Những vấn đề cơ bản về CNH, HĐH ở nước ta

Những vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta -----------***---------- Lời giới thiệu Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội nghiên cứu những cơ sở kinh tế chung của đời sống xã hội, tức là các quan hệ kinh tế trong những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người. Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đây cũng là một trong những vấn đề mà kinh tế chính trị học luôn theo sát nghiên cứu. Công nghiệp hoá, hiện đạ

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề cơ bản về CNH, HĐH ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i hoá là một quá trình hết sức rộng lớn và phức tạp, bao gồm rất nhiều vấn đề khác nhau. ở đây, trong điều kiện cho phép bài viết chỉ đề cập đến vấn đề này nhìn từ góc độ kinh tế chính trị học có nghĩa là chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất, mang tính lí luận và định hướng. Do đó bài viết bao gồm các phần sau: Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tính tất yếu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Nội dung cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn khi nước ta tiến hành CNH,HĐH. Các giải pháp cơ bản tiến hành CNH,HĐH ở nước ta trong hoàn cảnh hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn. Chương I : mở đầu ở Việt Nam, đường lối công nghiệp hoá đã được Đảng ta xác định ngay từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960) ; công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay và coi đó là nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điểm mới lần này là chúng ta không chỉ đề cập đến công nghiệp hoá (như Đại hội III) mà gắn nó với hiện đại hoá ; không chỉ nói đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (như Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khoá VII) mà là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ; không chỉ coi đó là nhiệm vụ lâu dài, xuyên suốt, mà còn khẳng định đây là nhiệm vụ cần kíp, cấp bách. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ nhưng nhất định phải làm. Nó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta đồng tâm hiệp lực, có đường đi nước bước rõ ràng, có ý chí và bản lĩnh vững vàng để s1/2n sàng tạo lập, nắm bắt và tận dụng thời cơ, khắc phục nguy cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước vượt lên "sánh vai với các cường quốc năm châu" như Bác Hồ đã nói. Đây cũng là khát vọng của nhân dân ta hiện nay, mong muốn đất nước ta có một tiềm lực to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Là sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân, em xin trình bày những kiến thức hiểu biết mà em đã được học trong bộ môn kinh tế chính trị và tham khảo một số tài liệu về "sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" - hiện đang là mục tiêu sống còn của đất nước. Do đó, bản đề án này em xin được lựa chọn đề tài "Những vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta". chương 2 những vấn đề về công nghiệp hoá I. Cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội 1. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất: Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng, mỗi phương thức sản xuất của xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng nhất định, chính cơ sở vật chất - kỹ thuật này là một trong những nhân tố quan trọng để xác định phương thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội - lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của mỗi phương thức sản xuất của xã hội là tổng thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đã đạt được trong điều kiện lịch sử nhất định của tiến bộ khoa học và công nghệ dựa trên đó lực lượng lao động của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu xã hội. Trong lich sử bao giờ phương thức sản xuất sau cũng kế thừa cơ sở sản xuất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước nó trên cơ sở đó cải tạo phát triển thành cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân mình. Sự biến đổi và phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của tiến bộ khoa học kỹ thuật, năng lực và quy mô tích luỹ, sự tác động của quy luật nhân khẩu, quan hệ kinh tế đối ngoại ... là những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến trình độ của cơ sở vật chất kỹ thuật. Ngoài những nhân tố trên, tính chất và trình độ của các quan hệ sản xuất có ảnh hưởng không nhỏ và mối quan hệ hữu cơ đối với cơ sở vật chất - kỹ thuật. 2. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại và đặc trưng của nó: Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của những phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là kỹ thuật thủ công lạc hậu. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện với những bước chuyển biến có tính chất quy luật của nó, tất yếu sản xuất dựa trên kỹ thuật thủ công lên đại công nghiệp cơ khí hoá. Vì vậy, đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá với trình độ khoa học kỹ thuật cao. Đối với những nước đang định hướng lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to lớn và là một yêu cầu khách quan, bởi vì cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng cao hơn, hiện đại hơn. Điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ những yếu tố của tư liệu sản xuất được cơ khí hoá và ngày càng hiện đại hoá, mà còn ở trình độ công nghệ tiên tiến và thường xuyên đổi mới. Chính vì vậy, có thể khái quát cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học công nghệ ngày càng phát triển cao. Cơ sở vật chất đó phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá sản xuất và lao động cao. Để có được cơ sở vật chất kỹ thuật như vậy, tất cả các nước phải tiến hành xây dựng nó. Nói cách khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại là quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển. Tất nhiên cần nhận thức và vận dụng quy luật này trong hệ thống kinh tế "mở". Đây là quyết định đối với sự sống còn của bất cứ xã hội nào, nước nào. Chỉ khi tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại như vậy mới có thể làm thay đổi căn bản đời sống vật chất, tinh thần xã hội, đẩy nhanh tốc độ tăng năng suất lao động và thoả mãn ngày càng đa dạng các nhu cầu của nhân dân. 3. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nói chung: Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội một mặt kế thừa những thành quả đã đạt được trong xã hội trước đó, mặt khác nó được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và theo nhu cầu của chế độ xã hội mới. Đó chính là nền công nghiệp có công nghệ tiên tiến, trong đó ngành chế tạo cơ khí giữ vai trò then chốt, có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống về mọi mặt cho nhân dân. Trong điều kiện xu hướng quốc tế hoá, sản xuất phát triển ngày càng sâu rộng thì cơ cấu của nền công nghiệp hiện đại có sự kết hợp chặt chẽ giữa phân công và chuyên môn hoá trong nước và quốc tế nhằm kết hợp tối ưu sức mạnh cuả quốc gia và quốc tế, của dân tộc và thời đại. Những đạc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội: Nền đại công nghiệp cơ khí trong chủ nghĩa xã hội đó là một nền sản xuất có khả năng phát triển một cách vô hạn vì nó được dựa trên cơ sở của chế độ công ích. Nền đại công nghiệp cơ khí trong chủ nghĩa xã hội nó có khả năng cải tạo về mặt kinh tế đối với các ngành kinh tế khác trong đó có ngành nông nghiệp. Nền đại công nghiệp cơ khí trong chủ nghĩa xã hội nó còn bao gồm một cơ cấu kinh tế hợp lý và có trình độ xã hội hoá sản xuất cao. 4. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa: - Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa không những bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển kinh tế, mà nó còn bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển các mặt khác của đời sống xã hội, của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá còn tạo ra điều kiện để thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng trong nước. Điều đó đưa đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội. - Tiến hành công nghiệp hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi trình độ giác ngộ cách mạng, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật của người lao động ngày càng cao, trong đó sự đóng góp tích cực to lớn của cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội do quá trình công nghiệp hoá đem lại. - Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn là yêu cầu khách quan của quốc phòng, của sự thống nhất giữa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tỏ quốc XHCN. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn là yêu cầu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường tham gia vào phân công và hợp tác kinh tế quốc tế với các nước trên thế giới. II. Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định, mỗi nước phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kĩ thuật ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế. ở các nước đang phát triển như nước ta, quá trình ấy gắn liền với quá trình công nghiệp hoá. Vậy công nghiệp hoá là gì ? - Trong thực tiễn, đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù "công nghiệp hoá". Sau đây là một định nghĩa khái quát về công nghiệp hoá : "Công nghiệp hoá là quá trình phát triển nền đại công nghiệp, quá trình trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế để chuyển từ lao động bằng thủ công lên lao động bằng cơ giới ; là quá trình chuyển từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp và xây dựng phương pháp sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế". Nói đến hiện đại hoá là nói đến cả một quá trình dài lâu đầy gian khổ của việc cải biến một xã hôị cổ truyền thành xã hội hiện đại có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện đầy đủ hơn những giá trị chung mà nhân loại vươn tới. Khoa học công nghệ hiện đại là nhân tố then chốt của hiện đại hoá. Nhưng hiện đại hoá có nội dung rộng lớn và phong phú hơn nhiều, bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, văn hoá. Hiện đại hoá thường được định nghĩa là "một quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội của họ, nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế, xã hội giống hệ thống của những nước phát triển". Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là hai quá trình tách biệt nhau, nó nói lên sự cần thiết kết hợp, gắn bó đồng thời hai nội dung trong quá trình phát triển sắp tới, làm rõ hơn tư tưởng : không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải thực sự chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghệ tiến bộ ; không chỉ đi tuần tự qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá mà còn kết hợp đồng thời các thành tựu trên nhiều lĩnh vực, và có những mũi nhọn phát triển đi tắt, đón đầu; không chỉ áp dụng các công nghệ tiên tiến mà còn phải biết tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống. 2. Tại sao công nghiệp hoá lại phải tiến hành theo hướng hiện đại hoá ? Công nghiệp hoá của các nước trong lịch sử đã được thực hiện từ giữa thế kỷ XVIII, mở đầu bằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Thực chất của công nghiệp hoá trong thời kỳ đó là quá trình thực hiện việc chuyển nền kinh tế cơ bản là nông nghiệp với kỹ thuật thủ công sang nền kinh tế cơ bản dựa trên công nghiệp với kỹ thuật máy móc. Ngày nay với thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến thì công nghệ cơ khí không phải là đỉnh cao của công nghiệp hoá mà phải thực hiện công nghiệp hoá theo hướng hiện đại, phải tiếp cận những công nghệ tin học, công nghệ sinh học v.v... Công nghiệp hoá hiểu đầy đủ là quá trình phát triển cơ sở vật chất-kỹ thuật, cải tổ cơ cấu kinh tế, xây dựng một cơ cấu kinh tế đa ngành với công nghệ hiện đại nhằm đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm tiến bộ kinh tế và xã hội. Như vậy, công nghiệp hoá tạo ra những biến đổi về kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - xã hội nhằm hình thành một nền sản xuất dựa trên cơ sở kỹ thuật máy móc và công nghệ hiện đại, được tổ chức theo kiểu công nghiệp. Mỗi nước, tuỳ theo trình độ xuất phát và đặc điểm của nước mình mà xác định mục tiêu, nội dung và bước đi của quá trình công nghiệp hoá cho phù hợp. Việt nam lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, và xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp thủ công, lạc hậu, cho nên thực hiện công nghiệp hoá là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, phức tạp. Hơn nữa, thực tiễn 20 năm xây dựng công nghiệp ở miền Bắc và 15 năm phát triển công nghiệp trong cả nước, bên cạnh những thành công, có không ít những thất bại với nhiều bài học sâu sắc về công nghiệp hoá. Vấn đề đặt ra cho Việt nam: Một là: tại sao lại cần công nghiệp hoá ? Hai là: có thể thực hiện thành công công nghiệp hoá được không ? Ba là: con đường, mục tiêu, nội dung và bước đi công nghiệp hoá theo hướng hiện đại ở Việt nam cần lựa chọn là gì ? Sự cần thiết khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá theo hướng hiện đại của nước ta trước hết bắt nguồn từ đòi hỏi khắc phụ tình trạng nghèo đói, lạc hậu ; phát triển kinh tế – xã hội để củng cố độc lập dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta được thức tỉnh tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ hàng chục năm, cho đến mùa xuân 1975 thì dành được hoà bình độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Thắng lợi đó khẳng định vị trí của nước Việt nam trên trường quốc tế, đồng thời đặt ra cho dân tộc ta một thách thức mới, cần thiết phải khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, phát triển kinh tế làm cơ sở củng cố hoà bình, độc lập và thống nhất đất nước. Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho khoảng cách giữa những nước giầu và nước nghèo ngày càng chênh lệch, tạo ra sự thách thức gay gắt cho các nước nghèo, hoặc là vươn lên trong thế giới hiện đại, hoặc là dừng lại và như vậy có nghĩa là tụt hậu mãi mãi trong cảnh nghèo đói và phụ thuộc. Nhân dân ta đã chọn con đường độc lập để chấn hưng đất nước, thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá để từ một đất nước lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến. Quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chế độ mới. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là toàn bộ những yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt trình độ khoa học - kỹ thuật hiện đại. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện từ sự ra đời của máy hơi nước, từ cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa xã hội phải ra đời từ cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Việt nam đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cho nên để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội của nước ta không thể thiếu được giai đoạn cơ khí hoá, công nghiệp hoá tạo ra cơ sở để tiến lên hiện đại hoá. Mục tiêu công nghiệp hoá theo hướng hiện đại đặt ra nhiệm vụ vừa cơ khí hoá vừa hiện đại hoá, cơ khí hoá để tiến lên hiện đại hoá, hiện đại hoá trong điều kiện lao động thủ công còn phổ biến bắt buộc phải thực hiện quá trình cơ khí hoá. Như vậy, tiến trình phát triển khoa học - kỹ thuật, tiến trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội có trình tự, bước đi và những nấc thang nhất định, có thể rút ngắn, có thể tăng tốc độ phát triển, có thể lựa chọn chiến lược phù hợp nhưng không thể tuỳ tiện bỏ qua để tiến thẳng lên hiện đại ngay được. Điều đó làm công nghiệp hoá ở nước ta trở nên khó khăn, phức tạp hơn và cần thiết khách quan hơn. Để tạo lập nền sản xuất lớn, hiện đại của chủ nghĩa xã hội không thể không cải tổ cơ cấu kinh tế. Con đường tất yếu và chủ yếu để cải tổ cơ cấu kinh tế là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Ngày nay, các nước không những có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại mà còn có khu vực dịch vụ rất phát triển, không những phát triển kinh tế trong nước mà còn tích cực tham gia vào xu hướng quốc tế hoá, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế. Để vươn tới trình độ hiện đại đó phải thực hiện tiến trình cải tạo sâu sắc cơ cấu kinh tế, chuyển từ nền nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế được tổ chức theo kiểu công nghiệp, dựa trên kỹ thuật máy móc và công nghệ hiện đại. Quá trình cải tổ cơ cấu đó chủ yếu phải được thực hiện bằng công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Trên cơ sở tác động của công nghiệp mà phân công lại lao động, bố trí lại ngành nghề, phân bố lại dân cư làm cho công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cùng phát triển, tạo khả năng tham gia thị trường quốc tế. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại là quá trình tạo lập và đổi mới toàn bộ cơ sở vật chất - kỹ thuật, công nghệ và cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, dựa trên sự ứng dụng rộng rãi những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhằm tạo ra sự phát triển về chất của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội, biến nước nông nghiệp lạc hậu thành nước có công nghiệp, nông nghiệp và kết cấu hạ tầng hiện đại, có khoa học, giáo dục và văn hoá tiên tiến. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại tạo ra lực lượng sản xuất mới về chất, và trên cơ sở đó, dẫn đến hệ quả hình thành nhiều mối quan hệ mới về kinh tế, xã hội, chính trị trong toàn xã hội. Thật vậy, trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sẽ từng bước được hình thành, mở rộng và củng cố ; đời sống của nhân dân sẽ dần dần được cải thiện, liên minh công - nông - trí thức và chính quyền nhà nước sẽ được củng cố và kiện toàn ; cách mạng tư tưởng và văn hoá sẽ có nhiều điều kiện thực hiện ; giai cấp công nhân được trưởng thành về số lượng và chất lượng ; lao động chân tay và trí óc giảm dần sự cách biệt ; nông thôn và thành thị xích lại gần nhau ; sự bình đảng toàn diện giữa các dân tộc trong nước từng bước được thực hiện ; củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng ; khả năng hợp tác và phân công lao động quốc tế được mở rộng và năng cao v.v... Như vậy, công nghiệp hoá theo hướng hiện đại nền kinh tế thực sự là một công cuộc cải biến sâu sắc và toàn diện, trước hết và chủ yếu từ phát triển lực lượng sản xuất, dẫn đến một loạt hệ quả tất yếu tác động tích cực đến các mặt của đời sống xã hội, hình thành nên những yếu tố của hình thái xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại bảo đảm giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Vì thế, công nghiệp hoá theo hướng hiện đại là một tất yếu khách quan đối với con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước ta. Chính vì sự cần thiết khách quan và ý nghĩa to lớn của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá mà tất cả các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển đều coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên đây cũng là nhiệm vụ nặng nề. Trìnhããã xuất phát của một nước càng thấp thì quá trình thực hiện nhiệm vụ đó càng khó khăn, lâu dài. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định:" Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân." 3. Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá dù trên giác độ nào cũng không đồng nhất quá trình phát triển công nghiệp. Trong quá trình công nghiệp hoá có những nét riêng đối với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước mà thôi. Công nghiệp hoá là quá trình rộng lớn và phức tạp. Bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây: a) Công nghiệp hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay, quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hoá ở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ . Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế xã hội của đất nước với các nước phát triển. Hiện đại hoá xét trên giác độ kinh tế - kĩ thuật, là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Nhưng sự vươn lên về trình độ công nghệ này lại bị ràng buộc bởi yêu cầu bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội. Xét toàn cục, hiện đại hoá lại chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá mà thôi. Một vấn đề khác cũng cần được giải quyết là xác đinh và đánh giá mức độ hiện đại của công nghệ được trang bị. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động mà xác định trình độ thích ứng. Quan niệm một cách giản đơn theo kiểu "cũ người mới ta", cái không tiến tiến của nước khác cũng là cái hiện đại của nước mình. Trong lựa chọn công nghệ nhập, sự thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn nhiều nước đang phát triển đến việc lựa chọn thiết bị lạc hậu hoặc thiết bị cũ được tân trang lại. Cái giá phải trả quá lớn, tốc độ hiện đại hoá không được đẩy nhanh. b) Quá trình công nghiệp hoá không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành các lĩnh vực hoạt động của mỗi nước. Đó là lẽ tát yếu của mỗi nước vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống thống nhất, các ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương đối với nhau. Sự thay đổi ở ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động này sẽ kéo theo hoặc sẽ đòi hỏi sự thay đổi thích ứng ở các ngành, các lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy, quá trình công nghiệp hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh tế. Trong sự chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá, vị trí của các ngành sẽ thay đổi. Xét tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi nước được cấu thành bởi ba loại ngành tổng hợp: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Các ngành này có quan hệ ràng buộc nhau, trong đó công nghiệp trong nhận thức luôn được coi là ngành quan trọng. Nhưng trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, các nước đang phát triển chỉ có lực lượng công nghiệp nhỏ bé sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản và khai thác các sản phẩm thô từ tài nguyên thiên nhiên. Trong quá trình công nghiệp hoá, công nghiệp luôn dành được sự ưu tiên phát triển. Tuy công nghiệp hoá không đồng nhất với quá trình phát triển công nghiệp nhưng không thể công nghiệp hoá nếu không thể phát triển mạnh công nghiệp. Bởi vậy, với vị trí ban đầu, công nghiệp dần dần chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân của đất nước. Đến trình độ phát triển nhất định, thì nông nghiệp và dịch vụ chỉ giữ vị trí ở hàng thứ trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước trong quá trình công nghiệp hoá sẽ trải qua hai giai đoạn : Từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ chuyển sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ. c) Quá trình công nghiệp hoá trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trình kinh tế - kĩ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Việc thực hiện có kết quả quá trình công nghiệp hoá sẽ thủ tiêu tình trạng lac hậu về kĩ thuật, thấp kém về kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi "vòng luẩn quẩn". Đồng thời quá trình công nghiệp hoá cũng gắn liền với quá trình thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, nâng cao dân trí , nâng cao mức sống của dân cư, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Quá trình kinh tế - kĩ thuật và quá trình kinh tế - xã hội có quan hệ ràng buộc nhau. Quá trình kinh tế - kĩ thuật tạo điều kiện vất chất kĩ thuật cho việc thực hiện các nội dung của qúa trình kinh tế - xã hội. Ngược lại, quá trình kinh tế - xã hội góp phần tạo nên động lực cho thực hiện quá trình kinh tế - kĩ thuật. d) Quá trình công nghiệp hoá cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ. Mỗi nước trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, có tác động tương hỗ ở mức độ khác nhau với kinh tế của các nước khác và chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới. ở mỗi nước, việc xác định mục tiêu, phương thức công nghiệp hoá cần phải phân tích và dự đoán được những biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới, đặc biệt là của các nước trong khu vực. Cần phải đặt sự phát triển kinh tế của đất nước trong việc xây dựng hệ thống kinh tế mở, tăng cường quan hệ thương mại quốc tế, tham gia tích cực vào quá trình cạnh tranh và liên kết kinh tế quốc dân. Về nguyên tắc, việc thực hiện quá trình công nghiệp hoá phải dựa vào các nguồn lực trong nước là chủ yếu. Trong việc xây dựng kinh tế mở, thực hiện phương châm "tự lực cánh sinh" vì lực lượng bên ngoài chỉ là sự hỗ trợ, sự giúp đỡ chứ không phải là lực lượng làm thay và cũng không thể là sự sao chép máy móc các kinh nghiệm của nước khác. e) Công