Mục Lục
Lời Nói Đầu . ………………………………………………………….3
Chương 1: Lý luận chung về phương thức nhượng quyền thương mại
Sự hình thành và phát triển của phương thức nhượng quyền
thương mại ……………………………………………………………..5
Một số khái niệm và đặc điểm về nhượng quyền thương mại… …...7
Khái niệm về nhượng quyền thương mại…………………… 7
Đặc điểm về nhượng quyền thương mại…………………… 12
3. Các hình thức nhượng quyền thương mại …………………………13
3.1 Theo hình thức của hoạt động kinh doanh…………………..13
3.2 Theo t
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nhượng quyền thương mại. Thực trạng và biện pháp phát triển tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính chất mối quan hệ bên nhận quyền và bên
nhượng quyền………………………………………………………….14
4. Lợi ích và rủi ro của nhượng quyền thương mại……………………16
4.1 Lợi ích của nhượng quyền thương mại……………………....16
4.2 Rủi ro của nhượng quyền thương mại………………………. 20
Chương 2: Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại
tại Việt Nam
Môi trường pháp lý của nhượng quyền thương mại tại Việt Nam…23
Hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam trong thời
Gian qua……………………………………………………………….28
Hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam với tư cách là
người nhượng quyền……………………………………………...30
Hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam với tư cách là
người nhận quyền……………………………………………….. 34
Nhận xét chung về thực trạng áp dụng nhượng quyền thương
mại tại Việt Nam………………………………………………………39
3.1 Những kết quả đạt được……………………………………...39
3.2 Những tồn tại………………………………………………....42
Chương 3: Những giải pháp phát triển nhượng quyền thương mại
tại Việt Nam
Cơ hội và thách thức để phát triển nhượng quyền thương mại
tại Việt Nam……………………………………………………………52
1.1 Cơ hội phát triển nhượng quyền thương mại…………………52
1.2 Những thách thức phát triển mô hinh nhượng quyền thương
mại tại Việt Nam………………………………………………….55
Các giải pháp phát triển nhượng quyền thương mại tại Việt Nam…56
Nhóm giải pháp từ phía nhà nước và cơ quan Chức năng……56
Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp nhượng quyền………..61
Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp nhận quyền…………..65
Kết Luận……………………………………………………………... 68
Tài liệu tham khảo…………………………………………………... 69
Lời Nói Đầu
Nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh đã ra đời và phát triển lâu đời trên thế giới. Phổ biến nhất là ở các nước Âu – Mỹ. Và Hoa Kỳ là nước mạnh nhất về nền công nghiệp Franchise: hơn 550.000 Franchise với doanh thu lên tới hơn 1.530 tỉ USD, chiếm tới 40% tổng doanh thu bán lẻ của nước này, đây là con số quả là lớn nó đã chứng minh cho tính ưu việt của phương thức này. Không những thế nhờ có nhượng quyền mà các doanh nghiệp phát triển với tốc độ tróng mặt như Mcdonald’s chẳng hạn hơn 50 năm hình thành phát triển với trên 30 ngàn cửa hàng và có mặt trên 120 quốc gia trên toàn thế giới. Người ta ước tính rằng, cứ khoảng sau từ 4 đến 5 giờ đồng hồ thì trên toàn cầu xuất hiện thêm 1 nhà hàng nữa mang thương hiệu Mcdonald’s. Còn ở Việt Nam phương thức kinh doanh này mới bắt đầu hình thành từ thập kỷ 90, nhưng một vài năm gần đây mới bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc và bắt đầu sôi động với nhiều thương hiệu nổi tiếng của nước ngoài và Của Việt Nam như Cà Phê Trung Nguyên, Phở 24, KFC, ….với chất lượng, kiểu dáng, mùi vị và không có sự khác biệt giữa các cửa hiệu khác nhau dù ta bắt gặp và thưởng thức từ bất cứ nơi nào ở Việt Nam. Nhượng quyền thương mại đã phát triển rất mạnh tại các nước trên thế giới đặc biệt nó rất thích hợp trong thời kì khủng hoảng kinh tế nhờ tính chất của nó nhưng ở Việt Nam mới chỉ có khoảng 70 hệ thống nhượng quyền ( theo đánh giá của WFC)
Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng lớn để phát triển nhượng quyền thương mại như: thị trường tiềm năng với gần 86 triệu dân, cớ sở hạ tầng dịch vụ ngày càng hoàn thiện, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và cao nhất là năm 2007 là 8.5% mặc dù năm 2008 gặp khủng hoảng kinh tế thế giới và những ảnh hưởng của nó nhưng bằng chính sách của mình Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể…..đặc biệt Việt Nam đã là thành viên của WTO cùng với những cam kết mở cửa thị trường bán lẻ vào 1/1/2009 điều này dự báo sự phát triển vượt bậc của hình thức kinh doanh này trong thời gian tới ở Việt Nam
Cho dù tiềm năng lớn nhưng do thiếu kinh nghiệm, trình độ, năng lực, cùng với sự quan tâm chưa đúng mức trong việc hỗ trợ lĩnh vực này và nhưng chính sách co liên quan hay hệ thộng luật pháp, nên nhượng quyền thương mại vẫn chưa phát huy hết tiềm năng. Làm thế nào để nhượng quyền thương mại phát triển mạnh tại Việt Nam đang là một vấn đề rất cần thiết vì thế em chọn đề tài “ Nhượng Quyền Thương Mại_Thực Trạng Và Biện Pháp Phát Triển Tại Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu : trên cớ sở nghiên cứu thực trạng về hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam trong thời gian qua để tìm ra những giải pháp thích hợp để thúc đấy phát triển nhượng quyền thương mại tại Việt Nam trong thời gian tới.
Kết cấu của đề tài: gồm 3 chương
- Chương 1 : Lý luận chung về phương thức nhượng quyền thương mại
- Chương 2 : Thực trạng về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
- Chương 3: Những giải pháp phát triển nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Chương 1: Lý Luận Chung Về Phương Thức Nhượng Quyền
Thương Mại
Sự hình thành và phát triển của phương thức nhượng quyền thương mại
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của lối kinh doanh nhượng quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17-18 tại Châu Âu. Tuy nhiên, hoạt động nhượng quyền kinh doanh (hay nhượng quyền thương mại) được chính thức thừa nhận khởi nguồn, phát triển là tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19, khi mà Nhà máy Singer (sản xuất máy khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu tiên cho đối tác của mình.
Franchise thực sự phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm 1945 (khi Thế Chiến II kết thúc), với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng, khách sạn và các hệ thống kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất về cơ sở hạ tầng, thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ thống kinh doanh theo phương thức này. Từ những năm 60, franchise trở thành phương thức kinh doanh thịnh hành, thành công không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp... Sự lớn mạnh của những tập đoàn xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu trong lĩnh vực kinh doanh thức ăn nhanh, khách sạn-nhà hàng đã góp phần “truyền bá” và phát triển franchise trên khắp thế giới. Ngày nay, franchise đã có mặt tại hơn 150 nước trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng kinh doanh theo phương thức nhượng quyền.
Nhận thấy lợi ích, hiệu quả của phương thức kinh doanh này, nhiều quốc gia đã có các chính sách khuyến khích phát triển franchise. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên luật hoá franchise và có các chính sách ưu đãi cho những cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức franchise. Chính phủ các nước phát triển khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ý... cũng noi gương Hoa Kỳ, ban hành các chính sách thúc đẩy, phát triển hoạt động franchise, khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc bán franchise ra nước ngoài. Nhiều trung tâm học thuật, nghiên cứu chính sách về franchise của các chính phủ, tư nhân lần lượt ra đời, các đại học cũng có riêng chuyên ngành về franchise để đào tạo, đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế.
Riêng tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy tác động của franchise đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là quan trọng và là xu thế tất yếu của toàn cầu hóa, vì vậy nhiều chính sách, giải pháp phát triển kinh tế liên quan đến franchise đã được nghiên cứu, ứng dụng và khuyến khích phát triển. Năm 1992, Chính phủ Malaysia đã bắt đầu triển khai chính sách phát triển hoạt động kinh doanh nhượng quyền (Franchise development program) với mục tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, thúc đẩy và phát triển việc bán franchise ra bên ngoài quốc gia. Singapore, quốc gia láng giềng của Malaysia, cũng có các chính sách tương tự nhằm thúc đẩy, phát triển hoạt động nhượng quyền trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ như đào tạo, y tế, du lịch, khách sạn-nhà hàng... Gần đây nhất, kể từ thời điểm năm 2000, Chính phủ Thái Lan cũng đã có các chính sách khuyến khích, quảng bá, hỗ trợ việc nhượng quyền của các doanh nghiệp Thái Lan tại thị trường nội địa và quốc tế.
