Tài liệu Những vấn đề sau cổ phần các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng: ... Ebook Những vấn đề sau cổ phần các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề sau cổ phần các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng phát triển kinh tế nhiều thành phần với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu, nhằm phát huy mọi tiềm lực vật chất và lao động sáng tạo của toàn dân tộc để phát triển đất nước. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói chung - bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước đã đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động các DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, qui mô nhỏ, hiệu quả kém, năng lực cạnh tranh thấp, công nghệ lạc hậu, thậm chí một số DNNN còn làm ăn thua lỗ kéo dài… Vì vậy, vấn đề cải cách DNNN được đặt ra cấp bách. Một trong những giải pháp cải cách mang tính chiến lược là chuyển một bộ phận DNNN không cần nắm giữ 100% vốn sang công ty cổ phần.
Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng nói riêng đã trải qua một thời gian và đã thu được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, hàng loạt vấn đề sau cổ phần hóa cần được rút kinh nghiệm, cần được giải quyết, để các công ty cổ phần của thành phố Đà Nẵng sau cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có thể phát triển. Đây là những vấn đề không hề đơn giản chút nào, thậm chí ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và không thể giải quyết một sớm một chiều mà cần phải đầu tư nghiên cứu.
Thực tế, đối với thành phố Đà Nẵng năm 1997 sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương, công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước mới được Thành ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố đặc biệt quan tâm, trong đó trọng tâm là công tác CPH các doanh nghiệp Nhà nước thuộc thành phố quản lý, trong đó 10 doanh nghiệp thương mại sau khi sắp xếp, sáp nhập còn lại 05 doanh nghiệp (DN), đến nay có 04 DN thực hiện xong CPH đã đi vào hoạt động, 01 DN đang chuẩn bị CPH. Trong 04 DN sau khi CPH có 01 DN đang gặp rất nhiều khó khăn có nguy cơ phá sản, lý do phá sản có nhiều nhưng chính là do đánh giá tài sản DN không chính xác, gây hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp sau CPH và quyền lợi của cổ đông, còn lại 03 DN CPH hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) có hiệu quả nhưng cũng gặp khó khăn về nhiều mặt cần được quan tâm đề ra các giải pháp để khắc phục.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi xin chọn vấn đề: “Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng” để làm đề tài nghiên cứu. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc của các doanh nghiệp nhà nước sau CPH trong ngành thương mại (TM) tại thành phố Đà Nẵng.
2. Tình hình nghiên cứu
Cổ phần hóa DNNN đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu. Đối với nước ngoài, vấn đề này chủ yếu tập trung vào việc phân tích sự cần thiết, mục tiêu và các biện pháp chuyển đổi sở hữu DNNN nhằm phục vụ chủ trương tổ chức lại nền kinh tế quốc gia.
Đối với Việt Nam chủ trương CPH DNNN đến nay không còn là điều mới mẻ, có nhiều công trình nghiên cứu về CPH nói chung và về các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH trên toàn quốc và ở một số địa phương. Ở Viện kinh tế - chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thị Oanh với đề tài: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp” Theo đó, tác giả xác định được cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình CPH và nêu ra các giải pháp chung nhất cho cổ phần hoá. Trên Tạp chí Cộng sản số 22/2004 có bài viết của đồng chí Lê Hữu Nghĩa Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương về: CPH DNNN ở Việt Nam hiện nay mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản số 18/2004 có bài viết của đồng chí Hồ Xuân Hùng Trưởng Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp về: CPH DNNN kết quả, vướng mắc và giải pháp... Các bài viết nêu lên những vấn đề lý luận và thực tiễn, về mục tiêu của CPH; về kết quả, thuận lợi, khó khăn và các giải pháp để tháo gỡ, nhằm rút kinh nghiệm để làm tốt công tác CPH trong thời gian đến. Tuy nhiên, còn ít công trình nghiên cứu vấn đề: “Những vấn đề sau CPH các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng” dưới góc độ khoa học kinh tế - chính trị. Do đó, đề tài luận văn này vẫn là cần thiết và không trùng lặp với các luận văn thạc sỹ kinh tế đã bảo vệ ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khảo sát các DNNN trong ngành thương mại ở Đà Nẵng đã cổ phần hoá, tìm ra những vấn đề vướng mắc, tồn tại cần giải quyết. Từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp khắc phục.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Phân tích thực trạng CPH và hoạt động của các công ty cổ phần từ CPH DNNN trong ngành TM của thành phố Đà Nẵng để rút ra những mặt được, tồn tại và vướng mắc cần giải quyết.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các công ty cổ phần từ cổ phần hóa DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng dưới góc cạnh những tồn tại, vướng mắc, thành công.
Thời gian: từ năm 1997 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, điều tra, tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề tồn tại, vướng mắc sau cổ phần hóa của các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN TỪ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NGÀNH THƯƠNG MẠI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN
Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam đã có từ năm 1991, và bắt đầu thực hiện từ năm 1992 bằng Chỉ thị 202 ngày 8-6-1992 và Chỉ thị 84 ngày 4-8-1993 của Thủ tướng Chính phủ. Đối với nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ CPH DNNN là một vấn đề hoàn toàn mới, cho nên thời gian đầu còn làm thí điểm. Những doanh nghiệp được chọn thí điểm thực hiện CPH là những doanh nghiệp có qui mô nhỏ và vừa, kinh doanh có lãi và tự nguyện CPH. Suốt 4 năm (1992-1996) cả nước chỉ CPH được 5 DN. Nếu 6 năm kể từ năm 1992 đến năm 1998, chúng ta chỉ cổ phần hóa được 30 doanh nghiệp và 5 năm sau đó, kể từ 1998 đến trước Hội nghị Trung ương III (khóa IX) có 523 doanh nghịêp Nhà nước được cổ phần, thì chỉ trong 4 năm trở lại đây, chúng ta đã hoàn thành cổ phần hóa 2.437 DNNN, nâng tổng số DNNN được CPH lên đến 2.890 đơn vị, trong tổng số 5.655 DNNN cần được CPH. Nhìn chung, trong tiến trình CPH được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, cộng với sự hưởng ứng từ phía các DNNN đã đạt được những thành công nhất định. Qua khảo sát, hơn 850 công ty của Nhà nước sau hơn 1 năm cổ phần hóa cho thấy: vốn điều lệ tăng 44%, doanh thu tăng gần 24%, lợi nhuận tăng 140%, nộp ngân sách tăng 25%, thu nhập của người lao động tăng 12%.
Đối với thành phố Đà Nẵng, năm 1997 sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương, công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước mới được Thành ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố đặc biệt quan tâm, trong đó trọng tâm là công tác CPH các doanh nghiệp Nhà nước thuộc thành phố quản lý, trong đó 10 doanh nghiệp thương mại sau khi sắp xếp, sáp nhập còn lại 05 doanh nghiệp (DN), đến nay có 04 DN thực hiện xong CPH đã đi vào hoạt động, 01 DN đang chuẩn bị CPH. Bốn doanh nghiệp CPH xong đó là:
Công ty CP thương mại dịch vụ Đà Nẵng (vốn Nhà nước chi phối là 41,54%).
Công ty CP cung ứng tàu biển Đà Nẵng (vốn Nhà nước chi phối 67,68%).
Công ty CP công nghệ phẩm Đà Nẵng (100% vốn cổ đông).
Công ty CP vật tư tổng hợp Đà Nẵng (vốn Nhà nước chi phối 53,72%).
Sự ra đời của công ty cổ phần từ CPH DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng nằm trong kế hoạch tổng thể của lãnh đạo Thành ủy, UBND TP về triển khai xây dựng Đề án và tổ chức thực hiện CPH theo chủ trương của Chính phủ. Uỷ Ban Nhân Dân thành phố thành lập Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nhằm thường xuyên theo dõi, đôn đốc và chỉ đạo kịp thời tiến độ thực hiện sắp xếp doanh nghiệp theo đề án được duyệt và theo đúng quy trình. Đến cuối năm 2005 đã có 21 doanh nghiệp của thành phố Đà Nẵng được CPH (trong đó DN thương mại là 04), bằng 65% kế hoạch được duyệt đến cuối năm 2006.
Về các bước thực hiện tiến trình CPH đối với các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng cũng nằm trong qui trình chung của tất cả các DNNN khi chuyển sang công ty CP và có thể được chia thành 4 bước:
Bước 1: Chuẩn bị CPH
Bước 2: Xây dựng phương án CPH
Bước 3: Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH
Bước 4: Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh
Từ các bước có thể khái quát bằng sơ đồ qui trình chuyển đổi DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng thành công ty cổ phần như sau:
Sơ đồ 1.1: Qui trình chuyển đổi DNNN thành CTCP từ CPH DNNNtrong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng
(1) Lập danh sách DNNN cổ phần hoá
Chuẩn bị CPH
(2) Chuẩn bị và thành lập Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp
(3) Phổ biến và tuyên truyền chủ trương về CPH
(4) Chuẩn bị các tài liệu
(5) Đánh giá giá trị, phân biệt tài sản doanh nghiệp
Xây dựng phương án CPH
(6) Quyết định giá trị thực tế của doanh nghiệp
(7) Dự kiến phương án CPH & dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CPH
(8) Phê duyệt phương án và quyết định chuyển DNNN thành CTCP
Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH
(9) Thông tin về cổ phần hoá của doanh nghiệp
(10) Đại hội cổ đông và Bầu hội đồng quản trị
(11) Bàn giao công việc
Ra mắt CTCP, đăng ký kinh doanh
(12) Những công việc còn lại
1.1.1. Tình hình kinh doanh
Sau CPH đa số các doanh nghiệp thương mại của thành phố Đà Nẵng SXKD ổn định và có hiệu quả, đã hình thành loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu về vốn, thực hiện được sự giám sát chặt chẽ hơn trong SXKD, huy động được nhiều vốn từ xã hội, tạo điều kiện đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức tổ chức quản lý mới cùng với đội ngũ cán bộ quản lý thích nghi hơn với cơ chế thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã tự huy động và phát hành cổ phiếu để tăng vốn Điều lệ, tuy không lớn nhưng đã thể hiện sự tự chủ trong việc huy động các nguồn vốn phục vụ cho kinh doanh và thể hiện sự thống nhất ý thức trong việc xây dựng và phát triển đơn vị. Từ những chuyển biến nói trên đã nâng cao rõ rệt hiệu quả SXKD. Qua kết quả điều tra các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau khi CPH trong thời gian qua và 6 tháng đầu năm 2006 cho thấy, bước đầu tuy có khó khăn nhưng nhìn chung vốn bình quân của doanh nghiệp tăng, có ¾ doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau CPH hoạt động SXKD có lãi đó là: Công ty CP thương mại dịch vụ Đà Nẵng, Công ty CP cung ứng tàu biển Đà Nẵng, Công ty CP công nghệ phẩm Đà Nẵng, tỷ suất lãi bình quân trước thuế tăng, mức nộp ngân sách tăng, thu nhập bình quân của người lao động tăng, năng suất lao động tăng so với khi chưa CPH. Các công ty đều thực hiện chia cổ tức hàng năm và mức cổ tức cao hơn so với lãi suất ngân hàng.
Bên cạnh 03 đơn vị hoạt động SXKD có hiệu quả, còn một đơn vị KD không có hiệu quả và có nguy cơ phá sản đó là: Công ty CP vật tư tổng hợp Đà Nẵng, nguyên nhân phá sản có nhiều nhưng chủ yếu là do khi tiến hành CPH không làm tốt khâu kiểm kê đánh giá lại tài sản doanh nghiệp, sau CPH thiếu xây dựng Qui chế quản lý doanh nghiệp như: Qui chế hoạt động SXKD, Qui chế quản lý và sử dụng vốn..., mạng lưới hoạt động SXKD chưa gọn nhẹ, kém hiệu quả có những cửa hàng, chi nhánh thua lỗ kéo dài không phát hiện và xử lý kịp thời, công tác cán bộ còn xem nhẹ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhận thức về CPH chưa đúng, ý thức tổ chức kỹ luật kém, thiếu trách nhiệm trong công tác được giao, lãnh đạo doanh nghiệp theo cảm tính, nghiệp vụ chuyên môn kém, buông lỏng các nguyên tắc quản lý tài chính đã đưa doanh nghiệp đi đến phá sản, mất vốn Nhà nước và cổ đông, người lao động mất việc làm, đời sống khó khăn....
Cụ thể qua khảo sát sự ra đời và tình hình kinh doanh của các đơn vị được thể hiện như sau:
1) Công ty cổ phần thương mại - dịch vụ Đà Nẵng (vốn Nhà nước chi phối là 41,54%)
Công ty cổ phần thương mại dịch vụ Đà Nẵng CPH theo theo Nghị định 64 của Chính phủ và được thành lập theo Quyết định số 27/2004/QĐ-UB ngày 24 tháng 2 năm 2004 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc phê duyệt phương án CPH DNNN chuyển Công ty thương mại - dịch vụ Đà Nẵng thành Công ty CP thương mại - dịch vụ Đà Nẵng, tiến hành Đại hội cổ đông ngày 31 tháng 3 năm 2004 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/4/2004.
