Những vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn TP Lạng Sơn

Tài liệu Những vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn TP Lạng Sơn: ... Ebook Những vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn TP Lạng Sơn

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn TP Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đã qua hơn một thập niên đổi mới và phát triển đạt được những thanh tựu khả quan đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng tạo lập những cơ hội thực hiện chiến lược công nghiệp hoá trong vài thập kỷ tới. Những thành công trong lĩnh vực tài chính-tiền tệ đóng vai trò quan trọng về sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế. Từ năm 1992 trở đi lạm phát được kiểm soát, thiết lập được cơ chế lãi suất dương, tỷ giá hối đoái biến động theo xu thế tích cực, giá trị đồng nội tệ và tỷ giá được ổng định. Cơ chế quản lý nói chung trong lĩnh vực tài chính-tiền tệ nói riêng đang được tiếp tục chuyển đổi theo nguyên tắc thị trường. Để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, cũng để phù hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, thì hệ thống Ngân hàng thương mại cũng ngày càng hoàn thiện và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có những thay đổi nhanh chóng, mạng lưới được mở rộng, hệ thống thanh toán và công nghệ Ngân hàng từng bước được hiện đại hoá tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật để thu hút và huy động nguồn vốn thanh toán và tiền gửi dân cư. Hoạt động của Ngân hàng thương mại gồm nhiều loại hình khác nhau như huy động vốn, cho vay, làm các dịch vụ khác cho khách hàng. Ngân hàng với tư cách là trung gian thanh toán trong nền kinh tế nên hoạt động thanh toán là hoạt động cơ bản, thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn, tăng vòng quay của vốn, giảm lượng tiền cần thiết trong lưu thông... và cuối cùng là tiết kiệm chi phí cho xã hội thanh toán là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của ngành Ngân hàng. Phương thức thanh toán trong các lớp dân cư hiện nay phổ biến là thanh toán tiền mặt trực tiếp tay trao tay. Theo phương thức thanh toán này; mỗi năm phải tốn nhiều tỷ đồng cho chi phí bảo quản, kiểm đếm, vận chuyển ... chưa kể thời gian thanh toán chậm, mà chưa chắc đã an toàn. Đây là một khỏan tổn thất lớn, mà hiện nay ta đang cần rất nhiều vốn để đầu tư và phát triển. Phương thức thanh toán qua Ngân hàng khắc phục được tình trạng đó. Nó không chỉ tiết kiệm được chi phí cho nền kinh tế xã hội, mà còn là công cụ thiết thực để điều tiết và thúc đẩy hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hoá và tăng vòng quay của vốn trong nền kinh tế. Bên cạnh đó thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho Ngân hàng thương mại có thêm nguồn vốn trong thanh toán. Đối với Ngân hàng Nhà nước dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt làm giảm lượng tiền trong lưu thông, là một trong những điều kiện trên quyết để Ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế và trước yêu cầu đổi mới cấp bách của hệ thống Ngân hàng để đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời cũng đề hoà nhập vào hệ thống, Ngân hàng trên thế giới, thì việc hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán ở các Ngân hàng thương mại lại rất cần thiết. là một sinh viên của trường học Viện Ngân hàng, qua 4 năm ngồi trên giảng đường nghiền ngẫm lý thuyết và qua hai tháng thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Lạng Sơn. Em đã lựa chọn nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: Những vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Lạng Sơn”. Với những kiến thức lý thuyết và cùng với những hiểu biết qua thực tế chuyên đề của em đề xuất một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Lạng Sơn. Kết cấu của chuyên đề như sau: CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. CHƯƠNG II: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thông thành phố Lạng Sơn. CHƯƠNG III: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán chuyển tiền điện tử tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Lạng Sơn. Mặc dù đã cố gắng trong nghiên cứu, sưu tầm tài liệu nhưng do thời gian có hạn, kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiết sót. Do vậy qua chuyên đề này em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các cán bộ Ngân hàng, cùng toàn thể các bạn sinh viên để chuyên đề được hoàn thiện hơn, giúp cho em nắm chắc hơn nữa trong quá trình nghiên cứu và công tác sau này. Em xin chân thành cảm ơn./. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ. 1/ Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) trong nền kinh tế: 1.1 Sự cần thiết khách quan: Thanh toán tiền tệ trong nền kinh tế diễn ra dưới hai hình thức là thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu thanh toán bằng tiền mặt có sự xuất hiện của tiền trong quá trình thanh toán thì thanh toán không dùng tiền mặt không có sự xuất hiện của tiền trong quá trình thanh toán mà được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người chi trả chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng; hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của lưu thông, trao đổi hàng hoá, cũng từ sau Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI. Với sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, hoạt động của nền kinh tế đã trở nên sôi động hơn với nhiều loại hình kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng mở rộng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đã khẳng định: “Hệ thống Ngân hàng cần phải vươn lên làm tốt chức năng trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán của các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển. Góp phần từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam”. Là một ngành có vai trò Trung tâm trong toàn bộ nền kinh tế, Ngân hàng phải đi trước các ngành kinh tế khác trong cuộc đổi mới và phát triển của đất nước. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 của Đảng ta đã khẳng định là: “Phải cải tổ hệ thống Ngân hàng hoạt động có hiệu quả, thực sự trở thành Trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán, đóng vai trò nòng cốt trên thị trường vốn và tiền tệ”. Thanh toán KDTM ra đời là do chính đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Sản xuất hàng hoá phát triển qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao. Nhưng ở giai đoạn nào thì tiền tệ vẫn đóng vai trò là một công cụ có tầm quan trọng lợi hại đặc biệt và có độ nhạy rất cao. Việc sử dụng công cụ tiền tệ như thế nào sẽ gây tác động dây truyền như là một tác nhân kinh tế đối với từng mắt xích hoặc có khi đối với các quá trình kinh tế. Trong các học thuyết kinh tế, người ta đã xác định Ngân hàng có vai trò là Trung tâm thanh toán của hệ thống Ngân hàng ngày càng rõ nét và to lớn. Tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn, trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ và do đó phát sinh quan hệ thanh toán. Mặt khác, tập trung thanh toán vào nguồn hàng là một vấn đề thiết yếu đối với mỗi doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong điều kiện nền kinh tế phát triển. Ngân hàng là nơi tập trung một khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, số tồn tài khoản này là Ngân hàng cho các tổ chức kinh tế trong nước để tiến hành mở rộng công ăn việc làm, kinh doanh buôn bán. Trong nền kinh tế hiện đại, Ngân hàng kiểm soát và điều động một cách lợp lý khối lượng tiền tệ, chịu ảnh hưởng của mọi chính sách phát triển kinh tế quốc gia. Tập trung công tác thanh toán vào Ngân hàng có một ý nghĩa to lớn không chỉ đối với xã hội, Chính phủ mà còn với cả các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Ngân hàng đứng trên phương diện rộng lớn. Nó phản ánh kinh tế của một nước. Nhìn vào những hoạt động và trình độ công nghệ của các nghiệp vụ trong Ngân hàng ta có thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế của nước đó. Hệ thống Ngân hàng phát triển mạnh mẽ sẽ tạo ra động lực cho mọi ngành kinh tế khác trong nước phát triển và ngược lại. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá thanh toán bằng tiền mặt ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm. Các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng, phức tạp, thanh toán không ngừng tăng lên về khối lượng và chất lượng. Như vậy, chính với sự phát triển của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời của một phương thức thanh toán mới ưu việt hơn. Đó là: Phương thức “thanh toán không dùng tiền mặt”. Thanh toán không dùng tiền mặt là một nấc thang phát triển tất yếu của nghiệp vụ thanh toán trong nền kinh tế thị trường và chính nó đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại. 1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường: Khi thanh toán không dùng tiền mặt ra đời đã khắc phục được những nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt và phát huy được vai trò to lớn đối vơí sản xuất, lưu thông hàng hoá; tiết kiệm chi phí lưu thông; góp phần tăng nguồn vốn cho Ngân hàng và tăng quản lý vĩ mô đối với hoạt động thanh toán trong nền kinh tế. Công tác thanh toán là một trong những chức năng Trung tâm của Ngân hàng Nhà nước. Theo đà phát triển chung của xã hội và hệ thống Ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên quan trọng. Ngày nay thanh toán không dùng tiền mặt là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá nhân và các đoàn thể - Trong nền kinh tế thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện trôi chảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho các đối tác tham gia. - Thứ nhất: Tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu chuyển hàng hoá tiền tệ góp phần làm giảm lượng tiền mặt trôi nổi trên thị trường, tiết kiệm được chi phí xã hội gắn liền với việc in tiền, huỷ tiền, hư hỏng, bảo quản, kiểm đếm… Khối lượng tiền cần thiết để thanh toán trong lưu thông có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt tăng sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt cần thiết. Vì vậy khối lượng tiền mặt trong lưu thông giảm xuống, sẽ giảm được chi phí lưu thông, mà chủ yếu là chi phí phát hành, bảo quản, kiểm điểm, cất giữ.v.v… Giảm được chi phí này sẽ tạo đều kiện tốt để điều hoà lưu thông tiền tệ vì quá trình thanh toán này chịu giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy mà chúng ta kế hoạch và điều hoà lưu thông tiền tệ. - Thứ hai: Thanh toán không dùng tiền mặt phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Bất kỳ một chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá nào đều bắt đầu bằng khâu thanh toán. Do vậy, phải tổ chức thanh toán nhanh gọn, chính xác vừa đảm bảo an toàn về vốn. Đứng ở tầm vĩ mô, khâu thanh toán ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn, đến kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Nếu như thanh toán được tiến hành trôi chảy sẽ giúp cho lưu thông hàng hoá thông suốt, các hoạt động của nền kinh tế sẽ tiến hành thuận lợi. Để tiến hành thanh toán qua Ngân hàng, các tổ chức, cá nhân phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán thông qua việc gửi một khoản tiền nhất định vào Ngân hàng. Tính chất của tài khoản này là luôn dư có, đó là nguồn vốn huy động tạm thời tồn đọng trên các tài khoản tiền gửi thanh toán nhưng chưa sử dụng đến. Hơn nữa, xuất phát từ khách không liên tục của việc nộp tiền bán hàng hoá, dịch vụ vào tài khoản và việc chi trả từ tài khoản, do không phải lúc nào các lệnh chi trả cùng một lúc với giá trị như nhau. Nên trên tài khoản luôn lưu ký một số chủ nhất định. Đây là nguồn vốn tín dụng khá lớn và có chi phí thấp (vì trả lãi thấp), mà Ngân hàng được phép sử dụng để mở rộng đầu tư và tín dụng cho nền kinh tế. (sau khi duy trì một tỷ lệ nhất định để đảm bảo chi trả cho chủ tài khoản trong mọi trường hợp). - Thứ ba: Thanh toán không dùng tiền mặt giúp Ngân hàng và các tổ chức tín dụng tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào nền kinh tế để mở rộng việc cấp tín dụng cho Ngân hàng. Như đã đề cập trong vai trò thứ hai, Ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn vốn từ tài khoản tiền gửi thanh toán để cho vay, mở rộng việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. Chỉ tiêu kế hoạch tín dụng tổng hợp là một trong những chỉ tiêu kế hoạch quan trọng nền kinh tế, mà kế hoạch tín dụng muốn thực hiện được tốt thì phải đẩy mạnh công tác thanh toán qua Ngân hàng. Việt thanh toán này diễn ra càng nhanh chóng thì sẽ giải phóng nhanh vốn trong khâu thanh toán, kết quả là tạo ra nguồn vốn nhàn rỗi lớn thì đẩy mạnh hoạt động cho vay của Ngân hàng và cuối cùng là tạo điều kiện để kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Xu hướng trong thời gian tới khối lượng thanh toán sẽ tiếp tục tăng nhanh, do vậy nguồn vốn tiền gửi thanh toán sẽ chiếm đoạt tỷ trọng đáng kể trong toàn bộ cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng. - Thứ tư: Thanh toán qua Ngân hàng đã và đang trở thành công cụ cạnh tranh có hiệu quả của các Ngân hàng nhằm thu hút khách hàng. Điều này thể hiện trên hai khía cạnh sau: + Về dịch vụ Ngân hàng: Mục đích của khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng không chỉ để hưởng lãi mà còn để mua các dịch vụ Ngân hàng và dịch vụ dần sẽ trở thành mục đích chính của khách hàng. Vì vậy sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng được đo bằng số lượng và chất lượng các dịch vụ Ngân hàng trong đó có dịch vụ thanh toán. + Về chi phí Ngân hàng: Lãi suất Ngân hàng phải trả cho số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán là rất thấp. Thậm chí một số nước trên thế giới người gửi tiền không được hưởng lãi trên số dư tài khoản tiền gửi thanh toán. Vì vậy Ngân hàng có thể lợi dụng việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt như một giải pháp hữu hiệu để thay đổi cơ cấu nguồn vốn theo xu hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có chi phí thấp, giảm tỷ trọng nguồn vốn có chi phí cao. Bên cạnh đó, thông qua việc quản lý trong biến động về số dư trên tài khoản tiền gửi Ngân hàng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động, khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Đây là cơ sở rất quan trọng để Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tư vấn, đầu tư có hiệu quả. - Thứ năm: Vai trò đối với quản lý vĩ mô của Nhà nước, Ngân hàng là tổ chức kinh tế thông qua các chính sách của Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và thanh toán được thực hiện. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước qua các Ngân hàng chỉ thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi phần lớn khối lượng thanh toán tập trung qua các Ngân hàng. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước quản lý một cách tổng thể quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. 2/ Quá trình phát triển của nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam: 2.1. Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp nền kinh tế được thực hiện theo cơ chế hành chính mệnh lệnh từ trên giao xuống cho các doanh nghiệp sản xuất và thương nghiệp làm công việc phân phối tiêu thụ hàng hoá. Do vậy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong xã hội tốt hay xấu cũng không ảnh hưởng gì đến nền kinh tế bao cấp này. Hoạt động của Ngân hàng cũng được thực hiện theo cơ chế đó cho nên hiệu quả kinh tế của Ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế không được quan tâm nhiều. Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kế hoạch hoá được thực hiện theo Nghị định 75/NĐ - CP. Với nguyên tắc cứng nhắc, kém hiệu quả - cụ thể phương thức thanh toán lòng vòng, chậm chạp (một khoản chuyển tiền thanh toán chi trả tiền hàng khi thực hiện phải mất nhiều thời gian từ 5-10 ngày). Vì công cụ thanh toán kém linh hoạt, thủ tục phức tạp, các phương tiện làm việc lạc hậu, công cụ thanh toán nói trên dẫn đến tốc độ luân chuyển vốn chậm chạp, thiếu chính xác, cung cấp thông tin không kịp thời và không đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thanh toán làm ảnh hưởng đến tốc độ và kéo dài chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ngoài công cụ thanh toán nghèo nàn Ngân hàng còn có qui định cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế chỉ được mở tài khoản tiền gửi tại đại phương mình hoạt động (cùng địa phương). Khách hàng không được tự do lựa chọn Ngân hàng dẫn đến không có sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp việc thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta tuy đã được áp dụng khá rộng rãi trong nền kinh tế nhằm giảm bớt lượng tiền mặt đi vào lưu thông bằng cách Ngân hàng đã qui định cho các doanh nghiệp định mức tồn quĩ tiền mặt, định mức tạo chi … nhưng vấn kém hiệu quả, cụ thể những năm đó lượng tiền mặt trong lưu thông rất lớn, Ngân hàng ở trong tình trạng khan hiếm tiền mặt, như vậy Ngân hàng vẫn chưa làm tốt chức năng thanh toán của mình để giúp cho nền kinh tế phát triển. Ngân hàng được xây dựng theo mô hình một cấp gồm Ngân hàng Nhà nước và các chi nhánh vừa thực hiện chức năng kinh doanh hoạt động theo phương thức kế hoạch hoá tập trung từ trên xuống dưới. 2.2. Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, thì nền kinh tế của nước ta phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Do vậy mà đòi hỏi ngành Ngân hàng phỉ tiến hành sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chế độ, thể lệ thanh toán và áp dụng tiến bộ khoa học vào kỹ thuật thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp và đáp ứng được yêu cầu đa dạng hoá của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53 về tổ chức bộ máy Ngân hàng. Theo Nghị định này hệ thống Ngân hàng bắt đầu được chia thành hai cấp. + Cấp quản lý: Là Ngân hàng Nhà nước có chức năng độc quyền phát triển tiền, quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trên tầm quản lý vĩ mô. + Cấp kinh doanh: Là các Ngân hàng chuyên doanh thuộc sở hữu của Nhà nước và vẫn trực thuộc Ngân hàng Trung ương. Các Ngân hàng này có chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng. Sau khi hai Pháp lệnh ra đời ngày 23/05/2990 đã đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường là lần lượt các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng cổ phần được thành lập, chi nhánh Ngân hàng nước ngoaì… Năm 1990 hệ thống Kho bạc ra đời mà chức năng quản lý ngân quĩ ngân sách Nhà nước. Bắt đầu của thời kỳ thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện bằng Quyết định 101/NH-QĐ ngày 30/7/1991 Quyết định này ban hành các thể lệ chế độ thanh toán không dùng tiền mặt bằng bốn công cụ sau: - Séc. - Uỷ nhiệm chi - chuyển tiền. - Uỷ nhiệm thu. - Thẻ tín dụng. Sau một thời gian thực hiện bốn công cụ trên chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đa dạng hoá của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng nhu cầu cấp bách của thị trường Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung và ra Quyết định số 22/QĐ-NH1 ngày 22/02/1994 theo Quyết định này đã bổ sung thêm hai công cụ thanh toán mới đó là: - Ngân phiếu thanh toán. - Thẻ thanh toán. Ngày 01/4/1997 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 196/TTg về việc cho phép Ngân hàng, tổ chức tín dụng được sử dụng dữ liệu thông tin trên vật mang tin để làm chứng từ kế toán và thanh toán. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, tạo bước khởi đầu cho việc thực hiện chuyển tiền điện của hệ thống Ngân hàng phát triển. Riêng thanh toán bằng séc đã được bổ sung thêm séc cá nhân nhằm thu hút và tạo điều kiện cho người dân quen dần với công việc thanh toán qua Ngân hàng. Sau đó ngày 09/5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 30/CP về việc sử dụng séc mới trong cả nước áp dụng kể từ ngày 01/4/1997 thay thế cho các loại séc cũ. Việc áp dụng công cụ thanh toán mới đã đáp ứng được những yêu cầu thanh toán đa thành phần trong nền kinh tế, mọi tổ chức cá nhân trong nền kinh tế đều có tể tham gia trực tiếp thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá, dịch vụ phát triển, góp phần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Từ khi đổi mới chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điều này được chứng minh ở các mặt sau: - Qua các công cụ thanh toán liên hàng giữa các Ngân hàng trong toàn quốc và thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng đã có bước tiến bộ rõ rệt. Từ khi áp dụng kỹ thuật máy vi tính để thanh toán liên hàng, tiến tới thanh toán điện tử thực hiện từ ngày 01/7/1996 trong toàn hệ thống Ngân hàng công nghiệp, nông nghiệp Việt Nam. Khi thanh toán điện tử các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được hoàn tất trong một ngày làm việc. Trường hợp khách hàng yêu cầu chuyển nhanh và hoàn tất trong thời gian từ 1-3h (khách hàng phải chịu chi phí dịch vụ khẩn theo qui định). - Qua thanh toán bù trừ: Các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, Kho bạc khi tham gia thanh toán bù trừ được giao nhận chứng từ hai phiên trong ngày qua trả mềm (tại Ngân hàng chủ trì là Ngân hàng Nhà nước). - Qua chuyển tiền điện tử: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 353/1997/QĐ-NHNN2 ngày 22/10/1997 ban hành Quy chế chuyển tiền điện tử, từ đây Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng thương mại Nhà nước và một số NHTM cổ phần có mạng lưới hoạt động rộng đã xúc tiến xây dựng riêng cho mình một hệ thống thanh toán nội bộ - chuyển tiền điện tử trong hệ thống, và đưa vào thực hiện từ đầu năm 1999. Việc áp dụng thanh toán điện tử, thanh toán bù trừ, chuyển tiền điện tử làm tăng nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt thời gian chiếm dụng vốn, mức độ an toàn cao. Tiện lợi cho các khách hàng, rút ngắn thời gian chu chuyển vốn của doanh nghiệp và cá nhân. - Bổ sung hai công cụ thanh toán mới: Ngân phiếu thanh toán và thẻ thanh toán, sửa đổi một số qui định trong các công cụ thanh toán truyền thống lạc hậu cho thấy rõ Ngân hàng đã làm tốt chức năng thanh toán, đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế nhiều thành phần. - Việc Ngân hàng từng bước áp dụng công nghệ tin học tiên tiến vào thanh toán nhằm hạn chế sai sót nhỏ của thao tác thủ công, tăng nhanh tốc độ luân chuyển nhằm thu hút khách hàng, tạo lòng tin của Ngân hàng đối với doanh nghiệp và cá nhân. Đồng thời cũng nâng cao trình độ của ngành Ngân hàng trong nước tiến kịp các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. - Việc khách hàng được tự do lựa chọn Ngân hàng để hoạt động đã tạo điều kiện mở rộng mạng lưới thanh toán không dùng tiền mặt. Để thu hút được nhiều khách hàng Ngân hàng phải nâng cao uy tín của mình bằng chất lượng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trên thương trường. Xuất phát từ sự đổi mới này, thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta, đặc biệt sau Quyết định 22/QĐ-NH đã tăng nhanh về số lượng, chất lượng và các thành phần tham gia. Như vậy lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt đã không ngừng được mở rộng ở mọi thành phần kinh tế. Việc nâng cao và cải tiến áp dụng khoa học kỹ thuật thanh toán luôn là khâu mấu chốt quan trọng để Ngân hàng đảm bảo thanh toán nhanh, an toàn, rút ngắn thời gian thanh toán, chính xác tiện lợi, góp một phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới kinh tế