích luỹ trong quá trình làm việc tại DI. Tiếp đến, người lao động được tham gia hàng loạt các hoạt động xã hội khiến cho DI trở thành một môi trường làm việc hết sức đa dạng và đầy thú vị đối với người lao động. Nhằm phát triển và củng cố kỹ năng cá nhân người lao động, DI cùng với người lao động phát triển các kế hoạch công việc nhằm đảm bảo người lao động thấy được mục tiêu sự nghiệp và cơ hội thăng tiến của mình trong tổ chức. DI thường xuyên đưa ra những khoá đào tạo ngắn và dài hạn cho nhân viên do DI tài trợ về tài chính. Thông qua các hoạt động xã hội như thể thao, văn hoá, tham gia các câu lạc bộ,... người lao động có cơ hội gặp gỡ đồng nghiệp nhằm trao đổi và chia sẻ tri thức, đồng thời gia tăng giá trị xã hội của bản thân. 2. Nhóm giải pháp vi mô. 2.1 Nâng cao chất lượng công tác lập và thẩm định dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Công tác lập dự án: Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng chậm trễ trong khâu triển khai thực hiện các dự án đầu tư của DNNN trong thời gian qua là do chất lượng công tác lập dự án chưa cao. Việc lập dự án không tuân thủ theo đúng tình tự. Chỉ trên cơ sở nghiên cứu kỹ các yếu tố thị trường, tài chính, kỹ thuật, tổ chức quản lý và lợi ích kinh tế xã hội của dự án…thì các quyết định đầu tư mới chính xác, dự án mới hiệu quả. Nếu không, hậu quả sẽ là, đầu tư kéo dài, hoặc không thể thực hiện như dự án phê duyệt, mà phải thay đổi tổng mức đầu tư, thay đổi phạm vi dự án…Do vậy, để các DNNN làm tốt công tác lập dự án, thì có một số giải pháp như sau. Thứ nhất, cần đổi mới cả về nhận thức và hành động đới với cách lập dự án đang tồn tại ở một bộ phận DNNN hiện nay. Không ít DNNN lập dự án mang nặng tính hình thức, lập dự án để hợp thức hóa thủ tục đầu tư hoặc để xin phép đầu tư còn việc thực hiện dự án sau này lại là một chuyện khác. Điều này đã làm giảm hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Thứ hai, các DNNN nên tuyển dụng, đào tạo một đội ngũ cán bộ lập dự án có chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm. Muốn vậy, các DNNN nên cử cấn bộ đi đào tạo cề kiến thức đầu tư, thường xuyên gửi đi tập huấn để cập nhật những quy định mới, Nghị định mới của Chính phủ về đầu tư. Thứ ba, hàng năm DNNN có thể lập nhiều dự án khác nhau như dự án đầu tư mới, dự án cải tạo mới, mở rộng quy mô hiện có….trong đó, có dự án phải vay vốn đầu tư, có dự án liên doanh với đối tác khác. Do vậy, cơ quan quản lý cấp trên của từng loại hình DNNN nên có những hướng dẫn cụ thể hơn đối với từng loại dự án mà DNNN cần lập, đối với những vấn đề cần quan tâm nhiều hơn trong từng loại dự án cụ thể, để tránh cho DNNN phải làm đi làm lại nhiều lần, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Làm như vậy có nghĩa là tạo điều kiện cho dự án nhanh đi vào hoạt động – một trong những yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Công tác thẩm định dự án. Hiện nay công tác thẩm định vẫn bộc lộ một số thiếu sót. Văn bản thẩm định thường chỉ tập trung vào đối tượng, phạm vi điều chỉnh, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất mà chưa tính đến một yếu tố quan trọng là tính khả thi của văn bản, sự phù hợp trong đường lối, chủ trương chính sách của Đảng. Vừa qua, tại hội thảo khoa học - thực tiễn đánh giá về công tác thẩm định dự án, dự thảo văn bản do Bộ Tư Pháp tổ chức tại Hà Nội đã có rất nhiều ý kiến được đưa ra nhằm xây dựng và hòan chỉnh công tác thẩm định dự án, dự thảo hiện nay…Nâng cao chất lượng thẩm định sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của dự án và do đó, sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của DNNN. Một số giải pháp cụ thể như sau. Một là, phải làm rõ quy trình thẩm định. Theo quy chế thẩm định hiện nay, khi có yêu cầu của Bộ Tư pháp đề nghị cử người tham gia hội đồng