Sau CPH, Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban giám đốc (BGĐ) công ty đã có những định hướng cơ bản cho hoạt động của đơn vị, đồng thời nhanh chóng tiến hành những biện pháp cụ thể để sắp xếp ổn định tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Phấn đấu tạo dựng thương hiệu của đơn vị làm nền tảng cho việc ổn định phát triển kinh danh lâu dài, mở rộng thị trường, ổn định và củng cố hệ thống tiêu thụ, xây dựng nhóm mặt hàng chủ lực có tính cạnh tranh cao nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, bên cạnh đó gắn kết với nhà SX tạo mối quan hệ hợp tác bền vững trong lĩnh vực sản xuất (SX), nâng cao chất lượng loại hình kinh doanh (KD) dịch vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, không ngừng nâng cao mức sống đối với người lao động, đảm bảo kinh doanh có lãi để chia cổ tức cho cổ đông.
Kết quả khảo sát cụ thể tình hình kinh doanh của công ty thương mại dịch vụ như sau:
Bảng 1.1: Kết quả tình hình kinh doanh của Công ty CP thương mại dịch vụ ĐN trước và sau khi cổ phần hóa.
TT
Chi tiêu
ĐVT
Năm trước khi CPH
Các năm sau CPH
Năm 2004
Năm 2005
6T
2006
1
Tổng doanh thu
1000đ
200.000.000
61.776.000
81.224.000
40.650.000
2
Kim ngạch XK
USD
80.000
230.094
153.799
3
Nộp NSNN
1000đ
6.462.685
202.532
831.852
193.900
4
Lợi nhuận sau thuế
1000đ
107.160
652.527
360.447
76.970
5
Thu nhập bình quân
1000đ
853
1.062
1.523
1.500
6
Cổ tức/tháng
%
0,6
0,6
0,6
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty CP thương mại dịch vụ từ khi CPH đến nay)
Qua bảng 1.1 ta nhận thấy sau khi chuyển sang CTCP đơn vị hoạt động tương đối ổn định.
+ Tình hình doanh thu: doanh thu của công ty tăng, năm 2005 doanh thu đạt 81,224 tỷ đồng cao hơn doanh thu năm 2004 (61,776 tỷ đồng) là 19,448 tỷ đồng và mức tăng là 31,48%.
+ Tình hình lợi nhuận, kim ngạch XNK: kinh doanh có lãi nhưng không tăng, KNXK tăng.
+ Tình hình thu nhập: Sau khi CPH lợi nhuận tuy không tăng nhưng số lao động giảm nên tình hình thu nhập tăng lên so với trước, từ thu nhập bình quân năm 2004 là 1.062.000 đồng năm 2005 lên 1.523.000 đồng với mức tăng là 43,41%.
+ Về cổ tức: Cổ tức chia cho cổ đông cũng tăng năm 2004 là 152.299.000 đồng năm 2005 là 191.798.000 đồng với mức tăng 25,93%. Tỷ lệ chia cổ tức thường lớn hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng.
2) Công ty cổ phần Công nghệ phẩm Đà Nẵng (100% vốn cổ đông) (bảng 1.2).
Công ty Công nghệ phẩm Đà Nẵng là doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện chủ trương của thành phố về tiến hành CPH trong năm 2004 theo Quyết định số 196/2004/QĐUB ngày 08/12/2004 của UBND thành phố Đà Nẵng V/v phê duyệt phương án CPH chuyển Công ty Công nghệ phẩm ĐN thành Công ty cổ phần Công nghệ phẩm ĐN. Đại hội cổ đông lần thứ nhất vào ngày 03/4/2005 và chính thức đi vào hoạt động ngày 18/4/2005.
Sau cổ phần công ty hoạt động theo mô hình mới được sắp xếp lại, duy trì hoạt động kinh doanh trên cơ sở các đơn vị trực thuộc kinh doanh chuyên ngành hàng hóa, đồng thời loại bỏ những mặt hàng kinh doanh không có hiệu quả, tìm những mặt hàng mới, giữ vững thị trường cũ, mở rộng thị trường mới, có nhu cầu tiêu thụ nhanh và thực hiện phương châm: triệt để thực hành tiết kiệm các chi phí để tối đa hóa lợi nhuận.
HĐQT đã định hướng theo mô hình kinh doanh thương mại - dịch vu - sản xuất - xuất nhập khẩu cơ cấu hợp lý, chuyển một phần sang sản xuất để hỗ trợ cho nhau trong quá trình SXKD của đơn vị. Đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất bao bì 32 tỷ đồng, đã đi vào hoạt động từ tháng 6/2006. Tình hình kinh doanh của Công ty sau CPH bước đầu cũng gặp nhiều khó khăn vừa kinh doanh vừa ổn định củng cố, tư tưởng của cán bộ công nhân viên (CBCNV) chưa chuyển biến kịp theo hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần, mặt khác tư tưởng dao động giữa người nghỉ và người ở lại làm việc, tác động rất lớn đến tình hình kinh doanh của công ty.
Tuy nhiên, với sự quyết tâm của HĐQT, BGĐ đã lãnh đạo đơn vị từng bước ổn định và kinh doanh đạt hiệu quả, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2005 và 6 tháng đầu năm 2006.
* Kết quả khảo sát cụ thể tình hình kinh doanh của công ty CP công nghệ phẩm như sau:
Bảng 1.2: Kết quả tình hình kinh doanh của Công ty CP Công nghệ phẩm trước và sau khi cổ phần hóa.
TT
Chi tiêu
ĐVT
Trước
khi CPH
Các năm sau CPH
Năm
2005
6T 2006
01
Tổng doanh thu
1000đ
332.000.000
255.000.000
123.420.000
02
Kim ngạch XK
USD
1.630.000
73.900
51.000
03
Kim ngạch NK
USD
1.050.000
2.303.900
76.000
04
Nộp NSNN
1000đ
1.655.000
780.000
80.000
05
Lợi nhuận sau thuế
1000đ
63.540
181.000
06
Thu nhập bình quân
1000đ
867
1.200
1.500
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty CP công nghệ phẩm từ khi CPH đến nay)
* Đây là doanh nghiệp mới CPH, vốn 100% là của cổ đông, Qua hơn một năm kinh doanh ta nhận thấy tổng doanh thu, KNXK, KNNK, nộp ngân sách của công ty giảm, do công ty thu hẹp việc kinh doanh các mặt hàng kém hiệu quả. Mặc dù doanh thu giảm nhưng lợi nhuận của công ty vẫn không thay đổi, thu nhập của người lao động tăng, năm 2004 thu nhập bình quân là 860.000 đồng, sau CPH năm 2005 thu nhập bình quân là 1.200.000 đồng với mức tăng là 13,70%, 6 tháng năm 2006 1.500.000 đồng.
3) Công ty CP Cung ứng tàu biển (Vốn Nhà nước chi phối 67,68%) (bảng 1.3).
Công ty CP Cung ứng tàu biển Đà Nẵng CPH theo theo Nghị định 64 của Chính phủ và được thành lập theo Quyết định số 23/QĐ-UB ngày 01 tháng 3 năm 2000 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc phê duyệt phương án CPH DNNN chuyển Công ty Cung ứng tàu biển thương mại và du lịch Đà Nẵng thành Công ty CP Cung ứng tàu biển thương mại và du lịch Đà Nẵng, từ năm 2005 đến nay tên công ty được rút ngắn lại thành Công ty CP Cung ứng tàu biển, Công ty CP chính thức đi vào hoạt động từ tháng 01 năm 2001 đây là một trong những DNNN của thành phố nói chung của ngành thương mại nói riêng đi đầu trong công tác CPH. Sau CPH, mặc dù tình hình SXKD của đơn vị khó khăn nhưng đơn vị vẫn cố gắng duy trì công ăn việc làm cho người lao động, với định hướng họat động theo mô hình kinh doanh kinh doanh cung ứng tàu biển, du lịch dịch vụ, khách sạn, nhà hàng.
Qua khảo sát tình hình kinh doanh của công ty sau 5 năm CPH ta nhận thấy như sau:
Bảng 1.3: Kết quả tình hình kinh doanh của Công ty CP Cung ứng tàu biển ĐN trước và sau khi cổ phần hóa.
STT
Chi tiêu
ĐVT
Năm trước
khi CPH
Các năm sau CPH
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
01
Doanh thu thực hiện
1000đ
38.599.321
39.541.428
27.776.546
47.848.182
45.289.626
55.019.923
02
Lãi (+), lỗ (-) thực hiện
1000đ
73.448
181.324
187.518
329.691
562.164
648.035
03
Lợi nhuận sau thuế
1000đ
49.994
135.993
140.639
247.268
233.296
486.036
04
Lợi nhuận dùng để chia cổ tức
1000đ
127.429
127.308
212.181
159.135
341.730
05
Nộp NSNN
1000d
3.378.877
7.024.339
963.162
1.278.205
3.513.914
3.039.061
06
Thu nhập BQ (người/tháng)
1000đ
799
1.068
1.413
1.398
1.420
1.500
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty CP Cung ứng tàu biển từ khi CPH đến nay)
* Qua bảng 1.3 ta nhận thấy sau CPH những năm đầu công ty kinh doanh tuy có khó khăn nhưng tình hình kinh doanh của công ty phát triển tương đối tốt, doanh thu tăng không đều nhưng hiệu quả kinh doanh qua các năm đều tăng, cổ tức chia cho cổ đông tăng theo từng năm, thu nhập bình quân của người lao động tăng, với mức tăng so với những năm đầu khi mới CPH là 30%, đóng góp cho ngân sách nhà nước lớn.
4) Công ty CP vật tư tổng hợp: (Vốn nhà nước chi phối 53,72%) (bảng 1.4).
Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng là DNNN được chuyển sang Công ty CP vật tư tổng hợp theo Quyết định số 141/QĐ-UB ngày 15 tháng 10 năm 2003 của UBND thành phố Đà Nẵng và bắt đầu chính thức đi vào hoạt động công ty CP từ tháng 01 năm 2004.
Sau khi CPH những tháng đầu năm 2004 tình hình kinh doanh của đơn vị thực hiện tốt, thị trường, thị phần vẫn duy trì, thu nhập của người lao động ổn định. Nhưng đến cuối năm 2004 và đầu năm 2005 tình hình kinh doanh giảm sút nghiêm trọng, thị trường, thị phần bị thu hẹp do thiếu vốn hoạt động, tình hình tài chính mất cân đối, nợ bị chiếm dụng lớn không thu hồi được, kinh doanh thua lỗ, 6 tháng đầu năm 2006 hoạt động kinh doanh hoàn toàn ngưng hẳn, tài chính thâm hụt lớn, mất khả năng kinh doanh, đơn vị xin phá sản, đang chờ ý kiến của lãnh đạo thành phố Đà Nẵng.
Bảng 1.4: Kết quả tình hình kinh doanh của Công ty CP Vật tư tổng hợp ĐN trước và sau khi cổ phần hóa.
STT
Chi tiêu
ĐVT
Trước CPH
Các năm sau CPH
Năm
2004
Năm
2005
01
Tổng doanh thu
1000đ
232.000.000
144.800.000
67.700.000
02
Nộp NSNN
1000đ
57.000.000
2.300.000
1.700.000
03
Lợi nhuận
1000đ
50.000.
- 518.200
- 1.400.000
04
Thu nhập bình quân
1000đ
1.050
1.300
850
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty CP Vật tư tổng hợp từ khi CPH đến nay)
* Sau CPH tình hình kinh doanh của đơn vị đi xuống, doanh thu giảm, nộp ngân sách giảm, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, thu nhập giảm mạnh, người lao động không có việc làm, đơn vị chuẩn bị phá sản.
Qua tình hình kinh doanh 4 DN CPH trong ngành thương mại của TP Đà Nẵng ta nhận thấy, sau CPH các doanh nghiệp tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận, chia cổ tức, chưa chú trọng đến vấn đề có ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của DN là thực hiện đổi mới công nghệ, đầu tư vốn vào phát triển SXKD. Chính vì vậy, bên cạnh những DN làm ăn có hiệu quả vẫn còn DN làm ăn kém hiệu quả như Công ty CP vật tư tổng hợp Đà Nẵng, ngoài nguyên nhân ban đầu như đã nêu là xác định giá trị DN không chính xác, quản lý tài chính lỏng lẻo, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý... doanh nghiệp không dám hoạt động vì càng hoạt động càng lỗ, không những thế, gần đây các nhà quản lý đã nhận thấy có một số DNNN sau khi CPH đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng DN này không nhiều song đây là hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng đến uy tín của DNNN CPH, đến chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước cần được quan tâm khắc phục.
1.1.2. Tình hình tài chính
Một trong những mục tiêu quan trọng của CPH là tạo khả năng huy động vốn của xã hội một cách linh hoạt nhằm khắc phục tình trạng thiếu vốn ở hầu hết các DN.