thị trường của đất nước. Qua đó nó cũng tỏ rõ ưu thế hơn hẳn của thanh toán không dùng tiền mặt so với thanh toán bằng tiền mặt. Qua đó ta thấy việc thanh toán xuất hiện từ khi có hệ thống Ngân hàng ra đời và lúc đó phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng xuất hiện, nhưng trong từng thời kỳ kinh tế khác nhau thì phương thức thanh toán cũng khác nhau: Cụ thể là các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng hiện đại hơn, nhanh chóng, chính xác hơn so với thời kỳ trước. Tuy nhiên việc thanh toán không dùng tiền mặt cũng phải là những qui định mang tính nguyên tắc cụ thể. 3/ Những qui định mang tính nguyên tắc về thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam: Hiện nay ở nước ta thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện theo Quyết định số 22/QĐ-NH1 ngày 21/02/1994 và thông tư hướng dẫn số 08/TT-NH2 ban hành ngày 02/6/1994 và mới đây là Nghị định 30/CP ngày 09/5/1996 của Chính phủ và thông tư 07/TT - NH1 ngày 27/12/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn qui chế phát hành và sử dụng séc. Trong đó có các qui định: 3.1. Quy định chung: “các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể… Công dân Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam (gọi chung là đơn vị hay cá nhân) đều có quyền lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán”. Với qui định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình kinh doanh, họ sẽ tìm thị trường thuận lợi nhất để hoạt động, lựa chọn những Ngân hàng có uy tín, chất lượng và phục vụ tốt nhất cho nhu cầu thanh toán của họ. Từ đó tạo cho khách hàng có điều kiện mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình trên toàn quốc mà vẫn tiến hành giao dịch thanh toán chi trả một cách thuận lợi, nhanh chóng và an toàn. Đối với Ngân hàng qui định này đòi hỏi mỗi một Ngân hàng phải thường xuyên, đổi mới, hoàn thiện dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt bằng cách phải đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và sử dụng máy vi tính thành thạo để nắm được những kỹ thuật tiên tiến và cũng phải có trình độ ngoại ngữ nhất định để có thể giao dịch được với khách hàng, bên cạnh đó thái độ phục vụ khách hàng của cán bộ nhân viên rất quan trọng, cán bộ nhân viên phải nhiệt tình, hướng dẫn đơn vị và cá nhân làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt theo đúng chế độ ban hành. Nhằm nâng cao uy tín của Ngân hàng trên thị trường và thu hút ngày càng được nhiều khách hàng hơn, Ngân hàng phải làm thế nào đó để khách hàng không quên được Ngân hàng. 3.2. Quy định đối với khách hàng: 3.2.1 Quy định đối với bên mua (bên phải trả): “Để thực hiện thanh toán đầy đủ, kịp thời, các chủ tài khoản (bên trả tiền) phải có đủ số dư trên tài khoản. Mọi trường hợp thanh toán vượt quá số dư trên tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước là vi phạm chế độ thanh toán và phải xử lý theo pháp luật”. Quy định này nhằm tránh tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các bên tham gia thanh toán, giúp cho người chi trả cũng như người thụ hưởng chủ động vốn của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần tăng nhanh vòng quay vốn của các đơn vị kinh tế cũng như tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong toàn bộ nền kinh tế. 3.2.2 Quy định đối với bên bán (bên thụ hưởng). “Người thụ hưởng khi nhận được các chứng từ thanh toán phải kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ này (ghi đầy đủ mọi yếu tố quy định, không sửa chữa, tẩy xoá các chữ ký và dấu phải đúng với mẫu chữ ký đã đăng ký ở Ngân hàng). Nộp các chứng từ thanh toán vào Ngân hàng đúng với thời gian qui định cho từng loại chứng từ. Nếu thiếu một trong các điều kiện trên, giấy tờ thanh toán sẽ không hợp lệ, không có giá trị thanh toán”. Quy định này nhằm bảo vệ an toàn tài sản cho các khách hàng kể cả người chi trả, người thụ hưởng và Ngân hàng tránh tình trạng sơ hở để kẻ gian lợi dụng tham ô. 3.3. Quy định đối với Ngân hàng (người thực hiện thanh toán): Ngân hàng thương mại và Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài khoản, đảm bảo chính xác, kịp thời, an toàn, thuận tiện. Các Ngân hàng thương mại và Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt hay chuyển khoản trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản. Ngân hàng thương mại và Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản (bên trả tiền) trước khi thực hiện việc thanh toán. Đồng thời được quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền hoặc chứng từ thanh toán không đầy đủ các yêú tố qui định. Ngân hàng thương mại hay Kho bạc Nhà nước không chịu trách nhiệm về nội dung liên đới của hai bên khách hàng. Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước phải bồi thường thiệt hại tuỳ theo mức độ. - Ngân hàng thương mại và Kho bạc Nhà nước chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản khách hàng cho các cơ quan bên ngoài khi có văn bản của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của Pháp luật. - Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng được thu phí theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Quy định này đã hoàn toàn xoá bỏ mặc cảm trước đây của khách hàng về thanh toán Ngân hàng, tạo sự tin tưởng tuyệt đối của khách hàng khi mà họ có số lượng vốn không nhỏ giữ tại Ngân hàng và uỷ quyền cho Ngân hàng thanh toán. Quy định cũng phân biệt trách nhiệm vật chất, pháp lý rõ ràng giữa Ngân hàng và khách hàng khi một trong hai bên vi phạm chế độ thanh toán, nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và qui định những khoản phí mà họ phải trả cho Ngân hàng khi thực hiện thanh toán. Việc thu phí dịch vụ thanh toán làm tăng khoản thu nhập của Ngân hàng. Để thực hiện thanh toán phải có các hình thức thanh toán thích hợp. Hệ thống các hình thức thanh toán do Ngân hàng Nhà nước ban hành để áp dụng thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế. 4/ Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng ở nước ta hiện nay: Nền kinh tế ngày càng phát triển, nhận thức cũng như đời sống của người dân ngày càng cao, để đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các mối quan hệ xã hội, trong quá trình hoạt động kinh tế, ngày nay hầu hết các Ngân hàng đã và đang từng bước cải tiến lại toàn bộ hoạt động của Ngân hàng, cả về tổ chức bộ máy tình hình hoạt động và bên cạnh đó là các phương thức thanh toán cụ thể, với thời đại tin hoặc hoá vào khâu thanh toán song song với việc thực hiện áp dụng khoa học kỹ thuật, ngành Ngân hàng cũng ra sức hoàn thiện các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sao cho mang lại kết quả cao nhất. “Thanh toán không dùng tiền mặt được hiểu một cách đơn giản là trong quá trình thanh toán không có sự xuất hiện của tiền”. Thanh toán không dùng tiền mặt là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Nó được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới. ở Việt Nam thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng trong Ngân hàng kể từ khi Ngân hàng mới được thành lập. Để phù hợp với yêu cầu đổi mới nền kinh tế và đổi mới hoạt động Ngân hàng theo cơ chế thị trường, trước đây theo Quyết định số 22/QĐ-NH1 ban hành ngày 21/02/1994 và hiện nay theo Nghị định 30/CP của Chính phủ ban hành ngày 09/5/1996 Ngân hàng đã áp dụng các hình thức sau: Hiện nay có Việt Nam sử dụng 6 hình thức thanh toán là: - Thanh toán bằng séc. - Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền. - Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu. - Thanh toán bằng thẻ tín dụng. - Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán. - Thanh toán bằng thẻ thanh toán. 4.1. Thanh toán bằng séc: Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước qui định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc. Séc được chia ra séc ký danh và séc vô danh. Séc ký danh là séc có ghi họ tên, địa chỉ người thụ hưởng trên tờ séc. Séc vô danh là séc không ghi họ tên, người thụ hưởng trên tờ séc. Séc có thể được chuyển nhượng, tức là người thụ hưởng ghi trên séc có thể chuyển nhượng cho người khác được thụ hưởng s._.