Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và những điều kiện để thành lập 1 thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Mục lục & Trang Lời nói đầu 2 Chương I: Những vấn đề cơ bản về TTCK 3 I- TTCK và vai trò của nó. 3 II - Các công cụ của TTCK 5 III- Sở giao dịch chứng khoán 10 Chương II: Điều kiện hình thành TTCK ở Việt Nam 12 thực trạng vài giải pháp. Về yếu tố con người và bộ máy quản lý TTCK. 12 Về hàng hoá của TTCK 13 Đổi mới công nghệ quản lí và phát triển các dịch vụ 16 Triển khai công tác kiểm toán, kế toán theo thông lệ quốc tế 17 Việc trang bị hệ thống thông tin kinh tế 18 Về hệ thống

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và những điều kiện để thành lập 1 thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp luật 19 Về tổ chức quản lý của Nhà nước đối với TTCK 20 Thành lập các quỹ đầu tư và cải cách hệ thống thanh toán 22 ổn định nền kinh tế vĩ mô và xã hội. 22 Tổ chức hệ thống quản lý và môi giới chứng khoán 24 Kết luận 26 Lời nói đầu –˜—™ Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thời điểm thử thách gay go nhưng vẫn đứng vững và đạt được những kết quả đáng khích lệ: Tốc độ tăng trưởng trung bình đạt khá cao và đang đi vào thế ổn định, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện đáng kể; hoạt động sản xuất kinh doanh được chấn chỉnh và đi vào nề nếp; các nguồn tiền tệ tích tụ trong nền kinh tế đã được động viên, khai thác bằng nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường vốn ở Việt Nam cho tới nay còn có nhiều hạn chế cần phải khắc phục và đòi hỏi phải có một công cụ quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường vốn là thị trường chứng khoán. Vậy thị trường chứng khoán là gì? Hoạt động của nó như thế nào? Những điều kiện gì để có thể thành lập được một thị trường chứng khoán ở Việt Nam? Đó là những câu hỏi sẽ được giải đáp trong đề án mang tên gọi: “Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và những điều kiện để thành lập một thị trường chứng khoán ở Việt Nam”. Lần đầu tiên được nghiên cứu và viết đề án của một môn học có tính kinh tế và logíc cao; đồng thời chủ đề lại là một vấn đề khá mới mẻ với đại bộ phận công chúng Việt Nam, do vậy đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót cần bổ sung. Em rất mong có sự đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Em xin gửi tới thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Hữu Tài lời cảm ơn chân thành nhất vì đã tạo điều kiện cho em hoàn thành đề án này. Sinh viên thực hiện Chương i Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán I- thị trường chứng khoán (TTCK) và vai trò của nó. 1. Thị trường chứng khoán là gì? Thị trường chứng khoán là thị trường cao cấp, phức tạp mà hàng hoá giao dịch là những chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu...) Cổ phiếu là chứng chỉ đầu tư vốn, nó chứng nhận người sở hữu cổ phiếu đã góp một số vốn nhất định (ghi trên cổ phần) vào việc đầu tư của công ty cổ phần. Người sở hữu cổ phiếu có quyền tham gia vào hoạt động của công ty với tư cách là đồng sở hữu vốn và phải chịu trách nhiệm hữu hạn đối với số vốn góp. Trái phiếu là chứng chỉ cho vay vốn, nó chứng nhận cho việc người sở hữu trái phiếu đã cho người phát hành vay một số tiền nhất định trong một thời hạn nhất định và với một tỷ lệ lãi nhất định. Các nguyên tắc về qui luật cung - cầu cũng được áp dụng tương tự đối với thị trường này và điều này tạo nên sự biến động về giá cả các chứng khoán. Khi mức cầu vượt quá mức cung, nghĩa là số người mua nhiều hơn số người bán thì giá cả của các chứng khoán sẽ cao hơn thị giá bình quân và ngược lại. Song, quan hệ cung - cầu về chứng khoán phần lớn lại phụ thuộc vào tình hình hoạt động của cơ quan phát hành ra nó. Nếu như công ty phát hành đang làm ăn có hiệu quả cao thì giá chứng khoán của họ sẽ tăng lên và ngược lại sẽ làm cho giá chứng khoán của họ giảm xuống. Chẳng hạn như việc chạy đua vũ trang làm tăng thêm các đơn