Trước CPH các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng phần lớn có quy mô vừa và nhỏ. Hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn hoạt động. Qua khảo sát, sau CPH tình hình tài chính của đa số các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng được làm trong sạch, lành mạnh, hơn nữa nợ trước CPH được Nhà nước tham gia xử lý, những công nợ chuyển sang trước khi cổ phần các đơn vị tiếp tục xử lý thu hồi, đa số công nợ có thế chấp, có tài sản. Nợ sau CPH được xác định trách nhiệm rõ ràng và được qui định cụ thể trong Điều lệ hoạt động của các đơn vị; vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp đã tăng lên.
Các đơn vị vẫn duy trì và giữ vững được sự tín nhiệm đối với ngân hàng, với các tổ chức tín dụng các khế ước vay vốn được trả đúng hạn.
Tuy nhiên, tình hình vay vốn của các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau khi CPH đang gặp rất nhiều khó khăn, Mặc dù Nhà nước qui định các công ty CP được vay vốn tín dụng tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính và các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước như các DNNN nhưng thực tế không hoàn toàn thuận lợi như văn bản quy định (Điều 26 Nghị định số 64/2004/NĐ-CP về doanh nghiệp nhà nước thành lập công ty cổ phần). Từ khi Nhà nước có chủ trương CPH, có tình trạng phân biệt đối xử trong hoạt động cho vay tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước. Các DNNN có thể không cần thế chấp để được vay vốn, các DN CP là phải có tài sản để thế chấp, các thủ tục thế chấp tài sản ra công chứng kéo dài, chậm trễ, do các đơn vị cổ phần chưa được cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà đất, tài sản hoặc không có đơn vị chủ quản bảo lãnh để vay tín chấp. Hơn nữa, ngân hàng luôn dè dặt, thận trọng khi cho công ty cổ phần đặc biệt là các công ty CP nhà nước không giữ CP chi phối vay vốn, do nhận thức các phương án kinh doanh của công ty CP không còn được cơ quan nhà nước phê duyệt phương án vay vốn. Bên cạnh đó, các nguồn vốn ưu đãi, các “đặc ân” của thành phố đối với doanh nghiệp cổ phần không còn như trước kia là DNNN, làm cho doanh nghiệp khó khăn về tài chính, đÔi khi “lỡ nhịp”, mất cơ hội trong các thương vụ kinh doanh.
Qua khảo sát các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng bên cạnh ¾ đơn vị (Công ty CP thương mại dịch vụ Đà Nẵng, Công ty CP Công nghệ phẩm Đà Nẵng, Công ty CP Cung ứng tàu biển Đà Nẵng) sau CPH tình hình tài chính được làm tương đối trong sạch, lành mạnh còn 01 doanh nghiệp (Công ty CP Vật tư tổng hợp Đà Nẵng) sau CPH tình hình tài chính hết sức khó khăn. Nguyên nhân khó khăn do khi tiến hành các bước thực hiện CPH không làm tốt khâu kiểm kê đánh giá lại tài sản doanh nghiệp. Theo quy định trước khi CPH Hội đồng thẩm định tài sản doanh nghiệp phải kiểm kê, đánh giá cụ thể hàng tồn kho, giá trị tài sản doanh nghiệp nhưng do chủ quan, chỉ đánh giá, kiểm kê lại tài sản doanh nghiệp trên giấy tờ, văn bản thiếu thực tế; sau CPH thiếu xây dựng Quy chế quản lý doanh nghiệp như quy chế sử dụng vốn, một số đơn vị để thua lỗ kéo dài không xử lý kịp thời, buông lỏng nguyên tắc quản lý tài chính. Bên cạnh đó, các đơn vị cấp dưới báo cáo thiếu trung thực, dấu lỗ...Những nguyên nhân cơ bản trên đã đưa doanh nghiệp đi đến phá sản, mất vốn của Nhà nước và cổ đông. Mặc dù đã được UBND thành phố Đà Nẵng đồng ý giải quyết cho bán một số tài sản lớn như nhà, xe ô tô để trả nợ vay ngân hàng, cùng với một số biện pháp khác của đơn vị nhưng vẫn không cứu vãn được tình hình, doanh nghiệp đang chuẩn bị làm các thủ tục phá sản.
Qua khảo sát tình hình tài chính của các doanh nghiệp CP trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng như sau:
Bảng 1.5: Tình hình tài chính của Công ty CP Thương mại Dịch vu Đà Nẵng
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước CPH
Năm 2004
Năm 2005
6 T 2006
01
Vốn kinh doanh:
Trg đó:-Vốn N.nước(%)
-Vốn DN (%)
Tỷ đồng
Tỷ đồng
Tỷ đồng
4,580
3,199
1,381
2,962
1,411
1,551
2,653
1,102
1,551
2,653
1,102
1,551
02
Lợi nhuận trước thuế
1000đ
107.160
652.527
360.447
87.232
03
Lợi nhuận sau thuế
1000đ
107.160
652.527
360.447
87.232
04
Các khoản phải thu
Tỷ đồng
20,369
10,090
11,105
13,271
05
Nợ phải trả
Tỷ đồng
32,587
16,199
16,255
18,875
06
Cổ tức %
%
0,6
0,6
0,6
(Nguồn: Báo cáo tình hình SXKD của đơn vị qua các năm)
Bảng 1.6: Tình hình tài chính của Công ty CP Công nghệ phẩm Đà Nẵng
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước CPH
Năm 2005
6 T 2006
01
Vốn kinh doanh:
Trg đó:-Vốn N.nước (%)
-Vốn DN (%)
Tỷ đồng
1000đ
1000đ
6.387
0
6.387
6.389
0
6.387
6.387
0
6.387
02
Lợi nhuận trước thuế
1000đ
88.400
251.000
03
Lợi nhuận sau thuế
1000đ
63.540
181.000
04
Nợ phải thu
Tỷ đồng
61.195
50.580
05
Nợ phải trả
Tỷ đồng
113.412
84.479
06
Cổ tức %
5%/năm
( Nguồn: Báo cáo tình hình SXKD của đơn vị qua các năm)
Bảng 1.7: Tình hình tài chính của Công ty CP Cung ứng tàu biển Đà Nẵng
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước CPH
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
6 T 2006
01
Vốn kinh doanh:
Trg đó:- Vốn N.nước (%)
-Vốn DN (%)
1000đ
1000đ
4.818
5.304
5.304
3.590
1.714
5.304
3.590
1.714
5.304
3.590
1.714
5.695
3.854
1.840
5.695
3.854
1.840
02
LN trước thuế
1000đ
73.448
181.324
187.518
329.691
562.164
648.035
320.000
03
LN sau thuế
1000đ
49.994
135.993
140.639
247.268
233.296
486.036
240.000
04
Nợ phải thu
1000đ
2.220
3.200
2.600
2.400
5.402
2.344
2.200
05
Nợ phải trả
1000đ
1.900
2.800
2.200
2.100
5.751
2.266
2.150
06
Cổ tức %
0,20
0,20
0,33
0,25
0,50
0,70
(Nguồn: Báo cáo tình hình SXKD của đơn vị qua các năm)
Bảng 1.8: Tình hình tài chính của Công ty CP Vật tư tổng hợp Đà Nẵng
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước CPH
Năm 2004
Năm 2005
01
Vốn kinh doanh:
Trong đó:- Vốn N.nước (%)
-Vốn DN (%)
1000đ
1000đ
2.109.000
2.149.000
1.851.000
2.149.000
1.851.000
02
Lợi nhuận trước thuế
1000đ
121.000
85.000
Lỗ
03
Lợi nhuận sau thuế
1000đ
80.000
5.000
Lỗ
04
Nợ phải thu
1000đ
22.737.706
05
Nợ phải trả
1000đ
36.981.000
06
Cổ tức %/năm
7,2%
(Nguồn: Báo cáo tình hình SXKD của đơn vị qua các năm)
* Đối với Công ty CP vật tư tổng hợp về vấn đề tài chính cần được phân tích làm rõ thêm như sau:
- Năm 2004 tình hình hoạt động SXKD của doanh nghiệp vẫn được duy trì, đời sống cán bộ công nhân viên giữ được mức thu nhập đủ sống, tuy nhiên tình hình tài chính ở quí 4/2004 đã có dấu hiệu biểu hiện khó khăn do vốn bị chiếm dụng quá lớn.
- Năm 2005 hoạt động SXKD giảm sút nghiêm trọng, tình hình tài chính mất cân đối, nợ bị chiếm dụng không thu hồi được, tình trạng bán nợ tràn lan hầu hết ở các đơn vị trực thuộc mà nhiều nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh. Người lao động mất việc làm, thu nhập chỉ còn 70% lương, hoạt động SXKD lỗ 1,4 tỷ.
- Năm 2006 SXKD hoàn toàn bị ngưng hẳn vì không có vốn, doanh nghiệp chỉ tập trung thực hiện các biện pháp thu hồi vốn bán tài sản nhưng tình hình vẫn không được cải thiện, tài chính thâm thụt ngày càng lớn dẫn đến xin phá sản.
1.1.3. Tình hình về lao động, sắp xếp la._.o động
Căn cứ phương án CPH về sắp xếp lao động, các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố ĐN đánh giá thực trạng của doanh nghiệp mình tại thời điểm đó để có phương án sắp xếp lại lao động, dự kiến số lao động tiếp tục làm việc tại công ty, số lao động tiếp tục tuyển dụng thêm hay giải quyết tiếp số lượng dôi dư là bao nhiêu người. Phân loại và lập phương án hỗ trợ kinh phí đào tạo lại theo quy định của Chính phủ.
Nhìn chung, lực lượng lao động của các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau CPH được sắp xếp lại trong cơ cấu tổ chức mới phù hợp với trình độ và khả năng của từng người, các doanh nghiệp cố gắng đảm bảo toàn bộ số cán bộ, công nhân viên và người lao động được bố trí việc làm, kiên quyết cắt giảm số lượng lao động gián tiếp không cần thiết. Ban hành các quy chế rõ ràng về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động, gắn tiền lương và thu nhập với chất lượng công việc. Do vậy, đã nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập cho người lao động (mặc dù có đơn vị doanh thu không tăng). Hầu hết người lao động trong các công ty cổ phần trong ngành thương mại ở TP ĐN đều là các cổ đông, được mua cổ phần với giá ưu đãi (đối với những cán bộ có tên trong danh sách lao động tại thời điểm CPH mỗi năm làm việc tại công ty được mua 10 cổ phần mệnh giá 100.000đ vì mỗi cổ phần ưu đãi khi mua sẽ được Nhà nước hỗ trợ 30%). Người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của TP ĐN đều gắn với đơn vị trên các lợi ích là thu nhập và cổ tức. Chính lợi ích kinh tế đã trở thành động lực mạnh mẽ, làm cho người lao động nâng cao ý thức trách nhiệm đối với công việc của mình cũng như đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các đơn vị cũng rất chú trọng đến việc đào tạo cán bộ, chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức tham dự đầy đủ các đợt học tập chính trị để nâng cao nhận thức về quan điểm đường lối của Đảng, các cán bộ quản lý được tạo điều kiện tham gia các khóa đào tạo tại chức về quản trị kinh doanh, kế toán, luật, ngoại ngữ. Các đơn vị đều xây dựng “Quy chế quản lý hoạt động của công ty”, quy định cụ thể về nội quy, nề nếp làm việc, quyền hạn và trách nhiệm của các chức danh cũng như các đơn vị thành viên. Bước đầu các đơn vị đã có một đội ngũ cán bộ chuyên môn khá, có thể đảm đương được nhiệm vụ đối với hoạt động mới của công ty cổ phần, nhất là quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực thương mại.
Tình hình lao động ở các doanh nghiệp sau CPH nhìn chung khắc phục được những tồn tại, nhược điểm cố hữu ở DNNN, quyền của doanh nghiệp được mở rộng, quá trình ra quyết định của doanh nghiệp được hợp lý hoá hơn, đáp ứng kịp thời của cơ chế thị trường, cơ chế quản lý điều hành của doanh nghiệp đã có sự thay đổi và tiến bộ rõ rệt. Bộ máy tổ chức doanh nghiệp được bố trí hợp lý hơn, tinh giảm được lao động gián tiếp. Tạo được động lực và buộc người lao động, cán bộ quản lý phải thể hiện tinh thần trách nhiệm cao hơn trong mọi hoạt động, tránh được những lãng phí, tiêu cực không cần thiết thường thấy ở DNNN, CBCNV và người lao động tự giác làm việc tạo ra tác phong công nghiệp trong công việc mà trước CPH chưa có được.
Tuy nhiên, trên thực tế sau CPH tình hình lao động ở các doanh nghiệp cổ phần vẫn thiếu sinh khí mới, hầu hết bộ máy quản lý ít được đổi mới, người lao động vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình cũ, tư duy và tác phong cũ của DNNN. Cơ chế hoạt động theo mô hình cổ phần vẫn còn chưa thống nhất và bất cập, chưa thích nghi với cơ chế thị trường.