ố tiền ghi trên séc và trong phạm vi thời hạn hiệu lực của tờ séc. Nếu trên séc có cụm từ “không được phép chuyển nhượng” hay cụm từ “không tiếp tục chuyển nhượng” thì séc không được chuyển nhượng cho người thụ hưởng khác. Thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày theo lịch kể từ ngày ký phát hành séc đến ngày người thụ hưởng séc vào đơn vị thanh toán séc (tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước). Nếu ngày nộp trùng vào ngày chủ nhật hay ngày nghỉ lễ, tết thì ngày nộp được chuyển vào ngày tiếp theo sau ngày nghỉ. Séc được dùng chung cho pháp nhân (các đơn vị, tổ chức doanh nghiệp và thể nhân, (cá nhân) và được dùng để lĩnh tiền mặt, thanh toán chuyển khoản là bảo chi séc. Trong đó séc chuyển khoản và xéc bảo chi là séc thanh toán không dùng tiền mặt. + Nếu séc dùng để thanh toán chuyển khoản (séc chuyển khoản) thì ở mặt trước tờ séc (góc phía bên trái tờ séc) phải gạch 2 đường thẳng song song bằng thước, hoặc ghi dòng chữ “chuyển khoản”. + Nếu bảo chi séc (séc bảo chi) thì người phát hành séc phải đến đơn vị thanh toán séc làm thủ tục bảo chi trên tờ séc bằng cách trích tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán chuyển sang tài khoản “Đảm bảo thanh toán séc bảo chi” sau đó mới trao séc cho người thụ hưởg. + Nếu séc dùng để lĩnh tiền mặt thì trên mặt trước của tờ séc không phải làm thủ tục của séc chuyển khoản và séc bảo chi, người thụ hưởng cầm tờ séc đến đơn vị thanh toán séc (tổ chức tín dụng hay Kho bạc nơi chủ tài khoản mở tài khoản tiền gửi thanh toán) để nhận tiền mặt. Như vậy séc được dùng cho nhiều mục đích và nhiều cách thanh toán khác nhau. Séc do từng hệ thống tổ chức tín dụng và Kho bạc Nhà nước tự in tên cơ sở mẫu séc đã được Ngân hàng nhà nước duyệt để đảm bảo tính thống nhất và an toàn tài sản. Tham gia vào quá trình phát hành và sử dụng séc gồm có: - Người phát hành séc: Là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán hặc người được uỷ quyền ký tên để phát hành séc theo đúng qui định của pháp luật về uỷ quyền. - Người thụ hưởng séc: Là người có quyền sở hữu ghi trên tờ séc. - Người chuyển nhượng séc: Là người chuyển quyền sở hữu số tiền ghi trên séc của mình cho người khác. - Đơn vị thanh toán: Là đơn vị giữ tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ tài khoản, được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động dịch vụ thanh toán (như các Ngân hàng thương mại, Kho bạc nhà nước). - Đơn vị thu hộ: Là đơn vị được phép nhận séc với tư cách làm đại lý cho người thụ hưởng séc để thu hộ tiền. Một đơn vị cùng hệ thống với đơn vị thanh toán khi tiếp nhận séc cũng được coi là đơn vị thu hộ. Trong trường hợp người phát hành séc và người thụ hưởng cùng mở tài khoản ở 1 đơn vị thì đơn vị thanh toán séc và đơn vị thu hộ là một. (thanh toán cùng 1 Ngân hàng). Người phát hành séc không được ký khống chỉ trên các tờ séc (chủ tài khoản ký séc trước, nội dung của tờ séc ghi sau) và chỉ phát hành séc trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại đơn vị thanh toán séc. Trường hợp phát hành quá số dư thì: - Vi phạm lần đầu, phạt tiền theo qui định xử phạt vi phạm hợp đồng và có công văn nhắc nhở để tránh tái phạm. - Vi phạm lần thứ hai, ngoài việc phạt tiền vi phạm lần đầu còn bị đình chỉ quyền phát hành séc trong 6 tháng và thu hồi toàn bộ số séc chưa sử dụng. Sau đó phải có cam kết không tái phạm của chủ tài khoản thì mới được khôi phục quyền phát hành séc. Nếu vẫn tái phạm thì bị cấm phát hành séc vĩnh viễn. - Đơn vị thanh toán phải tổ chức thanh toán kịp thời các tờ séc đủ điều kiện thanh toán. Nếu vì lý do nào đó dẫn đến thanh toán chậm gây thiệt hại cho người thụ hưởng thì đơn vị thanh toán phải bồi thường cho thiệt hại cho người thụ hưởng. Số tiền bồi thường được tính trên số tiền ghi trên séc là số ngày chậm trả với mức lãi suất nợ qúa hạn của lãi suất tiền cho vay ngắn hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tại thời điểm thanh toán. Séc được thực hiện thanh toán qua Ngân hàng từ năm 1951 (khi Ngân hàng Việt Nam thành lập) theo quyết định 101/QĐ-NH ra đời rồi thay thế bằng quyết định 22/QĐ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 21/02/1994 và gần đây nhất là Nghị định 30/CP ngày 09/5/1996 của Chính phủ đã qui định thống nhất việc thanh toán bằng séc qua Ngân hàng. Ở nước ta hiện nay có các loại séc sau đây được sử dụng rộng rãi: Séc chuyển khoản, séc bảo chi. 4-1.1 Séc chuyển khoản: Séc chuyển khoản là tờ séc do chủ tài khoản phát hành để trực tiếp giao cho người thụ hưởng, hình thức này áp dụng khi bên mua và bên bán rất tín nhiệm nhau. - Phạm vi thanh toán: Dùng để thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản trong cùng một Ngân hàng hoặc khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp trên địa bàn địa phương tỉnh, thành phố. - Nguyên tắc hạch toán: Ghi “nợ” tài khoản bên trả tiền trước, ghi “có” tài khoản người thụ hưởng sau. - Quy trình thanh toán bằng séc chuyển khoản: Trường hợp hai khách hàng có tài khoản trong cùng một Ngân hàng. Người thụ hưởng Người phát hành (2) (1) (4) (3) (5) Ngân hàng ¬ Người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua.. ­ Người mua giao séc chuyển khoản cho người bán ® Người bán sẽ nộp tờ séc chuyển khoản + bản kê nộp séc vào Ngân hàng xin thanh toán. ¯ Ngân hàng đơn vị trung gian, Ngân hàng sau khi nhận được tờ séc +bảng kê nộp séc sẽ kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp các nội dung cần thiết của tờ séc, kiểm tra khả năng chi trả của người phát hành hạch toán như sau: Nợ: Tài khoản tiền gửi thanh toán (người mua). Có: Tài khoản tiền gửi thanh toán /người bán. ° Sau khi Ngân hàng ghi có cho người bán sẽ báo có cho họ. Trường hợp hai Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ. Người thụ hưởng Người phát hành (1) (2) (5) (3) (7) Ngân hàng phục vụ người mua Ngân hàng phục vụ người bán (4) (6) ¬ Người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua. ­ Người mua giao séc chuyển khoản + bản kê nộp séc vào Ngân hàng xin thanh toán. ® Khi Ngân hàng phục vụ người bán nhận được séc chuyển khoản và bảng kê nộp séc, sẽ kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc cũng như các nội dung cần thiết… Nếu đúng sẽ lập và gửi lệnh chuyển nợ cho Ngân hàng phục vụ người mua. Nợ: Tài khoản thanh toán bù trừ/Ngân hàng phục vụ người mua. Có: Tài khoản các khoản chờ thanh toán khác. ¯ Tại Ngân hàng phục vụ người mua khi nhận được lệnh chuyển nợ của Ngân hàng phục vụ người bán để thanh toán tờ séc chuyển khoản do người mua phát hành, Ngân hàng sẽ kiểm tra các yếu tố cần thiết trên giấy chuyển nợ, kiểm tra khả năng chi trả của người phát hành trên lệnh chuyển nợ, nếu đầy đủ sẽ hạch toán. Nợ: Tài khoản tiền gửi thanh toán/ người phát hành. Có: Tài khoản thanh toán bù trừ/ Ngân hàng vục vụ người bán. ° Sau đó Ngân hàng sẽ gửi thông báo chấp nhận lệnh chuyển nợ cho Ngân hàng phục vụ người bán. ± Khi Ngân hàng phục vụ người bán nhận được thông báo chấp nhận lệnh chuyển nợ sẽ kiểm tra các nôị dung cần thiết, nếu đúng, đầy đủ sẽ thanh toán cho người thụ hưởng. Nợ: Tài khoản các khoản chờ thanh toán khác. Có: Tài khoản tiền gửi thanh toán/ người bán. Sau đó sẽ báo có cho người bán. 4-1.2 Séc bảo chi: - Séc bảo chi khác với séc chuyển khoản là trước khi người mua giao séc cho người bán thì người mua phải đến Ngân hàng phục vụ mình làm thủ tục bảo chi séc bằng cách, yêu cầu Ngân hàng trích tài khoản tiền gửi của rành hoặc là nộp vào Ngân hàng một số tiền để làm thủ tục bảo chi séc. Sau đó Ngân hàng mới giao séc cho người mua để đi mua hàng. - Phạm vi thanh toán séc bảo chi: Séc bảo chi được thanh toán trong phạm vi giữa hai đơn vị mua và bán mở tài khoản cùng một Ngân hàng, giữa hai đơn vị mua và bán mở tài khoản ở hai Ngân hàng khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp và được áp dụng giữa hai đơn vị mua và bán ở khác Ngân hàng nhưng cùng hệ thống. Thời hạn của séc bảo chi là 15 ngày làm việc. * Thủ tục bảo chi séc: khi khách hàng có nhu cầu bảo chi séc, sẽ lập giấy yêu cầu bảo cho séc để gửi tới Ngân hàng kèm theo tờ séc. Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra các nôi dung trên giấy yêu cầu bảo chi cũng như tờ séc, kiểm tra số dư tài khoản của khách hàng xin bảo chi séc, nếu đủ điều kiện thì làm thủ tục bảo chi séc và đóng dấu bảo chi lên tờ séc sau đó hạch toán. Nợ: Tài khoản tiền gửi khách hàng. Có: Tài khoản đảm bảo thanh toán séc bảo chi. Sau đó Ngân hàng giao tờ séc cho khách hàng. * Quy trình thanh toán: Trường hợp 2 khách hàng có tài khoản tại một Ngân hàng. Người bán Người mua (4) (3) (5) Ngân hàng (1) (2) (6) ¬ Khi khách hàng có nhu cầu bảo chi séc sẽ lập giấy yêu cầu xin bảo chi séc. ­ Sau khi bảo chi séc Ngân hàng sẽ giao séc cho người mua. ® Người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua. ¯ Người mua giao séc cho người bán. ° Sau khi người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua sẽ lập bảng kê nộp séc làm tờ séc nộp vào Ngân hàng phục vụ mình để xin thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ. Ngân hàng sẽ kiểm tra các yếu tố cần thiết. Nếu thấy hợp lệ sẽ thanh toán cho người bán. Nợ: Tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi. Có: Tài khoản tiền gửi khách hàng. Trường hợp hai Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ. (4) (3) (1) (2 (7) (5) (9) Ngân hàng phục vụ người mua Ngân hàng phục vụ người bán (6) (8) Người mua Người bán ¬ Khi khách hàng có nhu cầu thì đến Ngân hàng xin bảo chi séc. ­ Ngân hàng sau khi kiểm tra các nội dung cần thiết sẽ bảo chi séc cho khách hàng. ® Người bán sẽ giao hàng hoá dịch vụ cho người mua. ¯ Người mua sẽ giao séc cho người bán. ° Sau khi người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua sẽ nộp bảng kê nộp séc cộng tờ séc vào Ngân hàng phục vụ mình. Tại Ngân hàng phục vụ người bán khi nhân được bảng kê nộp séc + Tờ séc sẽ kiểm tra nội dung cần thiết nếu đầy đủ, hợp lệ sẽ lập và gửi lệnh chuyển nợ cho Ngân hàng phục vụ người mua. Nợ: Tài khoản thanh toán bù trừ/người mua. Có: Các khoản chờ thanh toán. ± Sau đó Ngân hàng chuyển lệnh chuyển nợ sang cho Ngân hàng phục vụ người mua. ² Tại Ngân hàng phục vụ người mua sau khi nhận được lệnh chuyển nợ từ Ngân hàng phục vụ người bán sẽ kiểm tra các nội dung cần thiết, nếu đầy đủ, hợp lệ séc hạch toán. Nợ: Tài khoản đảm bảo thanh toán séc bảo chi. Có: Tài khoản thanh toán bù trừ/ Ngân hàng phục vụ người bán. ³ Sau đó Ngân hàng phục vụ người mua gửi thông báo chấp nhận lệnh chuyển nợ sang Ngân hàng phục vụ người bán. ´ Tại Ngân hàng phục vụ người bán khi nhận được thông báo chấp nhận lệnh chuyển nợ sẽ thanh toán cho người bán. Nợ: Các khoản chờ thanh toán khác. Có: Tiền gửi khách hàng. Sau đó báo có cho người bán. Trường hợp hai Ngân hàng cùng hệ thống. (4) (3) Người mua Ngân hàng phục vụ người bán Người bán (1) (2) (7) (5) (6b) Ngân hàng phục vụ người mua (6a) ¬ Khi khách hàng có nhu cầu thì đến Ngân hàng xin bảo chi séc. ­ Ngân hàng sau khi kiểm tra các nội dung cần thiết sẽ bảo chi séc. ® Người bán sẽ giao hàng hoá dịch vụ cho người mua. ¯ Người mua sẽ giao séc bảo chi cho người bán. ° Ngân hàng phục vụ người bán sau khi nhận được séc bảo chi + bảng kê nộp séc sẽ kiểm tra các nội dung cần thiết trên tờ séc cũng như bảng kê. Nếu đầy đủ hợp lệ sẽ tiến hành thanh toán ngay cho người bán bằng cách lập lệnh chuyển nợ gửi Ngân hàng phục vụ người mua. Nợ: Tài khoản chuyển tiền đi. Có: Tài khoản tiền gửi /người bán. (6a) Ngân hàng phục vụ người bán sẽ gửi lệnh chuyển nợ sang cho Ngân hàng phục vụ người mua. (6b) Ngân hàng phục vụ người bán sau khi ghi có cho người bán – báo có cho người bán. ² Sau khi Ngân hàng phục vụ người mua nhận được lệnh chuyển nợ từ Ngân hàng phục vụ người bán sẽ tất toán tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi. Nợ: Tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi Có: Tài khoản chuyển tiền đến. 4.2 Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền: Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng, yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi) thanh toán để chi trả cho người thụ hưởng. Uỷ nhiệm chi dùng để thanh toán các khoản trả tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển tiền trong cùng hệ thống và khác hệ thống Ngân hàng. Trong một ngày làm việc, Ngân hàng hoặc Kho bạc phải hoàn tất lệnh chi đó hoặc từ chối nếu tài khoản của khách hàng đủ tiền hoặc lệnh chi không hợp lệ. Ngân hàng bên thụ hưởng khi nhận được chứng từ hợp lệ phải ghi có ngay vào tài khoản của khách hàng và báo cho khách hàng biết. Uỷ nhiệm chi còn để xin cấp séc chuyển tiền, nếu khách hàng có nhu cầu xin cấp séc chuyển tiền phải lập 3 liên uỷ nhiệm chi kèm theo chứng minh thủ của người cầm séc mang đến Ngân hàng thanh toán xin ký gửi khoản tiền trên tờ séc vào tài khoản của Ngân hàng đảm bảo cho thanh toán séc- sau khi kiểm soát đầy đủ các yếu tố, Ngân hàng sẽ cấp uỷ nhiệm chi (chỉ được áp dụng trong cùng hệ thống Ngân hàng). Thời hạn hiệu lực tờ séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành ghi trên tờ séc. Uỷ nhiệm chi là một hình thức thanh toán đơn giản thuận tiện và được áp dụng nhiều năm nay. Uỷ nhiệm chi được sử dụng khá phổ biến trong thanh toán phi hàng hoá như cấp kinh phí, trả nợ, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Hướng dẫn đổi mới công nghệ thanh toán là phát huy ưu thế của công cụ uỷ nhiệm chi trong việc hình thành và phát triển các quan hệ thương mại, tín nhiệm giữa các doanh nghiệp trong cả nước. * Quy định thanh toán uỷ nhiệm chi: Trường hợp hai khách hàng có tài khoản tại cùng Ngân hàng. Người bán Người mua (1) Ngân hàng (2) (3) (4) ¬ Người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua. ­ Sau khi nhận được hàng hoá dịch vụ người mua lập uỷ nhiệm chi nộp vào Ngân hàng yêu cầu thanh toán cho người bán. ® Sau đó Ngân hàng kiểm tra các nội dung cần thiết trên uỷ nhiệm chi, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp, khả năng chi trả của người mua. Nếu đủ điều kiện thanh toán. Nợ: Tài khoản tiền gửi của người mua. Có: Tài khoản tiền gửi của người bán. ¯ Ngân hàng báo có cho người bán. * Trường hợp 2 khách hàng có tài khoản tại 2 Ngân hàng. Người bán Người mua (1) (2) (3) (5) Ngân hàng phục vụ người bán Ngân hàng phục vụ người mua (4) ¬ Người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua. ­ Sau khi nhận được hàng hoá dịch vụ người mua lập uỷ nhiệm chi nộp vào Ngân hàng yêu cầu thanh toán cho người bán. ® Ngân hàng phục vụ người mua sau khi nhận được uỷ nhiệm chi sẽ kiểm tra các nội dung cần thiết trên uỷ nhiệm chi, kiểm tra khả năng trả nợ của người mua, nếu đủ điều kiện sẽ lập lệnh chuyển có để gửi Ngân hàng phục vụ người bán. Nợ: Tài khoản tiền gửi thanh toán của người mua. Có: Tài khoản thanh toán vốn giữa các Ngân hàng (chuyển tiền đi...). ¯ Ngân hàng phục vụ người bán sau khi nhận được lệnh chuyển có sẽ kiểm tra những nội dung cần thiết sau đó in ra chuyển cho kiểm soát viên soát lại, nếu đúnh sẽ hạch bán. ° Ngân hàng phục vụ người bán sau khi nhận được lệnh chuyển có sẽ kiểm tra những nội dung cần thiết sau đó in ra chuyển cho kiểm soát viên lại, nếu đúng sẽ hạch toán. Nợ: Tài khoản thanh toán vốn (chuyển tiền đi, thanh toán bù trừ...). Có: Tài khoản tiền gửi thanh toán/người bán. * Quy