đặt hàng quân sự sẽ đem lại những món lợi nhuận khổng lồ cho các tập đoàn công nghiệp quân sự, đồng thời cũng làm cho giá cổ phiếu của những công ty này tăng vọt. Ngoài ra, diễn biến chính trị cũng ảnh hưởng đế giá cả của các chứng khoán. Nếu như tình hình chính trị của nơi nào đó không ổn định thì chắc chắn giá cả các chứng khoán nơi đó sẽ hạ mạnh. Bên cạnh ba nhân tố cơ bản nêu trên thì giá chứng khoán còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố khác như: biến động giá cả của những mặt hàng chiến lược, sức mua đồng tiền trong nước và ngoại tệ, tỷ lệ lam phát, chính sách tiền tệ và tín dụng của Nhà nước. Thị trường chứng khoán được các nhà kinh tế học gọi là “phong vũ biểu của nền kinh tế” (The berometer of the economic); việc dự đoán nền kinh tế có chiều hướng tăng trưởng sẽ thu hút các nhà đầu tư tăng cường đầu tư hơn nữa và khi nền kinh tế có xu hướng suy thoái sẽ làm giảm bớt ý định đầu tư của các nhà đầu tư. Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của các loại chứng khoán mà dẫn tới việc phân chia thị trường chứng khoán thành hai loại thị trường là thị trường sơ cấp (thị trường cấp I - primary market) và thị trường thứ cấp (thị trường cấp II - secondary market). Tại thị trường sơ cấp, các chứng khoán được phát hành ra lần đầu và nó liên quan trực tiếp đến người phát hành, người đầu tư trực tiếp và các tổ chức đại lý phát hành. Vốn đầu tư trực tiếp thực sự tăng lên ở thị trường này. Thị trường thứ cấp là thị trường lưu thông các loại chứng khoán được phát hành tại thị trường sơ cấp. Thị trường này có chức năng quan trọng là thực hiện việc di chuyển vốn đầu tư của các nhà đầu tư nhưng nó lại không làm tăng vốn đầu tư trực tiếp. 2. Vai trò và những hạn chế của thị trường chứng khoán. TTCK đóng vai trò quan trọng trong quá trình huy động vốn dành cho sản xuất và kinh doanh, đồng thời cũng là nhân tố có tác động mạnh đến nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào có nó hoạt động. Vai trò của thị trường chứng khoán thể hiện ở các khía cạnh sau đây: - TTCK cho phép các tổ chức kinh doanh huy động thêm vốn một cách dễ dàng hơn so với nhiều hình thức huy động vốn khác. - Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể phát hành trái khoán huy động vốn trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc bù đắp thiếu hụt trong ngân sách.... việc phát hành chứng khoán của Chính phủ cùng với sự tương trợ của hệ thống tài chính quốc gia sẽ giúp Chính phủ điều chỉnh được những biến động mạnh của thị trường tiền tệ và thị trường vốn. - TTCK tạo ra một thị trường cấp II mà có thể cho phép các tổ chức tài chính và người tiết kiệm di chuyển vốn qua lại một cách dễ dàng. Với sự đa dạng của các công cụ trên TTCK sẽ cho phép các nhà đầu tư có nhiều khả năng lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp và phân tán được rủi ro. - TTCK có thể thu hút một lượng vốn lớn từ nước ngoài với các dự án đầu tư trên các lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy, bên cạnh vai trò tích cực, TTCK cũng bộc lộ một số những nhược điểm mà có khả năng tác động xấu đến nền kinh tế: - TTCK khuyến khích tư tưởng đầu tư đối với cá nhân cũng như tổ chức Kinh tế, do vậy nó sẽ làm huỷ hoại những thông tin kinh tế chính xác và thay vào đó là những thông tin không chuẩn xác do các cá nhân hoặc tổ chức đó đưa ra nhằm thu lợi cho mình nhiều nhất. - TTCK rất dễ dàng trở thành môi trường cho việc phân phối mất cân bằng giữa các tầng lớp dân cư và ngày càng làm khoảng cách thu nhập lớn dần. - TTCK nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước sẽ làm tổn hại đến các quyết định đầu tư, làm rối loạn các thị trường khác mà đặc biệt là thị trường hạn chế của TTCK sẽ giúp cho chúng ta trong việc chủ động xây dựng và điều hành TTCK, tạo điều kiện phát triển đất nước. II- Các công cụ của thị trường chứng khoán. Công cụ của TTCK là các chứng khoán. Chứng khoán là những giấy tờ có giá, xác định số vốn đầu tư và xác nhận quyền