Họ và tên : Lương Vũ Thiều Hoa
Lớp : Luật kinh doanh 47
Đề tài: Những vấn đề pháp lý Trong quy chế cho vay tín dụng tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam
Chương I: Những vấn đề pháp lý trong quy chế cho vay tín dụng và vai trò của hoạt động tín dụng
I.Tín dụng ngân hàng
1.Khái niệm
Tín dụng ngân hàng về cơ bản được hiểu là quan hệ cho vay giữa một bên là ngân hàng,một bên là các tổ chức cá nhân có nhu cầu dựa trên cơ sở pháp lý là hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại Điều 20.8,Luật các
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1864 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề pháp lý trong quy chế cho vay tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổ chức tín dụng 1997 sửa đổi bổ sung năm 2004 quy định: “ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”.
Như vậy ngân hàng sẽ thỏa thuận để các tổ chức, cá nhân sử dụng khoản tiền đó với nguyên tắc có hoàn trả dưới các hình thức nghiệp vụ như cho vay,chiết khấu,cầm cố,bảo lãnh…
2.Vai trò
-Nhờ các hoạt động về tín dụng,ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy,tiết kiệm của mỗi cá nhân,doanh nghiệp,nhà nước và các thành phần kinh tế khác trong xã hội.Ngân hàng thương mại chính là chủ thể chính đáp ứng các nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh bằng việc đứng ra huy động vốn từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội,thông qua hoạt động của mình cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất.Nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại,đặc biệt là hoạt động tín dụng,các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất,cải tiến máy móc công nghệ,tăng năng suất lao động,nâng cao hiệu quả kinh tế.
-Tín dụng là cầu nối giữa các doanh nghiệp và thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường,hoạt động của các doanh nghiệp dễ chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan.Trong xu thế quốc tế hóa và hội nhập kinh tế,hoạt động của các doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế cao nhất định theo quy định chung của thị trường thì mới đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh.Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư,đòi hỏi các dịch vụ tài chính,dịch vụ thông tin,tư vấn chất lượng cao.Thông qua hoạt động tín dụng là chiếc cầu nối đưa các doanh nghiệp đến với thị trường để có thể đứng vững trên thị trường.
-Khi cung cấp vốn cho nhiều ngành nghề sẽ tăng thêm nhu cầu nhân sự,tăng thêm thu nhập,giúp xã hội phát triển
-Là một công cụ của chính sách tiền tệ
Thông qua hệ thống của mình,bằng hoạt động tín dụng,dưới sự tác động của ngân hàng trung ương đã góp phần mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông để ổn định giá trị đồng tiền cả về mặt đối nội và đối ngoại.
II.Các biện pháp bảo đảm tiền vay cho hoạt động vay tín dụng và các văn bản pháp lý liên quan
Biện pháp bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng là việc một bên có nghĩa vụ thực hiện một trong các biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật (bên bảo đảm) đối với bên có quyền được bảo đảm (bên nhận bảo đảm) theo thoả thuận giữa các bên phù hợp với quy định pháp luật.
Trước tiên cần nói đến các biện pháp bảo đảm theo quy định của BLDS 2005 để có được cái nhìn khái quát hơn về vấn đề này. Có bảy biện pháp bảo đảm được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 đó là: Cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp.
1. Các biện pháp bảo đảm
1.1. Biện pháp cầm cố
Đây là biện pháp bảo đảm bằng tài sản. Cầm cố tài sản là việc một bên (bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong hợp đồng tín dụng thì việc cầm cố tài sản để bảo đảm thực hiện đúng các nghĩa vụ được thoả thuận trong hợp đồng. Quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố tài sản, bên nhận cầm cố tài sản được quy định tại điều 331, 333 Bộ luật dân sự 2005. Cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố mà trong hợp đồng tín dụng bên nhận cầm cố là tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay.
