Lời nói đầu
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định là “Xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế”.
Tại Điều 15, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã khẳng định:“ Nhà nước phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Sự ra đời một cơ chế mới kéo theo sự phát triển của nhiều lo
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề pháp lý về phá sản Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhà nước xoá bỏ bao cấp, các doanh nghiệp phải tự hạch toán lo liệu mọi hoạt động kinh doanh của mình với sự cạnh tranh khắc nghiệt, với những biến động của nền kinh tế thị trường Luật phá sản ra đời là một hệ quả tất yếu của quá trình đổi mới đó.
Luật phá sản được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/1994. Luật ban hành nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng Luật phá sản những năm qua góp phần tích cực vào việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy trong quá trình vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, đã bộc lộ khá nhiều vướng mắc, gây không ít khó khăn cho những người thực thi pháp luật. Một trong những nguyên nhân đó là Luật phá sản doanh nghiệp của nước ta chưa thật sự hoàn thiện, các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ, đảm bảo để giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Nhằm góp phần hạn chế thiếu sót với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về phá sản và pháp luật phá sản.
Vì vậy, em đã chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp”. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Chương I: Phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
Chương II: Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp.
Chương III: Thực trạng thi hành Luật phá sản doanh nghiệp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật phá sản doangh nghiệp Việt Nam.
Đây là một vấn đề còn mới mẻ, tài liệu tham khảo ít nhưng em đã cố gắng sử dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên với trình độ còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp của thầy cô giáo và tất cả bạn bè đã giúp em tìm ra những nhược điểm của đề tài.
Chương I Phá sản doanh nghiệp và pháp luật phá sản doanh nghiệp
I.Phá sản doanh nghiệp:
1. Sự ra đời của khái niệm phá sản và phá sản doanh nghiệp:
Khi có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh doanh thì sự phát sinh phá sản là tất yếu, doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển thì phải đủ sức cạnh tranh với những cơ sở khác. Đòi hỏi này làm xuất hiện nhiều doanh nghiệp có bản lĩnh vượt lên nắm bắt các cơ hội chiếm lĩnh thị trường. Song bên cạnh đó là một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ, nợ chồng chất mất khả năng thanh toán nợ đúng hạn; về thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản.
Như vậy phá sản là hiện tượng khó tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường và nó cũng không tồn taị trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung, bởi vì trong điều kiện có bao cấp vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không bao giờ được đặt ra. Trước đây chúng ta thường phát động phong trào “Thi đua xã hội chủ nghĩa” song đây cũng chỉ là biện pháp khuyến khích đơn thuần không bắt buộc về hậu quả vật chất.
Trên thế giới phá sản xuất hiện rất sớm lịch sử đã ghi nhận phá sản được khai sinh từ thời cổ đại La Mã, danh từ Bankrupcy hay Baqueroute tức phá sản bắt nguồn từ chữ Ban Rotta của La Mã, có nghĩa là “chiếc ghế bị gãy”. Thời đó các thương gia của một thành phố thường hợp lại, người nào mất khả năng thanh toán thường bị bắt làm nô lệ để bán khấu trừ nợ hay phải bỏ trốn, do đó mất luôn quyền tham gia Đại hội các Thương gia và chiếc ghế dành cho người đó bị đem ra khỏi nơi hội họp. Tài sản của con nợ bị các chủ nợ xâu xé, giành
nợ của mỗi người. Giải pháp này được các chủ nợ đồng tình và cải tiến nâng lên thành Luật phá sản thời cổ đại La Mã.
Tại Châu Âu, thời Trung cổ, các quốc gia Châu Âu cũng ban hành Luật phá sản, lúc đầu chỉ áp dụng trong lĩnh vực thương nghiệp, sau đó được mở rộng ra nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Lúc đầu Luật phá sản có tính cách hình sự rõ rệt nhằm trừng trị các thương gia. Luật phá sản của Anh do vua Henry VIII ký vào năm 1542 đã đưa các con nợ vào trại giam. Tại Pháp các thương gia đã gian lận trong việc cung cấp hàng hoá cho quân đội gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính làm nhiều thương gia bị khánh tận, chính Napoleon đã soạn thảo gấp bộ Luật thương mại, trong đó những tội danh phá sản được dự liệu ngay trong bộ luật.
Sự gắt gao của Luật phá sản đem lại thiệt hại cho chủ nợ, vì người thiếu nợ trước viễn cảnh của hình phạt đã cố ý che dấu tình trạng mất khả năng thanh toán của mình, cuối cùng khi không che dấu được thì bỏ trốn.
Do đó pháp luật phá sản sau này sửa đổi nhiều theo chiều hướng khoan dung hơn. Coi thương gia phá sản như một kẻ sa cơ thất thế nên đã có những quy định bảo vệ hợp pháp của cả con nợ lẫn chủ nợ. Chính vì vậy pháp chế phá sản hiện nay trên thế giới đều có xu hướng chung là cố gắng có thời gian để hồi vực lại doanh nghiệp mắc nợ.
Xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mỗi nước, mỗi quốc gia đều có Luật phá sản riêng với các nội dung được quy định phù hợp với đặc điểm của nước mình như: Phá sản Cộng hoà Liên bang Đức (1877), của Anh (1986), của Thuỵ Điển (1987), của Nam Tư (1989), của Nga (1992), của Singapore (1995).
ở Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc, pháp chế thương mại hoàn toàn du nhập từ bộ Luật thương mại của Pháp, năm 1864, triều đình Huế ban hành bộ Luật thương mại áp dụng trên lãnh thổ Trung kỳ 1944. Pháp luật phá sản áp dụng dưới chính quyền Sài Gòn cũ mang nặng dấu ấn pháp luật của người Pháp (Luật thương mại Pháp và Luật thương mại Trung phần), đến năm 1972 mới có Luật thương mại riêng, trong đó quy định về định chế khánh tận và tư pháp thanh toán, tuy nhiên việc áp dụng còn rất hạn chế.
Tại miền Bắc từ 1954 – 1975, vừa đấu tranh chống ngoại xâm nhằm thống nhất đất nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy giai đoạn đầu còn duy trì hình thức công ty hợp danh, nhưng qua cải tạo xã hội chủ nghĩa còn hai thành phần kinh tế chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hưũ tập thể được quản lý theo cơ chế tập trung và bao cấp của Nhà nước, nên pháp luật lúc đó không có chế định phá sản.
Sau khi đất nước thống nhất nền kinh tế vẫn duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên cũng không có chế định về phá sản. Sau Đại hội Đảng VI nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Thừa nhận phá sản là hậu quả tất yếu của thị trường và phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Ngày 30/12/1993 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam.
2. Khái niệm phá sản doanh nghiệp :
ở nhiều nước hiện nay, do đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của mỗi nước mà mỗi quốc gia có các quan niệm rộng hẹp khác nhau về khái niệm phá sản.
& Luật phá sản Australia năm 1966 quy định doanh nghiệp hay cá nhân bị tuyên bố phá sản là doanh nghiệp không thể thanh toán được các khoản nợ của mình và đang ở trong tình trạng tài chính bi đát khiến không có khả năng thanh toán nợ đến hạn.
& Luật phá sản Trung Quốc thi hành 1986, tại Điều 3 đã quy định: “Xí nghiệp thua lỗ nghiêm trọng vì quản lý kinh doanh không giỏi, không thể thanh toán các món nợ đến hạn, bị tuyên bố phá sản…”
& Pháp luật phá sản Pháp trước 1985 để định nghĩa một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ. Toà án thường nhận xét thấy tình trạng tài chính của doanh nghiệp đó đã lâm vào tình trạng nguy hại không có cách nào cứu chữa được. Vì vậy dù cho tài sản của doanh nghiệp có đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ nhưng không có khả năng trả các món nợ chắc chắn đã đến hạn thì cũng bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Nói cách khác khi tất cả tiền và tài sản sẵn có của doanh nghiệp không đủ để trả nợ đến hạn thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ.