Trung Quốc đang trở thành thị trường tiềm năng của các thương hiệu nước ngoài như: Mc Donald's, KFC, Hard Rock Cafe, Chilli's... đồng thời đây là cứ địa đầu tiên để các tập đoàn này bán franchise ra khắp Châu Á. Thông qua đó, hoạt động franchise của Trung Quốc trở nên ngày càng phát triển, Chính phủ Trung Quốc đã thay đổi thái độ từ e dè chuyển sang khuyến khích, nhiều thương hiệu đang được “đánh bóng” trên thị trường quốc tế thông qua các cuộc mua bán, sáp nhập nhằm chuẩn bị cho kế hoạch đẩy mạnh hoạt động nhượng quyền ra bên ngoài, được xem là một trong những động thái quan trọng để phát triển nền kinh tế vốn đang rất nóng của Trung Quốc.
Ngày nay, nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển, hỗ trợ và quảng bá hoạt động franchise đã được thành lập. Điển hình là Hội đồng Franchise Thế giới (World Franchise Council), ra đời vào năm 1994, có thành viên là các hiệp hội franchise của nhiều quốc gia. Ngoài ra, một tổ chức uy tín và lâu đời nhất là Hiệp hội Franchise Quốc tế (International Franchise Association) được thành lập năm 1960, có khoảng 30.000 thành viên bao gồm các doanh nghiệp bán, mua franchise. Thông qua các tổ chức này, nhiều hoạt động có ích cho doanh nghiệp, cho các nền kinh tế quốc gia đã được thực hiện như:
- Tổ chức các hội chợ franchise quốc tế
- Xây dựng niên giám franchise khu vực, và trên toàn thế giới
- Hợp tác xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành, các website để cung cấp thông tin cho mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến franchise...
- Tư vấn, hỗ trợ, hợp tác và phát triển phương thức kinh doanh franchise
Một số khái niệm và Đặc điểm về nhượng quyền thương mại
2.1 khái niệm về nhượng quyền thương mại
Một số khái niệm nhượng quyền thương mại trên thế giới
Như chúng ta đã biết, nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Đã có nhiều khái niệm được nêu ra của nhiều trường phái khác nhau nhằm giải thích, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện họat động kinh doanh nhượng quyền đạt hiệu quả. Tuy nhiên, do sự khác biệt về quan điểm và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia, nên các khái niệm này thường khác nhau.
Các khái niệm dưới đây được chọn lọc dựa trên sự khác nhau trong việc quản lý điều chỉnh các hoạt động nhượng quyền thương mại của một số nước tiêu biểu, có thể phân chia các nước trên thế giới thành bốn nhóm nước như sau:
(i) Nhóm các nước với hệ thống pháp luật bắt buộc (hoặc khuyến khích sự tự nguyện) công khai chi tiết nội dung của thoả thuận nhượng quyền thương mại.
(ii) Nhóm các nước với hệ thống pháp luật khuyến khích sự tự nguyện, công bố chi tiết nội dung của thoả thuận nhượng quyền thương mại.
Nhóm các nước có luật cụ thể, điều chỉnh hoạt động nhượng
quyền thương mại.
(iv) Nhóm các nước điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại theo luật về chuyển giao công nghệ.
Dựa trên 4 nhóm nước này, ta có một số khái niệm nhượng quyền tiêu biểu sau đây:
*Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International Franchise Association) là hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và thế giới đã nêu ra Khái niệm nhượng quyền thương mại như sau: "Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên giao và Bên nhận quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như: bí quyết kinh doanh (know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình".
* Khái niệm của Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (the US Federal Trade Commission - FTC): Khái niệm một hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng theo đó Bên giao:
(i) hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của Bên nhận.
(ii) li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của Bên giao và
(iii) yêu cầu Bên nhận thanh toán cho Bên giao một khoản phí tối thiểu.
* Khái niệm nhượng quyền thương mại của Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên minh Châu Âu EU)
Khái niệm quyền thương mại là một "tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng". Nhượng quyền thương mại có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được Khái niệm ở trên.
* Khái niệm về nhượng quyền thương mại của Mêhico: Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ 6/1991 quy định:
"Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng một thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thương mại, hoặc hành chính đã được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng (prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó."
* Khái niệm nhượng quyền thương mại của Nga:Chương 54, Bộ luật dân sự Nga Khái niệm bản chất pháp lý của "sự nhượng quyền thương mại" như sau:
"Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn hiệu dịch vụ,.."
Tất cả các Khái niệm về nhượng quyền thương mại trên đây đều dựa trên quan điểm cụ thể của các nhà làm luật tại mỗi nước. Tuy nhiên, có thể thấy rằng các điểm chung trong tất cả những Khái niệm này là việc một Bên độc lập (Bên nhận) phân phối (marketing) sản phẩm, hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của các quyền sở hữu trí tuệ, và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một Bên khác (Bên giao) phát triển và sở hữu; để được phép làm việc này, Bên nhận phải trả những phí và chấp nhận một số hạn chế do Bên giao quy định.
Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam: Như đã trình bày ở trên, các quốc gia trên thế giới đã hình thành và phát triển một cách hợp lý các vấn đề pháp lý liên quan tới họat động nhượng quyền. Do vậy, những cái tên như: Kentucky, Burger Khan, Five Star Chicken, Jollibee, Carvel, Baskin Robbins, Texas Chicken, Kentucky Fried Chicken, Hard Rock Café, Chili's không những chỉ xuất hiện tại các nước sở tại mà còn vươn xa đến rất nhiều nước trên thế giới trở thành những hệ thống nhượng quyền tòan cầu.
- Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của các hệ thống nhượng quyền quốc tế, đã xuất hiện các hệ thống nhượng quyền của Việt Nam như: Cà phê Trung nguyên, Phở 24, Qualitea, Hệ thống chuỗi Bakery Kinh Đô... đã làm cho bức tranh thị trường của Việt Nam càng trở nên hấp dẫn. Đến nay, Luật thương mại có hiệu lực ngày 1.1.2006 tại mục 8, điều 284 đã đề cập đến khái niệm nhượng quyền thương mại như sau:
- Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
(1) Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
(2) Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành kinh doanh
- Sự khác nhau cớ bản trong các quan điểm về nhượng quyền thương mại ở trên xuất phát từ quan điểm của các nhà làm luật tại từng quốc gia nhưng về cơ bản các định nghĩa đều chung nhau ở điểm sau:
(1)Nhượng quyền thương mại về bản chất là mối quan hệ hợp đồng giữa hai bên độc lập (bên giao quyền và bên nhận quyền)
(2)Mỗi bên trong một hợp đồng nhượng quyền thương mại đều có quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể.Bên nhận quyền được phép kinh doanh,phân phối sản phẩm,dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa và phương thức kinh doanh do bên giao quyền phát triển và sở hữu.đổi lại bên nhận phải trả phí cho bên giao và chấp nhận một số hạn chế do bên giao quy định.
(3)chức năng của mỗi bên trong hệ thống nhượng quyền được phân biệt rõ rệt.Bên giao đảm nhiệm vai trò chính trong việc phát triển hệ thống về thương hiệu,chuẩn hóa các quy định,hỗ trợ về huấn luyện,quảng cáo và các điều kiện cần thiết khác để bên nhận triển khai hoạt đông kinh doanh tốt nhất.Bên nhận chịu trách nhiệm trực tiếp triển khai,điều hành hoạt động kinh doanh bằng vốn của mình dưới sự hỗ trợ thường xuyên của bên giao.
Đặc điểm về nhượng quyền thương mại
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại.Việc xác định đấy là một hoạt động thương mại có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định mục đích sinh lợi của hoạt động này.Xác định luật áp dụng là luật thương mại và xác đinh cơ quan tài phán trong trương hợp có tranh chấp,trong trường hợp này là tòa kinh tế.