1.2. Biện pháp thế chấp
Thế chấp là biện pháp bảo đảm trong đó một bên (gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên kia (bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Trong một hợp đồng tín dụng bên nhận thế chấp thường là các tổ chức tín dụng (chủ yếu là các ngân hàng) cho vay và bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng. Thế chấp là biện pháp bảo đảm được sử dụng phổ biến khi các bên giao kết hợp đồng tín dụng trên sơ sở có bảo đảm. Ở biện pháp này không có sự chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp, tài sản thế chấp vẫn do bên thế chấp giữ hoặc các bên thoả thuận cho người thứ ba giữ tài sản. Bên nhận thế chấp chỉ có quyền yêu cầu bên thế chấp hoặc bên thứ ba giữ tài sản đó giao tài sản thế chấp cho mình khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết. Các quy định về thế chấp tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 (từ điều 342 đến điều 357) và cụ thể hơn tại điều 20 đến điều 28 Nghị định 163/2006/NĐ – CP về giao dịch bảo đảm.
1.3. Biện pháp đặt cọc
Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự. Khi hợp đồng được thực hiện thì tài sản đặt cọc trả lại cho bên đặt cọc hoặc trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Trong trường hợp bên đặt cọc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận trong hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc, ngược lại nếu bên nhận đặt cọc từ chối thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải trả tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc.
1.4. Biện pháp ký cược
Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê. Tuy nhiên đây là biện pháp để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê, trong các hợp đồng tín dụng bên cho vay không sử dụng biện pháp này như một biện pháp bảo đảm tiền vay.
1.5. Biện pháp ký quỹ
Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong toả tại một Ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong hợp đồng tín dụng nếu bên có nghĩa vụ không thực hiên hoặc thực hiện không đúng với hợp đồng thì bên có quyền là tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu Ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra sau khi trừ chi phí dịch vụ Ngân hàng.
1.6. Biện pháp bảo lãnh
Bảo lãnh là việc bên thứ 3 (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trong hợp đồng tín dụng biện pháp bảo đảm này được sử dụng trong các trường hợp khi có bên bảo lãnh đáp ứng đủ các điều kiện theo pháp luật cam kết với tổ chức tín dụng (bên cho vay trong hợp đồng tín dụng) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên vay khi đến thời hạn mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng tín dụng mà bên cho vay và bên vay đã ký kết. Các tổ chức tín dụng cũng thực hiện việc bảo lãnh như một dịch vụ với khách hàng có yêu cầu, đó là hoạt động bảo lãnh ngân hàng được quy định từ điều 58 đến điều 60 Luật các tổ chức tín dụng, trong đó có việc bảo lãnh vay (bảo lãnh với tư cách là một biện pháp bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng).
1.7. Biện pháp tín chấp
Chủ thể có thể bảo đảm bằng tín chấp cho các cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại các Ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của chính phủ phải là tổ chức Chính trị - Xã hội ở cơ sở. Như vậy, khi một cá nhân hoặc hộ gia đình nghèo ký hợp đồng tín dụng vay một khoản tiền từ tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định do không có tài sản để bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp như: cầm cố, thế chấp và không có bên thứ ba đứng ra bảo lãnh có thể bảo đảm tiền vay bằng tín chấp theo quy định pháp luật.