Các doanh nghiệp chưa có chính sách thu hút các nhân tài, các cán bộ quản lý giỏi từ trong và ngoài công ty. Nguyên nhân là do các đơn vị chưa mạnh dạn đầu tư tiền của cho việc tìm người và thuê người có trình độ năng lực về cho doanh nghiệp. Mặt khác, một số nhân viên cũ của doanh nghiệp trình độ năng lực còn yếu, chưa chịu khó và tự giác học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của mình để đáp ứng yêu cầu của mô hình hoạt động mới đây là những khó khăn cho các doanh nghiệp sau CPH. Đặc biệt đối với Công ty CP Vật tư tổng hợp do quá trình CPH và hoạt động của công ty CP hiệu quả kém nên dẫn đến doanh nghiệp phá sản. Vì vậy việc giải quyết tình hình lao động ở đơn vị này hết sức phức tạp, từ khâu giải quyết quyền lợi cho người lao động, cổ đông đến việc tìm kiếm cơ hội làm việc ở đơn vị mới rất cần lãnh đạo thành phố, các ngành các cấp và doanh nghiệp quan tâm giải quyết.
Tình hình lao động của các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng qua khảo sát
Bảng 1.9: Tình hình lao động ở Công ty CP Thương mại và dịch vụ
STT
Chỉ tiêu
Trước CPH
Năm 2004
Năm 2005
6T 2006
1
Tổng số LĐ
232
115
101
71
2
Trình độ:
- ĐH
- Trung cấp
- CNKT
- LĐ PT
45
67
02
118
30
25
02
58
30
25
02
44
30
25
02
14
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của đơn vị qua các năm)
Bảng 1.10: Tình hình lao động ở Công ty CP Công nghệ phẩm
STT
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
6T năm 2006
1
Tổng số LĐ
280
100
171
2
Trình độ
- Trên ĐH
- Đại học
- Trung cấp
- CNKT
- LĐ phổ thông
75
48
09
71
46
27
11
47
2
52
29
13
65
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của đơn vị qua các năm)
Bảng 1.11: Tình hình lao động ở Công ty CP Cung ứng tàu biển ĐN
STT
Chỉ tiêu
Trước CPH
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
6T 2006
1
Tổng số LĐ
120
120
102
102
92
76
119
2
Trình độ
- Trên ĐH
- ĐH
- Trung cấp
- CNKT
- LĐ phổ thông
46
30
25
19
46
30
25
19
41
24
23
14
41
24
23
14
39
24
20
09
35
20
16
05
52
33
23
11
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của đơn vị qua các năm).
Bảng 1.12: Tình hình lao động ở Công ty CP Vật tư tổng hợp
STT
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
1
Tổng số LĐ
78
69
2
Trình độ
- Trên ĐH
- ĐH
- Trung cấp
- CNKT
- LĐ phổ thông
25
23
20
10
18
20
25
06
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của đơn vị qua các năm)
1.1.4 Tình hình thu nhập
Tình hình thu nhập của người lao động ở các doanh nghiệp trước hết là tiền lương, tiền lương của CBCNV trong các doanh nghiệp được trả căn cứ trên hệ số lương cơ bản của cá nhân, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả công việc của người đó đối với công ty. Việc trả lương của các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng cũng tuân thủ các quy định chung, đảm bảo nguyên tắc người lao động nhận lương không thấp hơn bậc lương cơ bản đang được hưởng; lương thực lĩnh của từng cá nhân là lương cơ bản nhân với hệ số lương thực tế của doanh nghiệp. Hệ số lương thực tế của từng người không cố định, nó phụ thuộc vào hiệu quả của từng người mang lại cho công ty, nó được điều chỉnh cho phù hợp với đóng góp của từng người trong tháng và được ghi trong bản lương từng tháng; việc xem xét điều chỉnh hệ số lương của từng người do giám đốc công ty quyết định trên cơ sở đánh giá kết quả công tác của từng người và xem xét ý kiến đề nghị của các giám đốc trung tâm, chi nhánh, cửa hàng và phụ trách các phòng chức năng.
Việc đánh giá đúng đóng góp của người lao động thông qua tiền lương tiền thưởng tạo động lực cho tất cả mọi người có trách nhiệm hơn, năng động hơn trong công việc, động viên khuyến khích được khả năng của mọi người đóng góp vào sự phát triển của công ty. Ngoài thu nhập bằng tiền lương và tiền thưởng, hằng năm các doanh nghiệp cổ phần phân phối công khai quỹ phúc lợi cho cán bộ công nhân viên và người lao động thông qua các hoạt động tham quan nghĩ dưỡng, nghỉ hè, nghỉ tết và các ngày lễ lớn trong năm.
Nhìn chung, các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau cổ phần hoá tình hình thu nhập của người lao động đều tăng lên so với trước. Thu nhập bình quân của người lao động được tăng dần. Đời sống mọi mặt được cải thiện đáng kể, các chế độ chính sách của người lao động luôn được quan tâm đầy đủ, 100% người lao động được mua BHXH và BHYT. Ngoài ra lao động là cổ đông được chia cổ tức theo cổ phần được mua, cổ tức thường cao hơn lãi suất tiền gởi tiết kiệm của ngân hàng.
Một số doanh nghiệp cổ phần kiên quyết chấm dứt việc trả lương dàn đều theo thâm niên công tác mà áp dụng hình thức quản lý và phân phối tiền lương, tiền thưởng theo hiệu quả của từng người. Hình thức này thường được các công ty không có vốn nhà nước chi phối áp dụng như Công ty cổ phần Công nghệ phẩm là doanh nghiệp 100% vốn cổ đông.
Tuy nhiên, tình hình thu nhập và các chế độ của người lao động sau cổ phần hoá vẫn còn một số vấn đề vướng mắc, Nhà nước chưa có hướng dẫn rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của công ty, chế độ chính sách gắn với doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá như: Vấn đề BHXH đối với người lao động ở công ty cổ phần chưa kịp thay đổi nên hiện nay các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng vẫn vận dụng các quy định của doanh nghiệp Nhà nước về chế độ BHXH để hoạt động; chế độ chính sách đối với người lao động vận dụng theo các quy định hiện hành của Nhà nước về mức lương và nâng bậc lương…đó là chưa kể đến doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hoá hoạt động kém hiệu quả dẫn đến phá sản, cần có chi phí thất nghiệp cho người lao động trong thời gian doanh nghiệp chuẩn bị phá sản và sau phá sản để người lao động đủ sống và tìm kiếm việc làm mới.
* Tình hình thu nhập của các công ty cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng qua khảo sát.
Bảng 1.13: Tình hình thu nhập của các công ty cổ phần
a) Công ty Cổ phần Thương mại dịch vụ Đà Nẵng
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước CPH
Năm 2004
Năm 2005
6 T 2006
01
Tổng quỹ lương
Tỷ đồng
2,373
1,000
.1,280
0,893
02
TN bìnhquân/tháng
1000 đồng
853
1000
1.500
1.500
b) Công ty cổ phần công nghệ phẩm ĐN
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước
CPH
Năm
2005
6 T
2006
01
Tổng quỹ lương
Tỷ đồng
1.808.000
780.000
536.000
02
TN bình quân/tháng
1000 đồng
867
1200
1500
c) Công ty cổ phần cung ứng tàu biển ĐN.
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước
CPH
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
01
Tổng quỹ lương
Tỷ
đồng
1,150
1,551
2,034
2,047
2,062
2,161
02
Thu nhập bình quân/tháng
1000
đồng
1.100
1.080
1.200
1.400
1.450
1.800
d) Công ty cổ phần vật tư tổng hợp ĐN.
STT
Chỉ tiêu
Trước
CPH
Năm
2004
Năm
2005
01
Tổng quỹ lương
02
Thu nhập bình quân/tháng
1.050
1.350
950
(Nguồn: Báo tình hình kết quả SXKD của đơn vị qua các năm)
1.1.5. Đóng góp cho ngân sách Nhà nước
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà nẵng sau khi cổ phần hoá cũng có nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thuế như: thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất… các khoản đóng góp này của các doanh nghiệp thể hiện sự đóng góp của doanh nghiệp cho ngân sách của Nhà nước nói chung và cho sự phát triển của Thành phố Đà Nẵng nói riêng.
Mặc dù các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau cổ phần hoá được hưởng ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá theo Nghị định 66 của Chính phủ, nhưng nhìn chung mức nộp ngân sách vẫn tăng lên so với trước. Ngoài việc đóng góp ngân sách cho Nhà nước các doanh nghiệp rất tích cực đóng góp cho công tác xã hội như xây dựng các công trình phúc lợi, xây dựng nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách, gia đình thương binh - liệt sĩ...
Qua khảo sát các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng đóng góp vào ngân sách nhà nước qua các năm như sau:
Bảng 1.14: Tình hình nộp ngân sách của các Công ty CP
Đơn vị tính: 1000đ
a) Công ty Cổ phần Thương mại dịch vụ Đà Nẵng
Chỉ tiêu
Trước CPH
Năm 2004
Năm 2005
6 tháng năm 2006
Nộp ngân sách
6.462.285
202.532
831.825
193.900
b) Công ty CP Công nghệ phẩm ĐN
Chỉ tiêu
Trước CPH
Năm 2005
6 tháng 2006
Nộp ngân sách
1.655.000
780.000
80.000
c) Công ty CP Cung ứng tàu biển
Chỉ tiêu
Trước CPH
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
6 T 2006
Nộp ngân sách
3.378
7.042
963,16
1.278
2.573
3.039
554
d) Công ty CP Vật tư tổng hợp ĐN
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước CPH
Năm 2004
Năm 2005
Nộp ngân sách
1000đồng
2.300.000
1.700.000
(Nguồn: Báo tình hình kết quả SXKD của đơn vị qua các năm)
1.1.6. Hiệu quả sử dụng vốn
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng phải dựa trên việc sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh. Căn cứ vào số liệu báo cáo, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh trước khi CPH của các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng và sau khi CPH ta có hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị như sau:
Bảng 1.15: Hiệu quả sử dụng vốn của các công ty CP
a) Công ty CP thương mại dịch vụ ĐN
Chỉ tiêu
Trước khi CPH
Năm 2004
Năm 2005
6T 2006
Hiệu quả sử dụng vốn
0,23%
22,03%
13,7%
3,29%
b) Công ty CP Công nghệ phẩm ĐN
Chỉ tiêu
Trước khi CPH
Năm 2005
6T 2006
Hiệu quả sử dụng vốn
1,39%
3,99%
3,19%
c) Công ty CP Cung ứng tàu biển ĐN
Chỉ tiêu
Trước khi CPH
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
6 T 2006
Hiệu quả sử dụng vốn
1,52%
3,42%
3,54%
6,22%
10,60%
11,38%
5,62%
( Nguồn: Báo tình hình kết quả SXKD của đơn vị qua các năm)
1.2. nH÷NG RµO C¶N Vµ NH÷NG VÊN §Ò §ÆT RA SAU Cæ PHÇN HO¸ C¸C DOANH NGHIÖP NHµ N¦íC TRONG NGµNH TH¦¥NG M¹I §µ N½NG
1.2.1. Những cản trở cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay, vấn đề nhận thức của cán bộ, công nhân viên chức và người lao động, thậm chí cả những cán bộ lãnh đạo trong các DNNN trong ngành thương mại tại thành phố Đà Nẵng cần tiến hành CPH còn một số vấn đề. Đa số đều cho rằng CPH là mất đi quyền lợi và thu nhập vốn đang ổn định của mình mà không hiểu là CPH sẽ đem lại cho họ nhiều hơn quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh (SXKD), CPH là một biện pháp đổi mới DNNN, CPH giúp cho kinh tế quốc doanh tập trung vào những lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế và làm ăn có hiệu quả cao hơn, đồng thời phát huy tính năng động của các thành phần kinh tế. Tất cả đều nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và ổn định, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cho nên CPH là để đổi mới. Mục đích chủ yếu của CPH DNNN là cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp. Việc CPH DNNN đã thu hút được nguồn vốn trong cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp và ngoài xã hội vào phát triển SXKD; phát huy được tính năng động, sáng tạo của người quản lý và người lao động; doanh thu, lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách Nhà nước, tích luỹ vốn đều tăng đáng kể; việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động được cải thiện. Nhìn chung CPH DNNN là một chủ trương đúng đắn, đã tạo ra động lực mới đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt cho Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Tuy nhiên, vẫn còn một số cản trở đối với hoạt động của các DN sau CPH từ nhiều phía cụ thể như sau:
- Cản trở từ phía cơ quan chủ quản DNNN:
Đối với cán bộ lãnh đạo và công chức các cơ quan chủ quản, không ít người bị sợ mất quyền sau CPH DNNN. Trong khi đó các chế tài về quyền lợi, trách nhiệm của các bên chưa thật rõ ràng, nhất là lợi ích chung và lợi ích riêng. Một số đơn vị chủ quản thiếu chủ động và tập trung thực hiện do chưa muốn tách chức năng quản lý SXKD ra khỏi chức năng quản lý nhà nước. Thủ tục hành chính rườm rà với cơ chế “xin – cho” trong thủ tục CPH làm cho quá trình CPH DNNN kéo dài. Để đánh giá được giá trị tài sản doanh nghiệp, các đơn vị CPH phải tiếp xúc với nhiều đoàn kiểm tra khác nhau của Ngành quản lý cấp trên, của các Sở, Ban, Ngành của thành phố như: Sở thương mại, Sở tài chính, Sở khoa học - công nghệ, Sở địa chính và môi trường, Sở công nghiệp, Sở kế hoạch - đầu tư… nhưng do các Sở, Ban, Ngành chưa có một chuẩn thống nhất nên có doanh nghiệp phải chờ đợi cả năm trời. Vẫn còn một số cán bộ có nhận thức không thống nhất về chủ trương, bước đi, cách làm, trình tự thủ tục giải quyết các vấn đề trong quá trình CPH, lo CPH DNNN sẽ biến thành tư nhân hóa DNNN, nhất là đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối. Từ đó chưa mạnh dạn đề xuất chính sách thúc đẩy quá trình CPH và sau CPH theo đề án của Chính phủ, Bộ, Ngành, thành phố cũng như việc hoạch định các bước đi tiếp theo sau CPH tạo chính sách thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Trong khi đó, qui trình CPH không đơn giản, đặc biệt là nội dung, qui chế phân định rạch ròi giữa quyền lợi, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm mà người lao động không dễ dàng gì tiếp thu.