nghiệp hoá không phải mục đích tự thân, mà là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Mỗi nước có hệ thống mục tiêu riêng của mình. Tuy vậy, về hình thức, vẫn có thể thấy được những nét tương đồng về hệ thống mục tiêu đó. Đó là xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng hiện đại, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư ... Mục tiêu cụ thể của mỗi nước phụ thuộc vào quan điểm của hệ thống chinh trị lãnh đạo. Phương hướng, quy mô và nhịp độ công nghiệp hoá phụ thuộc vào đặc điểm chính trị xã hội của đất nước. Đó chính là một trong những biểu hiện của quan hệ biện chứng giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Không thể thực hiện có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá khi hệ thống chính trị không ổn định và không được đổi mới. Ngược lại, cũng không thể giữ được ổn định về chính trị xã hội, chủ quyền của đất nước nếu không thực có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá. Từ toàn bộ những vấn đề đã phân tích ở trên có thể rút ra kết luận khái quát : Thực chất công nghiệp hoá là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại. III. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam. 1. Sự cần thiết phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. a. Một số khái niệm. Nghiên cứu các khái niệm này, không những giúp ta hiểu được nội dung mà còn giúp ta cả việc hiểu được về mặt phương pháp luận. - Tiền đề vật chất của xã hội: Trước hết bao gồm các yếu tố vật chất, các yếu tố khách thể của nền sản xuất xã hội mà trước hết là công cụ lao động. Cơ sở vật chất - kĩ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kĩ thuật, công nghệ thích ứng mà lực lượng lao động của xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Do đó cơ sở vật chất - kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại chỉ có thể là nền đại công ngiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học công nghệ phát triển ngày càng cao. Khái niệm cơ sở vật chất kĩ thuật là một phạm trù kinh tế của kinh tế chính trị học, bao gồm nội dung kinh tế kĩ thuật và kinh tế xã hội. Chính nội dung về mặt kinh tế xã hội này cho ta thấy cơ sở vật chất kĩ thuật của phương thức sản xuất xã hội mới không thể phát triển đầy đủ và hoàn thiện ở trong lòng phương thức sản xuất xã hội cũ được mà chỉ phát triển đầy đủ và hoàn thiện khi có sự ra đời của hệ thống quan hệ sản xuất xã hội mới. b) Mỗi phương thức sản xuất xã hội đều phải dựa trên một cơ sở vật chất kĩ thuật tương ứng. Vì vậy, các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho xã hội chủ nghĩa. Nhưng đối với nước đã qua chủ nghĩa tư bản phát triển tức là có s1/2n nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại thì không phải xây dựng từ đầu cơ sở vật chất cho xã hội mới mà chỉ cần cải tiến nền đại công nghiệp cho phù hợp để tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Còn đối với những nước kém phát triển thì hầu như phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ ngiã xã hội từ đầu do đó phải tiến hành công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá là con đường, là biện pháp để xây dựng cơ sở vật chất kĩ tuật cho xã hội mới. 2. Tính tất yếu khách quan tiến hành CNH, HĐH ở Việt Nam. Công nghiệp hoá là tất yếu khách quan, là nội dung và con đường duy nhất đúng để đưa nền kinh tế xã hội nước ta phát triển nhanh bền vững và có hiệu quả nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Nước ta do đi từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ lên nền kinh tế lớn xã hội chủ nghĩa do đó khách quan đòi hỏi phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá và công nghiệp hoá hiện đại hoá là nội dung, là phương thức, là con đường để phát triển nhanh và có hiệu quả. - Tác dụng của công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với nước ta: + Chỉ có tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước ta mới xây dựng được cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội mới và xã hội chủ nghĩa mới phát triển được lực lượng sản xuất ở nước ta. + Có tiến hành công nghiệp hoá mới củng cố và hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất mới ở nước ta. + Có tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mới thực hiện được tái sản xuất mở rộng không ngừng đổi mới, nâng cao năng suất lao động xã hội cải thiện được đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. + Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới phát triển lực lượng giai cấp công nhân củng cố liên minh công nông. + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo tiền đề cho việc xây dựng thành công nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta. + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta rút ngắn được khoảng cách chênh lệch giữa trình độ lạc hậu của nước ta với trình độ văn minh củ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33756.doc
Tài liệu liên quan