& Luật phá sản cũ của Singapore năm 1985 quy đinh, đơn yêu cầu tuyên bố phá sản dựa trên một số tình trạng đặc biệt như chuyển tài sản doanh nghiệp cho người khác hưởng lời, có tạo ra các khoản chi mà pháp luật coi là bất hợp lý khi doanh nghiệp bị đề nghị phá sản, cố ý lẩn tránh hoặc trì hoãn nợ bằng cách bỏ trốn khỏi Singapore hoặc nằm lỳ ở nước ngoài, bỏ trốn khỏi nhà hoặc đóng cửa nhà, cửa hiệu, không kinh doanh để giấu mặt, con nợ bị toà án xét xử bằng cách tịch thu tài sản.
& Luật phá sản Vương quốc Anh quy định một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ khi có một chủ nợ số tiền trên 50 bảng đã:
- Gửi đơn đòi nợ sau 3 tuần doanh nghiệp đã không trả được hoặc không thương lượng xong với chủ nợ hay không tìm được các biện pháp bảo đảm cho số nợ.
- Có án lệnh hoặc doanh nghiệp trả nợ nhưng không thi hành được.
- Khiếu nại số nợ không xong.
& Tại Việt Nam khái niệm phá sản là vấn đề được bàn cãi rất nhiều trong quá trình soạn thảo luật doanh nghiệp. Có quan điểm cho rằng chỉ định nghĩa: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn” quan điểm này có phần máy móc, phải có quy định về định lượng các khoản nợ không có khả năng thanh toán; quan điểm khác cho rằng ngoài mất khả năng thanh toán và còn phải mất khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; có quan điểm cho rằng tình trạng phá sản là tình trạng doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đến mức tại thời điểm nào đó, tổng số nợ của doanh nghiệp lớn hơn tổng số giá trị tài sản của nó.
Những quan điểm trên đây có những quan điểm không phù hợp với điều kiện nước ta. Nếu lấy tiêu chí tổng số nợ đến hạn lớn hơn tổng số tài sản doanh nghiệp có mà tuyên bố phá sản thì sẽ tuyên bố phá sản tràn lan vì những doanh nghiệp rơi vào tình trạng này không nhất thiết là không hồi vực được, thông qua các biện pháp khất nợ, hoãn nợ, cải tiến quản lý sản xuất- kinh doanh, một doanh nghiệp có thể hồi vực được để vừa có thể thanh toán nợ và phát triển bình thường.
Nếu lấy tiêu chí doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì khá trìu tượng, vì không thanh toán được các khoản nợ đến hạn có thể chỉ có tính chất nhất thời trong một giai đoạn ngắn nào đó, quan niệm này chỉ bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, nhưng quyền lợi của doanh nghiệp mắc nợ không được bảo đảm.
Ngược lại nếu lấy tiêu chí bằng cách quy định về định lượng các khoản nợ không có khả năng thanh toán, trên thực tế sẽ khó áp dụng vì phụ thuộc số lượng nợ nhiều hay ít, phải so với cả quy mô, quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Quy định tiêu chí này sẽ hạn chế quyền đệ đơn của các chủ nợ vì chủ nợ khó biết được tổng số mất khả năng thanh toán của con nợ là bao nhiêu.
ở Anh, về vấn đề này đã phân biệt hai khái niệm khác nhau, đó là không có khả năng chi trả và phá sản. Doanh nghiệp không có khả năng chi trả là việc doanh nghiệp không có khả năng thoả mãn yêu cầu thanh toán nợ đến hạn cho các chủ nợ bằng tài sản hiện có. Việc doanh nghiệp không đủ khả năng chi trả hoàn toàn không phải lúc nào cũng có nghĩa là doanh nghiệp không đủ tài sản chi trả, vì có thể doanh nghiệp không đủ tài sản để chi trả nhưng bằng các khoản vay, doanh nghiệp có thể còn khả năng chi trả. Doanh nghiệp có thể không có khả năng chi trả nhưng không bị coi là phá sản. Doanh nghiệp không có khả năng chi trả không mang tính tạm thời mới là cơ sở cho việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trên cơ sở tham khảo Luật phá sản của các nước vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, thích hợp hơn cả là khái niệm phá sản doanh nghiệp căn cứ hai điều kiện:
& Điều kiện thứ nhất: Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
& Điều kiện thứ hai: Hiện tượng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn không phải là hiện tượng nhất thời mà đã lâm vào tình trạng trầm trọng.
Với ý nghĩa này, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành từ 01/07/1994 đưa ra khái niệm: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. (Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp).
3. Dấu hiệu đánh giá doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản:
Phá sản là một hậu quả tất yếu của nền kinh tế thị trường, pháp luật Việt Nam đã phản ánh hiện tượng phá sản doanh nghiệp trong Điều 17 Luật doanh nghiệp tư nhân và Điều 24 Luật công ty ban hành cùng ngày 21/12/1990 (chưa sửa đổi) đã nêu: Luật công ty (hay Luật doanh nghiệp tư nhân) “gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số trị giá các tài sản còn lại của công ty (hay doanh nghiệp tư nhân) lâm vào tình trạng phá sản”.
Nhưng sau ngày 30/12/1990, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật phá sản doanh nghiệp, thì định nghĩa trên đã được sửa đổi. Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp năm 1994 đã quy định rằng: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”.
Như vậy cốt lõi của vấn đề phá sản là: “mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” và khi xem xét trong luật ta thấy các dấu hiệu đã nêu ở Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp còn có các dấu hiệu sau đây:
Ba mươi ngày sau khi nhận được giấy đòi nợ đến hạn mà doanh nghiệp vẫn chưa thanh toán (Điều7 Luật phá sản doanh nghiệp).
Doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động 3 tháng liên tiếp (Điều 8 Luật phá sản doanh nghiệp).
Tuy nhiên việc định nghĩa các số nợ đến hạn còn là điều khó khăn, chẳng hạn nếu doanh nghiệp mắc nợ vì vi phạm một điều kiện nào đó với chủ nợ nên khi chưa đến hạn thì xếp nợ này là loại đến hạn hay không? Bản án Toà đã cho phép doanh nghiệp mắc nợ được trả nợ làm nhiều phân kỳ, việc không trả đúng hạn một phần nợ hay phân kỳ thứ nhất có làm cho toàn thể khoản nợ phải trả trở thành nợ đến hạn hay không?
Đối với trường hợp nợ lương của người lao động. Luật không nói rõ trường hợp doanh nghiệp chỉ có khả năng trả một phần lương cho người lao động trong ba tháng liên tiếp thì giải quyết ra sao, điều này được giải thích tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ, hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp, là doanh nghiệp dù chỉ trả một phần lương trong ba tháng liên tiếp vẫn bị coi là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Dù Nghị định chỉ nói đến khoản nợ lương, tuy nhiên cần phải hiểu các khoản nợ, ngoài lương ra thì các khoản mang tính phụ cấp kể cả các lợi ích khác như bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc, tiền thưởng… đã được quy định trong thoả ước lao động đều được xem như là nợ lương.
Cũng theo Nghị định 189/CP, điều quan trọng cần phải xem xét là việc không trả đủ lương cho người lao động chỉ được xem là dấu hiệu doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi việc không trả đủ lương là hậu quả của việc doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ trong hai năm liên tiếp (Điều 3 Nghị đinh 189/CP).
Như vậy một dấu hiệu thứ 3 nữa cho thấy là doanh nghiệp phải rơi vào tình trạng thua lỗ trong hai năm liên tiếp. Dấu hiệu này là cốt lõi, là nguyên nhân, còn hai dấu hiệu kia là hậu quả bổ sung cho dấu hiệu thứ 3.