- Nhượng quyền thương mại được thể hiện thông qua hợp đồng.Hợp đồng nhượng quyền thương mại là văn bản xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia giao dịch.Hợp đồng sẽ quy định những gì bên nhượng quyền cũng như bên nhận quyền được phép làm và có nghĩa vụ phải làm.Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại đặc trưng mà nội dung của nó bao hàm nhiều vấn đề nêu trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau như vấn đề về sở hữu trí tuệ nêu trong luật dân sự,luật sở hữu trí tuệ,vấn đề về quảng cáo nêu trong pháp lệnh quảng cáo, v..v
- Bên nhượng quyền là bên đang sở hữu hoặc đang kiểm soát một phương thức kinh doanh và đối tượng của sở hữu trí tuệ liên quan đến việc kinh doanh.Để có thể nhượng quyền,bên nhượng quyền phải đang sở hữu hoặc kiểm soát một phương thức kinh doanh có hiệu quả cùng với đối tượng sở hữu trí tuệ liên quan đến phương thức kinh doanh đó.
- Bên nhận quyền là một bên độc lập so với bên nhượng quyền.Đây là một nét đặc trưng riêng của nhượng quyền thương mại.Bên nhận quyền có quan hệ về sở hữu đối với bên nhượng quyền.Quan hệ giữa hai bên là quan hệ hợp đồng thương mại và bên nhận quyền phải trả phí cho những dịch vụ mà bên nhượng quyền cung cấp.và bên nhận quyền tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình
- Việc nhượng quyền nhằm thực hiện các hoạt động phân phối hàng hóa và dịch vụ,không điều chỉnh các hoạt động liên quan đến li-xăng công nghiệp
- Bên cạnh việc chuyển giao cho bên nhận quyền phương thức kinh doanh và quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ ở giai đoạn ban đầu,bên nhượng quyền còn có quyền và nghĩa vụ kiểm soát và trợ giúp đáng kể,thường xuyên hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền.Đặc trưng này giúp phân biệt nhượng quyền thương mại với chuyển giao công nghệ và li-xăng thong thường khác.
- Bên nhận quyền phải trả phí cho việc nhượng quyền,phí nhượng quyền bao gồm phí ban đầu và phí định kì.ngoài ra bên nhận quyền còn có nghĩa vụ tài chính khác như đóng góp tiền quảng cáo,tham gia các hoạt động khuyến mãi chung,trả tiền cho các dịch vụ khác do bên nhượng quyền cung cấp.
Các hình thức nhượng quyền thương mại
Theo hình thức hoạt động kinh doanh
- Nhượng quyền sản xuất (processing franchise): Là loại hình nhượng quyền thương mại theo đó bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được sản xuất và cung cấp ra thị trường các sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Thông thường, trong nhượng quyền sản xuất, bên nhượng quyền còn cung cấp cho bên nhận quyền cả những thông tin liên quan tới bí mật thương mại hoặc những công nghệ hiện đại, thậm chí là cả những công nghệ đã được cấp bằng sáng chế. Ngoài ra, bên nhượng quyền còn có thể hỗ trợ bên nhận quyền ở một số khía cạnh như hỗ trợ đào tạo, tiếp thị, phân phối và các dịch vụ hậu mãi.
- Nhượng quyền dịch vụ (service franchise):Nhượng quyền dịch vụ thường thấy phổ biến trong một số lĩnh vực như dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng ô tô, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng... Theo loại hình này, bên nhượng quyền là bên đã xây dựng và phát triển thành công một (hoặc một số) mô hình dịch vụ nhất định mang thương hiệu riêng. Sau đó, bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được cung ứng các dịch vụ này ra thị trường theo mô hình và với thương hiệu của bên nhượng quyền.
- Nhượng quyền phân phối (distribution franchise): Trong nhượng quyền phân phối, mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền có những điểm gần giống như mối quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối, tức là bên nhượng quyền sản xuất ra các sản phẩm sau đó bán lại sản phẩm cho bên nhận quyền và bên nhận quyền sẽ phân phối trực tiếp sản phẩm tới người tiêu dùng dưới thương hiệu của bên nhượng quyền. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy nhượng quyền phân phối thường gặp trong các lĩnh vực như phân phối mỹ phẩm (Hệ thống cửa hàng phân phối mỹ phẩm VICHY, LO'REAL...) hay phân phối nhiên liệu cho các loại xe máy, xe ô tô (cửa hàng phân phối dầu nhờn CASTROL, CALTEX, EXXON.
Theo tính chất mối quan hệ giữa bên nhận quyền và bên nhượng quyền
- Nhượng quyền đơn nhất hay nhượng quyền trực tiếp (unit franchising): Đây là hình thức nhượng quyền mà trong đó bên nhượng quyền với bên nhận quyền có quan hệ trực tiếp với nhau. Thông thường, hình thức nhượng quyền này được áp dụng khi bên nhượng quyền và bên nhận quyền cùng tồn tại trên cùng một phạm vi lãnh thổ quốc gia (đảm bảo quyền kiểm soát cao nhất của bên nhượng quyền đối với việc tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của bên nhận quyền). Hình thức này thường không được ưu tiên lựa chọn áp dụng nếu như bên nhượng quyền và bên nhận quyền là những chủ thể kinh doanh ở tại những quốc gia khác nhau, có ngôn ngữ, văn hoá, hệ thống pháp luật, chính sách thương mại khác nhau. Trong những trường hợp như vậy, các bên có thể lựa chọn hình thức nhượng quyền khởi phát được trình bày ở phần sau.
- Nhượng quyền mở rộng (Franchise developer Agreement):Hình thức nhượng quyền này cũng tạo ra mối liên hệ trực tiếp giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Theo đó, bên nhận quyền có trách nhiệm phát triển, mở rộng hệ thống "đơn vị" kinh doanh mà bên nhận quyền là chủ sở hữu theo mô hình nhượng quyền. Thông thường, trong hình thức nhượng quyền mở rộng, bên nhượng quyền bao giờ cũng đặt ra một lịch biểu hay giới hạn thời gian cụ thể để bên nhượng quyền thực hiện việc mở rộng hệ thống các đơn vị kinh doanh. Mỗi một đơn vị kinh doanh do bên nhận quyền thiết lập nên sẽ là một đơn vị hạch toán phụ thuộc và không có tư cách pháp nhân độc lập với bên nhận quyền. Theo hình thức này, bên nhận quyền cũng không có quyền nhượng quyền cho một bên thứ ba khác.
- Nhượng quyền khởi phát (Master Franchise): Nhượng quyền khởi phát có một vai trò tương đối quan trọng trong những quan hệ nhượng quyền thương mại mang tính quốc tế, tức là khi bên nhượng quyền và bên nhận quyền ở các quốc gia khác nhau. Có lẽ đây là hình thức nhượng quyền thương mại mà bên nhận quyền sẽ có phạm vi quyền rộng rãi nhất. Về mặt hình thức thực hiện thì trong quan hệ nhượng quyền khởi phát, bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền quyền tiến hành kinh doanh theo hệ thống các phương thức, bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền và đồng thời cũng cho phép bên nhận quyền được quyết định việc tiếp tục nhượng quyền đó cho các bên thứ ba khác. Điều này sẽ góp phần khai thác một cách triệt để tiềm năng kinh tế của các thị trường mới. Tuy vậy, đi đôi với nó cũng sẽ là những rủi ro rất lớn cho toàn bộ hệ thống kinh doanh.
Trong thực tiễn của hoạt động nhượng quyền thương mại, các doanh nghiệp có thể có sự lựa chọn một hình thức kết hợp của các hình thức nhượng quyền đã nêu trên, phù hợp với khả năng của mình và hoàn cảnh kinh tế cũng như yêu cầu về mặt pháp lý của mỗi quốc gia.
Lợi ích và rủi ro của nhượng quyền thương mại
Lợi ích của nhượng quyền thương mại
Đối với bên nhượng quyền
Một là,tiết kiệm nguồn vốn. Vốn luôn là một mối lo ngại lớn nhất khi muốn mở rộng hoạt động kinh doanh. Trong tình hình đa số các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nếu phân theo chỉ tiêu lao động thì có tới 80% doanh nghiệp sử dụng dưới 300 lao động, còn theo vốn thì có tới 90% dưới 5 tỷ thì nhượng quyền thương mại là phương thức phù hợp nhất và mang lại hiệu quả cao. Nhưng trong hệ thống nhượng quyền thì người bỏ vốn ra để mở rộng hoạt động kinh doanh chính là bên nhận quyền. Điều này có thể giúp cho bên nhượng quyền mở rộng hoạt động kinh doanh bằng vốn của ngưới khác và giảm chí phí xâm nhập thị trường
Hai là,mở rộng hoạt động kinh doanh một cách nhanh chóng. Hình thức nhượng quyền thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh, xấy dựng sự hiện diện ở khắp mọi nơi một cách nhanh chóng với hàng trăm cửa hàng ở trong và ngoài nước mà không một hình thức kính doanh nào có thể làm được. Ví dụ như Mc Donald’s, tính tới thời điểm cuối năm 2007,có tổng số 31000 nhà hàng tại 119 quốc gia, trong đó có tới 78% số cửa hàng là do nhượng quyền và chỉ có 22% là cửa hàng do công ty lập nên.