trình chuyển tiền - séc chuyển tiền cầm tay: Séc chuyển tiền là một hình thức chuyển tiền cầm tay do người được đơn vị uỷ nhiệm trực tiếp cầm tờ séc đó để nộp vào Ngân hàng trả - chuyển tiền, thời hạn hiệu lực của tờ séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày ký phát hành, phạm vi thanh toán của séc chuyển tiền chỉ trong cùng một hệ thống Ngân hàng. - Séc chuyển tiền cầm tay phạm vi thanh toán rất hẹp. - Thủ tục phát hành và thanh toán séc chuyển tiền. ¬ Tại Ngân hàng phát hành: Khi khách hàng có nhu cầu chuyển tiền thì phải làm thủ tục trích tài khoản của mình hoặc nộp tiền vào Ngân hàng để phát hành séc chuyển tiền (kỳ quĩ). Nợ: Tài khoản tiền gửi thanh toán đơn vị phát hành. Có: Tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán/séc chuyển tiền. Sau đó làm thủ tục phát hành séc chuyển tiền , ghi ký hiệu mật lên tờ séc để giao cho khách hàng. ­ Tại Ngân hàng trả tiền: Theo tờ séc khi nhận được tờ séc do người cầm séc nộp vào Ngân hàng trả tiền, kiểm soát lại tờ séc, giải mã, ký hiệu mật, chữ ký, mẫu dấu của Ngân hàng phát hành séc, chứng minh thư nhân dân của người nộp séc, nếu hợp lệ sẽ lập lệnh chuyển nợ gửi Ngân hàng người phát hành. Nợ: Tài khoản chuyển tiền đi. Có: Tài khoản các khoản chờ thanh toán khác. ® Tại Ngân hàng phát hành séc: Khi nhận được lệnh chuyển nợ từ Ngân hàng trả tiền sẽ tất toán tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc chuyển tiền. Nợ: Tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán. Có: Tài khoản chuyển tiền đến. Sau đó Ngân hàng phát hành sẽ gửi thông báo chấp nhận lệnh chuyển nợ sang Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng. ¯ Tại Ngân hàng trả tiền: Khi nhận được thông báo chấp nhận lệnh chuyển nợ sẽ trả tiền cho người nộp séc. Nợ: Tài khoản các khoản chờ thanh toán khác. Có: Tài khoản thích hợp. 4.3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu: Uỷ nhiệm thu do người thụ hưởng lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng và gửi vào Ngân hàng phục vụ mình để thu tiền hàng đã giao, hoặc dịch vụ đã cung ứng. Uỷ nhiệm thu được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng khác cùng hệ thống hoặc khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ. Để được thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, khách hàng mua và bán phải thống nhất ký hợp đồng thảo thuận dùng hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu với điều kiện thanh toán ghi rõ trong hợp đồng kinh tế và phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ người mua biết để làm căn cứ thanh toán các uỷ nhiệm thu. Sau khi đã hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập uỷ nhiệm thu kèm theo hoá đơn, vận đơn gửi đến Ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp tới Ngân hàng phục vụ bên trả tiền để yêu cầu thu hộ. Khi nhận được giấy uỷ nhiệm thu trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng bên trả tiền trích tài khoản của bên trả tiền ngay cho bên thu hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Nếu tài khoản bên trả tiền không đủ tiền thì bên trả phải bị phạt trả chậm cho bên thụ hưởng. Thời gian phạt tính từ ngày nhận uỷ nhiệm thu mà tài khoản tiền gửi không đủ tiền thanh toán đến ngày có đủ tiền. Hình thức phạt được tính như sau: Số tiền x số ngày chậm trả x 150% mức lãi suất vay hiện hành. Uỷ nhiệm thu được áp dụng cho hai bên thanh toán mua và bán có sự tín nhiệm với nhau, hình thức thanh toán thích hợp đối với các dịch vụ cung ứng, với khối lượng định kỳ như điện, nước, điện thoại.v.v. 4.4 Thanh toán bằng thư tín dụng: Thư tín dụng dùng để thanh toán tiền hàng trong điều kiện bên bán đòi hởi phải có đủ số tiền để trả ngay và phù hợp với tổng số tiền hàng đã giao theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký. Khi có nhu cầu, bên mua lập giấy mở thư tín dụng yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi (hoặc tiền vay Ngân hàng) một số tiền bằng tổng giá trị hàng đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng. Ngân hàng bên trả tiền phải gửi ngay thư tín dụng cho Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng để báo cáo cho khách hàng biết. Mức tối thiểu của một thư tín dụng là 10 triệu đồng, tiền gửi thư tín dụng không được hưởng lãi, mối thư tín dụng chỉ dùng để trả cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực thanh toán của một thư tín dụng là 03 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua nhận mở thư tín dụng. Bên bán có trách nhiệm giao hàng cho bên mua sau khi nhận được giấy báo thư tín dụng đã mở. Thư tín dụng được áp dụng thanh toán giữa hai đơn vị mở và sử dụng tài khoản ở hai Ngân hàng khác nhau trong từng hệ thống. Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng trả tiền cho bên thụ hưởng căn cứ vào hoá đơn, vận đơn, các chứng từ giao nhận hàng có chữ ký của người đại diện trả tiền, kèm theo giấy uỷ nhiệm của người đã trả tiền do người thụ hưởng xuất trình, phù hợp với các điều khoản qui định thống nhất giữa hai bên mua, bán được ghi trên thư tín dụng. Sau khi trả tiền Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải báo nợ ngay cho Ngân hàng phục vụ người trả tiền để tất toán thư tín dụng. Mọi trường hợp tranh chấp về hàng hoá đã giao và tiền hàng đã trả do hai bên mua bán giải quyết. 4.5. Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán: Ngân phiếu thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do Nhà nước độc quyền phát hành. Ngân phiếu thanh toán được lưu hành trong cả nước, có mệnh giá trên mỗi tờ, không ghi tên và địa chỉ chuyển nhượng. Mệnh giá cụ thể do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định trong từng thời kỳ. Ngân phiếu thanh toán được áp dụng cho khách hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, trả nợ Ngân hàng, nộp ngân sách, gửi vào tài khoản tiền gửi Ngân Hàng và gửi tiết kiệm. Thủ tục nộp, lĩnh ngân phiếu thanh toán được áp dụng như thủ tục nộp, lĩnh tiền mặt. Khi khách hàng không sử dụng ngân phiếu thanh toán hoặc hết thời hạn lưu , người sử dụng ngân phiếu thanh toán nộp vào Ngân hàng hay Kho bạc Nhà nước để ghi có vào tài khoản tiền gửi hoặc đổi lấy tiền mặt hay ngân phiếu thanh toán đang có giá trị lưu hành theo yêu cầu của khách hàng. Ngân phiếu thanh toán không có hiệu lực thanh toán là ngân phiếu đã hết thời hạn lưu hành, bị tẩy xoá, rách nát, dây bẩn. Ngân phiếu thanh toán được bảo quản như tiền, mất ngân phiếu thanh toán cũng như mất tiền. 4.6. Thẻ thanh toán: Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán gắn với kỹ thuật tin học được ứng dụng trong Ngân hàng. Thẻ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động. Phân loại thẻ thanh toán: Theo kỹ thuật: Thẻ từ, thẻ điện tử. Theo nội dung kinh tế: Có 3 loại. + Thẻ ghi nợ: (Thẻ loại A) áp dụng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên và có tín nhiệm đối với Ngân hàng, mỗi thẻ có hạn mức nhất định do Ngân hàng phát hành thẻ quy định và chủ thẻ chỉ sư dụng trong phạm vi hạn mức của thẻ. Người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào tài koản tiền gửi đảm bảo thanh toán thẻ, căn cứ để thanh toán là số dư tài khoản tiền gửi của chủ thẻ tại Ngân hàng và hạn mức tối đa của thẻ do Ngân hàng tiền quy định. + Thẻ phải ký quĩ: (Thẻ loại B) áp dụng đối với mọi đối tượng khách hàng để sử dụng thẻ khách hàng phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán thông qua việc trích tài khoản tiền gửi hoặc nộp tiền mặt hoặc vay Ngân hàng, số tiền ký quý chính là hạn mức của thẻ. + Thẻ tín dụng: (Thẻ loại C) áp dụng cho những khách hàng được vay vốn của Ngân hàng, khách hàng chỉ được thanh toán hoặc rút tiền trong phạm vị hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp nhận. Thẻ thanh toán ở nước ta mới ở giai đoạn thí điểm cần phải tiếp tục hoàn thiện. Đây là