đòi nợ hoặc quyền tham gia sở hữu, bao gồm những điều kiện về thu nhập trong một thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. Tuỳ theo mỗi loại chứng khoán mà các nhà đầu tư sẽ có hình thức đầu tư phù hợp và cũng có rất nhiều tiêu thức để phân chia các công cụ trên TTCK. Để dễ phân biệt, người ta chia các công cụ của TTCK theo hai tiêu thức: Chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng và chứng khoán theo khả năng thu nhập. 1. Chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng: Bao gồm 2 loại: - Chứng khoán vô danh: Là giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ không ghi tên. Loại này chuyển nhượng dễ dàng, giá cả tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của người mua và người bán. - Chứng khoán ghi danh: Là giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ có ghi tên. Loại này chuyển nhượng được nhưng phải tuân theo các qui định cụ thể về mặt pháp lí. Nếu muốn chuyển nhượng thì người sở hữu phải chứng minh mình là người được phép và có quyền chuyển nhượng thông qua các hình thức như: Xác nhận chữ ký, chứng minh thư, có tên trên danh sách các cổ đông của công ty.... 2. Chứng khoán theo khả năng thu nhập: Bao gồm có 3 loại: - Chứng khoán có lãi suất cố định. - Chứng khoán có thu nhập biến đổi. - Chứng khoán hỗn hợp. a. Chứng khoán có lãi suất cố định. Chứng khoán có lãi suất cố định cung cấp một mức lãi suất được ấn định trước với cam kết hoàn trả trong khoảng thời gian quy định nào đó (hay là ngày quy định) với giá đã định trước (thường là mệnh giá của chứng khoán). Ngoài cổ phiếu ưu đãi (sẽ được trình bày ở phần sau) thì mọi chứng khoán có lãi suất cố định đều là các khoản vay và người sử hữu nó là chủ nợ của đơn vị phát hành, cho dù đó là chính phủ hay bất kỳ công ty, tổ chức nào. Chứng khoán có lãi suất cố định bao gồm các loại sau: - Trái khoán Nhà nước hay công trái: Trái khoán Nhà nước là một loại của trái khoán được chỉ số hoá. Chính phủ phát hành trái khoán Nhà nước nhằm mục đích là bù đắp sự thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, khó khăn về tài chính hoặc tạo nguồn vốn để xây dựng các công trình công cộng. Nếu trái khoán Nhà nước phát hành trong nước và được mua bán bằng đồng nội tệ thì trái khoán Nhà nước là một trong các bộ phận hình thành nên khoản nợ của Nhà nước. Nếu phát hành ở nước ngoài và được mua bán bằng ngoại tệ thì tạo nên khoản nợ nước ngoài.Trái khoán Nhà nước được bảo hộ chắc chắn, có khả năng cầm cố hoặc chuyển nhượng. Ngân hàng Nhà nước là nơi phát hành các trái khoán Nhà nước. Thời hạn lưu thông trái khoán Nhà nước là do Chính phủ quy định (có thể là 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm). -Trái khoán ngắn hạn của Nhà nước Trái khoán ngắn hạn của Nhà nước khi được phát hành thường áp dụng hình thức bán với giá thấp hơn mệnh giá của trái khoán để khi hết hạn thì người sở hữu sẽ nhận lại số tiền đúng bằng mệnh giá của trái khoán. Ví dụ: Một trái khoán ngắn hạn của Nhà nước có mệnh giá là 100USD, thời hạn là 1 năm. Khi được bán ra thị trường thì giá của nó là 92,5 USD và sau 1 năm thì người mua trái khoán này sẽ nhận được 100 USD (nghĩa là lãi của trái khoán này là 7,5USD). - Trái khoán của chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố, vùng...) phát hành trái khoán địa phương với mục đích là vay vốn. Trái khoán địa phương là khoản vay của chính quyền địa phương đối với các tổ chức, cá nhân mua chúng. Việc phát hành trái khoán địa phương phải được sự cho phép của Nhà nước hoặc Uỷ ban chứng khoán Quốc gia. Số tiền thu được do bán trái khoán sẽ được chính quyền địa phương sử dụng để nâng cấp, đầu tư cho các công trình công cộng ở địa phương. - Trái khoán công ty (hay còn gọi là trái khoán công nghiệp) Trái khoán công ty do các công ty cổ phần và các xí nghiệp có quy mô lớn phát hành đưa vào thị trường vốn dưới dạng phiếu nợ tầng phần và được đảm bảo bằng tài sản của công ty hoặc xí nghiệp. Các công ty muốn phát hành