- Cản trở từ những người lãnh đạo DNNN và người lao động:
Đối với lãnh đạo doanh nghiệp, số năng động sáng tạo vẫn còn phân vân, nửa muốn cổ phần, nửa lại chần chừ không muốn tiên phong đi trước mà muốn đi ở giữa; số chưa giỏi thì lo sợ không biết cổ đông có bầu mình không, lo sợ sự giám sát của cổ đông tăng lên thì quyền lãnh đạo (theo lối cũ) của mình giảm xuống. Do đó, không ít doanh nghiệp không thuộc danh mục Nhà nước cần giữ lại để củng cố và phát triển, nhưng vẫn còn trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước nên tìm cách trì hoãn CPH, cố tình không giải quyết các thủ tục tiến hành CPH doanh nghiệp. Đối với người lao động chưa thấy rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình, cũng như họ không được giải thích, quán triệt chi tiết, rõ ràng về chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước mục đích là để giúp họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp, nên khi CPH người lao động còn nhiều băn khoăn, lo ngại, không tích cực. Tâm lý phổ biến là lo thiếu việc làm sau CPH, nhiều nơi nỗi lo này trở thành gánh nặng cho cả doanh nghiệp lẫn người lao động. Trong quá trình sắp xếp số lao động dôi dư, nếu đối tượng nào gần hưu thì doanh nghiệp động viên họ về trước tuổi, nhưng trong số họ lao động trẻ vẫn còn nhiều, sẽ làm gì tiếp theo sau khi nghỉ việc, trong khi vấn đề xin việc làm hiện nay rất khó khăn, số lao động ở lại thì từ quyền làm chủ tập thể DN, nay có thêm quyền làm chủ với tư cách là cổ đông còn đang rất là mới mẻ, nhiều người chưa hình dung thực chất ra sao, liệu DN có khá lên hay khó khăn hơn, trong khi chính sách, quan niệm đang biểu hiện đối xử bất bình đẳng giữa DNNN với DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Mặt khác, đối với người lao động bỏ vốn đầu tư mua cổ phần trong khi nhiều nhu cầu chi tiêu khác của mỗi gia đình đang thôi thúc hàng ngày và “sức ỳ” của nếp sống làm việc trong DNNN có lẽ là khó khăn chủ yếu khi chuyển sang cổ phần hoá DNNN.
- Sự chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo địa phương thiếu sự đồng bộ và kiên quyết khi tiến hành CPH:
Sự không thống nhất trong chính sách về CPH DNNN cùng với thiếu kiểm tra, giám sát và kịp thời chấn chỉnh của Chính phủ, các Bộ, Ngành cũng như các cơ quan chức năng của địa phương đã dẫn đến sự không thống nhất trong việc triển khai CPH DNNN ở địa phương. Vì vậy, đã có biểu hiện tuỳ tiện hoặc làm chậm trong việc xúc tiến thực hiện chủ trương CPH ở một số DNNN trong ngành thương mại tại thành phố Đà Nẵng. Mặt khác, tiến trình CPH chưa đặt đúng mức chưa gắn chặt trong chương trình tổng thể về cơ cấu sắp xếp lại khu vực DNNN, do đó việc triển khai thực hiện chưa đồng bộ. Việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các ngành, các cấp của Thành phố còn thiếu kiên quyết, phân cấp, phân quyền còn hạn chế, kéo dài thời gian chờ đợi giải quyết. Vấn đề chuyển một số DNNN sang công ty cổ phần là vấn đề mới lại liên quan đến nhiều lĩnh vực tài chính, lao động, sở hữu, hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể vì vậy cán bộ của các ngành được phân công làm làm nhiệm vụ này còn lúng túng. Trong khi đó thủ tục quy trình CPH còn rườm rà, phức tạp cứng nhắc, chưa gắn với cải cách thủ tục hành chính. Nhiều nơi, cán bộ công chức còn có biểu hiện gây phiền cho DN, thiếu thống nhất trong chỉ đạo thực hiện, các văn bản pháp lý của Nhà nước, các bộ ngành còn chậm, chưa nhất quán, chưa thật sự đồng bộ dẫn đến việc vận dụng còn nhiều vướng mắc. Từ quá trình xây dựng đến thực hiện đề án còn bộc lộ tình trạng chưa sát với thực tế, thiếu sự kết hợp giữa ngành với lãnh thổ. Không ít nơi thiếu dân chủ bàn bạc đối với doanh nghiệp và người lao động. Hiện nay công tác CPH còn mang tính chất dàn đều, phong trào mà chưa được xem xét thấu đáo về khía cạnh chuyên môn, chuyên ngành hoạt động, phạm vi và khả năng của doanh nghiệp. Vấn đề CPH các doanh nghiệp để lấy số lượng mà coi nhẹ chất lượng doanh nghiệp còn khá phổ biến. Công tác phối kết hợp giữa các cơ sở, ban, ngành còn chưa chặt chẽ trong công tác thẩm định phương án cổ phần, xác định doanh nghiệp có thể CPH là những vấn đề khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp sau CPH
1.2.2. Những vấn đề tồn tại, vướng mắc xảy ra sau cổ phần hoá
1.2.2.1 Quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần
Nhận thức về mối quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần chưa thật rõ ràng, nhất là doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 50%, hơn nữa đa số cổ đông là người lao động trực tiếp từ trước đến nay nên ranh giới giữa công ty cổ phần và DNNN vẫn còn nhiều cổ đông chưa thật sự nắm rõ. Đa số cổ phần bán ra thuộc về người lao động của DNNN cũ, trong các doanh nghiệp này sau CPH còn nhiều trường hợp các cổ đông là người lao động không thấy được vai trò chủ sở hữu thực sự của mình để tích cực tham gia bàn bạc, thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty. Không ít cổ đông vẫn có tâm lý e dè trước lãnh đạo doanh nghiệp nhất là khi đề cập đến vấn đề chất vấn, bãi miễn các chức vụ lãnh đạo do vẫn còn quan niệm về vị trí, vai trò của mình như trong DNNN trước kia. Điều đó cho thấy tình trạng làm chủ “hình thức” của người lao động và các cổ đông trong doanh nghiệp sau CPH vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Một số quyền cơ bản và hợp pháp của cổ đông tại nhiều doanh nghiệp CPH còn chưa được đảm bảo, trước hết là quyền thông tin, dẫn đến hầu hết các cổ đông nhỏ cảm thấy bị đứng ngoài công ty, quan hệ giữa cổ đông và công ty trở thành quan hệ giữa người vay và người cho vay vốn. Ngoài ra, quy định pháp lý hiện hành cho phép người lao động được chia cổ phần hưởng lợi tức, được thừa kế, nhưng không được sở hữu. Như vậy, người lao động không phải là cổ đông đầy đủ theo đúng nghĩa của nó.
Ngược lại với hiện tượng trên, ở một số doanh nghiệp sau khi CPH do ngộ nhận, đánh đồng không phân biệt rõ vị thế của cổ đông - sở hữu cổ phần - làm chủ doanh nghiệp với vị thế của người lao động trực tiếp chịu sự điều hành theo kỷ luật lao động và cơ chế, Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp, của lãnh đạo doanh nghiệp cho nên nhiều người lao động - cổ đông trong doanh nghiệp đã có những hành vi “dân chủ quá trớn”. Để đảm bảo quyền làm chủ của mình, những người này mặc dù có nơi chỉ chiếm chưa đến 1% cổ phần doanh nghiệp cũng để mắt và có ý kiến tới mọi chuyện, tranh đấu, chất vấn quyết liệt với các quyết định điều hành của Ban giám đốc doanh nghiệp. Đến mức DNNN sau CPH, Ban giám đốc doanh nghiệp mỗi khi đưa ra quyết định mua sắm, chi tiêu quá 100 ngàn đồng cũng đều phải họp xin ý kiến từng việc rất căng thẳng, hoàn toàn không phù hợp với cơ chế thị trường kinh doanh hiện nay rất cần phản xạ nhanh, quyết định nhanh để chớp lấy thời cơ. Vậy một DNNN sau khi CPH mà có tới hàng trăm ông chủ ngang quyền nhau và đều đòi hỏi điều hành doanh nghiệp như một giám đốc cũng sẽ dẫn đến không hiệu quả, tựa như một DNNN hoạt động theo tinh thần làm chủ tập thể mà Nhà nước là đại diện duy nhất trước khi CPH.
1.2.2.2. Về tổ chức bộ máy quản lý và hệ thống kinh doanh của các công ty cổ phần
Nhìn chung các doanh nghiệp sau khi CPH đều tiến hành tổ chức và hình thành bộ máy quản lý của mình theo quy định của Luật doanh nghiệp, nhân sự được sắp xếp lại tinh gọn hơn, phù hợp với chuyên môn được đảm nhận. Tuy nhiên về hoạt động của bộ máy trong không ít doanh nghiệp thì dường như lại chưa đạt mục tiêu khắc phục yếu kém trong phương thức điều hành của DNNN, cụ thể là:
Thứ nhất: Bộ máy không đổi mới, nhiều doanh nghiệp sau CPH vẫn dùng nguyên bộ máy cũ, chỉ đưa một số vị trí lên, vẫn còn có hiện tượng đội ngũ cán bộ quản lý ít được đổi mới, nhiều doanh nghiệp sau CPH, Giám đốc cũ thành Chủ tịch Hội đồng quản trị, Phó giám đốc thành giám đốc doanh nghiệp mới. Hiện nay chưa có doanh nghiệp nào sau CPH sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành. Nguyên nhân là do bán cổ phần chủ yếu cho nội bộ công nhân viên nên thiếu nhà đầu tư chiến lược là những cổ đông bên ngoài doanh nghiệp có tỷ lệ cổ phần đủ lớn làm thay đổi các quyết sách và quản trị doanh nghiệp. Việc bộ máy tổ chức ít thay đổi dẫn đến tư duy, trình độ quản lý và điều hành doanh nghiệp cũng ít thay đổi, do vậy hiệu quả quản lý cũng chưa được nâng cao. Điều đó cũng cho thấy, các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi cũng chưa phát huy ưu điểm của mô hình mới là chuyên nghiệp hóa cán bộ điều hành, thể hiện qua việc quá ít doanh nghiệp thuê những cán bộ quản lý giỏi từ bên ngoài.
Thứ hai: Một số công ty chưa tổ chức hoạt động đúng với loại hình doanh nghiệp mới; nhiều doanh nghiệp thậm chí còn giữ nguyên phương thức điều hành cũ. Trong cơ cấu tổ chức, hoàn toàn không có sự tách biệt rõ ràng về quản lý - điều hành (mặc dù Điều lệ công ty quy định), nảy sinh xung đột giữa Hội đồng quản trị và Ban giám đốc giống như trong DNNN hiện nay (chẳng hạn giám đốc điều hành không tuân thủ nghị quyết Hội đồng quản trị). Qua khảo sát trực tiếp tại một số doanh nghiệp còn cho thấy, toàn bộ Ban giám đốc là thành viên Hội đồng quản trị. Được hỏi về nguyên nhân, lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng việc cứng nhắc áp dụng mọi quy định về bộ máy tổ chức, quản lý theo Luật doanh nghiệp có thể dẫn tới chồng chéo chức năng, nhiệm vụ trong nội bộ doanh nghiệp, chẳng hạn đối với công ty cổ phần có số lượng cán bộ quản lý ít, sản xuất giản đơn thì không nhất thiết phải thành lập cả Hội đồng quản trị và Ban giám đốc.