Bộ luật Dân sự 2005 quy định bảy biện pháp bảo đảm tuy nhiên do tính chất đặc thù của hoạt động tín dụng Ngân hàng trong hợp đồng tín dụng không áp dụng biện pháp đặt cọc và ký cược. Theo quy định của BLDS 2005 hai biện pháp đặt cọc và ký cược tài sản dùng để bảo đảm là một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác, các tài sản này có chi phí cất trữ bảo quản cao. Đối với tài sản là kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác thì sẽ gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc quản lý do tài sản là hiện vật. Ngân hàng ưu tiên tài sản bảo đảm là giấy tờ vì dễ quản lý và bảo quản hơn, chi phí bảo quản thấp. Lý do thứ hai khiến Ngân hàng không sử dụng hai biện pháp bảo đảm này là do một trong những nguyên tắc quan trọng khi Ngân hàng nhận tài sản để bảo đảm tiền vay là tài sản phải có nguồn gốc căn cứ pháp lý rõ ràng để bảo đảm tính hợp pháp của tài sản. Các tài sản dùng để bảo đảm thường được sử dụng trong biện pháp đặt cọc và ký cược là tiền, kim khí quý, đá quý thì lại rất khó xác định căn cứ pháp lý. Đó là hai lý do căn bản dẫn đến trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng không áp dụng biện pháp bảo đảm đặt cọc và ký cược. Ngoài ra đối với biện pháp đặt ký cược còn một lý do là biện pháp này chỉ áp dụng trong trường hợp thuê tài sản.
Trong hợp đồng tín dụng, tùy từng trường hợp cụ thể có thể sử dụng các biện pháp: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, ký quỹ, tín chấp để bảo đảm tiền vay. Các biện pháp này đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng hiện nay.
2. Vai trò của các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng Ngân hàng
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển và hội nhập hiện nay các hoạt động trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ trong đó phải kể đến hoạt động tín dụng mà chủ yếu là hoạt động cho vay. Hoạt động cho vay lại tiềm ẩn nhiều rủi ro (chủ yếu là rủi ro sai hẹn và rủi ro phá sản từ phía khách hàng vay vốn) và liên quan đến lượng tài sản lớn. Chính vì vậy đòi hỏi khi tiến hành hoạt động cho vay các tổ chức cần có những biện pháp để bảo đảm cho khoản vay không bị mất, có thể thu hồi lại.
Từ đó có thể thấy biện pháp bảo đảm tiền vay đóng vai trò quan trọng để ngăn ngừa và hạn chế các rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trong đó có Ngân hàng. Biện pháp bảo đảm tiền vay sẽ ràng buộc việc thực hiện các nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Khi có thỏa thuận rõ ràng sẽ hạn chế xảy ra các tranh chấp về quyền nghĩa vụ giữa các bên tham gia vào quan hệ tín dụng.
Thêm vào đó việc áp dụng các biện pháp bảo đảm không chỉ hạn chế rủi ro cho phía Ngân hàng mà nó còn giúp giảm bớt tổn thất cho phía khách hàng khi vì một lý do nào đó không thanh toán được nợ cho Ngân hàng (1) Sách Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – Nhà xuất bản Thống kê
.
Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm cũng có tác dụng thúc đẩy khách hàng trả nợ. Tuy trong hoạt động tín dụng biện pháp bảo đảm là biện pháp phòng vệ khi gặp sự cố chứ không phải là căn cứ để quyết định cho vay, nhưng cần thiết áp dụng các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
Các biện pháp bảo đảm áp dụng trong hoạt động tín dụng nêu trên không phải biện pháp bảo đảm nào cũng dùng tài sản để bảo đảm tiền vay, mà như đã nói ở lời mở đầu, trong hợp đồng tín dụng chủ yếu dùng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản chính vì vậy phần tiếp theo tôi sẽ trình bày vấn đề bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
III.Rủi ro tín dụng
1.Khái niệm
Theo Pháp luật Việt Nam, tại Điều 2.1 của Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng (sau đây gọi là Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ) thì rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng của TCTD là “khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Tín dụng có thể nói là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng nên khi có rủi ro xảy ra thì sẽ làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng.Rủi ro có thể xuất phát từ nhiều yếu tố như khả năng phân tích của nhân viên không tốt,các yếu tố về xã hội và thị trường dẫn đến một thời điểm mà cá nhân,tồ chức vay vốn không còn làm ăn có lãi nữa và nhiều yếu tố khách quan khác…khiến chúng ta chỉ có thể dự phòng rủi ro chứ không thể phán đoán chính xác.