thẩm định, các bộ, ngành có trách nhiệm cử người của đơn vị mình. Cách phân công này có thể dẫn đến tình trạng vì lợi ích cục bộ, thiếu khách quan, không trên tầm nhìn toàn cục mà giải quyết các vấn đề…Vì vậy, nên làm rõ quy trình thẩm định bằng việc thiết lập cơ chế để thành viên hội đồng thẩm định. Trước khi làm đơn vị chủ trì phải nắm bắt và hiểu biết sâu sắc về những quan điểm chỉ đạo, nội dung cơ bản của dự án, dự thảo thẩm định. Cụ thể, nên xác định hợp lý số lượng thành viên hội đồng thẩm định đại diện cho cơ quan chủ trì soạn thảo cũng như thành viên Ban soạn thảo để họ có điều kiện trao đổi, thảo luận đưa ra ý kiến thẩm định chính xác, khách quan, khoa học và đầy đủ. Tránh tình trạng, các hoạt động của Ban soạn thảo chỉ là hình thức, lấy cho đủ thành phần mà không thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, hiệu quả công việc. Hai là, phải quy định rõ trách nhiệm thuộc về ai. Cũng là một yếu tố quan trọng, việc lựa chọn thành viên Hội đồng thẩm định có tính chất quyết định đến chất lượng bản thẩm định, do đó cũng cần nâng cao chất lượng thẩm định qua việc tìm hiểu về kinh nghiệm cá nhân của người dự kiến là thành viên. Thành viên hội đồng ngoài việc am hiểu sâu sắc về lĩnh vực được đề cập trong dự án, dự thảo còn phải là người có tinh thần trách nhiệm cao với công việc. Bên cạnh đó cũng cần đề cao trách nhiệm của đơn vị chủ trì soạn thảo trong việc đề xuất lựa chọn thành viên hội đồng thẩm định, xác định rõ trách nhiệm của từng thành viên với ý kiến thẩm định. Như thế sẽ gắn được trách nhiệm và quyền lợi của các thành viên, họ có điều kiện để dành thời gian, công sức nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến thẩm định. Ba là, phải quy định rõ về thời gian. Cũng có ý kiến cho rằng, việc quy định về thời gian tối thiểu cho thẩm định một văn bản rất quan trọng. Thời gian đảm bảo để các cán bộ làm công tác thẩm định nghiên cứu hồ sơ và đánh giá kỹ lưỡng dự thảo. Ngoài ra, có thể quy định thời hạn thẩm định khác nhau đối với từng loại văn bản tùy theo mức độ phức tạp. Chẳng hạn, đối với quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ thì thời hạn thẩm định có thể ngắn hơn so với thẩm định dự án luật, pháp lệnh…Về việc quy trách nhiệm, hiện nay Cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp) đã có một cách làm khá linh hoạt. Họ liên hệ trước với người dự kiến. Cách làm này vừa bảo đảm phù hợp với quy định của Quy chế thẩm định, vừa bảo đảm thành viên được cử tham gia là người am hiểu về lĩnh vực chuyên môn, có góc nhìn toàn diện và độc lập, bảo đẩm chất lượng thẩm định. Nói chung để hoàn thiện công tác thẩm định cũng cần phải có thời gian song trước mắt cần nghiên cứu lại việc phân công chức năng nhiệm vụ cho các đơn vị thẩm định, tổ chức lại các đơn vị thẩm định đúng với mục đích, yêu cầu tính chất của hoạt động này. Đồng thời cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện về tổ chức, biên chế cũng như cơ chế triển khai các hoạt động tác nghiệp, nghiệp vụ và điều kiện bảo đảm khác phục vụ công tác thẩm định. 2.2 Tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư trong từng DNNN. Quản lý đầu tư trong giai đoạn thực hiện đầu tư, có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả hoạt động đầu tư của DNNN. Chất lượng công trình tốt hay xấu, tình hình lãng phí vốn hay tiết kiệm, thời gian đầu tư rút ngắn hay kéo dài…đều do quản lý đầu tư trong giai đoạn này quyết định và do đó, có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động đầu tư theo dự án cũng như hiệu quả hoạt động đầu tư trong DNNN. Do vậy, để khắc phục những tình trạng yếu kém trong công tác quản lý đầu tư ở giai đoạn thực hiện, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển của DNNN, trong phần này xin đề xuất một số giải pháp như sau. Thứ nhất nhanh chóng