Thứ ba: Nhiều doanh nghiệp được CPH trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực (01/01/2000) chưa có sự điều chỉnh về chức năng quyền hạn của các cơ quan quản lý và điều hành cho phù hợp như Hội đồng quản trị (hình thức, cách thức thông qua quyết định của Hội đồng quản trị đã thay đổi), Ban kiểm soát (thay đổi về số lượng, tiêu chuẩn, nhiệm vụ) cũng như Điều lệ doanh nghiệp. Ngoài ra vẫn còn một số doanh nghiệp được CPH chưa tuân thủ các quy định của Luật doanh nghiệp về đổi tên, kế thừa nhãn mác của doanh nghiệp cũ v.v...
1.2.2.3. Về việc quản lý vốn, tài sản của nhà nước ở công ty cổ phần
Việc quản lý vốn của Nhà nước do người đại diện vốn nhà nước trong HĐQT đảm nhận và quản lý theo quy định của Nhà nước nhưng sự lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước ở các DNNN sau CPH vẫn tiếp tục diễn ra thông qua các kênh như sau:
Do doanh nghiệp thiếu trách nhiệm quản lý hay lạm dụng khai thác sử dụng với phần tài sản giữ hộ Nhà nước còn lại trong doanh nghiệp mà chưa sử dụng dứt điểm sau khi CPH kể cả phần nợ doanh nghiệp phải thu hồi hoặc do Nhà nước mất không phần chênh lệch giá trị giữa giá trị thực (gồm giá tính đúng, đủ giá trị doanh nghiệp kể cả giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vô hình của doanh nghiệp) và giá trị kế toán thấp nhất khi tiến hành CPH DNNN (đặc biệt là khi CPH không thông qua thị trường chứng khoán hoặc chỉ khoanh vùng bán cổ phần trong nội bộ doanh nghiệp) hoặc do áp dụng không đúng thực tế các ưu đãi của Nhà nước cho các DNNN sau CPH.
Do chưa có quy định rõ ràng, cụ thể hợp lý quyền lợi, trách nhiệm của người đại diện hoặc kiêm nhiệm quản lý cổ phần nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước vẫn còn nắm giữ ít nhiều cổ phần của doanh nghiệp, thẩm quyền và phương hướng xử lý việc bán bớt hay tăng thêm CP Nhà nước trong các doanh nghiệp đã CPH chưa được rõ ràng và hiệu lực thực tế, gây khó khăn trong các quyết định liên quan đến huy động tăng giảm vốn Điều lệ của Công ty cổ phần, cũng như đến việc thực hiện quyền sở hữu tài sản của Nhà nước trong công ty cổ phần, từ đó trực tiếp hay gián tiếp gây tổn hại cho vốn, tài sản Nhà nước trong các doanh nghiệp này. Đây là một vấn đề khó chấp nhận nhất vì nó hoàn toàn trái ngược với mục tiêu chủ đạo của CPH DNNN. Thực tế CPH DNNN trong thời gian qua cho thấy CPH các DNNN là điều cần thiết và phải được tiến hành minh bạch, công khai, nhanh và triệt để hơn, không minh bạch công khai, càng trì hoãn quá trình CPH càng làm gia tăng tình trạng thất thoát tài sản Nhà nước hoặc doanh nghiệp thụ động “chờ xem sao”, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và gây lãng phí tài sản cho Nhà nước.
1.2.2.4. Vấn đề nợ và quan hệ tài chính sau cổ phần
Đối với khoản nợ thừa kế, Chính phủ đã có cơ chế tạo điều kiện cho phép doanh nghiệp xủ lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng trước khi chuyển đổi. Mặc dù vậy, việc xử lý các tồn đọng cũng chỉ mới giới hạn ở các khoản nợ đã xác định được là không có khả năng thu hồi với các bằng chứng như: con nợ đã bị giải thể, phá sản, đã bị chết, đang thi hành án hoặc đang bỏ trốn trong khi người thân có quan hệ thừa kế không có khả năng thanh toán nợ. Còn những khoản nợ tồn tại nhiều năm do cơ chế cũ để lại, dù con nợ còn tồn tại nhưng cũng khó có khả năng thu hồi thi doanh nghiệp phải thừa kế và không xử lý được. Thực chất đây là gánh nặng của các doanh nghiệp sau chuyển đổi và các nhà đầu tư phải gánh chịu. Điều đó cho thấy, để tình hình tài chính của doanh nghiệp sau khi chuyển đổi thực sự lành mạnh, khả năng cạnh tranh thực sự được cải thiện, quyền lợi của các nhà đầu tư thực sự được rõ ràng, Nhà nước cần có cơ chế xử lý dứt điểm trước chuyển đổi. Mặt khác, nếu không xử lý trước chuyển đổi được thì cần chia sẻ gánh nặng với doanh nghiệp, chẳng hạn giao khoán các khoản nợ cho một định chế trung gian của Nhà nước để tiếp tục theo dõi, xử lý hoặc bán cho công ty mua bán nợ.
Đối với các khoản nợ và tài sản tồn đọng đã được loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp, thì mặc dù theo qui định hiện hành các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện chuyển đổi được quyền loại trừ một số khoản nợ và tài sản tồn đọng ra khỏi giá trị doanh nghiệp để CPH, giao, bán, khoán và cho thuê. Về nguyên tắc, đến thời điểm chuyển đổi nếu các khoản nợ và tài sản này chưa xử lý xong sẽ được doanh nghiệp giao cho cơ quan quyết định chuyển đổi xử lý tiếp, trong đó có phương án doanh nghiệp chuyển đổi giữ hộ trong thời hạn 90 ngày. Từ quy định này đã nảy sinh những vấn đề sau:
Về phía các doanh nghiệp, do không phải ._. triển thị trường bán lẻ, các DN cần thực hiện chủ trương của thành phố tích cực xây dựng các trung tâm bán lẻ có quy mô lớn, có tính chuyên nghiệp cao, phù hợp với sinh hoạt đô thị..., đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, hướng mạnh xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng giao lưu buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới, tập trung phát triển thương hiệu, sản phẩm hàng hóa, quảng bá sản phẩm hàng hóa địa phương...
Trong quá trình kinh doanh phải chú ý đến môi trường kinh doanh vì môi trường ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Mọi sự thay đổi dù nhỏ của môi trường cũng dẫn tới sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Chính vì vậy khi hoạt đông KD các đơn vị phải xây dựng cho mình chiến lược, đây là căn cứ định hướng cho hoạt động KD lâu dài của đơn vị. Không những thế, xây dựng được chiến lược KD đúng thì doanh nghiệp có thể lường trước được các tình huống có thể xảy ra kể cả những rủi ro và thách thức, đảm bảo cho doanh nghiệp SXKD hiệu quả ổn định và phát triển lâu dài.
- Về xây dựng chiến lược kinh doanh:
Xây dựng chiến lược kinh doanh là cách kết hợp tiềm năng có hạn về tài chính và con người chuyển thành lợi nhuận tối đa và thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. Do đó, yêu cầu đặt ra khi xây dựng chiến lược KD công ty phải xây dựng chiến lược KD ngắn hạn và chiến lược kinh doanh dài hạn phải đạt được mục tiêu cụ thể là gì, kế hoạch để công ty tồn tại và phát triển.
Khi xây dựng chiến lược kinh doanh phải thể hiện bằng một chương trình hành động tổng quát hướng tới đạt được mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh mang tính định hướng, không cụ thể chi tiết, để thực hiện nó cần phải có kế hoạch và hoạt động tác nghiệp khác để hỗ trợ.
Quá trình kinh doanh phải xác định được mục tiêu cụ thể cho doanh nghiệp theo các hướng sau:
Kinh doanh phải đảm bảo an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro từ thị trường bên ngoài.Gắn việc mở rộng thị trường để công ty phát triển ngày càng lớn mạnh với nâng cao hiệu quả kinh doanh.Tăng cường đầu tư đầy đủ tiềm lực, sức mạnh trên một số lĩnh vực kinh doanh chính để điều tiết thị trường khi có biến động mạnh phải đề ra giải pháp tài chính chủ động, thích ứng với quá trình cạnh tranh.
Từ những định hướng, mục tiêu cụ thể công ty phải theo đuổi là: tăng doanh thu, tăng đầu tư, tăng lợi nhuận. Mục tiêu quan trọng nhất, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty là doanh số và lợi nhuận. Với mục tiêu đề ra cho công ty là tăng cường hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lý, phương thức công cụ cạnh tranh để đạt được mục đích kinh doanh.
Bên cạnh xây dựng chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty phải xây dựng chiến lược cho từng bộ phận, chi nhánh, từng trung tâm, từng chức năng khác nhau như: chiến lược tài chính, chiến lược nhân sự, chiến lược marketing. Các chiến lược này có mối quan hệ mật thiết với nhau để tìm kiếm thị trường, lĩnh vực, mặt hàng kinh doanh mới sao cho mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất cho doanh nghiệp.
Ngoài việc hình thành một chiến lược kinh doanh chung cho công ty, cũng nên vạch ra những chiến lược riêng biệt về chức năng khác nhau hoặc về từng quan hệ bổ trợ nhau. Trong dó các chiến lược thường được các công ty quan tâm nhất là: chiến lược tìm kiếm chi phí thấp hơn chi phí cạnh tranh; tìm kiếm thị trường mới; tìm kiếm cách thức củng cố hình ảnh cũng như nhãn hiệu thương mại thông qua chất lượng dịch vụ cho khách hàng hoặc quảng cáo; tìm kiếm các phân đoạn thị trường, phân đoạn khách hàng riêng biệt của doanh nghiệp. Nói chung, xây dựng chiến lược nhằm giảm thấp chi phí và khai thác thị trường mới có ý nghĩa thời sự và thiết yếu đối với các công ty trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra chiến lược tạo và duy trì uy tín trên thị trường cũng không kém phần quan trọng đối với công ty.
Để xây dựng một chiến lược kinh doanh tổng thể, cùng với các chiến lược của bộ phận, chi nhánh, trung tâm đảm bảo yêu cầu chính xác và hiệu quả trong cạnh tranh công ty cần phải lựa chọn, áp dụng chiến lược cạnh tranh thích hợp cho mình. Hoạt động kinh doanh công ty phải dựa vào sức lực của chính mình, dựa vào những khách hàng, các đối thủ cạnh tranh để lựa chọn và áp dụng chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả.
Việc hoạch định chiến lược là công việc rất khó khăn đối với công ty, đòi hỏi phải tập trung trí tuệ, do vậy hoạch định chiến lược cần có được sự trợ giúp của chuyên gia, các nhà hoạch định có kinh nghiệm thực hiện.
Khi hoạch định chiến lược cần phải tuân thủ các bước sau:
Bước 1: Phân tích tình hình nội bộ công ty
Bước 2: Dự báo môi trường kinh doanh tương lai
Bước 3: Xác định chức năng, lĩnh vực hoạt động và mục tiêu cụ thể
Bước 4: Hoạch định chiến lược đối với mỗi hoạt động chức năng và hoạch định chiến lược đối với những hoạt động liên đới hỗ trợ
Bước 5: Xây dựng được chiến lược kinh doanh cho công ty.
Phân tích tình hình nội bộ công ty cho phép đánh giá khả năng của công ty có thể nắm bắt và thống trị được các cơ hội kinh doanh sắp tới hay không. Vì vậy, phải đánh giá đúng điểm mạnh, điểm yếu của công ty trên cơ sở phân tích kỹ càng những lợi thế cũng như những hạn chế trong tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác. Đáng chú ý là: trong chiến lược kinh doanh phải đặc biệt quan tâm đến việc khai thác những ưu thế của công ty. Nói đến ưu thế của công ty là bao hàm toàn bộ những khả năng về tài sản hiện có hay tiềm tàng của công ty, chủ yếu thuộc về vật lực, nhân lực và các lợi thế so sánh khác như uy tín, danh tiếng, vị trí địa lý, điều kiện về thông tin. Như vậy, có thể đánh giá không chỉ những lợi thế truyền thống, hữu hình mà cả những lợi thế vô hình.
Đối với đội ngũ lao động thực hành tác nghiệp, công ty phân tích tiềm năng dựa trên trình độ chuyên môn. Đội ngũ cán bộ, nhân viên trẻ hết sức thuận lợi cho những hoạt động đòi hỏi nhịp độ, đổi mới nhiều, chẳng hạn như sự cải tiến công nghệ nâng cao chất lượng dịch vụ. Trái lại đội ngũ lớn tuổi thích hợp cho các hoạt động tác nghiệp đòi hỏi kinh nghiệm và có tính ổn định cao hơn.
Ngoài ra, các ưu thế của công ty về truyền thống, về uy tín xã hội, về địa bàn và lĩnh vực hoạt động cũng cần được khai thác tận dụng cho mục tiêu của chiến lược kinh doanh.