2.Phân loại rủi ro
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải đối đầu với rủi ro trong hoạt động kinh doanh.Với các đặc điểm ,đặc thù của ngân hàng thì hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng gặp phải nhiều rủi ro lớn hơn cả.Có những rủi ro từ phía khách hàng hoặc ngân hàng gây nên,do cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước,do khách quan mang lại.Nhìn chung có thể chia thành các loại rủi ro như sau:
-Rủi ro lãi suất:Rủi ro lãi suất là những thiệt hại về tài chính do sự biến động về lãi suất mà ngân hàng thương mại phải gánh chịu.Rủi ro lãi suất có nguyên nhân từ sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ.
-Rủi ro ngoại hối: Là những thiệt hại xảy ra với Ngân hàng thương mại do sự biến động về tỷ giá giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.Ngân hàng rơi vào tình trạng rủi ro ngoại hối trong khi thực hiện các nghiệp vụ ngoại tệ khác nhau như mua bán ngoại tệ hoặc cho vay bằng ngoại tệ.
-Rủi ro tín dụng:Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng.Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ.Các ngân hàng sẽ không bị đe dọa bởi rủi ro tín dụng nếu luôn nhận lại được cả lãi và gốc của các khoản vay đúng hạn.
-Rủi ro thanh khoản:Là những thiệt hại xảy ra khi ngân hàng không có đủ hoặc mất khả năng chi trả cho người gửi tiền.Rủi ro thanh khoản xuất phát từ sự không khớp nhau về thời hạn giữa tài sản có và tài sản nợ.Nguyên nhân có thể là do kế hoạch dự trữ của ngân hàng thiếu chính xác,biến động của nền kinh tế chính trị tác động đến tâm lý người gửi tiền làm khách hàng rút tiền ồ ạt gây mất khả năng chi trả của ngân hàng.
3.Nguyên nhân gây rủi ro
a.Từ phía khách hàng
-Khách hàng là doanh nghiệp thì những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro là : yếu kém về năng lực và chuyên môn của người quản lý cũng như nhân viên,mặt hàng kinh doanh có khả năng cạnh tranh thấp,thị trường suy thoái dẫn đến làm ăn thua lỗ…
-Khách hàng là cá nhân thì khả năng thu hồi nợ sẽ khó khăn hơn so với doanh nghiệp.Khi gặp một biến cố nhỏ cũng có thể làm họ mất khả năng trả nợ như ốm đau bệnh nặng,bị sa thải,gặp tai nạn…
Cho dù khách hàng là cá nhân hay doanh nghiệp thì việc gặp phải những khó khăn là điều rất có thể xảy ra do các tác động của tình hình kinh tế xã hội…Những rủi ro có thể khác nhau về mức độ nhưng quan trọng là phải biết khắc phục những rủi ro đó thế nào để mức độ thiệt hại là thấp nhất.
b.Từ phía ngân hàng
Một là, do việc điều tra, tính toán, kiểm soát đối tượng vay vốn về phương án kinh doanh lúc ban đầu không đảm bảo, thiếu cân nhắc, dẫn đến những sơ hở; thiếu cơ sở đảm bảo cho việc đầu tư vốn có hiệu quả hoặc vận dụng các nguyên tắc điều kiện vay vốn đối với khách hàng chưa phù hợp …
Hai là, nếu Ngân hàng thương mại buông lỏng việc đôn đốc kiểm tra, kiểm soát trong quá trình sử dụng vốn vay và thu hồi vốn, để mặc khách hàng tự do sử dụng thì dễ tạo cho khách hàng tuỳ tiện, hoặc đến hạn trả nhưng khách hàng lại đem sử dụng vào mục đích khác.