Ba là, thúc đẩy việc quảng bá thương hiệu. Việc mở rộng thương hiệu và sự xuất hiện ở khắp mọi nơi sẽ đưa ra hình ảnh về sản phẩm đi sâu vào tâm trí khách hàng một cách dễ dàng hơn. Bên cạnh đó vì chi phí quảng cáo sẽ được trải rộng cho rất nhiều cửa hàng, cho nên chi phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh sẽ rất nhỏ. Giúp cho bên nhượng quyền xây dựng được một ngân sách quảng cáo lớn. Đặc biệt tạo dựng được hình ảnh của thương hiệu đối với khách hàng giúp cho bên nhượng quyền và nhận quyền ngày càng thu được nhiều lợi nhuận.
Bốn là, tối đa hóa thu nhập. Khi nhượng quyền, bên nhận quyền phải trả tiền bản quyền thuê thương hiệu và tiền phí kinh doanh với tên và hệ thống của bên nhượng quyền, bên nhận quyền còn phải mua sản phẩm và nguyên liệu của bên nhượng quyền nhờ đó mà bên nhượng quyền có thể tối đa hóa được thu nhập của mình. Chủ thương hiệu có thể nhận được các khoản tiền sau đấy từ việc bán franchise:
- Phí chuyển nhượng quyền ban đầu: phí này chỉ được tính một lần. Đấy là khoản phí hành chính, đào tạo, chuyển giao phương thức kinh doanh cho bên mua franchise
- Phí hàng tháng: là phí mà bên mua franchise phải trả cho việc duy trì nhãn hiệu, thương hiệu của bên bán franchise và dịch vụ hỗ trợ mang tích chất tiếp diễn liên tục như việc huấn luyện nhân viên, tiếp thị, quảng bá, nghiên cứu….phí này có thể là khoản phí cố định theo sự thỏa thuận của hai bên hoặc tính theo phần trăm trên doanh số của bên mua franchise và thường dao động trung bình từ 3 - 6% tùy vào loại sản phẩm mô hình và lĩnh vực kinh doanh còn ở Việt Nam từ 2 – 3% mức phí trên tổng doanh thu của các franchisor Việt Nam : Trung Nguyên 2%, Phở 24 là 3%, Tapiocups là 2%
- Tiền bán hàng nguyên liệu đặc thù: Nhiều chủ thương hiệu yêu cầu các đối tác mua franchise của mình phải mua một số nguyên liệu đặc thù do mình cung cấp, để đảm bảo tính đồng bộ của sản phẩm và mang lại nguồn thu cho mình. Ví dụ như Mc Donald’s cung cấp và bán cho các cửa hàng nhượng quyền của mình khoai tây chiên, pho mát, bánh táo….
Năm là,tận dụng nguồn nhân lực. Bên nhận quyền sẽ là người bỏ vốn ra kinh doanh điều này tạo động lực cho họ làm việc tốt hơn. Vì khi bên nhận quyền họ là chủ nên họ sẽ làm việc có trách nhiệm hơn. Vì vậy bên nhượng quyền tận dụng được nguồn lực từ phía bên nhận quyền và đặc biệt bên nhận quyền có thể tiếp cận những địa điểm mà bên nhượng quyền không thể tiếp cận được và họ còn nắm vững thông tin về địa phương hơn bên nhượng quyền.
Đối với bên nhận quyền
Một là, giảm thiểu rủi ro. Mục đích chủ yếu của nhượng quyền chính là giảm thiểu rủi ro. Việc mở cửa hàng, cở sở kinh doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỉ lệ thất bại cao do những người quản lý là những người mới bước vào nghề, không có kinh nghiệm và phải mất nhiều thời gian để học hỏi các đặc trưng của từng loại hình kinh doanh. Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền sẽ được huấn luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành công của loại hình kinh doanh đặc thù mà bên nhượng quyền đã tích lũy được từ những lần trải nghiệm trên thị trường. Bên nhận quyền không phải trải qua giai đoạn xây lắp và phát triển ban đầu, bên nhượng quyền sẽ hướng dẫn bên nhận quyền những nguyên tắc chung. Theo kết quả nghiên cứu thì 90% các công ty hoạt động theo mô hình nhượng quyền thương mại tiêp tục hoạt động sau 10 năm trong khi 82% công ty độc lập phải đóng cửa, dưới 5% công ty hoạt động theo mô hình nhượng quyền thương mại thất bại trong năm đầu tiên so với tỷ lệ 38 ở các công ty độc lập.
Hai là, được sử dụng thương hiệu của bên nhượng quyền. Muốn tồn tại trên thị trường thì việc tạo dựng một thương hiệu nổi tiếng được khách hàng tin cậy và nhớ đến là vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp. Thương hiệu hay uy tín của nhãn hiệu là bộ mặt của công ty có vai trò quan trọng đối với khách hàng khi họ mua sản phẩm nào.
Ba là, tận dụng các nguồn lực. Bên nhận quyền chỉ tập trung vào việc điều hành hoạt động kinh doanh, phần còn lại như xây dựng chiến lược tiếp thị, quy trình vận hành chiến lược kinh doanh sẽ do bên nhượng quyền đảm trách và chuyển giao.
Bốn là, được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi. Bên nhượng quyền luôn có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu cho bên nhận quyền. Nâng cao sức cạnh tranh của bên nhận quyền trên thị trường. Nếu thị trường có biến động lớn như việc khan hiếm nguồn hàng thì bên nhượng quyền sẽ ưu tiên phân phối cho bên nhận quyền trước, giúp cho bên nhận quyền ổn định đầu vào mà bất cứ hình thức kinh doanh nào cũng không làm được.
Năm là, dễ vay tiền ngân hàng. Do khả năng thành công cao nên các ngân hàng thường tin tưởng cho các doanh nghiệp mua nhượng quyền vay tiền đầu tư. Trên thực tế thì chủ thương hiệu thường đứng vai trò cầu nối giúp người mua franchise mượn tiền ngân hàng hoặc chính mình đứng ra cho vay, nhằm phát triển và nhân rộng mô hình kinh doanh nhanh hơn. Điều này chưa xảy ra tại Việt Nam do hình thức kinh doanh chưa phổ biến và chủ trương cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ của hệ thống ngân hàng còn nhiều giới hạn.
Đối với nền kinh tế
Nhượng quyền thương mại đem lại lợi ích vô cùng to lớn cho nền kinh tế. Hoạt động nhượng quyền thương mại huy động một lượng lớn đầu tư c._.ho xã hội. Sự thất bại trong kinh doanh của mỗi một doanh nghiệp đều là tổn thất đối với nên kinh tế nó ảnh hưởng tới công ăn việc làm rồi nhiều vấn đề khác, nhờ vào khả năng thành công cao của mô hình nó giúp giảm thiểu tổn thất nền kinh tế. Mặt khác tính đồng bộ của và chuẩn mực của hệ thống nhượng quyền đảm bảo chất lượng sản phẩm và dịch vụ đặc biệt lợi thế theo quy mô và tạo ra những thương hiệu lớn sẽ nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Theo số liệu điều tra của Hiệp hội nhượng quyền thương mại tại Anh quốc thì tại nước này năm 2006 có tất cả 759 hệ thống nhượng quyền kinh doanh với khoảng 35000 doanh nghiệp trong đó 92% doanh nghiệp làm ăn có lợi nhuận cung cấp việc làm cho 364000 lao động. Theo Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế thì tại Úc có khoảng 54000 cửa hàng nhượng quyền đóng góp 12% vào GDP, tại châu Á hoạt động nhượng quyền thương mại tạo doanh thu bình quân 500 tỷ USD mỗi năm ; còn tại châu ÂU hiện nay có 4000 hệ thống nhượng quyền với 167500 cửa hàng nhượng quyền doanh thu đạt khoảng 100 tỉ Euro, tạo ra 1,5 triệu việc làm.