Dự báo môi trường kinh doanh tương lai cần lường trước được các thách thức, các tình huống nguy hiểm đối với công ty cũng như các cơ hội mà công ty có thể tận dụng. Việc dự báo này chính xác bao nhiêu thì chiến lược kinh doanh càng chắc chắn bấy nhiêu.
Phân tích năng lực của đối thủ cạnh tranh và phương thức hoạt động của họ để tìm ra chỗ giao thoa hoặc kẽ hở cho phép công ty chủ động lựa chọn được cách ứng xử phù hợp nhất trong điều kiện cạnh tranh. Cần xác định rõ ràng các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng trong tương lai, họ có thể sử dụng các điểm tựa nào đó để thâm nhập vào các thị trường của công ty.
Từ kết quả phân tích khả năng của công ty và môi trường kinh doanh mục tích cuối cùng phải đạt các mục tiêu cần thiết để phát triển công ty, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các mục tiêu đó phải là:
Chiếm lĩnh được phần thị trường lớn nhất để mở rộng sự thống trị thị trường đó; Tìm được các thông số của đoạn thị trường mà công ty chiếm lĩnh; Xây dựng một phương án mặt hàng tối ưu; Thiết lập một kênh phân phối mạnh; Khả năng tài chính dồi dào; Xây dựng uy tín với người tiêu dùng, người cung cấp hàng.
Ưu thế cạnh tranh chỉ có thể đạt được khi có sự tương ứng giữa khả năng của công ty với các cơ hội dành cho nó và sự tương ứng này cũng chỉ tồn tại ở một thời điểm nhất định, nên đòi hỏi phải nắm bắt kịp thời và trở thành một hoạt động thường xuyên.
Tổng hợp các bộ phận lại và soạn thảo một chiến lược kinh doanh chung của các doanh nghiệp cũng phải phản ánh được nội dung và cách thức thực hiện các hoạt động để chiến thắng trong cạnh tranh. Các đơn vị nên có những chiến lược dự phòng trong trường hợp có tình huống xấu nhất xảy ra để ứng đối nhanh nhạy, chủ động và thích hợp với những thay đổi ngoài dự báo.
* Thực hiện chiến lược kinh doanh
Xây dựng được chiến lược là rất khó khăn nhưng việc thực hiện rất quan trọng. Chỉ có thực hiện tốt, đó là thước đo đánh giá chiến lược có tốt hay không.
Công ty khi kinh doanh phải tư duy theo chiến lược, tránh tình trạng xây dựng chiến lược theo phong trào, không áp dụng vào thực tiễn. Không quá rập khuôn theo chiến lược đã vạch ra mà phải biến đổi và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế kinh doanh và phù hợp với môi trường đầy biến động.
* Lựa chọn phương án kinh doanh, vận dụng các dự báo của thị trường vào thực tiễn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các phương án được lập ra dựa trên chỉ tiêu kế hoạch xây dựng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có lãi, bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh.
Bên cạnh những mặt chuyển biến tích cực đã đạt được, công tác xây dựng phương án kinh doanh ở công ty cần chú ý một số mặt sau:
Hệ thống thông tin chưa được cải tiến, việc cung cấp các loại thông tin về điều kiện kinh doanh, thị trường cho lãnh đạo hạn chế khả năng ra các quyết định kịp thời của lãnh đạo; hoạt động kinh doanh chịu ảnh hưởng lớn các yếu tố khách quan bên ngoài như: điều kiện giao thông vận tải, sự biến động của giá cả, những thay đổi bất ngờ của nhu cầu khách hàng. Những thay đổi của những yếu tố này diễn ra hằng ngày, hàng giờ, điều đó đòi hỏi việc chỉ đạo thực hiện kinh doanh phải năng động và có phương án khi cần thiết.
Đề ra các quyết định và có biện pháp xử lý kịp thời, người lãnh đạo cần nắm được những thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty và phản ứng của khách hàng một cách thường xuyên, liên tục chứ không phải là một định kỳ nào đó. Sự chậm trễ của thông tin sẽ dẫn đến việc ra các quyết định hoặc là không đúng đắn hoặc là quá muộn màn gây nên những thiệt hại to lớn cho công ty. Vì vậy, công ty cần tổ chức một hệ thống thông tin hai chiều một cách có hiệu quả.
Phương án kinh doanh là hoạt động tác nghiệp mang tính chất chiến thuật và áp dụng đối với một số mặt hàng cụ thể, nó không thể tạo ra những bước nhảy quyết định đưa công ty đến một sự thay đổi về chất. Các phương án kinh doanh của các công ty hầu hết chỉ quan tâm đến mục tiêu lợi nhuận và các biện pháp để tăng cường lợi nhuận trong ngắn hạn chứ chưa quan tâm đến vấn đề làm thế nào để củng cố vị thế của công ty trên thương trường. Vì vậy, để phương án kinh doanh của công ty có tính khả thi, giúp cho công ty đạt được mục tiêu trong quá trình kinh doanh, công ty cần hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường, cần có sự đánh giá phân tích từ tổng quát đến chi tiết và phù hợp với công ty.
Các doanh nghiệp phải tăng cường công tác nghiên cứu thị trường vào thực tiễn kinh doanh của mình để dự báo được những biến động có thể xảy ra, từ đó đưa ra được phương án kinh doanh hiệu quả.
Nghiên cứu thị trường là nghiên cứu quy mô, cơ cấu và sự vận động của thị trường, phân tích các nhân tố của môi trường (môi trường kinh tế, môi trường văn hoá xã hội, môi trường pháp luật, môi trường công nghệ, các đối thủ cạnh tranh…) cung cầu về loại hàng hoá và công ty trong kinh doanh. Đây là khâu quan trọng để định hướng triển vọng đối với sản phẩm và khả năng bán sản phẩm của công ty trên thị trường.
Thông qua nghiên cứu thị trường, công ty sẽ nắm được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hoá và dịch vụ đang kinh doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án, chiến lược và biện pháp cụ thể thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Mỗi thị trường hàng hoá, có quy luật vận động riêng, nó thể hiện thông qua việc biến đổi cung cầu, giá cả, nắm được chúng là điều kiện tiên quyết cho sự thành công cho kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu thị trường là một trong những giải pháp quan trọng để tổ chức kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường kinh doanh, phân tích so sánh số liệu đúng và rút ra kết luận để từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với doanh nghiệp. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp cần kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu tại địa bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường.
Vấn đề đầu tiên mà các doanh nghiệp quan tâm khi tổ chức nghiên cứu thị trường là phải thu thập thông tin cần thiết, công ty tiến hành xử lý phục vụ hoạt động phân tích. Đó là quá trình phân loại, tổng hợp, phân tích kiểm tra để chính xác thông tin, loại trừ tin nhiễu, trùng, giả tạo để làm cơ sở xác định đúng đoạn thị trường, đúng đối tượng kinh doanh. Việc xác định thị trường có ý nghĩa lớn, nó giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn đúng thời cơ hấp dẫn, phù hợp với điểm mạnh tránh được những điểm yếu của mình. Thị trường của các doanh nghiệp được xác định trên cơ sở của việc xác định hai dạng thị trường cơ bản là thị trường chung và thị trường sản phẩm. Nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu thị trường là: nghiên cứu khái quát thị trường và nghiên cứu chi tiết thị trường. Nghiên cứu khái quát thị trường phải đạt được những yêu cầu sau: Xác định được quy mô thị trường: điều này giúp cho công ty hiểu được tiềm năng của thị trường: Đánh giá quy mô của thị trường bằng các đơn vị khác nhau như số lượng người mua, khối lượng hàng hoá tiêu thụ, tổng số bán thực tế, tỷ lệ thị trường mà các doanh nghiệp có khả năng đáp ứng và thoả mãn; Thấy được xu thế biến động của thị trường từ đó có hướng chuẩn bị các phương án, biện pháp kịp thời.
Tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường, các doanh nghiệp phải thực hiện một cách tốt nhất các bước quá trình này từ bước thu thập thông tin, xử lý thông tin và ra quyết định kinh doanh nhanh chóng hiệu quả.
Điều kiện để nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp đạt được độ chính xác cao thì phải có kênh thông tin cung cấp chính xác, có đội ngũ chuyên gia giỏi, có trình độ về chuyên môn quản lý, về thị trường, và sự am hiểu về mặt hàng công ty đang kinh doanh thì mang lại kết quả nghiên cứu thị trường với chất lượng cao. Từ đó tạo điều kiện xây dựng chiến lược và phương án kinh doanh có hiệu quả.
* Thực hiện công tác đánh giá quá trình xây dựng các phương án kinh doanh
Công tác kiểm tra, thanh tra, rà soát các bước lập phương án nội dung của các phương án kinh doanh là rất quan trọng, đây là công việc cần thiết hạn chế tương đối những rủi ro, Nội dung cần quản lý và kiểm tra là: số lượng, chất lượng, thời gian, chi phí để thúc đẩy các bộ phận trong hệ thống tổ chức hoàn thành các mục tiêu đề ra, kiểm tra tác nghiệp, đánh giá phương án sau khi thực hiện. Điều quan trọng ở đây là công ty phải định lượng được kết quả thực hiện thông qua các chỉ tiêu marketing, chỉ tiêu nguồn lực, chỉ tiêu tài chính, kết quả kinh doanh. Sau đó là việc so sánh kết quả với các tiêu chuẩn đề ra, xác định nguyên nhân sai lệch và có biện pháp chấn chỉnh ngay.
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện tốt phương án kinh doanh ở các doanh nghiệp không những giúp cho các doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh, nâng cao vị thế trong cạnh tranh trên thị trường, mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
2.2.3. Giải pháp về tài chính
Các doanh nghiệp phải áp dụng đồng bộ các giải pháp về tài chính - tín dụng như việc cơ cấu lại nợ trong nội bộ doanh nghiệp. Nếu khoản nợ là do nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp thì phải cương quyết xử lý bồi thường vật chất, nếu không qui được trách nhiệm cá nhân thì doanh nghiệp tự quyết định xử lý các khoản nợ phải thu này vào kết quả hoạt động kinh doanh; Đối với những khoản nợ do nguyên nhân khách quan, kể cả nguyên nhân do cơ chế, chính sách nếu là khoản nợ ngân sách nhà nước thì coi như vốn nhà nước tại công ty được thực hiện chuyển đổi theo chế độ hiện hành. Nếu là nợ vay ngân hàng thì dùng tiền thu được do chuyển đổi sở hữu sau khi trả nợ vay để chi trả, Nếu là khoản nợ nước ngoài mà doanh nghiệp vay vốn có bảo lãnh thì tổ chức bảo lãnh chủ động đàm phán với chủ nợ nước ngoài để xin giảm nợ và có kế hoạch cùng với công ty tìm nguồn vốn trả nợ nước ngoài. Nếu là khoản nợ với các đối tác là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì có kế hoạch chuyển thành giá trị cổ phần để chủ nợ tham gia cổ phần và thành cổ đông của doanh nghiệp.
Trong thời gian tới các DN phải có kế hoạch bán cổ phần ra bên ngoài công ty và tham gia trên thị trường chứng khoán để thu hút vốn đầu tư ở trong và ngoài nước. Khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt động, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh trên thị trường hàng hóa, dịch vụ mà cả thị trường vốn để dành nhà đầu tư sẵn sàng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, hoặc sử dụng vốn bằng cách chiếm dụng vốn của hàng hóa trả sau, khi các doanh nghiệp là nhà đại lý phân phối; thu hồi vốn nhanh khi các doanh nghiệp là người cung cấp hàng hóa cho khách hàng, dịch vụ... Các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm là khác hàng lớn của công ty khi phát hành cổ phiếu. Do đó công ty có thể chào bán trực tiếp cho các đối tượng này.
Để việc vay vốn được thuận lợi các đơn vị sớm hoàn thành việc thuê đất của nhà nước và tiến hành các thủ tục làm sổ đỏ nhà đất của công ty để dùng vào việc thế chấp khi đi vay vốn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
2.2.4. Giải pháp giải quyết những vấn đề đối với người lao động và cổ đông
Đối với các công ty CP các doanh nghiệp nên phát huy vai trò của tổ chức công đoàn, công ty cần hỗ trợ tổ chức công đoàn thực hiện những công việc như: tổ chức tuyên truyền cho người lao động, cổ đông về chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH, các chế độ chính sách đối với công ty CP để người lao động hiểu rõ mục đích, yêu cầu, quyền lợi, trách nhiệm của người lao động nhằm tạo ra sự nhất trí cao trong công ty CP để thực hiện đạt kết quả tốt. Như vậy, vai trò của tổ chức công đoàn là rất quan trọng nếu phát triển tốt sẽ góp phần thúc đẩy các công ty CPH ổn định và phát triển.
Cần ưu tiên giải quyết các khó khăn, vướng mắc liên quan đến mối quan hệ Nhà nước - công ty, công ty với các cổ đông. Tiếp tục thu thập thông tin, phổ biến các chế độ, chính sách đối với các doanh nghiệp sau CPH để phổ biến cho người lao động và cổ đông. Đồng thời giao rõ trách nhiệm này cho các phòng ban, CBCNV trong công ty.