Ba là, việc tính toán, dự báo, điều hành vốn của các ngân hàng chưa chuẩn xác gây nên những khó khăn trong kinh doanh.
c.Những nguyên nhân khác
- Ảnh hưởng của môi trường kinh tế xã hội: khi nền kinh tế khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất đình trệ, đầu tư giảm sút sẽ dẫn tới hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, đồng vốn đi vay không phát huy được hết hiệu quả của nó sẽ hạn chế khả năng trả nợ của doanh nghiệp, dẫn đến rủi ro cho các khoản vay của Ngân hàng.
- Ảnh hưởng của môi trường pháp lý: việc chồng chéo, thiếu đồng bộ của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật kinh doanh sẽ không tạo dựng được môi trường pháp lý ổn định, môi trường cạnh tranh lành mạnh đảm bảo tính an toàn cho hoạt động kinh doanh, hoạt động ngân hàng gây ra những trở ngại, rủi ro cho doanh nghiệp và ngân hàng.
- Nguyên nhân bất khả kháng: Ngoài những nguyên nhân trên, những nhân tố khác như: thiên tai, chiến tranh, sự thay đổi ở tầm vĩ mô trong các chính sách về kinh tế, thương mại của Chính phủ,… cũng tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh, sản xuất cũng như khả năng hoàn trả tiền vay của doanh nghiệp đối với ngân hàng.
4.Những điều kiện để nhận biết rủi ro tín dụng
a.Có dấu hiệu báo trước rủi ro
-Qua phương tiện thông tin đại chúng để biết được trong thời điểm hiện tại và tương lai gần những ngành nghề kinh doanh nào đang gặp phải rủi ro
-Qua những thông tin về khách hàng xem khách hàng đó có đủ uy tín để trả nợ hay không
-Qua những thông tin về mặt tài chính trong quá trình vay nợ
-Sự thay đổi của thị trường,nhu cầu của thị trường
b.Dấu hiệu cho thấy có sự rủi ro
-Biểu hiện của khách hàng như trì hoãn việc thanh toán nợ và lãi hàng tháng,không nộp bản báo cáo tài chính,…
-Phương pháp quản lý tài chính có vấn đề,không có năng lực quản lý,tình hình kinh doanh ngày càng tồi tệ
5.Quản lý rủi ro
- Xác định hạn mức rủi ro
Các bộ phận nghiệp vụ quản lý rủi ro phải xác định hạn mức rủi ro cho bộ phận mình, là mức rủi ro nhất định mà TCTD có thể chấp nhận được trong nỗ lực để có được lợi nhuận, trên cơ sở sự sẵn sàng chịu đựng rủi ro và sức mạnh tài chính của TCTD. Ban lãnh đạo theo định kỳ có trách nhiệm xem xét lại và thông qua các hạn mức đó. Các mức này sau đó được thông báo tới toàn bộ nhân viên các bộ phận nghiệp vụ và ban điều hành, ban điều hành chịu trách nhiệm đảm bảo các bộ phận nghiệp vụ tuân thủ các hạn mức này. Có tỷ lệ thưởng và phạt tính trên tổng số thấp hơn và lớn hơn tổng số vượt hạn mức đó.
- Đánh giá rủi ro
Việc đánh giá rủi ro đòi hỏi phải xác định được những rủi ro lớn liên quan đến các sản phẩm, dịch vụ hay hoạt động của TCTD, phải có các chốt kiểm tra nằm trong các quy trình nghiệp vụ để kiềm chế rủi ro trong các hạn mức đã được đề ra cùng với các biện pháp để theo dõi các trường hợp ngoại lệ vượt hạn mức rủi ro.
Quy trình đánh giá rủi ro có các yếu tố: nhận biết rủi ro, định lượng rủi ro và kiểm soát rủi ro.
+ Nhận biết rủi ro: Bước đầu tiên để có một chương trình quản lý rủi ro hiệu quả là phải nhận biết và xác định được các loại rủi ro mà TCTD có thể gặp phải thông qua phân tích đặc thù của các sản phẩm, dịch vụ và các quy trình hoạt động.