Ba dấu hiệu này là một thể thống nhất, không thể chia cắt trong việc đánh giá doanh nghiệp có lâm vào tình trạng phá sản hay không? Thực tế, có doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hàng năm liền nhưng vẫn đủ tài chính để thanh toán nợ đến hạn và ngược lại dù thiếu nợ nhưng doanh nghiệp vẫn làm ăn phát triển, tài chính vẫn đầy đủ: Việc không trả đúng hạn có thể do việc cố ý trả chậm để dùng tiền vào việc kinh doanh hoặc tiền từ các tổ chức tín dụng hay con nợ của doanh nghiệp chậm chuyển vào tài khoản của doanh nghiệp.
Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp nêu biện pháp hoãn nợ là một trong các biện pháp tài chính cần thiết, Nghị định 189/CP tại Khoản 2 Điều 2 đã nêu cụ thể 5 biện pháp tài chính cần thiết mà doanh nghiệp mắc nợ phải áp dụng:
1.Có phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các khoản chi phí tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
2. Có biện pháp sử lý hàng hoá, sản phẩm, vật tư tồn đọng.
3.Thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng.
Thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ, giảm xoá nợ.
Tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các khoản nợ đến hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.
Các biện pháp tài chính này phải thực hiện trong khoảng thời gian 2 năm, theo niên độ kế toán tính theo năm dương lịch từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 mà trong thời gian đó doanh nghiệp đang hoạt động thua lỗ, vì đòi hỏi doanh nghiệp áp dụng biện pháp tài chính sau hai năm thua lỗ sẽ hạn chế quyền đệ đơn tuyên bố phá sản tại Toà án của các chủ nợ, mà còn tạo điều kiện cho các con nợ trì hoãn bất hợp lý việc trả nợ bằng cách loại ra lý do chưa áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết. Hơn nữa nếu cho phép doanh nghiệp sau hai năm thua lỗ mới áp dụng các biện pháp tài chính thì việc đó sẽ tuỳ thuộc phương án hoà giải do hội nghị chủ nợ thông qua.
Vấn đề còn lại ở đây là phải có các biện pháp bắt buộc mà tất cả các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải thực hiện thì toà án mới xem xét giải quyết hay không theo Điều 3 Khoản 3 (Nghị định 189/CP) đòi hỏi một doanh nghiệp khi kinh doanh hợp pháp thông thường khi lâm vào tình trạng phá sản tìm mọi biện pháp tài chính hợp pháp để cứu vãn doanh nghiệp nhằm thanh toán được nợ. Do đó việc doanh nghiệp áp dụng các biện pháp tài chính sẽ thể hiện ý chí không muốn chiếm đoạt tài sản và do việc này sẽ được luật pháp cho phép hưởng sự khoan hồng bằng các thủ tục phá sản luật định - việc doanh nghiệp mắc nợ không bắt buộc các biện pháp cứu vãn, thể hiện sự vô trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các khoản nợ và trong ý nghĩ nào đó doanh nghiệp đã cố tình chiếm đoạt tài sản người khác, điều này sẽ được xem là phá sản gian trá và có thể sẽ bị điều chỉnh bằng pháp luật về hình sự để buộc con nợ có trách nhiệm cao nhất trong việc khắc phục hậu quả do mình gây ra.
4.Phân biệt phá sản với giải thể:
Phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt, đặc trưng quan trọng này giúp ta phân biệt dễ dàng phá sản và giải thể góp phần giải quyết triệt để hơn những hậu quả xấu do doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đem lại.
Xét về hiện tượng thì phá sản và giải thể nói chung đều dẫn đến chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại của các chủ nợ, giải quyết quyền lợi cho người làm công. Nhưng xét về bản chất chúng có sự khác nhau cơ bản đó là:
- Nguyên nhân của phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn do thua lỗ trong kinh doanh, còn lý do giải thể thì rộng hơn nhiều. Ví dụ như cơ sở sản xuất kinh doanh có thể chấm dứt hoạt động khi mục tiêu đề ra không đạt được thậm chí có thể bị thu hồi giấy phép hoạt động vì lý do vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Thủ tục tiến hành giải thể là thủ tục mang tính chất hành chính gắn liền với hình thức tổ chức doanh nghiệp, do doanh nghiệp tự tiến hành. Các quy định về giải thể được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về thành lập, tổ chức và hoạt động các loại hình doanh nghiệp. Còn thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp, do toà án tiến hành theo quy định riêng của pháp luật phá sản.
Việc giải thể cơ sở sản xuất kinh doanh có thể tiến hành do ý chí tự nguyện của chủ doanh nghiệp sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập chấp nhận ( đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh) hoặc do cơ quan quản lý nhà nước đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp cho phép (đối với doanh nghiệp Nhà nước).
Trái lại việc tuyên bố phá sản chỉ thuộc thẩm quyền của toà án.
- Về nguyên tắc, cả phá sản và giải thể phải giải quyết triệt để chấm dứt mọi quan hệ pháp lý mà doanh nghiệp đã thiết lập và cam kết thực hiện, xong cách thức thực hiện lại khác nhau:
Giải thể doanh nghiệp phải bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và thanh lý hết hợp đồng mà doanh nghiệp đã ký kết (Điều 23 Luật công ty và Điều 16 Luật doanh nghiệp tư nhân), còn phá sản không bắt buộc phải như vậy, doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ trên cơ sở trị giá tài sản thực có tức là doanh nghiệp mắc nợ được Nhà nước cho phép phân chia rủi ro với những người mình mang nợ trên cơ sở tài sản còn lại của doanh nghiệp (tài sản phá sản).
-Về hậu quả pháp lý giải thể bao giờ cũng dẫn đến việc chấm dứt hoạt động và xoá tên cơ sở kinh doanh, trong khi đó phá sản bao giờ cũng dẫn đến
kết cục như vậy. Chẳng hạn khi có người mua lại toàn bộ doanh nghiệp bị phá sản, họ vẫn có thể giữ nguyên tên hoặc thậm chí cá nhân, mác thương phẩm để tiếp tục duy trì sản xuất kinh doanh. Trường hợp này chỉ có chủ doanh nghiệp bị phá sản mà thôi.
Thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hoặc người điều hành doanh nghiệp cũng hoàn toàn khác nhau:
Pháp luật nhiều nước quy định cấm chủ sở hữu hay người quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh bị phá sản không được hành nghề trong một thời gian nhất định.
Điều 50 Luật phá sản quy định: “ Giám đốc, Chủ tịch và các thành viên trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản không được đảm đương chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nào trong thời hạn từ 1- 3 năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản”.
Tuy nhiên luật cũng quy định một số trường hợp đặc biệt không bị hạn chế quyền điều hành sản xuất kinh doanh đó là:
- Doanh nghiệp bị phá sản vì lý do bất khả kháng do Chính phủ quy định.
- Giám đốc, Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng quản trị không trực tiếp chịu trách nhiệm về lý do doanh nghiệp bị phá sản.
- Giám đốc hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị đã tự nguyện đệ đơn xin phá sản doanh nghiệp đúng pháp luật và trả đủ nợ cho các chủ nợ.
Tất cả những quy định này nhằm khuyến khích ý thức trách nhiệm cao của các chủ doanh nghiệp và những người quản lý doanh nghiệp đối với những món nợ trong kinh doanh. Ngược lại trường hợp doanh nghiệp bị giải thể thì vấn đề hạn chế quyền kinh doanh không đặt ra.