trái khoán phải được sự cho phép của Uỷ ban chứng khoán Quốc gia. - Trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm. Việc phát hành này nhằm tạo nguồn vốn cho các tổ chức ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng có liên quan. Trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm được phát hành với thời hạn và lãi suất khác nhau. Việc mua trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm không phải trả lệ phí và được bảo hiểm. Các ngân hàng và các quỹ tiết kiệm khi muốn phát hành trái phiếu hoặc tín phiếu đều phải có sự cho phép của Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng hình thức trái phiếu ngân hàng. ở Việt Nam tín phiếu ngân hàng được gọi là tín phiếu ngân hàng hoặc chứng chỉ tiền gửi. Đây thực chất là công cụ vay nợ của ngân hàng bán cho người gửi tiền và khi đến hạn thanh toán thì ngân hàng hoàn trả lại giá mua ban đầu cùng với số tiền lãi. Kỳ phiếu ngắn hạn của ngân hàng là món tiền mà chủ tài khoản trả cho người thứ 3 thông qua ngân hàng. Đặc trưng của nó là thay thế cho phương tiện lưu thông tiền mặt trong một thời gian có kỳ hạn. Nó liên quan đến Ngân hàng Trung ương, lượng cung ứng tiền mặt; nó vừa là công cụ vay nợ, vừa là công cụ thanh toán (ở nước ta, kỳ phiếu ngắn hạn ngân hàng còn tồn tại dưới dạng sổ tiết kiệm) - Tín phiếu kho bạc Nhà nước. Tín phiếu kho bạc Nhà nước là những chứng khoán có lãi suất cố định, có thời hạn ngắn (thường từ 6 tháng đến 5 năm) do hệ thống kho bạc Nhà nước phát hành. Thông thường thì tỷ lệ lợi tức của tín phiếu kho bạc Nhà nước thấp hơn tỷ lệ lợi tức trên thị trường vốn trong cùng một thời điểm. Tín phiếu kho bạc Nhà nước được hệ thống kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước mua vào, bán ra trong thị trường nhằm điều chỉnh hoạt động của thị trường tiền tệ. b. Chứng khoán có thu nhập biến đổi. Trong các loại chứng khoán có thu nhập biến đổi thì cổ phiếu mang tính chất đặc trưng nhất. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu gọi là lãi cổ phần hay còn gọi là cổ tức và thu nhập này biến động tuỳ theo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hàng cổ phiếu. Người sở hữu cổ phiếu là các cổ đông và những người này có cổ phần trong công ty, vì thế họ có quyền đòi được chia phần trong thu nhập ròng và tài sản của hãng kinh doanh. Cổ phiếu được coi là một chứng khoán dài hạn. Trong tất cả các hình thức cổ phiếu, người ta thường sử dụng các loại cổ phiếu sau. - Cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu được hưởng quyền ưu tiên đặc biệt, được hưởng một mức lãi suất cố định hàng năm cho dù tình hình hoạt động kinh doanh của công ty như thế nào và vì thế nó cũng được xem xét như một loại chứng khoán có lãi suất cố định. Cổ phiếu này được ưu tiên nhận lãi cổ phần trước và nhận phần tài sản còn lại trước theo tỷ lệ khi công ty phá sản. Cổ tức của loại cổ phiếu này bị giới hạn ở tỷ lệ cố định, do vậy thị giá của các cổ phiếu này thường có khuynh hướng phản ảnh những biến động của mức lãi suất bởi vì thị giá bình quân của các cổ phiếu được tính theo công thức sau: Thị giá bình Mệnh giá x suất lợi tức cổ phiếu quân của = cổ phiếu Suất lợi tức tiền gửi ngân hàng Những cổ tức thường gộp lãi, nghĩa là nếu công ty gặp một năm hoạt động kinh doanh khó khăn và không thể chi trả cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi thì số tiền thiếu sẽ phải được trả từ lợi nhuận của năm sau đó trước khi các cổ đông có các loại cổ phiếu khác nhận được cổ tức. Trong trường hợp cổ phiếu ưu đãi không gộp lãi thì công ty phát hành không bị ràng buộc là phải trả bất kỳ khoản cổ tức đã qua nào mà chưa trả. Bên cạnh hình thức cổ phiếu ưu đãi, người ta còn sử dụng loại giấy tờ có giá trị có thể mang lại cổ tức là phiếu tham gia góp vốn. Phiếu tham gia góp vốn xác nhận sự tham gia đóng góp vào công ty cổ phần nhưng không được công nhận là thành viên (hay cổ đông) của công ty. Số vốn của những người sở hữu phiếu tham gia góp vốn vào công