+ Định lượng rủi ro: là việc đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro, giúp ban điều hành xác định được rủi ro cần được ưu tiên theo dõi và kiểm soát.
+ Kiểm soát rủi ro: Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục nằm trong hệ thống kiểm soát nội bộ trong các quy trình kinh doanh và hoạt động nhằm giảm thiểu rủi ro. Chi phí cho các thủ tục kiểm soát cao có thể giảm thiểu rủi ro tối đa nhưng hiệu quả lại thấp, ngược lại chi phí cho các thủ tục kiểm soát thấp có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng có thể cao. Ban điều hành phải tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro phù hợp.
- Theo dõi rủi ro: là việc thực hiện đầy đủ các hệ thống, các thủ tục kiểm soát, nhờ đó ban điều hành có thể theo dõi được mức rủi ro của từng lĩnh vực kinh doanh.
- Quá trình quản lý rủi ro: hoạt động quản lý rủi ro tín dụng không chỉ dừng lại ở việc phát hiện và xử lý các khoản vay đã xảy ra rủi ro, quản lý rủi ro tại các ngân hàng đó là quá trình dự đoán, phòng ngừa những khả năng rủi ro tín dụng có thể xảy ra đối với một món vay thông qua việc xem xét tính khả thi của việc sử dụng hiệu quả đồng vốn. Để đảm bảo hạn chế đến mức tối đa rủi ro xảy ra trong hoạt động tín, hoạt động quản lý rủi ro tín dụng phải được diễn ra xuyên suốt quy trình cho vay của ngân hàng. Trong quá trình thực hiện hoạt động cấp tín dụng, ngân hàng cần hạn chế các khoản tín dụng có vấn đề, nợ xấu để giảm thiểu rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Sau khi đã cấp tín dụng, nếu phát sinh rủi ro, ngân hàng có những biện pháp quản lý và thanh lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề.
6.Những quy định của pháp luật về quản lý rủi ro
6.1 Quy định của Nhà nước về Chính sách cho vay và an toàn tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm đó là chính sách cho vay. Nội dung của chính sách cho vay được xây dựng trên cơ sở nhu cầu tín dụng của khách hàng và dự đoán tương lai cũng như diễn biến trong quá khứ về rủi ro tín dụng. Mục tiêu của chính sách cho vay phản ánh đường lối chung của một ngân hàng, định hướng hoạt động cho cán bộ tín dụng và các nhân viên trong ngân hàng, tăng cường nâng cao chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo ra sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Đảm bảo chất lượng tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng cần có hai điều kiện: điều kiện cần và điều kiện đủ.
- Điều kiện cần: là những tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng, áp dụng dối với khách hàng có nhu cầu vay vốn bao gồm các điều kiện về:
+ Chính sách khách hàng
+ Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng
+ Lãi suất và phí suất tín dụng
+ Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
- Điều kiện đủ: là những đảm bảo của người vay về khả năng trả nợ cho ngân hàng sau khi đã được cấp vốn vay, bao gồm các điều kiện về:
+ Các khoản bảo đảm
Hiện nay, Nhà nước đã ban hành một chính sách cho vay chung nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động cấp tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam. Theo quy định tại Điều 5 Luật các Tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004, Nhà nước đưa ra chính sách cho vay nhằm động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, bảo đảm cho doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia; bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia; mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân.
Bên cạnh chính sách cho vay chung của Nhà nước, chính sách cho vay còn bao gồm các chính sách liên quan đến từng vấn đề trong hoạt động cấp tín dụng như:
- Đối với chính sách giới hạn tín dụng, theo quy định tại Mục III của Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của ngày 19/06/2005 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước:
+ Tổng dư nợ cho vay của TCTD đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của TCTD.
+ Tổng dư nợ cho vay của TCTD đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của TCTD, trong đó mức cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của TCTD.