II.Pháp luật về phá sản doanh nghiệp:
1. Khái niệm pháp luật về phá sản doanh nghiệp:
Phá sản là hiện tượng khách quan phản ánh hậu quả của cuộc cạnh tranh sinh tồn trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về phá sản là yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc phản ánh hiện tượng khách quan đó và tác động lại đối với nền kinh tế thị trường. Nếu phản ánh đúng, phù hợp với pháp luật phá sản thì sẽ phát huy tác dụng sắp xếp lại doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngược lại, nếu phản ánh sai lệch – pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vì vậy pháp luật phá sản phải không ngừng hoàn thiện cho phù hợp với sự thay đổi của hiện tượng phá sản và phản ánh đúng hiện tượng, bản chất của phá sản nhằm đưa ra pháp luật phá sản vào thực tế cuộc sống.
Pháp luật phá sản là tổng thể các quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành có liên quan đến việc giải quyết một vụ yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong pháp luật kinh tế pháp luật về phá sản doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật về phá sản doanh nghiệp thì Luật phá sản giữ vai trò chủ đạo.
ở nhiều nước vấn đề xử lý phá sản thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều loại văn bản khác nhau. Ví dụ ở Anh bên cạnh Luật phá sản 1986 còn có luật đình chỉ hoạt động giám đốc công ty, Luật mất khả năng thanh toán. ở Thuỵ Điển thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại một đạo luật riêng.
ở Việt Nam phá sản là một vấn đề còn rất mới mẻ, do vậy hệ thống pháp luật phá sản còn nhiều hạn chế. Sau khi Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993 và được công bố vào ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành từ 01/07/1994. Các văn bản dưới luật hiện có rất ít bao gồm: Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp và Nghị định số 92/CP ngày 19/12/1995 của Chính phủ hướng dẫn quyền lợi giải quyết của người lao động ở doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Để hướng dẫn cách thức hoạt động của các chủ thể trong quá trình tham gia giải quyết phá sản còn có Quyết định 426/QĐ ngày 01/07/1994 của Toà án nhân dân tối cao về Quy chế hoạt động của tập thể thẩm phán; Quyết định số 528/QĐ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về Quy chế làm việc của Tổ quản lý, Tổ thanh toán tài sản. Nghị định 117/CP (07/09/1994) về án phí toà sán. Thậm chí quá trình làm việc của chúng ta còn sử dụng các văn bản hướng dẫn nội bộ của Toà án tối cao cho các Toà án địa phương như Công văn 457/KHXX về việc áp dụng một số quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
Ngoài ra còn một số văn bản pháp luật được ban hành trước đây về vấn đề phá sản đã được đề cập nhưng còn rất mờ nhạt. Ví dụ như: Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty ban hành ngày 21/12/1990. Hiện tại các quy định này không phù hợp nữa nên sau khi Luật phá sản được ban hành thì một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty đã được sửa đổi.
Như vậy theo thông lệ chung quốc tế pháp luật về phá sản của Việt Nam là một hệ thống những quy phạm pháp luật chứa đựng những nội dung chủ yếu như : Khái niệm phá sản, lý do điều kiện phá sản, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết phá sản, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giải quyết yêu cầu phá sản, trình tự giải quyết phá sản và những quy phạm hướng dẫn xử lý các vấn đề có liên quan đến phá sản.
2. Mục đích của pháp luật về phá sản:
Pháp luật về phá sản trước hết và chủ yếu nhằm đáp ứng những mục tiêu cơ bản sau đây:
& Thứ nhất: Bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ.
Về mặt lịch sử pháp luật, ban đầu Luật phá sản chủ yếu chỉ bảo về lợi ích của chủ nợ – thương gia bị vỡ nợ ngoài bị phát mãi tài sản còn phải bị bắt bán làm nô lệ để trừ nợ hay bị giam cầm dù là phá sản đơn thuần hay gian trá.
Quan điểm pháp luật hiện đại như hệ thống Pháp – Mỹ – Nhật có phần khoan dung hơn, xem doanh nghiệp phá sản vì sa cơ thất thế, vì gặp “vận không may” nên lâm vào tình trạng phá sản.
Luật phá sản Việt Nam trên tinh thần bảo vệ lợi ích chính đáng của cả chủ nợ và con nợ, đã có những điều khoản cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích không những của chủ nợ mà cả lợi ích của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Như chúng ta đã biết kinh doanh là một quá trình mạo hiểm mà nguy cơ phá sản có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Khi cái “chết” của một doanh nghiệp không phải bàn cãi gì nữa thì cái đáng quan tâm là phải bảo vệ sự sống còn của các doanh nghiệp có quan hệ với nó. Cho nên mặc dù Luật phá sản ở các nước là rất khác nhau nhưng tất cả các Luật phá sản đều tìm cách giải quyết các vấn đề giống nhau. Vấn đề cơ bản nhất là nên giành thuận lợi thế nào cho chủ nợ. Sự phá sản của một doanh nghiệp có thể gây ra sự phá sản tiềm năng của doanh nghiệp khác. Do vậy, việc bảo vệ các doanh nghiệp chủ nợ là cần thiết.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình luật cho phép các chủ nợ có thể gửi đơn yêu cầu đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà mình cho rằng đã lâm vào tình trạng phá sản. Luật phá sản đã quy định trình tự gửi đơn và tạo điều kiện cho các chủ nợ bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Tuy nhiên, một doanh nghiệp phá sản sẽ có nhiều chủ nợ cùng đòi, cho nên việc thanh toán giải quyết phá sản rất phức tạp. Để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các chủ nợ Luật phá sản quy định hội nghị chủ nợ có quyền giải quyết vấn đề về tài sản, ở đó mọi vấn đề tài sản được đặt ra bàn bạc, quyết định theo đa số, thoả thuận hoặc quyết định cuối cùng của hội đồng chủ nợ có giá trị pháp lý.
Để tránh hiện tượng bừa bãi gây thiệt hại danh dự, lợi ích của doanh nghiệp, Luật phá sản cũng quy định chủ nợ khi nộp đơn phải có đầy đủ bằng chứng về số nợ của doanh nghiệp-Toà xem xét rất kỹ lưỡng và toàn diện mọi chứng cứ mới quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết phá sản và phải nêu rõ lý do.
Đối với con nợ, việc tuyên bố phá sản còn là hình thức “giải phóng” cho họ khỏi những ràng buộc về mặt pháp lý cũng như đạo lý, tạo điều kiện và cơ hội để đưa cho họ trở lại môi trường kinh doanh. Luật cho phép doanh nghiệp có thể đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, từ thời điểm đó không một chủ nợ nào có quyền xé lẻ để kiện riêng doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp được pháp luật bảo vệ tránh sự xâm hại.
Quan trọng hơn cả là luật phá sản đảm bảo cho các chủ nợ đều được chi trả theo tỷ lệ nhất định phần tài sản của họ đảm bảo công bằng, dung hoà lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội.
& Thứ hai : Cơ cấu lại nền kinh tế.
Luật phá sản có vai trò như một công cụ góp phần cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, thông qua hình thức hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh thoát khỏi nguy cơ phá sản. Qua đó cơ chế phá sản đã góp phần hình thành và duy trì mối liên kết bền vững trong nội bộ nền kinh tế giữa các doanh nghiệp làm ăn thực sự có hiệu quả, đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, nhưng đồng thời cũng loại trừ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, không để cho “căn bệnh truyền nhiễm” nguy hiểm này tiếp tục lây lan, ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế chung.
& Thứ ba: Bảo vệ lợi ích người lao động.
Luật phá sản Việt Nam, xuất phát từ bản chất một Nhà nước xã hội chủ nghĩa, từ hoàn cảnh, điều kiện của đất nước, đã có những điều khoản ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người lao động, một trong những mục tiêu quan trọng xuyên suốt từ Đại hội Đảng VI tới nay là : Sắp xếp công ăn việc làm ổn định cho người lao động. Luật phá sản đã coi người làm công ăn lương là một chủ nợ đặc biệt trong thứ tự thanh toán.