Cần phân biệt rõ quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của công ty. Sau khi các doanh nghiệp chuyển thành công ty CP, Nhà nước theo mức vốn tham gia vào doanh nghiệp chỉ được hưởng quyền lợi của người chủ sở hữu và gánh vác trách nhiệm có hạn đối với công ty. Còn công ty trong điều kiện ràng buộc của quyền chủ sở hữu, với tư cách là chủ thể kinh doanh, công ty phải tự chủ trong kinh doanh theo đúng pháp luật quy định hiện hành, phải tự chịu lãi lỗ mà không có sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào hoạt động kinh doanh của công ty.
Các công ty phải luôn luôn kịp thời cập nhật các thông tin, văn bản pháp quy của Nhà nước quy định cho các doanh nghiệp CP để thực hiện cho đúng quy định của pháp luật và điều hành công ty được tốt đồng thời bảo đảm được quyền lợi của các cổ đông.
Các công ty cần xây dựng chế độ ưu đãi thêm (nếu có) đối với người lao động. Ngoài các chính sách ưu đãi người lao động khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty CP thi công ty nên quan tâm hơn nữa đến người lao động như: cung cấp liên tục và đầy đủ các chính sách của công ty CP, quyền lợi và nghĩa vụ của các cổ đông. Tại công ty có quỹ khen thưởng và phúc lợi. Các tổ chức đoàn thể, công đoàn, đoàn thanh niên, chi hội phụ nữ... tại công ty có hướng giải quyết nội bộ là hình thành quỹ tự nguyện đóng góp từ cán bộ để giải quyết cho những trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động. Việc điều hòa thông qua quỹ tự nguyện có thể giúp những người không có điều kiện tìm việc bị dôi dư được ở lại doanh nghiệp, những người có khả năng sẽ có thu nhập thỏa đáng để tìm việc mới.
Phát huy dân chủ, tin thần chủ động, sáng tạo, đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm của người lao động và cổ đông trong công ty. Người lao động nắm cổ phần của công ty với tư cách là người chủ doanh nghiệp nên hành vi của họ cần được khích lệ. Con đường căn bản để phát huy đầy đủ tính tích cực của người lao động là chủ động tạo điều kiện cho họ tham gia vào việc phân phối quyền sở hữu tài sản của công ty. Cụ thể là thông qua mối quan hệ giữa cống hiến lao động, thù lao lao động của người lao động với hiệu quả kinh doanh của công ty. Làm cho họ đồng thời trở thành người lao động và người chủ sở hữu của doanh nghiệp, thực hiện sự thống nhất hữu cơ giữa nhân lực và tài lực.
Đại biểu người lao động do tổ chức công đoàn trong công ty cử ra tham gia vào HĐQT và Ban kiểm soát của công ty phải chịu trách nhiệm thay mặt cho người lao động tham gia phân phối quyền sở hữu của doanh nghiệp. Điều này không chỉ có lợi cho việc phát huy ưu thế thống tin mà còn làm cho người lao động thực thi tốt hơn chức năng giám sát đồng thời gắn bó với công ty thành một thể thống nhất cùng chia sẻ trách nhiệm, qua đó tác động vào ý thức làm chủ của họ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Công ty cần thực hiện các biện pháp tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho người lao động và cán bộ quản lý công ty về quyền của cổ đông, của các cơ quan quản lý trong công ty, trình tự, thủ tục thông qua các quyết định quan trọng của công ty nhằm làm cho cổ đông nắm được các quy định pháp lý, tránh tình trạng xung đột trong nội bộ công ty hoặc là chủ “hình thức” của các cổ đông nhỏ trong công ty sau chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt động của công ty sau CPH.
2.2.5. Giải pháp đối với phần vốn sở hữu nhà nước
Hiện nay, cơ chế quản lý doanh nghiệp Việt Nam đang áp dụng cơ chế cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn chưa được phân tích rõ ràng trong các DNNN và các doanh nghiệp CPH có vốn nhà nước. Điều này tạo ra nhiều bất cập trong việc quản lý vốn của các cấp chủ quản và hoạt động SXKD của các doanh nghiệp.
Đối với việc quản lý vốn nhà nước tại các DN CPH, đề nghị:
Thứ nhất: thực hiện phương thức Nhà nước đầu tư và quản lý doanh nghiệp thông qua công ty đầu tư tài chính Nhà nước. Đây là một tổ chức tài chính của Nhà nước được tổ chức dưới dạng doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có chức năng kinh doanh vốn nhà nước nhằm mục đích xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản, chuyển từ cơ chế nhà nước cấp phát vốn sang cơ chế đầu tư vốn vào doanh nghiệp, xác lập rõ ràng quyền sở hữu sở hữu vốn của nhà nước và quyền sử dụng vốn của doanh nghiệp, chuyển phương thức quản lý tài chính mang tính hành chính sang cơ chế kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường. Công ty đầu tư tài chính nhà nước sẽ thực hiện quyền chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, có quyền sở hữu đối với công ty TNHH 1 thành viên, đối với các công ty CPH có vốn nhà nước, tham gia quản trị doanh nghiệp; hoạch định chiến lược phát triển, phương án SXKD, trả lương cho người lao động... với tư cách là một cổ đông.
Thứ hai: Tăng cường quản lý vốn, tài sản của Nhà nước trong công ty CP đòi hỏi phải xử lý hài hòa các quan hệ sau:
- Phải xác định rõ ai là người đại diện và có trách nhiệm, quyền lợi gì đối với số tài sản của nhà nước trong công ty.
- Xác định rõ trách nhiệm đối với các khoản nợ, khoản vay, công nợ không có khả năng thu hồi, nợ khó đòi của công ty mà chưa xử lý dứt điểm trong quá trình CPH.
- Xác định rõ giá trị các tài sản vô hình khác như: lợi thế kinh doanh, thương hiệu, khách hàng truyền thống, thị phần, trình độ tay nghề... vào giá trị doanh nghiệp, đây chính là tài sản doanh nghiệp xây dựng, tích lũy nhiều năm mới có được. Nếu không được tính toán hoặc tính toán không đầy đủ những cấu thành giá trị vô hình này sẽ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước. Vì trên thực tế, giá trị thương hiệu và giá trị vô hình khác trong nhiều trường hợp còn vượt quá giá trị vật chất của doanh nghiệp - phần tài sản lưu động đã không được đưa vào khi tính giá trị doanh nghiệp để CPH.
- Yêu cầu người đại diện và người trực tiếp quản lý phần vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp CP phải là những người đáp ứng được các yêu cầu: về mặt trình độ chuyên môn là phải có trình độ chuyên môn, nắm vững nghiệp vụ, có kiến thức sâu về quản lý kinh doanh, có tầm nhìn và nhãn quan chiến lược, có khả năng tập hợp được nhân lực, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn cũng như ngắn hạn tại công ty, nắm vững những quy định của pháp luật Việt Nam và quốc tế về kinh tế... Về phẩm chất chính trị: phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, nắm vững chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, các chiến lược, định hướng phát triển của công ty, đơn vị.
KẾT LUẬN
Sau gần 14 năm triển khai, CPH DNNN không còn là điều mới lạ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên mỗi bước đi vấn đề CPH DNNN và nhất là sau CPH DNNN lại vấp phải những khó khăn mới do thực tiễn đặt ra. Vấn đề liên tục theo dõi từng bước đi của các doanh nghiệp sau CP để bổ sung kinh nghiệm từ thực tiễn, sửa đổi chính sách cho phù hợp là công việc hết sức quan trọng, cần thiết nhằm đề ra những chính sách mới giúp các doanh nghiệp sau CPH tiếp tục phát triển lành mạnh.
Chúng ta có thể khẳng định CPH doanh nghiệp là chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Bước đầu thực hiện chúng ta đã đạt được những kết quả hết sức khích lệ điều này không những nâng cao uy tín và vị thế của các DNNN được CPH trên thương trường mà còn chứng minh tính đúng đắn của chủ trương CPH DNNN như một biện pháp quan trọng để thực hiện việc sắp xếp lại các DNNN ở nước ta.Tuy nhiên, so với mục tiêu đề ra của Chính phủ thì CPH DNNN vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Đối với DNNN trong ngành TM tại TP Đà Nẵng, một trong những ngành được khuyến khích phát triển ở mọi thành phần kinh tế, thì vấn đề sau CPH đang được đặt ra và thực hiện như một nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới. Nhưng để thực hiện được công việc to lớn này cần phải nắm rõ thực trạng của các doanh nghiệp CP từ CPH DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng và đề ra các giải pháp phù hợp với các đặc điểm của các DN CPH trong ngành TM.
Với đề tài: “Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng”, luận văn đã tập trung phân tích thực trạng các DNNN trong ngành TM, luận văn mạnh dạn phân tích những vấn đề yếu kém trong tiến trình CPH các DNNN, nhất là vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp sau CPH, công tác cán bộ đối với doanh nghiệp CP... để doanh nghiệp sau CPH đi đến phá sản, thực tiễn của tiến trình CPH, những thành tựu, hạn chế, các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý có liên quan trong chỉ đạo và thực hiện tiến trình này trong ngành TM tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua, Từ đó, luận văn đề ra một số giải pháp mới nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp sau CPH trong ngành TM trong thời gian tới.
Hy vọng rằng với những giải pháp này luận văn xin được góp phần nhỏ bé vào việc khắc phục những tồn tại sau CPH ở các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng và sự phát triển của chúng trong thời gian đến.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Công ty Cổ phần Cung ứng tàu biển Đà Nẵng (2006), Báo cáo tình hình hoạt động sau 5 năm thực hiện cổ phần hoá.
Công ty Cổ phần Thương mại dịch vụ Đà Nẵng (2006), Báo cáo tình hình hoạt động từ khi thực hiện cổ phần hoá đến nay.
Công ty Cổ phần công nghệ phẩm Đà Nẵng (2006), Báo cáo tình hình hoạt động từ khi thực hiện cổ phần hoá đến nay.
Công ty Cổ phần Vật tư tổng hợp Đà Nẵng (2006), Báo cáo tình hình hoạt động từ khi thực hiện cổ phần hoá đến nay.
Công ty Cổ phần Vật tư tổng hợp Đà Nẵng (2006), Công văn số 41- CV/VTTH ngày 05/06/2006 xin phá sản doanh nghiệp.
"Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Mới chỉ đầu xuôi !." (2005), Báo Hải quan, (132).
Hoàng Văn Dụ (5/2006), "Những vấn đề về hậu cổ phần hóa", Tạp chí Công nghiệp, Kỳ I.
Đảng bộ khối doanh nghiệp thành phố Đà Nẵng (2000-2006), Báo cáo thống kê số liệu thực hiện SXKD năm 2000 đến 2006.
§¶ng bé Thµnh phè §µ N½ng (2006), V¨n kiÖn §¹i héi lÇn thø XIX §¶ng bé thµnh phè §µ N½ng, §µ N½ng.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS.TS Lê Hồng Hạnh (2004), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn, (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Xuân Hùng (2004), "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Kết quả, vướng mắc và giải pháp", Tạp chí Công sản, (18).
Vũ Trọng Kim (2006), "Xây dựng các đoàn thể chính trị, xã hội vững mạnh ở các doanh nghiệp CPH", Tạp chí Cộng sản, (111).
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1991), Toàn tập, Tập 25, Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS.TS Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới DNNN, (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Hữu Nghĩa (2004), "Cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam: Mấy vấn đề về lý luận và thực tiễn", Tạp chí Công sản, (22).
Sở Thương mại thành phố Đà Nẵng (2000), Báo cáo tổng kết hoạt động thương mại Đà Nẵng năm 2000 và phương hướng hoạt động năm 2001.
Sở Thương mại thành phố Đà Nẵng (2001), Báo cáo tổng kết hoạt động thương mại Đà Nẵng năm 2001 và phương hướng hoạt động năm 2002.
Sở Thương mại thành phố Đà Nẵng (2002), Báo cáo tổng kết hoạt động thương mại Đà Nẵng năm 2002 và phương hướng hoạt động năm 2003.
Sở Thương mại thành phố Đà Nẵng (2003), Báo cáo tổng kết hoạt động thương mại Đà Nẵng năm 2003 và phương hướng hoạt động năm 2004.
Sở Thương mại thành phố Đà Nẵng (2004), Báo cáo tổng kết hoạt động thương mại Đà Nẵng năm 2004 và phương hướng hoạt động năm 2005.
Sở Thương mại thành phố Đà Nẵng (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động thương mại Đà Nẵng năm 2005 và phương hướng hoạt động năm 2006.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (1997), Đề án sắp xếp đối với doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 1997-2005.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2006), Báo cáo tổng kết công tác sắp xếp DNNN thuộc thành phố Đà Nẵng quản lý giai đoạn 1997 – 2005 và kế hoạch CPH năm 2006.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2581.doc