Rủi ro của mô hình nhượng quyền thương mại
Đối với bên nhượng quyền
Lợi ích của nhượng quyền thương mại đối với doanh nghiệp nhượng quyền tuy rất lớn nhưng mặt trái của franchise chính là nguy cơ đánh mất uy tín của một thương hiệu, mất quyền kiểm soát doanh nghiệp và mối nguy từ đối thủ tiềm tàng
Một là, tranh chấp trong nhượng quyền. Đó chính là tranh chấp về doanh thu. Bên nhượng quyền liệu có thể kiểm soát được khoản doanh thu cụ thể của bên nhận quyền để tính phần trăm, trong khi quản lý thuộc về bên nhận quyền điều này ảnh hưởng tới lợi nhuận của bên nhượng quyền.
Thêm nữa là vấn đề giữ gìn bí quyết nghề nghiệp, công thức kinh doanh. Nếu bên nhận quyền, sau một thời gian hoạt động, quay lưng lại với chủ thương hiệu thì điều đó gây lên thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp nhượng quyền. Bên nhận quyền có thể trở thành đối thủ cạnh tranh trong tương lai khi hợp đồng hết thời hạn.
Hai là, nguy cơ bị giảm uy tín thương hiệu. mở rộng theo hình thức franchising, DN cũng phải đối mặt với nguy cơ sẽ bị giảm uy tín thương hiệu nếu bên nhận quyền không thực hiện đúng cam kết bởi vì thành công của hệ thống nhượng quyền là dựa vào sự đồng đều của tất cả các cửa hàng trong chuỗi nhận quyền. Ví dụ như chỉ một vệt bẩn trên tấm biển Cafe Trung Nguyên hay một thái độ bất lịch sự của khách hàng cũng có thể làm giảm uy tín Trung Nguyên, điều này Trung Nguyên khó có thể kiểm soát hết.
Một rủi ro khác nữa là việc giả, nhái nhãn hiệu của doanh nghiệp nhượng quyền khi doanh nghiệp đó không kiểm soát được số lượng cơ sở nhận quyền trong hệ thống của mình cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm uy tín của thương hiệu. như cà phê Trung Nguyên đến nay đã có tới hàng 1000 cửa hàng nhượng quyền trong và ngoài nước, nhưng cũng có tới hàng trăm cửa hàng Trung Nguyên giả mà không xử lý được.
Đối với bên nhận quyền
Một là, không được tự chủ hoàn toàn trong hoạt động kinh doanh. người chủ nhận quyền không có quyền quyết định mọi hoạt động kinh doanh của mình như một người kinh doanh độc lập. Sở dĩ như vậy là vì bên nhận quyền phải tuân theo những nguyên tắc, những phương pháp và mô hình mà bên nhượng quyền đã xây dựng. Đồng thời bên nhận quyền còn phải chịu sự quản lý, giám sát thường xuyên của bên nhượng quyền trong hoạt động kinh doanh. Do đó làm hạn chế sự sáng tạo và những quyết định kinh doanh của người nhận quyền. Nó không phù hợp với người mong muốn kinh doanh một cách độc lập tự chủ.
Hai là, chịu rủi ro hệ thống. Bởi vì sự thành công hay thât bại của bên nhận quyền phần lớn vào hện thống nhượng quyền và uy tín của thương hiệu. Nếu một thương hiệu đã nổi tiếng, một hệ thống nhượng quyền đã được xác lập và có chỗ đứng trên thị trường thì cơ hội thành công của bên nhận quyền là rất cao. Nhưng ngược lại những biến động của hệ thống như có nhiều cửa hàng đảm bảo chất lượng không đồng bộ của hệ thống hoặc một vài cửa hàng làm phật ý và để lại ấn tượng không tốt cho khách hàng thì tất cả các cửa hàng trong hệ thống đều chiu chung ảnh hưởng tiêu cực đó. Thêm vào nữa là việc chủ thương hiệu mà không làm tốt quảng cáo, tiếp thị hoặc không có những kế sách phù hợp cho từng giai đoạn thì bên nhận quyền cũng chiu chung thiệt thòi này.
Ba là, lợi nhuận bị chia sẻ. Nếu tự mở cửa thì một doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp sẽ được hưởng toàn bộ phần lợi nhuận nhưng khi nhận quyền thương mại bên nhận quyền phải tra cho bên nhượng quyền một khoản phí ban đầu và khoản phí thường xuyên.
Bốn là, hợp đồng nhượng quyền chỉ có một thời hạn nhất định. Một hợp đồng nhượng quyền luôn có thời hạn và khi đến hạn chủ thương hiệu hoàn toàn có thể chấm dứt hợp đồng. Khi đó tất cả công sức gây dựng và tiền bỏ ra quảng cáo của bên nhận quyền đều thuộc về bên nhượng quyền.
Đối với nền kinh tế
- Nhượng quyền thương mại với những ưu điểm, thành công và khả năng nhân rộng của mô hình dễ dẫn đến “độc quyền thương hiệu” ảnh hưởng không tốt tới người tiêu dùng. Thêm vào đó những những doanh nghiệp mới thành lập không có nhiều ý tưởng, sợ rủi ro, không muốn phát triển thương hiệu riêng sẽ tham gia vào hệ thống nhượng quyền làm cho thương hiệu nào mạnh sẽ càng mạnh lên, cạnh tranh đánh bại thương hiệu yếu hơn cùng ngành. Và xã hội thay vì đa dạng về thương hiệu, hệ thống kinh doanh thì dần chỉ còn lại một số thương hiệu nhất định.
- Nhượng quyền thương mại là phương thức dễ phát sinh tranh chấp nhất. Các cạnh tranh có thể đến từ việc bên nhượng quyền không đủ năng lực, kém cỏi, không xây dựng hệ thống mà chỉ chú tâm tới việc thu phí từ bên nhận quyền hoặc bên nhượng quyền lừa gạt, nhận tiền từ bên nhận quyền nhưng không cung cấp dịch vụ thích đáng. Tranh chấp cũng có thể phát sinh từ bên nhận quyền kém cỏi trong việc kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống.
Chương 2: Thực Trạng Hoạt Động Nhượng Quyền Thương Mại
Tại Việt Nam
Môi trường pháp lý của nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Nhượng quyền thương mại ra đời và phát triển trong gần thế kỉ qua tại nhiều nước Âu – Mỹ song nó vẫn còn là khái niệm khá mới mẻ tại việt nam. Sự mới mẻ của hình thức kinh doanh này không chỉ đối với cộng đồng doanh nhân Việt Nam mà còn mới mẻ với các nhà làm luật, các luật gia và các quan tòa. Trước năm 2004, trong các văn bản pháp lý thời điểm đó, chưa có một văn bản nào đề cập tới khái niệm nhượng quyền thương mại, chỉ duy nhất có cụm từ “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh” đề cập tới khái niệm này tại điều 4.1.1 thông tư 1254/1999/TT BKHCNMT của Bộ khoa học công nghệ và môi trường được ban hành nhằm hướng dẫn chi tiết việc thực hiện nghị định 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ. Toàn văn như sau: “các hợp đồng với nội dung li-xăng, sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, kèm theo các bí quyết sản xuất, kinh doanh được chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam có giá trị thanh toán cho một hợp đồng trên 30.000 USD (hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh tiếng Anh gọi là franchise )”.
Có thể thấy khái niệm mô tả trên vẫn chưa thể hiện rõ bản chất của hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại. Quay lại với thời điểm ban hành thông tư hướng dẫn thi hành nghị định này, vào những năm đó xuất phát từ thực tế của dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lớn lên thông tư này chỉ nhăm tháo gỡ tạm thời các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện nghị định 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ.
Như vậy hợp đồng có bản chất là nhượng quyền thương mại vẫn chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống pháp luật liên quan đến bán giấy phép và chuyển giao công nghệ và do Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường quản lý. Trong khi đó, nhượng quyền thương mại còn là một khái niệm còn rộng hơn cả việc bán giấy phép và chuyển giao công nghệ. Trong hình thức bán giấy phép, bên mua giấy phép chỉ được quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của bên bán giấy phép để sản xuất và kinh doanh một sản phẩm nào đó. Còn chuyển giao công nghệ chỉ liên quan đến chuyển giao các kiến thức tổng hợp về công nghệ, cung cấp máy móc thiết bị, dịch vụ,đào tạo...kèm theo các kiến thức công nghệ và tập trung vào sản xuất ra sản phẩm. Nhượng quyền thương mại ngoài chuyển giao quyền sử dụng thương hiệu, công nghệ sản xuất còn chuyền giao cả quy trình quản lý, bí quyết kinh doanh và có hệ thống giám sát, giúp đỡ bên nhận quyền.