Trước hết, Luật quy định Công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có công đoàn, có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp đó nợ lương người lao động trong 3 tháng liên tiếp (Điều 8) và được miễn nộp án phí. Trong trường hợp này, khi tham gia hội nghị chủ nợ, Công đoàn hay đại diện người lao động có quyền biểu quyết như các chủ nợ khác; Công đoàn hay đại diện người lao động dù không có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn được tham gia hội nghị chủ nợ để cùng thảo luận bàn bạc những vấn đề liên quan đến lợi ích chung của các chủ nợ, nhưng không có quyền biểu quyết (Điều 25).
Trong việc quản lý và thanh toán tài sản, người lao động cũng được quyền cử đại diện tham gia Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản (Điều 42).
Đặc biệt khi phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp thì khoản nợ của doanh nghiệp đối với người lao động được trả trước tiên sau khi đã thanh toán các lệ phí và chi phí cho việc tuyên bố phá sản (Điều 39) các khoản nợ của người lao động bao gồm Điều 5 Nghị định 92/CP ngày 19/12/1995 của Chính phủ về giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
- Tiền lương và các khoản phụ cấp lương
- Tiền bảo hiểm xã hội: nếu doanh nghiệp ._.chưa đóng hoặc chưa đóng đủ cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định của điều lệ bảo hiểm xã hội.
- Trợ cấp thôi việc.
- Các quyền lợi khác bằng tiền mà người lao động và doanh nghiệp đã thoả thuận khi ký thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động.
Ngoài ra, tài sản doanh nghiệp bị phá sản còn phải thanh toán các khoản bồi thường hoặc trợ cấp cho người lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà suy giảm khả năng lao động 81% trở lên, chi phí điều trị người lao động thuộc diện tạm hoãn thực hiện hợp đồng vì đang làm nghĩa vụ quân sự hoặc nghĩa vụ công dân khác cũng được trợ cấp thôi việc; người lao động đã và đang bị tạm giam cũng được trả 50% tiền lương còn lại và trợ cấp thôi việc (Điều 5,6,7,8 Nghị định 92CP).
Việc thanh toán các khoản nợ người lao động dựa trên nguyên tắc được thanh toán trực tiếp một lần cho đúng người lao động.
Như vậy, lợi ích người lao động luôn được Nhà nước quan tâm và bảo vệ một cách thoả đáng, thể hiện bản chất Nhà nước của nhân dân lao động.
& Thứ tư: Bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.
Phá sản một doanh nghiệp bao giờ cũng kéo theo những hậu quả nhất định cho xã hội. Luật phá sản là công cụ pháp lý nhằm ngăn chặn tình hình vô tổ chức trong đòi nợ và trong thanh toán nợ, tạo một khung pháp lý an toàn, bình đẳng cho các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ. Việc vi phạm của chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ hay cá nhân tham gia thủ tục giải quyết tuyên bố phá sản đều bị xử lý hành chính, dân sự, hình sự tuỳ mức độ vi phạm nặng, nhẹ.
Như vậy Luật phá sản giải quyết mâu thuẫn, các ức chế tồn tại, đảm bảo cho một xã hội có trật tự, kỷ cương cần thiết.
3. Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản:
Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thực chất là quá trình Toà án xem xét và ra quyết định chấm dứt tư cách pháp lý của doanh nghiệp mắc nợ trên thương trường và đứng ra phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ nợ và những người có quyền lợi liên quan khác.
Giải quyết phá sản là một thủ tục thanh toán đặc biệt bởi lẽ từ trước đến nay theo thông lệ quốc tế tất cả các vụ kiện đòi phân chia tài sản một cách bất đắc dĩ đều do Toà án đứng ra giải quyết. Tòa án là cơ quan tư pháp nhân danh Nhà nước, so với các tổ chức tài phán khác quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành và phải được bảo đảm bằng cưỡng chế Nhà nước.
Mặt khác không như những vụ kiện đòi trong dân sự, kinh tế, phá sản là một vấn đề kinh tế xã hội rất phức tạp. Nó bao gồm những hậu quả bất lợi như: nạn thất nghiệp của công nhân, mâu thuẫn giữa chủ nợ với con nợ, chưa kể đến những biến động không có lợi theo kiểu lan truyền trong nền kinh tế có thể dẫn đến phá sản hàng loạt và thậm chí có thể gây ra khủng hoảng… Tất cả những vấn đề này nếu không được giải quyết một cách triệt để và hợp lý sẽ đem lại hậu quả khôn lường cho xã hội. Do đó tuyên bố phá sản phải là trách nhiệm của Nhà nước và do Toà án đứng ra thực hiện. Trước đây ở nước ta tuyên bố phá sản và giải quyết tranh chấp kinh tế do trọng tài kinh tế Nhà nước đứng ra thực hiện. Đến nay trước yêu cầu của tình hình mới trọng tài kinh tế đã giải thể. Chấm dứt sự tồn tại có tính lịch sử của mình. Công việc này kể từ ngày 01/07/1994 được Toà án kinh tế của các Toà án nhân dân cấp tỉnh (thành lập) đảm nhận.
Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là thủ tục đặc biệt còn thể hiện ở chỗ nếu như tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự chỉ nhằm mục đích xét xử thì quá trình giải quyết yêu cầu phá sản còn phải thực hiện cả hai chức năng đó là giám sát và xét xử đối với doanh nghiệp mắc nợ. Và đặc biệt trong quá trình giải quyết phá sản, Toà án còn có những tác động mang màu sắc quản lý đến doanh nghiệp mắc nợ. Các lý do trên cho thấy thủ tục đòi nợ (thanh toán) trong quá trình giải quyết phá sản cũng hoàn toàn khác so với các thủ tục đòi nợ trong tranh chấp dân sự, kinh tế ở chỗ:
+ Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp theo tỷ lệ phần trăm nhất định tương ứng với mỗi khoản nợ.
+ Việc đòi nợ không diễn ra trực tiếp giữa các bên chủ nợ và con nợ mà bao giờ cũng phải thông qua một cơ quan đại diện là Toà án kinh tế hoặc cơ quan thi hành án.
+ Việc thanh toán chỉ được tiến hành sau khi đã có quyết định của Toà án, khác với việc đòi nợ trong dân sự. Trong dân sự việc thanh toán giữa chủ nợ và con nợ được tiến hành bất cứ lúc nào theo thoả thuận của hai bên, thậm chí cả khi vụ việc đã có quyết định đưa ra xét xử.
Đặc biệt hơn cả quyết định tuyên bố phá sản không phải là bản án được xác định trên cơ sở lỗi, song trong Luật phá sản chủ doanh nghiệp được coi là không có lỗi, vả lại bản thân các chủ nợ khi bỏ vốn vào kinh doanh cũng đã chấp nhận rủi ro, tức là chấp nhận có thể thiệt hại về tài sản xảy ra. ở đây hoạt động của Toà án không nhằm vào mục đích xác định trách nhiệm pháp lý hay chế tài của các bên mà chỉ là thủ tục thực hiện những nghĩa vụ đã được các bên thừa nhận. Khác với tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế, sau khi ra quyết định tuyến bố phá sản, Toà án vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với bộ phận thi hành ra quyết định tuyên bố phá sản là tổ thanh toán tài sản để hỗ trợ cho chủ thể này hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, theo tinh thần đó, giai đoạn phân chia tài sản, được thực hiện bởi tổ thanh toán tài sản, có bản chất pháp lý không giống hoạt động thi hành án đối với các bản án kinh tế, dân sự, hình sự.
Chương II.
Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
I.Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp:
1.Đối tượng điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp:
Đối tượng của Luật phá sản doanh nghiệp là những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Việc áp dụng Luật phá sản cho đối tượng nào là phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. ở úc Luật phá sản chỉ áp dụng cho các đối tượng là thể nhân, ở Nga Luật phá sản áp dụng cho các nhà kinh doanh ( doanh nghiệp và các nhà kinh doanh).
ở Việt Nam chỉ có doanh nghiệp mới chịu sự chi phối của Luật phá sản, là những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Theo khái niệm của nhiều nước trên thế giới thì đối tượng của Luật phá sản là những doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Với khái niệm này thì mọi doanh nghiệp bất kể về nguyên nhân nào đã dẫn đến mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn đều thuộc diện điều chỉnh Luật phá sản.
Luật phá sản nước ta quy định rõ lý do doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để nói lên thực trạng của doanh nghiệp. Nhưng theo chúng tôi, quy định này chỉ làm hẹp đi khái niệm về đối tượng điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp mà thôi.
Luật phá sản doanh nghiệp nước ta quy định mất khả năng thanh toán nợ đến hạn nhưng không định lượng là bao nhiêu, tuy nhiên đó mới chỉ là dấu hiệu để chủ nợ đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nó không phải là căn cứ duy nhất để toà án kết luận tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà còn phải dựa vào một loạt các thủ tục theo trình tự đệ đơn, thụ lý đơn đến hội nghị chủ nợ mới đi đến quyết định tuyên bố hay không tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2. Phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp:
Theo quy định tại Điều 1 của Luật phá sản doanh nghiệp được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy theo pháp luật hiện hành các doanh nghiệp tồn tại ở Việt Nam gồm:
Doanh nghiệp tư nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hợp tác xã.
Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội.
Theo các nhà làm luật sở dĩ pháp luật phá sản Việt Nam quy định những cơ sở sản xuất kinh doanh nào được gọi là doanh nghiệp mới có thể bị tuyên bố phá sản là do họ cho rằng vì đây là chủ thể kinh doanh chủ yếu trên thương trường. Vì vậy cần tập trung quan tâm đến đối tượng này.
- Luật phá sản doanh nghiệp nước ta áp dụng cho cả doanh nghiệp Nhà nước. Nói chung Luật phá sản ở các nước không áp dụng cho doanh nghiệp Nhà nước, vì các doanh nghiệp Nhà nước thực chất không có tư cách pháp nhân. Nhà nước là chủ sở hữu của doanh nghiệp, nên Nhà nước mới có trách nhiệm thanh toán mọi khoản nợ của doanh nghiệp. Nếu Luật phá sản của Nhà nước lại áp dụng cho doanh nghiệp Nhà nước chẳng khác gì “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Vì Nhà nước vừa là chủ nợ, vừa là con nợ. Nhưng vì Nhà nước ta chưa có kinh nghiệm trong việc xử lý các vụ phá sản, nên Nhà nước áp dụng Luật phá sản để xử lý các doanh nghiệp Nhà nước là vừa làm để vừa rút kinh nghiệm.
Những doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng không lấy kinh doanh làm mục tiêu chính thì Chính phủ quy định riêng cụ thể về việc thực hiện Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994.
Vấn đề này có ý kiến cho rằng: Luật phá sản doanh nghiệp phải áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp không ngoại lệ, nếu để một số những doanh nghiệp này nằm ngoài vòng pháp luật, hơn nữa điều này sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại là sẽ không bao giờ bị phá sản nên không cố gắng. Vậy khi những doanh nghiệp này rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn sẽ xử lý ra sao ?.
Doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm báo cáo ngay để có biện pháp khắc phục. Nếu thấy việc hỗ trợ vượt quá khả năng cho phép, Nhà nước không hỗ trợ thì doanh nghiệp có quyền đệ đơn tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
II. Những vấn đề liên quan đến yêu cầu tuyên bố phá sản:
1.Thủ tục nộp đơn và thụ lý đơn:
Đa số Luật phá sản của các nước đều quy định cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là Toà án. Tuy nhiên do sự khác biệt trong tổ chức hệ thống chính trị nên việc phân công, giải quyết có khác nhau, chẳng hạn hầu hết ở các nước Châu Âu, Lục địa, khối Civillaw đều giao thẩm quyền giải quyết cho toà Thương mại. Một số nước như Mỹ, Nam Tư (trước đây), Thuỵ Điển lại giao cho toà phá sản chuyên trách, ở Nga thẩm quyền giao cho toà trọng tài, riêng ở Trung Quốc phá sản tính chất thuộc phạm vi dân sự nên thuộc toà án thường giải quyết.
ở nước ta Điều 4 Luật phá sản doanh nghiệp và Điều 30 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân thì Toà kinh tế toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là toà án nhân dân cấp tỉnh) và toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thủ tục nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết tuyên bố phá sản được quy định tại Điều 7 và Điều 8 Luật phá sản doanh nghiệp.
Điều 7 chỉ quy định: các chủ nợ không có bảo đảm và có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết tuyên bố phá sản, mà không đòi hỏi số lượng cụ thể tối thiểu phải là bao nhiêu, hoặc phải được sự chấp thuận trước của bất kỳ tổ chức nào. Khi nộp đơn chỉ cần nộp kèm theo đơn chứng từ, tài liệu để chứng minh số nợ, chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, các tài liệu này được cụ thể hoá tại Điều 10 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ, khi nộp đơn các chủ nợ phải nộp tiền tạm ứng lệ phí theo quy định của Nghị định 117/CP ngày 07/09/1994 của Chính phủ. Riêng chủ nợ là đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động không ngừng phải nộp tiền tạm ứng lệ phí.
Đối với doanh nghiệp khi nộp đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp cũng phải nộp kèm theo đơn, danh sách các chủ nợ, báo cáo tình hình kinh doanh 6 tháng trước khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, báo cáo quyết toán và thuyết trình chi tiết tình hình tài chính doanh nghiệp đã áp dụng, bản tường trình trách nhiệm và bản sao các tài liệu kế toán…và phải nộp tiền tạm ứng lệ phí như đã nêu trên.
Khác với thủ tục nộp đơn trong giai đoạn trước khi toà án quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tất cả các chủ nợ đều phải gửi giấy đòi nợ, nếu quá hạn quy định mà không gửi giấy đòi nợ chủ nợ sẽ mất quyền tham gia Hội nghị chủ nợ.
Tại mục III công văn số 457/KHXX ngày 21/07/1994 của Toà án nhân dân tối cao quy định toà án chỉ thụ lý đơn sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp và các giấy tờ, chứng từ tài liệu kèm theo đơn đã nộp tiền tạm ứng lệ phí. Toà sẽ thụ lý bằng cách vào sổ và cấp cho người nộp đơn giấy báo nhận đơn và các giấy tờ kèm theo.
Đối với trường hợp người nộp đơn là chủ nợ thì trong vòng 7 ngày từ ngày thụ lý đơn, toà sẽ thông báo cho doanh nghiệp mắc nợ biết có bản sao đơn và các tài liệu liên quan kèm theo. Trong hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của toà án, doanh nghiệp phải gửi cho toà án báo cáo về khả năng thanh toán nợ. Còn trong trường hợp người nộp đơn là chủ doanh nghiệp hay người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp thì toà án chỉ thụ lý đơn mà không cần gửi bản sao đơn và các tài liệu khác cho bất cứ người nào.
2. Những đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Việc xác định những đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu xác định đúng đối tượng thì việc giải quyết phá sản sẽ nhanh chóng, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Ngược lại nếu xác định tuỳ tiện, không dựa trên cơ sở khoa học nào thì hậu quả sẽ làm cho việc giải quyết khó khăn ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh.