ty được nằm riêng rẽ bên cạnh vốn cổ phần. Người sở hữu phiếu tham gia góp vốn cũng có quyền nhận thu nhập theo mức thu nhập dao động của các cổ phiếu thông thường. Đối với các công ty cổ phần thì việc phát hành phiếu tham gia góp vốn có ưu điểm là nhận được khoản vốn bù đắp mà không cần phải thay đổi quan hệ sở hữu và quyền biểu quyết. Về nguyên tắc thì người sở hữu phiếu tham gia góp vốn thường nhận được lợi tức cao hơn so với các cổ đông. - Cổ phiếu thường: Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu do các công ty cổ phần phát hành để thu hút vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh. Cổ đông “thường“ được hưởng cổ tức và tất cả các quyền được quy định đối với việc quản lý công ty. - Bên cạnh đó còn có trái phiếu được chỉ số hoá: Thông thường trái phiếu được chỉ số hoá là các công trái của Nhà nước được phát hành khi chính phủ cần vay tiền trong dân. Loại trái phiếu này được quy đổi giá trị và tính lãi suất theo vàng, bạc hoặc theo ngoại tệ mạnh. c. Chứng khoán hỗn hợp . Chứng khoán hỗn hợp là chứng khoán vừa mang tính chất có lãi suất cố định, vừa mang tính chất có thu nhập thay đổi. Loại chứng khoán này chỉ được phát hành khi đáp ứng những yêu cầu đặc biệt của thị trường vốn. Chứng khoán hỗn hợp bao gồm ba loại. - Trái khoán công ty có khả năng chuyển đổi. Loại trái khoán này cũng có một mức lãi suất cố định; nó bảo đảm cho người sở hữu quyền đổi nó thành cổ phiếu với những điều kiện đã xác định. Giá của loại trái khoán này có liên quan đến giá của cổ phiếu, nghĩa là phụ thuộc vào chất lượng cổ phiếu của công ty. Ưu thế của loại trái khoán này là người sở hữu nó được sự an toàn về đầu tư nhờ vào sự chuyển đổi của dạng vốn, còn đối với công ty phát hành là chỉ phải trả lãi suất thấp hơn so với trái phiếu thông thường và khi chuyển đổi trái phiếu thì công ty không phải hoàn lại tiền vay. - Trái khoán công ty có quyền mua cổ phiếu. Loại này giống như trái khoán công ty nói chung, nhưng ngoài khoản lợi tức cố định nhận được, nó còn có quyền mua một số lượng cổ phiếu nhất định của công ty đang phát hành. - Trái khoán công ty có thu nhập bổ sung. Loại chứng khoán này đảm bảo một khoản lợi tức cố định nhưng người sở hữu có thể nhận được một khoản thu nhập bổ sung theo dao động tăng của cổ tức mà các cổ đông được hưởng. 3. Các kiểu phát hành cổ phiếu: Có ba kiểu phát hành cổ phiếu: - Phát hành khi mới thành lập công ty: Việc phát hành này nói chung không dễ dàng bởi vì vấn đề chính không phải là các thủ tục mà do công ty mới nói chung chưa đủ uy tín để thu hút cổ đông. - Phát hành để tăng vốn: Đây là hình thức phổ biến nhất trên thị trường phát hành cổ phiếu. Điểm cần lưu ý nhất là khi đưa ra các cổ phiếu mới sẽ ảnh hưởng đến thị giá của các cổ phiếu cũ. Giải pháp này ở đây là cần phải bù đắp chênh lệch giá cho các cổ đông thông qua các “phiếu lợi tức chia thêm” có thể chuyển nhượng được tỷ lệ thuận với số cổ phiếu họ nắm giữ. Thường thì giá của các cổ phiếu mới là thấp hơn giá thị trường. - Phát hành khống: Đây là kiểu phát hành không làm tăng thêm vốn mà công ty thông qua hình thức “phiếu lợi tức chia thêm” cấp không cho các cổ đông của mình các cổ phiếu mới tỷ lệ với số lượng cổ phiếu họ nắm giữ. Các cổ phần mới này được tạo ra từ khoản dự trữ vốn của công ty. Thực chất đây là chuyển đổi bản chất vốn trong tài khoản nợ của công ty theo hướng có lợi cho các cổ đông. III- Sở giao dịch chứng khoán (trung tâm dịch vụ chứng khoán). Hoạt động của sở giao dịch chứng khoán gắn liền với hoạt động của các trung tâm giao dịch khác như giao dịch tiền tệ, giao dịch hàng hoá.... Sở giao dịch chứng khoán chịu sự giám sát của Chính phủ mà trực tiếp nhất là Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Mỗi Sở giao dịch đều phải có một qui định giao dịch và được Uỷ ban chứng khoán quốc gia chấp nhận. Cơ cấu của sở giao dịch bao gồm: - Hội đồng quản trị - Trung tâm tiếp nhận chứng khoán - Hội đồng môi giới. - Uỷ ban giao dịch và hội đồng trọng tài 1. Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị của Sở giao dịch chứng khoán là do các thành viên chính thức của sở bầu ra trên nguyên tắc bỏ phiếu kín hoặc do Chính phủ cử ra. Số thành viên của hội đồng quản trị tuỳ thuộc vào quy mô của sở giao dịch và ghi trong điều lệ của Sở. Nhiệm vụ của hội đồng quản trị là: - Hướng dẫn của sở giao dịch. - Ban hành quy chế giao dịch. - Ban hành quy chế lệ phí giao dịch. - Chuẩn y tiếp nhận thành viên của Sở. - Xác nhận giá trị giao dịch công khai. - Tiếp nhận chứng khoán và kinh doanh. 2. Trung tâm tiếp nhận chứng khoán: Trung tâm tiếp nhận chứng khoán là nơi quyết định việc thu nhận chứng khoán vào kinh doanh, giao dịch. Trung tâm sẽ xem xét các khía cạnh về mặt pháp lý cũng như kinh tế của các loại chứng khoán nhằm mục đích đưa các loại chứng khoán đó vào danh sách chính thức hay không chính thức hoặc không được phép lưu hành taị Sở giao dịch. 3. Hội đồng môi giới. Hội đồng môi giới có nhiệm vụ đưa ra những quy định về môi giới giá chứng khoán, giám sát hoạt động của những người môi giới chứng khoán, kiểm soát việc định giá công khai và dàn xếp các vụ tranh chấp giữa những người mối giới giá. Có hai loại môi giới là môi giới chính thức và môi giới tự do. - Những người môi giới chính thức thường do Chính phủ chỉ định, những người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Họ có nhiệm vụ xác định giá chứng khoán cho ngày giao dịch. - Những người môi giới tự do thường là các thương gia. Họ xác định giá và kinh doanh chứng khoán theo cách tính toán riêng người môi giới tự do có nhiệm vụ xác định giá cho những loại chứng khoán không được tiếp nhận vào sở giao dịch nhưng vẫn được lưu thông tại đó. Người môi giới là người bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và là “chất xúc tác” giúp cho quá trình mua bán diễn ra một cách trôi chảy. 4. Uỷ ban giao dịch và Hội đồng trọng tài. Uỷ ban giao dịch của sở có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của các thành viên tham gia Sở giao dịch. Uỷ ban có thể xử lý bằng nhiều hình thức tuỳ theo mức độ vi phạm của các thành viên như phạt tiền, ngừng tham gia một thời gian... Hội đồng trọng tài do hội đồng quản trị của Sở lập ra, có nhiệm vụ giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh. Chương II Điều kiện hình thành thị trường chứng khoán ở việt nam - thực trạng và giải pháp. Sau gần 10 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ chế độ quản lí kinh tế quan liêu báo cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trên mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là về kinh tế. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói như một số nước đang phát triển khác gặp phải, chúng ta đang cố gắng hết sức mình để tìm ra đường lối phát triển kinh tế đúng đắn tránh sa lầy vào “vết xe đổ”như những nước đó. Là một nước nghèo nàn, lạc hậu với nguồn vốn đầu tư quá ít ỏi, chúng ta phải làm gì để tạo được nguồn vốn đủ để cung cấp cho việc phát triển kinh tế? Làm thế nào để hệ thống quản lý vốn hoạt động có hiệu quả? Sự ra đời của thị trường chứng khoán sẽ trả lời những câu hỏi đó. Thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam sẽ là một nhân tố quan trọng để hoàn chỉnh cấu trúc của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường, nó tạo cơ hội thuận lợi cho mọi đối tượng trong nền kinh tế thực hiện ý định biến tiết kiệm thành đầu tư. Sự ra đời của TTCK như một chất xúc tác tạo nên mối liên hệ chặt chẽ hơn nữa giữa các trung gian tài chính ở Việt Nam hiện nay và tạo nên những dòng dẫn vốn trực tiếp cũng như gián tiếp không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng ra thế giới. Dưới góc độ của một người sinh viên, qua quá trình tìm hiểu những vấn đề về TTCK và những yếu tố mà Việt Nam đang chuẩn bị cho việc hình thành TTCK, em xin nêu thực trạng và các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa cho việc chuẩn bị đó. 1. Về yếu tố con người và bộ máy quản