Để nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho phát triển nhượng quyền thương mại tại Việt Nam thì nhà nước đã ban hành Luật thương mại 2005 và các văn bản dưới luật về nhượng quyền thương mại. Việc điều chỉnh nhượng quyền thương mại bằng pháp luật là hợp lý và Việt Nam đã đi đúng hướng khi hiện tại đã co quy định về nhượng quyền thương mại trong luật thương mại (sửa đổi) được quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005, nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về nhượng quyền thương mại và Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006 của Bộ thương mại hướng dẫn đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại
- Như vậy, kể từ ngày 1/1/2006 thời điểm có hiệu lực của Luật thương mại 2005, Bộ luật dân sự năm 2005 nhượng quyền thương mại đã được luật hóa tại:
Bộ Luật Dân Sự năm 2005( có hiệu lực từ ngày 1/1/2006): Theo điều 755 Chương 36, nhượng quyền thương mại được hiểu là “cấp phép đặc quyền kinh doanh”, là đối tượng của hoạt động chuyển giao công nghệ.
Luật chuyển giao Công Nghệ năm 2006 ( sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2007) tại điều 7 “cấp phép đặc quyền kinh doanh” không được thừa nhận thuộc đối tượng điều chỉnh của luật chuyển giao công nghệ năm 2006. Điều này có vẻ mâu thuẫn với điều 755 Bộ Luật Dân Sự năm 2005 nói trên. Tuy nhiên tại điều 12 Luật Chuyển Giao Công Nghệ năm 2006, hợp đồng nhượng quyền thương mại lại được quy định là một trong các “hình thức chuyển giao công nghệ”.
Luật thương mại năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2006) đã có hẳn 1 mục với 8 điều từ điều 284 đến điều 291 các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nhượng quyền (điều 286 đến điều 289), hình thức của hợp đồng nhượng quyền (điều 285), nhượng quyền lại cho người thứ ba (điều 290) và quản lý nhà nước về nhượng quyền thương mại (điều 291)...tuy chưa được qui định đầy đủ như những nước phát triển, song việc bổ sung thêm hoạt động nhượng quyền thương mại là một sự kịp thời và tiến bộ của chính phủ.
Các văn bản pháp quy hướng dẫn áp dụng luật thương mại năm 2005 đối với hoạt động nhượng quyền thương mại
- Nghị định số 35/2006/NĐ-CP do chính phủ ban hành ngày 31/3 quy định chi tiết về hoạt động nhượng quyền thương mại. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyên hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa, ngoài những quy định tại Điều 7 Nghị định này, chỉ được thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại đối với những mặt hàng mà doanh nghiệp đó được kinh doanh dịch vụ phân phối theo cam kết quốc tế của Việt Nam.
Điều kiện hoạt động nhượng quyền thương mại đối với bên nhượng quyền là thương nhân được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất 1 năm. Trường hợp thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 1 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại. Thương nhân đó đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền theo Quy định 18 của Nghị định này.
Đối với bên nhận quyền là thương nhân được phép nhận quyền thương mại khi có đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại. Hàng hóa, dịch vụ được phép kinh doanh, nhượng quyền thương mại không thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh.
Trường hợp hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh, danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp giấy phép kinh doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều kiện kinh doanh.
Nghị định quy định rõ trách nhiệm cung cấp thông tin và hợp đồng trong nhượng quyền thương mại; đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại; hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại và thẩm quyền xử lý vi phạm.
- Thông tư số 09/2006/TT-BTM trong đó hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Theo đó, các doanh nghiệp thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại (Franchise) với các đối tác nước ngoài và ngược lại sẽ tiến hành thủ tục đăng ký trực tiếp với Vụ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ Thương mại).
Đối với hoạt động nhượng quyền thương mại trong nước, các doanh nghiệp sẽ đăng ký với các Sở Thương mại hoặc Sở Thương mại và Du lịch tại địa phương mà doanh nghiệp dự kiến thực hiện nhượng quyền thương mại.
Trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền ở trung ương cấp phép thành lập sẽ đăng ký hoạt động nhượng quyền tại Sở Thương mại hoặc Sở Thương mại và Du lịch nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký có trách nhiệm đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại của thương nhân vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.
Trường hợp từ chối đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại, trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký phải thông báo bằng văn bản trong đó nêu rõ lý do từ chối.
- Đối với hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ, trong thời gian tối đa 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký phải thông báo bằng văn bản cho thương nhân nộp hồ sơ để yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh hồ sơ.
Ngoài ra, Thông tư cũng quy định rõ trách nhiệm của cơ quan đăng ký trong quá trình đăng ký, đặc biệt là trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại của thương nhân lên trang thông tin điện tử của Bộ Thương mại.
Trong quá trình thực hiện Thông tư, nếu có khó khăn, vướng mắc các tổ chức và cá nhân có thể phản ánh về Bộ Thương mại để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.
(5) Luật cạnh tranh năm 2004 về cạnh tranh trong hoạt động thương mại.
(6) Quyết định số: 106/2008/QĐ-BTC Về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.Theo đó mức thu lệ phí đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại khi cấp Thông báo chấp thuận điều kiện hoạt động nhượng quyền thương mại như sau:
(i). Thương nhân nước ngoài nhượng quyền thương mại vào Việt Nam:
- Cấp mới thông báo là: 16.500.000 đồng/giấy;
- Sửa đổi, bổ sung thông báo là: 6.000.000 đồng/giấy;
- Cấp lại thông báo là: 500.000 đồng/giấy.
(ii). Thương nhân Việt Nam nhượng quyền thương mại ra nước ngoài
- Cấp mới thông báo là: 4.000.000 đồng/giấy;
- Sửa đổi, bổ sung và cấp lại thông báo là: 500.000 đồng/giấy.
(iii). Thương nhân nhượng quyền thương mại trong nước
- Cấp mới thông báo là: 4.000.000 đồng/giấy;
- Sửa đổi, bổ sung và cấp lại thông báo là: 500.000 đồng/giấy.
Đối tượng nộp phí theo mức quy định trên là các thương nhân Việt Nam và nước ngoài được cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Bộ Công Thương và các đơn vị trực thuộc) cấp Thông báo chấp thuận điều kiện hoạt động nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật.
(7) Ngoài ra, nếu nhượng quyền thương mại có liên quan đến chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sử hữu trí tuệ thì còn phải chịu sự điều chỉnh của Luật Sở Hữu Trí tuệ năm 2005.
Ở đây chúng ta thấy, cũng giống như pháp luật các nước, pháp luật nước ta đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiến hành hoàn thành thủ tục đăng ký nhượng quyền qua đó tạo điều kiện cho hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển.
Hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua
kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại tuy đã có mặt và phát triển mạnh ở hầu hết các nước và châu lục trên khắp thế giới. kết quả thực tiễn tại nhiều nước trên thế giới cũng đã chứng minh franchise đã và đang đóng vại trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi nền kinh tế. Tại Việt Nam theo điều tra của hội nhượng quyền thế giới (WFC) vào năm 2004 thì hiện nay Việt Nam chỉ có 70 hệ thống nhượng quyền thương mại trong đó chiếm đa số lại là các thương hiệ nước ngoài như KFC, Lotteria, Jollibee, Burgerkhan, Carval, Subway restaurants, pizza Hut, Gloria Jean Coffees….. Và một số ít các thương hiệu Việt Nam như: Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô Bakery, Highlands Coffee, Nước mía siêu sạch….