Thủ tục phá sản thực chất là giải quyết mối quan hệ tài sản giữa chủ tài sản và con nợ, nên chủ nợ và con nợ được ưu tiên quyền này, nhưng vị trí của con nợ và chủ nợ khi tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu tuyền bố phá sản doanh nghiệp là khác nhau, đối với chủ nợ thì việc yêu cầu tuyên bố phá sản là quyền, đối với con nợ đây là nghĩa vụ.
- Thủ tục phá sản đặt ra trước hết là nhằm bảo vệ quyền về tài sản của chủ nợ, do vậy chủ nợ là người được pháp luật quy định có quyền nộp đơn để xin tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Tại Khoản 1 Điều 7 Luật phá sản doanh nghiệp quy đinh: “Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp để yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp”.
+ Chủ nợ không có bảo đảm là những chủ nợ mà có quyền đòi nợ không được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
Trong ý nghĩa này thì đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn cũng được xem là chủ nợ không có bảo đảm và có quyền đệ đơn yêu cầu Toà án giải quyết, nếu doanh nghiệp mắc nợ không trả được lương cho người lao động trong 3 tháng liên tiếp và có Nghị quyết của công đoàn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp).
+ Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có quyền đòi nợ được đẩm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ nhưng giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ.
Việc quy định cho chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền này là hợp lý vì suy cho cùng họ vẫn là chủ nợ không có bảo đảm, do đó họ có quyền yêu cầu con nợ trả nốt phần còn thiếu.
Đối với chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Đến hạn trả nợ mà doanh nghiệp mắc nợ đó không thanh toán được thì chủ nợ có quyền bán tài sản đảm bảo đó (như tài sản cầm cố, thế chấp). Do vậy, chủ nợ có bảo đảm không có quyền nộp đơn để xin Toà án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Luật phá sản các nước đều quy định con nợ có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản chính doanh nghiệp của mình. Luật quy định như vậy là bởi vì hơn ai hết chính bản thân con nợ hiểu rõ thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp mình. Thực tế cho thấy, dù doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào thì người quản lý bao giờ cũng bằng mọi cách cứu vãn doanh nghiệp mình cho đến khi “vô phương cứu chữa” thì mới nộp đơn xin phá sản.
Khoản 1 Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam quy định: Trong trường hợp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính để thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ các khoản nợ đến hạn thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp để yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Quy định như vậy có ý nghĩa rất lớn, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: là tạo điều kiện cho doanh nghiệp sớm kết thúc sự tồn tại của mình khi không còn khả năng tồn tại.
Thứ hai: Tăng cường trách nhiệm của họ đối với xã hội bởi sự duy trì một doanh nghiệp “đã chết” là điều không tốt không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho cả xã hội.
- Ngoài hai chủ thể chính chủ nợ và con nợ. Luật phá sản Việt Nam còn cho phép người lao động với tư cách là một chủ nợ đặc biệt có quyền yêu cầu Toà án phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên để tránh tình trạng tuỳ tiện trong việc thực hiện quyền này, Luật phá sản doanh nghiệp nước ta đã quy định những điều kiện cụ thể “Trong trường hợp doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động 3 tháng liên tiếp, thì đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn có quyền nộp đơn đến Toà án nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp…” ( Điều 8 Luật phá sản doanh nghiệp).
Điều 9 Nghị định 189/CP của Chính phủ còn quy định một điều kiện nữa để công đoàn được nộp đơn lên Toà án yêu cầu tuyên bố phá sản đó là phải có nghị quyết của công đoàn hoặc tập thể người lao động yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Tóm lại: Luật phá sản doanh nghiệp nước ta chỉ quy định 3 chủ thể là chủ nợ, con nợ, người lao động có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp vì chỉ những chủ thể mới có quyền và lợi ích trực tiếp tới doanh nghiệp bị phá sản.
3. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản:
Theo Luật phá sản của các nước, cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên phá sản doanh nghiệp là Toà án. Tuy nhiên do có sự khác biệt về nhiều mặt nên việc phân công giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản ở các nước là khác nhau. ở hầu hết các nước Châu Âu, Lục địa là Toà thương mại, trong khi đó ở một số nước như Mỹ, Thuỵ Điển, Nam Tư… lại thành lập toà phá sản riêng và chỉ thực hiện một công việc duy nhất là giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. ở Cộng hoà Liên bang Nga thẩm quyền phá sản thuộc về Toà án trọng tài, ở Trung Quốc thẩm quyền này thuộc Toà án thường vì tính chất vụ kiện phá sản được xác định thuộc phạm vi vụ kiện dân sự.
ở nước ta, theo quy định tại Điều 4 Luật phá sản doanh nghiệp và Điều 30 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất cụ thể từng vụ việc, Toà kinh tế, Toà án nhân dân cấp tỉnh chỉ định 1 hoặc 3 thẩm phán giải quyết. Quy chế làm việc của tập thể thẩm phán do Chánh án toà án nhân dân tối cao giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Như vậy, thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở nước ta là Toà án kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Điều 13, 15 Luật phá sản doanh nghiệp đã quy định, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Chánh toà kinh tế tỉnh phải xem xét đơn cùng các giấy tờ, tài liệu liên quan, nếu xét thấy không đủ căn cứ thì ra quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Nếu xét thấy có đủ căn cứ thì ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Trong các quyết định này phải nêu rõ lý do mở hay không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và gửi cho các bên được biết.
Trước khi ra quyết định, ngoài việc xem xét đơn và các giấy tờ, tài liệu kèm theo, nếu xét thấy cần thiết Toà án có thể triệu tập các chủ nợ, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đến Toà án để trình bày những vấn đề cần thiết hoặc yêu cầu họ cung cấp bổ sung các giấy tờ, tài liệu cần thiết khác.
Sau khi nhận được quyết định của Toà án kinh tế cấp tỉnh, các bên có quyền khiếu nại với Chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh về quyết định đó và trong hạn 7 ngày Chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh ra một trong các quyết định sau:
Giữ nguyên quyết định của Chánh toà kinh tế.
Huỷ quyết định của Chánh toà kinh tế và yêu cầu xem xét lại.
Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày Chánh án ra quyết định huỷ. Chánh toà kinh tế phải ra quyết định mới gửi cho Chánh án và các bên đương sự. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận quyết định mới, nếu các bên còn khiếu nại thì trong hạn 7 ngày Chánh án xem xét quyết định và quyết định lần này có hiệu lực thi hành.
Một điểm quan trọng là việc áp dụng các thời hạn vừa được nêu trên sẽ bị hạn chế khi Toà án xem xét đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng như đã nói ở Điều 1 Luật phá sản doanh nghiệp.
Mặc dù Điều 1 Luật phá sản doanh nghiệp chỉ dành cho Chính phủ quy định cụ thể thi hành Luật phá sản doanh nghiệp cho các loại hình doanh nghiệp này, tại Điều 4, 5 mục 3 Nghị định 189/CP của Chính phủ ngoài phần quy định cụ thể phần các doanh nghiệp này khi bị lâm vào tình trạng phá sản, cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp và Thủ tướng Chính phủ thực hiện. Tuy nhiên tại Điều 6 lại quy định cho Toà án các việc phải thực hiện mang tính chất tố tụng là điều không phù hợp với cách thức phân công của bộ máy Nhà nước Việt Nam.
Ngoài ra Điều 6 Nghị định 189/CP của Chính phủ có lẫn lộn về trình tự khi Toà án áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp. Tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định nêu trên quy định Toà án chỉ ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp đối với loại hình doanh nghiệp này sau khi có văn bản của Thủ tướng hay của Thủ trưởng cơ quan Nhà nước đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp về việc không áp dụng các biện pháp cần thiết phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp đó. Tại Khoản 2 Điều 6 lại quy định sau khi thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, Nghị định 189 /CP và các văn bản pháp quy khác.