lý TTCK. Để điều hành hoạt động của TTCK mà trực tiếp là tại Trung tâm giao dịch chứng khoán cũng như các tổ chức tham gia phát hành, quản lý và môi giới mua bán chứng khoán thì cần phải có một đội ngũ cán bộ thật thông thạo về nghiệp vụ quản lý kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Muốn vậy, chúng ta cần phải xây dựng một kế hoạch đào tạo cụ thể dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ mà trực tiếp là Uỷ ban phụ trách về TTCK do Chính phủ lập ra. Chúng ta cần phải phân loại cụ thể nhiệm vụ, công việc của các cán bộ cũng như nhân viên tại trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc tại các cơ quan quản lý TTCK, tại các ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác. Các tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ, khả năng nắm bắt và xử lý thông tin của những người quản lý phải cụ thể, rõ ràng và phù hợp với yêu cầu. Bên cạnh đó cũng cần phải đào tạo các nhân viên cho TTCK thông qua các trường đại học với công việc ban đầu là trang bị các kiến thức sơ đẳng nhất và sau đó là mở rộng và chuyên sâu,đồng thời sử dụng lực lượng này để phổ biến sâu rộng đến các tầng lớp dân cư trong xã hội. Việc đào tạo cán bộ phải tuỳ thuộc vào công việc mà có những hình thức đào tạo cụ thể, tránh việc đào tạo với số lượng quá lớn trong khi chất lượng nghiệp vụ lại non kém. Chúng ta cũng cần phải đào tạo thông qua hình thức gửi đi học tập, huấn luyện ở nước ngoài và mời các chuyên gia kinh tế của nước ngoài tới nước ta để tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo về TTCK và thông qua đó bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thành những chuyên gia lành nghề quản lý và điều hành TTCK có hiệu quả. Thực tế trong thời gian qua cho thấy rằng Nhà nước ta cũng rất quan tâm tới vấn đề chuẩn bị một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực để điều hành TTCK khi nó được thành lập. Tháng 7 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lậpBan chuẩn bị tổ chứcTTCK (gọi tắt là Ban chứng khoán). Ban này có nhiệm vụ soạn thảo nghị định trình lên Chính phủ để phê duyệt việc thành lập Uỷ ban chứng khoán quốc gia và qui chế hoạt động của Uỷ ban đó. Đồng thời, được sự tài trợ của một số các tổ chức quốc tế, một số cán bộ của ngành ngân hàng - tài chính và các cơ quan quản lý của Chính phủ đã được gửi đi học tập, nghiên cứu, khảo sát về TTCK ở các nước phát triển. Song thực tế cho thấy việc tạo cán bộ trong lĩnh vực này vẫn còn mang tính chắp vá, chưa thực sự chủ động trong việc chuẩn bị các kiến thức sơ đẳng về TTCK, do vậy chưa đạt được kết quả cao trong việc nắm vững các nội dung và qui định về TTCK. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải chọn đúng đối tượng có trình độ nghiệp vụ tốt, phân công một cách cụ thể, có kế hoạch các công việc cần nghiên cứu và chuyên sâu thì mới đảm bảo được yếu tố con người trong việc thành lập TTCK. TTCK ra đời và hoạt động có hiệu quả hay không cũng tuỳ thuộc rất nhiều vào những con người - yếu tố chủ thể - tham gia điều hành nó. 2. Về hàng hoá của TTCK Bất kỳ thị trường nào cũng phải có loại hàng hoá để phục vụ cho hoạt động của thị trường đó, do vậy việc chuẩn bị hàng hoá cho TTCK là nội dung cơ bản có tính chất quyết định đối với việc thành lập TTCK. Quá trình hình thành TTCK đòi hỏi phải song song với nó là quá trình tạo lập và đa dạng hoá các loại chứng khoán để đáp ứng ý định đầu tư và phân tán rủi ro cho các nhà đầu tư, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Việc đa dạng hoá các loại hàng hoá của TTCK cũng đòi hỏi phải có nhiều công ty cổ phần được hình thành và từng bước đưa chứng khoán của các công ty này vào lưu thông ở những phạm vi và qui mô khác nhau. TTCK sẽ hoạt động có hiệu quả hơn khi các chứng khoán được mua bán tự do theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và được phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Trước đây, ở nước ta đã phát hành các loại tín phiếu kho bạc Nhà