Franchise xuất hiện ở Việt Nam từ giữa thập niên 90 khi có một vài doanh nghiệp kinh doanh thiết bị lọc nước do Việt Kiều về đầu tư và đưa ra hình thức franchise nhưng thị trường lúc bấy giờ chưa thực sự sôi động và bản thân thương hiệu của doanh nghiệp đó cũng chưa mấy nổi tiếng nêm cũng không thành công và phải 3 – 5 năm trở lại đây kinh doanh theo hình thức franchise mới bắt đầu rục rịch trở lại và thực sự sôi động sau sự kiện công ty quản lý quỹ quốc tế (Vinacapital) và nhóm G18 (đại diện cho các doanh nghiệp tư nhân hàng đầu phía Nam) phối hợp với đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam tổ chức hội thảo Franchise tại Việt Nam “Franchise Việt Nam 2005” vào ngày 28/6/2005. Đến 2006, có khoảng 530 hồ sơ đăng ký nhượng quyền thương mại trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngày 5.4.2007, tại KS Sofitel, TP.HCM, Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư TP.HCM (ITPC), báo Sài Gòn Tiếp Thị cùng Dự án phát triển mạng lưới bán lẻ Việt Nam, hiệp hội Franchise Singapore (Franchising & Licensing Association - FLA Singapore) đã tổ chức buổi toạ đàm "Franchise Việt Nam 2007 - kiến thức và kinh nghiệm xây dựng - quản lý"
Gần 70 hệ thống nhượng quyền con số này dẫu còn khiêm tốn so với các nước láng giềng như Trung Quốc hay Thái Lan, nhưng bước đầu đã tạo ấn tượng năng động, hiện tại và hiệu quả kinh tế với các doanh nghiệp Việt Nam hay đối với người mới khởi sự kinh doanh khi phần lớn các hợp đồng nhượng quyền thương mại đang triển khai thành công.
Thống kê hệ thống nhượng quyền thương mại của một số nước
trên thế thới
STT
Quốc Gia
Số lượng bên nhượng quyền thương mại
1
Trung Quốc
1900
2
Mỹ
1500
3
Nhật Bản
1100
4
Úc
800
5
Pháp
765
6
Anh
695
7
Indonesia
300
8
Thái Lan
100
9
Việt Nam
70
(nguồn: Báo cáo của Hội đồng nhượng quyền thương mại Thế Giới năm 2004 )
Hoạt động nhượng quyền thương mại của Việt Nam gồm hai mảng chính là hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam với tư cách là người nhận quyền và với tư cách là người nhượng quyền
2.1 Hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam với tư cách là người nhượng quyền
Nhượng quyền thương mại đang là hình thức kinh doanh phát triển tại Việt Nam. Đến nay, nhiều doanh nghiệp đã biết tận dụng hình thức này để làm đòn bẩy phát triển thị trường và nâng cao giá trị thương hiệu của mình. Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp hoạt động theo hình thức này vẫn còn rất ít và số liệu về hoạt động nhượng quyền thương mại hầu như chưa được thống kê chính thức và công bố bởi bất kì một cơ quan, tổ chức nào trong nước.
Hiện tại ở Việt Nam, chỉ có một số hệ thống nhượng quyền là thực sự của doanh nghiệp Việt Nam. Trong số đó có 4 thương hiệu lớn là Cà Phê Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô Bakery và Bánh Đức Phát. Các doanh nghiệp thức hiện nhượng quyền thương mại của Việt Nam hầu hết thực hiện chiến lược nhượng quyền thương mại riêng lẻ, trực tiếp cho khách hàng ở trong nước hay ngoài nước.
Bởi vì, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn đầu làm quen với frachise, chưa khẳng định và chưa thực sự có những chính sách kiểm soát chặt chẽ, liên tục các tiêu chuẩn đồng bộ của từng cơ sở nhượng quyền và cũng chưa sử dụng đối tác trung gian thay mặt mình quản lý. Chính vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam e ngại thương hiệu chưa kịp vững mạnh thì có thể đã gây ấn tượng xấu và mại một dần trong mắt người tiêu dung.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện nhượng quyền riêng lẻ, trực tiếp trước với mục đích thăm do, sau đó nếu thấy khả năng hợp tác và điều hành của đối tác nhận quyền đạt các tiêu chuẩn cần thiết thì mới phát triển họ thành đại lý nhượng quyền độc quyền hoặc đại lý nhượng quyền phát triển khu vực. Chiến lược này tuy chậm nhưng có thể nói hiện nay là an toàn hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Áp dụng hình thức này, các doanh nghiệp Việt Nam với tư cách là chủ thương hiệu có điều kiện làm việc và kiểm tra cơ sở nhượng quyền một cách chặt chẽ, sâu sát. Mối quan hệ giữa người mua và người bán nhờ vậy mà gắn bó hơn và phí nhượng quyền thu được cho chủ thương hiệu không phải chia sẻ cho đối tác trung gian.
Với hình thức nhượng quyền riêng lẻ, trực tiếp, Trung Nguyên có thể coi là tiên phong đối với doanh nghiệp Việt Nam. Trung Nguyên ra mắt cửa hàng đầu tiên vào năm 1998 tại thanh phố Hồ Chí Minh. Bằng hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại từ năm 2000 đến nay thương hiệu đã có hơn 1000 quán cà phê trên khắp 63 tỉnh thành cả nước và đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt là sự phát triển thêm của hệ thống siêu thị G7 Mart. Hệ thống này cũng sẽ nhân rộng mô hình thông qua phương thức nhượng quyền thương mại với tham vọng chiếm lĩnh thị trường nội địa ở Việt Nam trước khi có đối thủ cạnh tranh nước ngoài đổ bộ và trong tương lai sẽ hướng ra nước ngoài
Tương tự phở 24 của tập đoàn Nam An cũng đã định hình được uy tín và đã nhượng quyền ra nước ngoài. khi nhắc đến các nhà nhượng quyền (franchisor) thành công tại Việt Nam,có lẽ người ta nghĩ ngay đến Phở 24. Mặc dù, Trung Nguyên là thương hiệu tiên phong trong hoạt động nhượng quyền (năm 2000), thế nhưng việc xây dựng một hệ thống nhượng quyền chuẩn mực, mang tính hàn lâm vẫn là Phở 24. Sở dĩ nói như vậy là vì Trung Nguyên thành công trong việc nhân rộng mô hình quán cà phê trên khắp Việt Nam, nhưng Trung Nguyên lại không chú trọng đến việc phải duy trì, phát triển hệ thống theo những chuẩn mực, nguyên tắc nhất định của phương thức franchise, vì thế kể từ năm 2004 trở về sau, hệ thống quán cà phê Trung Nguyên bị “khựng lại”, không còn dấu hiệu mạnh mẽ như trước. tháng 6 năm 2003 cửa hàng phở đầu tiên đã được mở tại Thành Phố Hồ CHí Minh, đến nay phở 24 đã trở thành thương hiệu yêu thích với trên 50 cửa hàng tại Việt Nam, Phở 24 đã nhượng quyền thành công tại nhiều nước như Inđênêxia, Philíppin, Ôxtrâylia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ và mới nhất là Singapore. Mức giá nhượng quyền trong nước là 7000 USD và ở nước ngoài là 12000 USD chưa kể doanh thu 3% trên tổng doanh thu của từng cửa hàng đã chuyển nhượng
Thêm vào nữa là Công ty bánh kẹo Kinh Đô, công ty sản xuất bánh kẹo lớn nhất Việt Nam với hơn 200 nhà phân phối và với hơn 65000 cửa hàng bán lẻ đã bắt đầu kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại. Ngày 10 tháng 4 năm 2005, cửa hàng nhượng quyền đầu tiên của công ty Kinh Đô đã đi vào hoạt động tại quận Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh. Theo đây Kinh Đô là công ty thực phẩm trong nước đầu tiên nhượng quyền kinh doanh cho một cửa hàng bán lẻ. Từ năm 1999 đến tháng 3 năm 2006, hệ thống Kinh Đô Bakery đã có 26 cửa hàng bán lẻ thực phẩm và đồ uông với trên 400 loại sản phẩm khác nhau. Tuy nhiên trong số đó có 6 cửa hàng “Kinh Đô Bakery” là cửa hàng được thực hiện theo phương thức nhượng quyền thương mại từ chủ thương hiệu. Công ty nhượng quyền là công ty cổ phần thực Phẩm Kinh Đô Sài Gòn, 20 cửa hàng còn lại đều là các cửa hàng bán lẻ do công ty tự thành lập.