một dịch vụ hoàn toàn tự động và dựa trên cở sở công nghệ tiên tiến nên phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Hiện nay do vốn đầu tư còn hạn chế nên chỉ trang bị được máy đọc thẻ ở nhiều nơi, vì vậy chưa được sử dụng rộng rãi, hiện nay chủ mới được xây dựng ở một số tỉnh, thành phố phát triển. Trong tương lai Việt Nam sẽ xây dựng nhiều siêu thị, trung tâm thương mại thì thẻ thanh toán sẽ được sử dụng rộng rãi và trở thành phương tiện thanh toán được dùng nhiều nhất, tiện lợi nhất. 5/ Các phương thức thanh toán vốn giữa các Ngân hàng: 5.1 Điều kiện để thực hiện thanh toán xốn giữa các Ngân hàng. - Việc thanh toán vốn giữa các Ngân hàng được thực hiện theo các điều kiện sau: + Về mặt pháp lý, phải xây dựng được hành lang pháp lý hoàn chỉnh đồng bộ phù hợp nhất là các cơ chế về thanh toán. + Về kinh tế, các Ngân hàng phải đảm bảo khẳ năng chi trả để có thể thanh toán kịp thời cho khách hàng. + Về kỹ thuật phải trang bị công nghệ Ngân hàng hiện đại xây dựng đội nhũ nhân viên có đủ trình độ năng lực. - Thanh toán vốn giữa các Ngân hàn sẽ thiết lập mối quan hệ giữa các Ngân hàng ngày càng phát triển nếu họ thanh toán với nhau một cách sòng phẳng và nhanh chóng. Ngoài ra công tác thanh toán qua Ngân hàng góp phần tăng thu nhập cho Ngân hàng một cách hợp lý. 5.2 Khái quát các phương thức thanh toán vốn giữa các Ngân hàng. - Các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán, bởi các hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với việc quản lý các tài sản. Thanh toán vốn giữa các Ngân hàng có thể thực hiện giữa các Ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống và nó gồm các phương thức sau: - Thanh toán liên hàng. - Thanh toán bù trừ. - Thanh toán qua tài khoản tiền gửi Ngân hàng Nhà nước. - Thanh toán uỷ nhiệm thu hộ chi hộ. - Thanh toán qua tải khoản tiền gửi tại các tổ chức tín dụng Ngân hàng khác. a/ Thanh toán liên hàng (chuyển tiền điện tử): Thanh toán liên hàng là việc thanh toán vốn giữa các Ngân hàng trong cùng một hệ thống. Nội dung chủ yếu thực hiện thu hộ chi hộ giữa hai Ngân hàng cùng một hệ thống ở địa phương khác nhau hoặc để chuyển cấp vốn điều hoà vốn trong cùng hệ thống Ngân hàng. * Chuyển tiền điện tử: Ngày 01/4/1997 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 196/TTg về việc cho phép Ngân hàng, tổ chức tín dụng được sử dụng dữ liệu thông tin trên vật mang tin để làm chứng từ kế toán và thanh toán. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, tạo bước khởi đầu cho việc thực hiện chuyển tiền điện tử của hệ thống Ngân hàng phát triển. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 353/1997/QĐ-NHNN2 ngày 22/10/1997 ban hành qui chế chuyển tiền điện tử, từ đây Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng thương mại Nhà nước và một số NHTM cổ phần có mạng lưới hoạt động rộng đã xúc tiến xây dựng riêng cho mình một hệ thống thanh toán nội bộ chuyển tiền điện tử trong hệ thống, và đưa vào thực hiện từ đầu năm 1999. Chương trình phần mềm được xây dựng bằng công nghệ mới, chạy trên hệ điều hành UNIX là cơ sở dữ liệu ORACLE, có khả năng bảo mật và chống xâm nhập cao, xử lý tự động toàn bộ các khâu: kiểm soát, xử lý dữ liệu, kết nối, truyền và nhận, đối chiếu các lệnh chuyển tiền, nhờ vậy đã đẩy nhanh tốc độ thanh toán, giảm thời gian thanh toán của các món giao dịch xuống còn một ngày, thậm chí vài giờ. Đây cũng là thời kỳ hệ thống thanh toán của Ngân hàng đã có bước thay đổi căn bản về chất lượng công tác thanh toán. Việc trang bị cơ sở vật chất và đào tạo nguồn nhân lực để phát triển công nghệ thông tin cho hoạt động Ngân hàng nói chung, công tác thanh toán nói riêng cũng được toàn ngành quan tâm đầu tư đúng mức. Đến cuối năm 2001 toàn ngành có trên 1.900 máy chủ (NHNN 359, NHTM 1.600), hơn 16.400 máy PC (NHNN 2.470, các NHTM gần 13.700) và các thiết bị khác như máy in, máy quét, mạng… “Chuyển tiền điện tử được hiểu là toàn bộ quá trình xử lý một khoản chuyển tiền qua mạng máy vi tính kể từ khi nhận được một lệnh chuyển tiền của người phát lệnh đến khi hoàn tất việc thanh toán cho người thụ hưởng (đối với lệnh chuyển tiền có) hoặc thu nợ từ người nhận lệnh (đối với chuyển tiền nợ). Các bên tham gia trong chuyển tiền điện tử: + Người phát lệnh là khách hàng gửi lệnh chuyển tiền đến Ngân hàng để thực hiện việc chuyển tiền điện tử. + Người nhận lệnh: Là khách hàng được hưởng khoản tiền (nếu là lệnh chuyển có) hoặc phải trả tiền (nếu là lệnh chuyển nợ). Lệnh chuyển tiền là một chủ định của người phát lệnh đối với Ngân hàng dưới dạng chứng từ kế toán, nhằm thực hiện việc chuyển tiền điện tử. Lệnh chuyển có: Là lệnh ghi: Nợ: Tài khoản người phát lệnh Có: Tài khoản người nhận lệnh. Lệnh chuyển nợ: Là lệnh ghi: Nợ: Tài khoản người nhận lệnh. Có: Tài khoản người phát lệnh. Riêng đối với lệnh chuyển nợ trong chuyển tiền điện tử chỉ thực hiện lệnh chuyển nợ nếu giữa ngươì phát lệnh và người nhận lệnh có hợp đồng uỷ quyền cho Ngân hàng được lập lệnh chuyển nợ trước, được ghi trước một khoản phải thu từ người nhận lệnh. + Ngân hàng A (Ngân hàng khởi tạo) là Ngân hàng trực tiếp nhận lệnh chuyển tiền từ người phát lệnh để thực hiện lệnh chuyển tiền đó. + Ngân hàng B là Ngân hàng được xác định trên lệnh chuyển tiền sẽ trả tiền cho người thụ hưởng nếu là lệnh chuyển có hoặc thu nợ từ người nhận lệnh nếu là lệnh chuyển nợ. + Các bên khác. + Chứng từ trong chuyển tiền điện tử: Có thể bằng giấy hoặc bằng chứng từ điện tử. Một lệnh chuyển tiền có thể được chuyển đổi từ chứng từ giấy sang chứng từ điện tử hoặc được chuyển từ chứng từ điện tử sang chứng từ giấy. + Việc cấp phát sử dụng và bảo quản ký hiệu mật, chữ ký điện tử và khoá bảo mật do Ngân hàng Nhà nước qui định đối với từng Ngân hàng. - Kiểm soát và đối chiếu trong chuyển tiền điện tử. Ngân hàng B Trung tâm kiểm soát và đối chiếu Ngân hàng A Gửi lệnh chuyển tiền đi Gửi tiếp lệnh chuyển tiền đi (1) (2) (3) (3) Đối chiếu báo cáo chuyển tiền đi Đối chiếu báo cáo chuyển tiền đến Do ứng dụng tin học nên việc kiểm soát tập trung và đối chiếu tập trung đối với phương thức chuyển tiền điện tử giúp nâng cao năng suất lao động, cũng như việc chính xác, kịp thời của mỗi món chuyển tiền điện tử. * Tài khoản sử dụng trong kế toán chuyển tiền điện tử: + Tài khoản chuyển tiền đi: 5111. Nợ: Phản ánh số tiền chuyển đi theo lệnh chuyển nợ. Có: Phản ánh số tiền chuyển đi theo lệnh chuyển có. + Tài khoản chuyển tiền đến 5112. Nợ: Phản ánh số tiền theo lệnh chuyển có chuyển đến. Có: Phản ánh số tiền theo lệnh chuyển nợ chuyển đến. Tài khoản chuyển tiền đế chờ xử lý: 5113 * Kế toán chuyển tiền điện tử: - Tại Ngân hàng A: Khi nhận được một lệnh chuyển tiền từ người phát lệnh, kế toán sẽ phải tiến hành chuyển chứng từ cho kế toán viên chuyển tiền điện tử để kiểm tra tính hợp lệ của chứng từ như chữ ký điện tử, họ tên, địa chỉ... sau đó lập lệnh chuyển tiền gửi Ngân hàng B. + Lệnh chuyến có: Nợ: Tài khoản thích hợp/người phát lệnh Có: Tài khoản chuyển tiền đi. + Lệnh chuyển nợ có uỷ quyền: Nợ: Tài khoản chuyền tiền đi. Có: Tài khoản các khoản chờ thanh toán khác. Khi nhận được thông báo chấp nhận lệnh chuyển nợ Ngân hàng B sẽ ghi. Nợ: Tài khoản các khoản chờ thanh toán khác. Có: Tài khoản thích hợp/người phát lệnh. Đối với lệnh chuyển tiền có có giá trị cao thì Ngân hàng B trước khi ghi có vào tài khoản của người nhận lệnh sẽ yêu cầu Ngân hàng A xác nhận lại khi đó Ngân hàng A sẽ phải kiểm soát và đối chiếu laị lệnh chuyển có có giá trị cao đã chuyển đi nếu đúng sẽ thông báo ngay cho Ngân hàng B. Lệnh chuyển cáo có giá trị cao hiện nay trên 500 triệu. Nếu nhận được thông báo từ chối chấp nhận lệnh chuyển tiền thì sẽ tất toán lại những tài khoản trước đây đã ghi đối ứng với 5111._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0306.doc
Tài liệu liên quan