chấm dứt tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, không đồng bộ. Một trong những đặc điểm cơ bản của vốn đầu tư phát triển là, vốn chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi được tập trung ở một mức độ nhất định. Khi quy mô vốn nhỏ, lại bị chia xẻ nhiều dự án, các công trình đều thi công dở dang, tiến độ thi công càng dài thì đồng vốn bị khô đọng lâu, không sinh lời, nhất là khi lạm phát đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Hậu quả tất yếu là, hiệu quả đầu tư của từng dự án cũng như của doanh nghiệp bị giảm sút. Do vậy để nâng cao được hiệu quả đầu tư của dự án cũng như hiệu quả hoạt động đầu tư của DNNN, cần thiết phải đẩy nhanh tiến độ thi công, tìm đủ nguồn vốn, đáp ứng yêu cầu và tiến độ đầu tư và nhanh chóng đưa công trình vào hoạt động. Đồng thời, để chấm dứt tình trạng đầu tư phân tán dàn trải, cần thiết phải khắc phục thừ khâu kế hoạch phân bổ vốn đầu tư đến công tác bố trí vốn thực tế trong doanh nghiệp. Thứ hai nghiêm chỉnh thực hiện đúng cơ chế đấu thầu. Đấu thầu là giải pháp quan trọng để tiết kiệm chi phí cho xã hội, chủ đầu tư xà nhà thầu, tiết kiệm vốn đầu tư cho Nhà nước và các DNNN tham gia quá trình đấu thầu, do đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của cả DNNN đầu tư, DNNN dự thầu và hiệu quả vốn đầu tư xã hội. Qua đấu thầu, chủ đầu tư sẽ chọn được nhà thầu cung cấp các sản phẩm, dịch vụ với chất lượng và giá cả hợp lý nhất, đồng thời đảm bảo tiến độ và chất lượng. Đối với bên dự thầu, việc tham gia dự thầu, trúng thầu và thực hiện đúng tiến độ, sẽ làm cho nhà thầu không ngừng nâng cao trình độ, có trách nhiệm cao trong công việc…Tuy nhiêm hiện nay, công tác đấu thầu còn nhiều bất cập, nhất là trong khối DNNN, hiện tượng “vây thầu”, “bán thầu”, “đặt giá thầu quá thấp”…Để đấu thầu thực sự phát huy đúng những mặt tích cực của nó, xin đề xuất một số giải pháp như sau. Một là, hoạt động đầu tư xây lắp, mua sắm thiết bị máy móc và tư vấn ở các DNNN, cần phải tuân thủ một cách nghiêm túc các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng của Nhà nước, đặc biệt về công tác đấu thầu. Tuy nhiên, có xu hướng thực tế là, ngày càng nhiều công trình được thực hiện theo phương pháp chỉ định thầu. Điều này đã làm giảm hiệu quả của công tác đấu thầu, giảm hiệu quả của hoạt động đầu tư của DNNN nói chung và vốn đầu tư xã hội nói riêng. Hai là, cần quy định trách nhiệm rõ ràng hơn cho chủ đầu tư (DNNN) trong việc thực hiện đầy đủ tình trự, thủ tục đấu thầu, nhất là công tác bảo mật trong đấu thầu, chịu trách nhiệm về việc lập hồ sơ mời thầu, xét thầu và chất lượng công trình xây dựng . Ba là, về công tác đánh giá năng lực của nhà thầu của chủ đầu tư. Ngoài việc đảm bảo năng lực pháp lý, nhà thầu phải đủ năng lực kỹ thuật, kinh tế và tài chính. Tùy theo tính chất, quy mô của gói thầu mà lựa chọn nhà thầu phù hợp nhất. Tuy nhiên, đánh giá và lựa chọn nhà thầu là một vấn đề phức tạp, đặc biệt trong điều kiện nước ta hiện nay. Giải pháp tương đối khả thi cho vấn đề này là: đề nghị các cơ quan quản lý lĩnh vực đấu thầu tiến hành đánh giá định kỳ, xếp hạng các nhà thầu và thông báo cho các chủ đầu tư biết, để lựa chọn nhà thầu có năng lực, kịnh nghiệm mà như nhiều nước đã thực hiên thành công vấn đề này. Bốn là, cần tuân thủ đấu thầu theo bản vẽ thiết kế. Chỉ tính phát sinh khối lượng thêm khi sửa đổi bản vẽ thiết kế, thay đổi biện pháp thi công…được cấp có thẩm quyền quyết định. Năm là, công tác thẩm định giá trúng thầu phải rà soát kỹ hơn, kiên quyết loại bỏ những chi phí bất hợp lý và hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót dẫn đến phải bổ sung khối lượng, điều chỉnh đơn giá. Sáu là, tăng cường chức năng quản lý nhà nước về đấu thầu bằng cách ban hành các văn bản pháp lý như: thông tư, chỉ thị, thủ tục đấu thầu đối