Ngoài 3 hệ thống được xem là bài bản nhất của doanh nghiệp Việt Nam như trên ta có thể kể đến những cái tên như: thời trang Ninomax, Foci, giày dép T&T, AQ silk, phở 2000... Đặc biệt T&T là một trong những doanh nghiệp đầu tiên được Bộ Thương mại cấp phép nhượng quyền sang Maysia và Úc. Đây cũng là những tín hiệu đáng mừng cho sự phát triển non trẻ của lĩnh vực franchise tại Việt Nam. AQsilk là thương hiệu của công ty lụa tơ tằm Á Châu, một công ty chuyên cung cấp các sản phẩm lụa tơ tằm. Tháng 8 năm 2002 công ty đã kí kết hợp đồng nhượng quyền thương mại với một Việt Kiều ở Mỹ trị giá 100.000 USD. Nhất là thương hiệu thời trang Foci, trong 48 cửa hiệu thời trang Foci hiện nay, có 35 cửa hiệu nhượng quyền thương mại. Dự kiến, năm 2008, Foci sẽ nhân lên 100 cửa hiệu trên toàn quốc. Mục tiêu lâu dài của Foci là xây dựng một thương hiệu thời trang đẳng cấp quốc tế và đưa Foci ra thế giới bằng con đường nhượng quyền thương mại.
Trong lĩnh vực xây dựng nhà ở cũng xuất hiện nhượng quyền thương mại. Nhà vui là đơn vị tiên phong đầu tiên khởi xướng xây dựng mô hình các trung tâm thiết kế và thi công nhà ở với thương hiệu nhavui.center. Mô hình nhượng quyền kinh doanh là mô hình trung tâm tư vấn thiết kế và thầu xây dựng, sản phẩm chính là các công trình nhà ở. Mô hình nhượng quyền thương mại Nhavui.center đã thực sự khởi động bằng lễ kí kết nhượng quyền được tổ chức trang trọng tại văn phòng chính của Công ty Nhà vui cho 4 Centre mới: Nhavui.Center Nam Saigon, Nhavui.Center Hậu Giang, Nhavui.Center Bình Thạnh, Nhavui.Center Vũng Tàu.
Ngoài ra còn có nhượng quyền thương mại cũng được đề cập đến trong lĩnh vực kế toán, thuế. Khi tham gia hội trợ quốc tế lần thứ 14 tại washington vào tháng 4 năm 2005 do thường vụ của Đại Sứ Quán Mỹ tại Việt Nam tổ chức, điều gây ngạc nhiên là danh mục sản phẩm đưa ra là nhượng quyền đâu tiên là dịch vụ kế toán, thuế chứ không phải hàng hóa tiêu dung. Mặc dù hiện nay ở Việt Nam việc nhượng quyền thương mại đối với dịch vụ kế toán và chưa từng biết đến.
Hiện nay ngành kinh doanh thực phẩm phục vụ ăn uống đang là ngành thế mạnh nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam. Nhưng đối với đa số các doanh nghiệp việt nam nhượng quyền thương mại vẫn còn là một ẩn số. nhiều doanh nghiệp đã giải ẩn số này nhưng chưa tường tận, chưa hiểu hết đường đi nước bước của nó lên chưa khai thác hết tiềm năng của nhượng quyền thương mại một cách hiệu quả nhiều doanh nghiệp áp dụng mô hình này, nhưng nội dung hoạt động nhượng quyền lại chưa hoàn toàn đúng như nội dung hoạt động nhượng quyền trên thế giới áp dụng.
Hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam với tư cách là người nhận quyền
Thị trường nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu từ năm 1994 qua một hệ thống bán kem Baskin Robbins ở Mỹ. Đến nay đã có nhiều thương hiệu trên thế giới được nhượng quyền thương mại vào Việt Nam. Các thương hiệu lớn của thế giới khi mở rộng thị trường ra thế giới bằng phương thức nhượng quyền thương mại thường không bao giờ nhượng quyền riêng lẻ, trực tiếp. thay vào đó họ áp dụng franchise độc quyền cho cả một quốc gia hoặc nhượng quyền thương mại phát triển khu vực hoặc tự lập công ty đại diện thay mặt mình nhượng quyền riêng lẻ, trực tiếp cho các đối tác trong nước.
Các mô hình nhượng quyền tiên phong tại Việt Nam của các thương hiệu nước ngoài được tìm thấy tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có thể là những công ty con (công ty 100% vốn nước ngoài) hoặc liên doanh với tỉ lệ vốn gop cao của các thương hiệu nước ngoài lớn. tại các doanh nghiệp này sau khi hoàn thành thủ tục cấp phép đầu tư và thành lập công ty, công ty mẹ tại nước ngoài sẽ tiến hành nhượng quyền cho công ty con, liên doanh với việt nam dưới dạng cấp li-xăng nhãn hiệu hàng hóa và chuyển giao công nghệ (thực chất là chuyển giao toàn bộ hệ thống kinh doanh).
Bên nhận quyền của các thương hiệu nổi tiếng này phải là các công ty lớn tiềm lực tài chính vững mạnh, đủ mở hàng loạt cửa hàng trong vài năm. Đây là điều kiện bắt buộc đặt ra của chủ thương hiệu mà các công ty nhỏ cá nhân kinh doanh không thể nào đap ứng nổi. Được biết hầu hết các doanh nghiệp đứng ra mua franchise độc quyền các thương hiệu lớn thế giới đều phải chịu lỗ trong it nhất vài năm đầu để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường.
Làn sóng nhượng quyền sau hội nhập: Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, nhượng quyền thương mại sẽ trở thành một trong những phương thức kinh doanh quan trọng. Nhiều tập đoàn lớn của thế giới đã “đổ bộ” vào thị trường Việt Nam tìm cơ hội phát triển thương hiệu: KFC, Lotteria, Jollibee… Và gần đây nhất, thương hiệu cà phê nổi tiếng của Úc đã tiến vào thị trường Việt Nam thông qua hợp đồng franchise với công ty Viet Lifestyle. Gloria Jean là tập đoàn toàn cầu có trụ sở ở Australia. Đây là tập đoàn có hệ thống franchise lớn nhất thế giới với khoảng 800 điểm nhận franchise ở trên 30 quốc gia như Nhật, Philippines, Malaysia, Singapore... Tháng 4/2007, Gloria Jeans Coffees khai trương cửa hàng đầu tiên tại Hà Nội. Đây là cửa hàng cà phê thứ hai có vốn đầu tư 250.000 đô la Mỹ mà Công ty Viet Lifestyle - đại lý nhượng quyền thương mại của Gloria tại Việt Nam mở sau cửa hàng đầu tiên khai trương hồi cuối tháng 1-2007 tại TPHCM. Viet Lifestyle dự định sẽ mở thêm năm cửa hàng nữa trong năm nay, trong đó có bốn ở TPHCM và một ở Hà Nội. Cửa hàng cà phê Gloria thứ hai tại thủ đô sẽ được khai trương vào tháng 6 tới. Ngoài ra, Gloria Việt Nam sẽ nhượng quyền thứ cấp cho một công ty Việt Nam vào giữa năm nay. Ông Billy Sin, Giám đốc kinh doanh vùng châu Á, Tập đoàn Gloria Jean cho biết "Trước khi vào Việt Nam, chúng tôi đã nghiên cứu kỹ về thị trường Việt Nam. Chúng tôi biết rõ cà phê là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, rất may là điều đó không ảnh hưởng nhiều đến sản phẩm cà phê của chúng tôi. Việt Nam có thể mạnh về loại cà phê Robusta, còn Gloria Jean phát triển mạnh đối với loại Arabica và đây cũng chính là sản phẩm chúng tôi muốn phát triển. Mặt khác, Việt Nam đang phát triển và là một thị trường tiềm năng đối với các nhà đầu tư. Chúng tôi nghiên cứu nhiều thị trường ở khu vực Đông Nam Á bao gồm cả Thái Lan, Malaysia... và nhận thấy các thị trường này giống nhau và đều có tiềm năng phát triển. Đây là thời điểm thích hợp để xâm nhập thị trường Việt Nam. Đối với tôi, vấn đề thời gian có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của nhãn hiệu như Gloria Jean." Từ đây ta có thể thấy rõ khả năng làm ăn kinh doanh rất bài bản và chuyên nghiệp với việc tìm hiểu rất tốt về sản phẩm, về thị trường Việt Nam của những doanh nghiệp nước ngoài khi muốn vào Việt Nam kinh doanh.
KFC đã thành công với 65 cửa hàng ở Việt Nam trong đó có 14 cửa hàng ở Hà Nội. Lotteria phát triển với 18 ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1977.doc