Với quy định tại Điều 4, 5 Nghị định 189/CP, khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản với loại hình doanh nghiệp này, đúng lý Toà án phải tạm đình chỉ thụ lý đơn hoặc trả lại đơn cho người nộp đơn vì cần phải chờ ý kiến trả lời của Thủ tướng Chính phủ, thủ tục này là cần thiết và nếu không toà án sẽ vi phạm vào thời hạn đã quy định tại Điều 12, 13 Luật phá sản doanh nghiệp. Do đó, sau khi có ý kiến của các cơ quan này Toà án mới chính thức thụ lý đơn và có thời hạn xem xét toàn bộ giấy tờ, tài liệu liên quan để ra quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Một vấn đề đặt ra là quyết định của Chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh sau khi giải quyết các khiếu nại các bên về quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, đã có hiệu lực thi hành theo quy định tại Khoản 2 Điều 13 Luật phá sản doanh nghiệp, có được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hay tái thẩm không? Luật phá sản doanh nghiệp không chỉ dự liệu trường hợp giải quyết kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Quyết định giải quyết này là quyết định cuối cùng. Sau khi tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực thì trình tự phá sản doanh nghiệp chuyển sang một giai đoạn khác; giai đoạn thi hành án.
Tóm lại: Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản chỉ có một cơ quan duy nhất có thẩm quyền đó là Toà kinh tế. Việc quy định chỉ có Toà kinh tế mới đủ thẩm quyền giải quyết là hợp lý vì các toà cấp dưới (huyện, quận) trên thực tế chưa có khả năng cũng như điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này.
III.Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Đây là giai đoạn trung tâm của cả quá trình giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp, việc doanh nghiệp mắc nợ còn tồn tại hay không, tài sản của doanh nghiệp gồm có những gì, việc phân chia ra sao, thậm chí có thể đình chỉ quyết định mở thủ tục phá sản, đều được xem xét cẩn thận trong giai đoạn này.
Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp quy định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn hoặc sau 7 ngày kể từ ngày Chánh án Toà án ra quyết định có hiệu lực pháp luật giải quyết khiếu nại quyết định của Chánh toà kinh tế cấp tỉnh, Chánh án kinh tế cấp tỉnh nếu xét đủ căn cứ, ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Điều 15 này cho phép Chánh toà kinh tế, mặc dù đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Chánh toà nhân dân tỉnh, vẫn có thể xem xét lại các căn cứ mà pháp luật đề ra có phù hợp với hồ sơ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp hay không? Điều này nói lên tính thận trọng của Nhà nước trước “ sinh mệnh” của một doanh nghiệp, dù rằng doanh nghiệp đang trong tình trạng bi đát về tài chính. Một quyết định thiếu căn cứ có thể dẫn đến hàng loạt các hậu quả không tốt cho các chủ nợ. Doanh nghiệp mắc nợ người lao động, danh dự của người đứng đầu doanh nghiệp mà còn gây ra những bất ổn về mặt kinh tế – xã hội. Tuy nhiên điều luật có thiếu sót là không đưa ra biện pháp giải quyết trong tình huống này vì như đã nói ở trên. Quyết định của Toà án nhân dân tỉnh trong trường hợp này có hiệu lực thi hành mà không có thủ tục nào khác để xem xét lại.
Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải được đăng báo địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính và báo hàng ngày của trung ương trong 3 số liên tiếp.
& Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cần phải được công khai bằng thủ tục niêm yết tại trụ sở Toà án thông báo cho tất cả các chủ nợ để tất cả các chủ nợ biết và gửi giấy đòi nợ đúng hạn. Trong Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp yêu cầu bao gồm một số nội dung sau:
Lý do mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2. ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp.
3. Họ, tên thẩm phán phụ trách việc yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp hoặc tuỳ tính chất vụ việc và họ tên 3 thẩm phán.
4. Họ, tên các nhân viên Tổ quản lý tài sản được chỉ định.
1.ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ:
Nhằm mục đích bảo vệ tài sản của doanh nghiệp để sau này thanh toán nợ và bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ qua việc tôn trọng những nguyên tắc ưu tiên, nguyên tắc bình đẳng trong thanh toán tài sản doanh nghiệp mắc nợ; Luật đã quy định trong quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải ấn định thời điểm ngừng trả nợ. Tuy luật không nói rõ thời điểm ngừng thanh toán nợ là thời điểm nào, nhưng Khoản 2 Điều 18 có liệt kê một số hành vi của doanh nghiệp bị nghiêm cấm thực hiện, do đó phải hiểu thời điểm ngừng thanh toán nợ được tính kể từ ngày doanh nghiệp nhận được quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, điểm này đã được công văn 457/KHXX ngày 21/07/1994 của Toà án nhân dân tối cao xác định. Điều lưu ý là dù ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ nhưng doanh nghiệp vẫn chưa bị tước quyền quản lý doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của thẩm phán và tổ quản lý tài sản.
2. Chỉ định thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Khoản 2 Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp quy định một thẩm phán hoặc tập thể 3 thẩm phán giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Khi vụ việc có số chủ nợ nhiều, có nhiều khoản nợ khác nhau với số tiền rất lớn, doanh nghiệp có nhiều chi nhánh ở nhiều nơi, có các yếu tố phức tạp khác thì Chánh toà kinh tế cấp tỉnh chỉ định tập thể 3 thẩm phán phụ trách.
Quyết định số 426/QĐ ngày 01/7/1994 của Toà án nhân dân tối cao cho ban hành quyết định quy chế làm việc của tập thể thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, đã quy định thẩm phán được giao nhiệm vụ phụ trách tập thể thẩm phán phải tổ chức họp tập thể thẩm phán để phân công cho từng thẩm phán như sau:
- Thẩm phán được giao nhiệm vụ phụ trách tập thể thẩm phán phụ trách chung toàn bộ hoạt động của tập thể thẩm phán, tổ chức chủ trì Hội nghị chủ nợ.
- Một thẩm phán được giao nhiệm vụ thu thập tài liệu, chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Một thẩm phán được giao nhiệm vụ giám sát và kiểm tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, giám sát việc thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp trong thời gian giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Tập thể thẩm phán thảo luận và giải quyết theo đa số với các vấn đề sau:
Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Cho phép doanh nghiệp cầm cố, thế chấp chuyển nhượng, bán tài sản của doanh nghiệp hoặc thanh toán nợ có bảo đảm từ tài sản của doanh nghiệp.
Xem xét khiếu nại của chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ về danh sách chủ nợ.
Ra quyết định bảo toàn tài sản thế chấp hoặc cầm cố tổ chức việc xác định giá của tài sản đó.
Ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Tập thể thẩm phán phải có mặt tại Hội nghị chủ nợ và phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp phải được thảo luận và biểu quyết theo đa số.
Thẩm phán được giao nhiệm vụ phụ trách tập thể thẩm phán trước Chánh toà kinh tế cấp tỉnh về toàn bộ hoạt động của tập thể thẩm phán.
Trường hợp giai đoạn đầu Chánh toà kinh tế chỉ định tập thể 3 thẩm phán, nhưng quá trình tiến hành giải quyết việc phá sản doanh nghiệp thấy không cần thiết thì Chánh toà kinh tế có thể tự mình hoặc theo đề nghị của tập thể thẩm phán rút bớt thẩm phán và giao nhiệm vụ cho một thẩm phán phụ trách, giải quyết tiếp. Quyết định bổ xung này phải gửi cho Chánh toà án nhân dân tỉnh và các bên đương sự.
& Điều 16 Luật phá sản doanh nghiệp đã quy định quyền hạn của thẩm phán như sau:
- Thu thập tài liệu, chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Giám sát việc ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29853.doc