+ Tổng dư nợ cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng tối đa không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
Tổng dư nợ cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài, trong dó mức cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
- Đối với mức lãi suất theo quy định tại Điều 11 của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN :
+ Mức lãi suất cho vay do TCTD và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
+ Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do TCTD ấn định và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.
Chính sách về các khoản bảo đảm: Ngân hàng cấp tín dụng dựa trên uy tín của khách hàng. Trong những trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn, ngân hàng yêu cầu khách hàng ký kết hợp đồng bảo đảm theo các hình thức cầm cố hoặc thế chấp nhằm hạn chế bớt các các thiệt hại do rủi ro ro tín dụng có thể xảy ra với ngân hàng.
Hiện nay, cơ sở pháp lý của các giao dịch bảo đảm được quy định chung tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Bên cạnh đó, vấn đề bảo đảm tiền vay đặc thù của hoạt động của các TCTD còn được quy định tại Điều 52 Luật các Tổ chức tín dụng 1997 sửa đổi, bổ sung năm 2004, theo đó:
- TCTD chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ để cho vay.
- TCTD có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. TCTD không được cho vay trên cơ sở cầm cố bằng cổ phiếu của chính TCTD cho vay.
- TCTD xem xét, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
- TCTD nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ. Tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được Chính phủ xử lý.
Đối với hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản bao gồm hợp đồng thế chấp và hợp đồng cầm cố được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính theo quy định tại điều 327 và điều 343 BLDS 2005. Ngoài ra, theo quy định tại điều 51 Luật các Tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004 và điều 17 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì trong nội dung chính của hợp đồng tín dụng có nội dung về hình thức bảo đảm tiền vay, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức xử lý tài sản bảo đảm,… Như vậy, TCTD có thể đưa nội dung chủ yếu của biện pháp bảo đảm vào hợp đồng tín dụng mà không cần phải lập thành hợp đồng riêng nhưng vẫn đảm bảo văn cứ pháp lý của hoạt động cho vay có bảo đảm.
Trong trường hợp khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản bảo đảm được xử lý để thu hồi nợ. Thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tiền vay được quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN; Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/03/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN (sau đây gọi là Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN); Luật Đất đai 2003 và một số văn bản có liên quan khác.
An toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của các TCTD. Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh của các TCTD pháp luật có những quy định mang tính hạn chế quyền tự do kinh doanh các TCTD. Ngoài ra, các hạn chế này còn nhằm ổn định hệ thống tiền tệ quốc gia, sự an toàn của cả hệ thống các TCTD, lợi ích của người gửi tiền và hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực, rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của TCTD. Mục 5 chương III Luật các Tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004 có các quy định hạn chế cho vay nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD bao gồm:
- Không được cho vay đối với các đối tượng sau: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của TCTD; người thẩm định, xét duyệt cho vay; bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc).
- Không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi cho những đối tượng sau đây: Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD; Kế toán trưởng, Thanh tra viên; Các cổ đông lớn của TCTD; doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định theo quy định của pháp luật sở hữu trên 10% vốn Điều lệ của doanh nghiệp đó.
Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng nêu trên không được vượt quá 5% vốn tự có của TCTD.
- Đối với giới hạn cho vay, bảo lãnh: Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là TCTD khác. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của TCTD hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các TCTD được cho vay hợp vốn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Các trường hợp đặc biệt khác thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Mức bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của TCTD do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định.
- Về giới hạn góp vốn, mua cổ phần: Mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD trong một doanh nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD trong tất cả các doanh nghiệp không được vượt quá mức tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định đối với từng loại hình TCTD. Mức vốn góp cụ thể được quy định tại Quyết định số 492/2000/QĐ-NHNN ngày 28/11/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về mức góp vốn, mua cổ phần của các TCTD.
- TCTD phải duy trì các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định của pháp luật về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, giới hạn tín dụng đối với khách hàng, tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài hạn,… Những tỷ lệ bảo đảm an toàn cụ thể được quy định chi tiết tại Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của ngày 19/06/2005 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7614.doc