với từng phương thức đấu thầu, hình thức lựa chọn nhà thầu trong nước hoặc quốc tế cho từng loại gói thầu: tư vấn, mua sắm hàng hóa và xây lắp. Thứ ba nâng cao hiệu quả hoạt mua sắm máy móc thiết bị. Máy móc thiết bị thường chiếm tỷ trọng vốn lớn trong tổng vốn đầu tư của dự án. Tiết kiệm khoản chi tiêu mua máy móc thiết bị, đặc biệt lựa chọn công nghệ, thiết bị phù hợp…là những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư của DNNN như sau: Một là, các doanh nghiệp mạnh dạn điều chỉnh hợp đồng mua sắm thiết bị khi cần thiết. Hai là, mua máy móc thiết bị cần gắn với việc chuyển giao công nghệ. Hiện nay nhiều máy móc thiết bị đã phổ cập tin học trong việc vận hành. Vì thế, đối với những thiết bị hiện đại mà công nghệ nước nhà chưa tiếp cận được thì các DNNN nên mua cả phần chuyển giao công nghệ. Vể lâu dài cần nghiên cứu đồng bộ hóa công nghệ, thiệt bị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả vốn đầu tư. Ba là, cần tổ chức và nghiên cứu kỹ thị trường công nghệ, nhằm lựa chọn được công nghệ thích hợp, do đó, sẽ nâng cao được hiệu quả đầu tư của DNNN. Lựa chọn công nghệ phù hợp là một trong những hướng đi đúng của DNNN hiện nay. 2.3. Tăng cường công tác nghiên cứu và ứng dụng, triển khai khoa học công nghệ vào sản xuất Nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của DNNN, trong điều kiện hiện nay, chỉ thực sự bền vững. nếu có sự kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư chiều sâu, gắn liền việc nâng cao hiệu quả với việc đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị trong các DNNN. Xét trên góc độ tài chính doanh nghiệp, sự năng động trong việc đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị máy móc và công nghệ là nhân tố quan trọng để hạ thấp chi phí sản xuất thông qua việc giảm mức hao phí năng lượng, nhiên liệu…và để tăng năng suất lao động. Đồng thời, tăng cường khai thác, quản lý và sử dụng một cách hiệu quả máy móc thiết bị hiện có...sẽ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động đầu tư. Hiện nay không hiếm trường hợp đầu tư vào “vỏ” là nhà cửa văn phòng nhiều hơn đầu tư vào “ruột” là thiết bị công nghệ, thậm chí còn nhầm phải thiết bị tân trang, công nghệ lạc hậu vừa do vô ý, vừa do cố ý…kết quả là, khấu hao lớn, và sản phẩm sản xuất ra ít, chất lượng kém. Như vậy, DNNN lỗ từ trước khi đưa tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh, hay đầu tư phát triển không hiệu quả. Tính đồng bộ còn thể hiện ở việc mua máy móc thiết bị, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, hay là mua máy móc thiết bị phảo gắn liền với phương hướng kinh doanh, phù hợp với xu hướng thị trường, đặc biệt, DNNN cần phải xem xét tính đồng bộ của công nghệ nhập ngoại với máy móc thiết bị hiện có, tránh tình trạng công nghệ mua về bị lãng phí, hoặc công nghệ hiện có không còn được sử dụng. Phải thu hút mọi nguồn lực xã hội đầu tư phát triển KHCN. Đổi mới hoạt động KHCN, hoàn thiện cơ chế quản lý theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân hoạt động KHCN. Xây dựng và phát triển thị trường khoa học -  công nghệ đối với những DNNN lớn, hoạt động trên lĩnh vực công nghệ. Mỗi DNNN phải tạo môi trường thuận lợi đối với các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, đầu tư và chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại (công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá…) vào sản xuất và đời sống trong đơn vị mình; hỗ trợ việc ứng dụng KHCN và đầu tư trang thiết bị tiên tiến, hiện đại vào sản xuất kinh doanh. Thực hiện đúng quyền và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, tuyệt đối không được chuyển giao công nghệ lạc hậu, không phù hợp gây ô nhiễm môi trường và mọi hành vi xâm hại bản quyền. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24917.doc
Tài liệu liên quan