nước, kỳ phiếu ngân hàng, cổ phiếu công ty, nhưng các loại chứng khoán này đều là chứng khoán ghi danh và chưa có khả năng chuyển nhượng. Đó là một hạn chế rất lớn. Thời gian gần đây, do nhu cầu cấp bách về việc huy động vốn để phát triển kinh tế, chúng ta đã phát hành chứng khoán với các chủng loại phong phú và đa dạng hơn. Cụ thể là: - Cổ phiếu các doanh nghiệp: Bao gồm cổ phiếu của trên 100 doanh nghiệp cổ phần, trong đó có 52 ngân hàng thương mại cổ phần và 2 công ty tài chính cổ phần với tổng giá trị là 914 tỷ đồng; 2 công ty bảo hiểm và các công ty kinh doanh thương nghiệp với tổng trị giá lên tới 1.000 tỷ đồng. Năm 1994, có 3 doanh nghiệp được cổ phần hoá là: Công ty liên hiệp vận chuyển với tổng giá trị tài sản là 6,2 tỷ đồng; Xí nghiệp cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh với tổng trị giá tài sản là 16 tỷ đồng và nhà máy giấy An Hiệp với tổng trị giá tài sản là 4,7 tỷ đồng. - Các loại trái phiếu: Chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước theo chương trình cổ phần hoá của Nghị định 388/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT và Quyết định 202/CP với chính thức đa dạng hoá các loại chứng khoán của các doanh nghiệp này, chúng ta đã đạt được một số kết quả sau: Trái phiếu nhà máy xi măng Hoàng Thạch phát hành đạt 44,4 tỷ đồng; trái phiếu xây dựng đô thị đường Nguyễn Tất Thành (TP. HCM) phát hành đạt 24,7 tỷ đồng; trái phiếu của ngân hàng đầu tư và phát triển phát hành đạt 200 tỷ đồng và 1 triệu USD; Trái phiếu Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đạt 500 tỷ đồng; trái phiếu Ngân hàng Công thương đạt 200 tỷ đồng. Ngoài ra còn có trái phiếu KBNN với lãi suất cao và trái phiếu tài trợ cho đường dây 500KV được bảo đảm bằng vàng đạt hơn 100 tỷ đồng. Ngân hàng Thương mại cũng phát hành trái phiếu quốc tế ra nước ngoài theo Nghị định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 139/QĐ-NH ngày 18/05/1995. Bên cạnh đó, hình thức tín dụng nhân dân vẫn được duy trì và có chiều hướng phát triển mạnh lên và đặc biệt những năm gần đây đã xuất hiện việc mua bán các loại công trái Nhà nước để hưởng chênh lệch giá. Tuy nhiên, các loại chứng khoán ở nước ta hiện nay cũng bộc lộ rất nhiều điểm hạn chế: - Công trái Nhà nước cho phép chuyển nhượng nhưng lại rất phiền hà bởi các thủ tục pháp lý. - Các loại trái phiếu KBNN, kỳ phiếu ngân hàng mới chỉ là các khoản vay với số lượng có hạn và mức huy động thấp. - Chưa có các tổ chức đứng ra môi giới và kinh doanh chứng khoán, thông tin về giá cả chưa chuẩn xác, môi trường kinh doanh và thủ tục pháp lý chưa đảm bảo. Hơn nữa, một số công cụ có khả năng phổ biến sâu rộng về việc kinh doanh chứng khoán trong quần chúng nhân dân vẫn chưa được phát hành. Sự hình thành và phát triển của TTCK phải được đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ những hàng hoá ban đầu cho đến nhiều chủng loại hàng hoá phong phú theo sự phát triển khách quan và đòi hỏi của thị trường. Để có được những hàng hoá phục vụ tốt cho sự ra đời của TTCK ở Việt Nam, theo em chúng ta cần phải làm những việc sau đây: - Thúc đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã đủ điều kiện theo chỉ thị 204/TTCK. Không thực hiện được quyền Nhà nước và không thành lập các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô quá nhỏ. - Hàng hoá của thị trường chứng khoán trong thời gian đầu thì chủ yếu phải là trái phiếu Nhà nước, bao gồm cả trái phiếu của Chính phủ trung ương và trái phiếu của chính quyền địa phương bởi vì các loại trái phiếu này ít rủi ro, có khả năng khuyến khích đầu tư. - Trong các chứng khoán thì trái phiếu ngắn hạn cần phải phát hành sao cho chiếm được một tỷ trọng. Đề nghị này được xuất phát từ ba lý do sau: + Nền kinh tế nước ta chưa phát triển, năng suất lao động còn thấp, thu nhập của dân cư chưa cao nên vốn tích luỹ trong nền kinh tế nói chung và của dân cư nói riêng còn hạn hẹp; vốn dư th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34974.doc