Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học Nông nghiệp hà nội
---------------
NGUYễN HƯƠNG GIANG
Những thay đổi về việc làm và thu nhập của các hộ nông dân trong quá trình đô thị hoá ở quận Long Biên- thành phố Hà Nội
luận văn thạc sĩ kinh tế
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYễN QuốC CHỉNH
Hà nội – 2008
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo
128 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Những thay đổi về việc làm và thu nhập của các hộ nông dân trong quá trình đô thị hoá ở quận Long Biên- Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hương Giang
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ sự cám ơn trân trọng tới giáo viên hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Quốc Chỉnh – Giảng viên Khoa Kế toán và quản trị kinh doanh -Người thầy đã dành nhiều thời gian tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin được bày tỏ tấm lòng biết ơn đến Ban giám hiệu Nhà trường, các thầy cô giáo đặc biệt là các thầy các cô trong Bộ môn Quản trị kinh doanh – Khoa Kế toán và quản trị kinh doanh và khoa sau đại học, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường.
Tôi xin chân thành cám ơn UBND quận Long Biên, các tổ dân phố, và những người dân ở quận đã tham gia các cuộc phỏng vấn, đã cung cấp những số liệu cần thiết và giúp đỡ tôi trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu tại địa bàn.
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tôi đã được rất nhiều sự giúp đỡ, đông viên của các đồng nghiệp, bạn bè, gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và ghi nhận những tình cảm quí báu đó.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Hà nôi, ngày 14 tháng 9 năm 2008
Tác giả luận văn
Nguyễn Hương Giang
mục lục
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các ảnh viii
Danh mục các từ viết tắt
CTy TN
Công ty tư nhân
gdp
Thu nhập quốc dân
HCM
Hồ Chí Minh
HTX
Hợp tác xã
HH
Hỗn hợp
ILO
Tổ chức lao động quốc tế
KDDV
Kinh doanh dịch vụ
LĐ
Lao động
N-L- TS
Nông – lâm – thuỷ sản
NN
Nông nghiệp
TNBQ
Thu nhập bình quân
TP
Thực phẩm
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
WHO
Tổ chức y tế thế giới
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
3.1. Tốc độ phát triển kinh tế của quận Long Biên (2005 - 2008) 43
3.2. Cơ cấu kinh tế tính theo giá trị gia tăng của quận Long Biên 44
3.3. Giá trị sản xuất và cơ cấu kinh tế nông nghiệp 47
3.4. Tình hình dân số và lao động quận Long Biên 52
3.5. Tình hình sử dụng đất của quận Long Biên 53
4.1. Tình hình biến động đất nông nghiệp ở quận Long Biên 67
4.2. Tình hình biến động dân số và lao động nông nghiệp quận Long Biên 70
4.3. Tình hình cơ sở hạ tầng quận Long Biên 72
4.4. Tình hình cơ bản về nhóm hộ điều tra 74
4.5. Kết quả sản xuất bình quân của các hộ 80
4.6. Tình hình sử dụng đất đai nông nghiệp của hộ 82
4.7. Bảng kết quả trồng trọt bình quân của hộ 86
4.8. Bảng kết quả chăn nuôi của hộ 87
4.9. Tình hình chuyển dịch lao động giữa các ngành nghề của nhóm hộ 89
4.10. Thời gian làm việc của các lao động trong năm 94
4.11. Chênh lệch thu nhập giữa các nhóm hộ 97
4.12. Tự đánh giá của người dân về tác động của đô thị hoá đến việc làm 102
4.13. Khảo sát ý kiến về môi trường 104
Danh mục đồ thị
Đồ thị 1: Cơ cấu thu nhập của các hộ nhóm 2 78
Đồ thị 2: Cơ cấu thu nhập của các hộ nhóm 2 78
Đồ thị 3: Cơ cấu sử dụng vốn đền bù của nhóm 2 92
Đồ thị 4: Cơ cấu sử dụng vốn đền bù của nhóm 3 92
Đồ thị 5: Đánh giá của hộ về thay đổi thu nhập 99
Đồ thị 6: Đánh giá của hộ về thay đổi thu nhập 100
Đồ thị 7: Đánh giá của hộ về thay đổi thu nhập 101
1. Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đô thị hoá nông thôn là một quá trình tất yếu đối với mỗi quốc gia, đặc biệt đối với nước ta là nước đang trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Thời gian qua, tốc độ đô thị hoá của nước ta lên đến 25 %. Trong chiến lược phát triển 2001-2020, đến 2020 nước ta phấn đấu cơ bản là một nước công nghiệp hiện đại. Như vậy, tốc độ đô thị hoá trong thời gian tới còn nhanh hơn nữa, đô thị hoá đã, đang và sẽ mang lại những mặt tích cực, thúc đẩy kinh tế xã hội rõ rệt, đồng thời cũng nảy sinh những mặt tiêu cực như thu hẹp đất canh tác, gây ô nhiễm môi trường...
Tại Việt Nam quá trình đô thị hoá cũng tuân theo quy luật của thế giới. Năm 1990, cả nước mới có khoảng 500 đô thị lớn nhỏ, đến năm 2000 đã tăng lên 649 và năm 2004 là 656 đô thị. Theo quy hoạch phát triển đến năm 2010, tỷ lệ dân số đô thị là 56-60% và năm 2020 là 80%. [13]
Hà Nội là thành phố lớn thứ hai của cả nước, đang trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và hiện đại hoá với tốc độ nhanh chóng. Quá trình đô thị hoá nông thôn ngoại thành Hà Nội diễn ra trên bình diện rộng, đã làm biến đổi bộ mặt kinh tế, văn hoá, xã hội và kiến trúc của cả thành phố. Trong giai đoạn 2001-2007, Hà Nội đạt mức tăng trưởng kinh tế cao với mức tăng bình quân 11,5%/năm. Các ngành kinh tế đều tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng ngành công nghiệp tăng từ 38,5% năm 2001 lên 41,5% năm 2007, trong khi tỷ lệ này ở nhóm ngành nông nghiệp giảm từ 3,8% năm 2001 xuống còn 2,7%. Song song với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế là dân số tăng nhanh, tỷ lệ dân số thành thị năm 2007 tăng gấp 1,7 lần so với năm 2001, mật độ dân số tăng và mất cân đối là hàng loạt các vấn đề khác nảy sinh như ô nhiễm môi trường không khí, đất, nước, dư thừa lao động do thiếu việc làm vì bị thu hồi đất cho các khu công nghiệp. Theo thống kê của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, cứ mỗi hécta đất nông nghiệp bị thu hồi thì ảnh hưởng tới việc làm của trên dưới 10 lao động. Từ năm 2000 đến nay, Hà Nội đã triển khai gần 3000 dự án liên quan đến thu hồi đất, mỗi năm thu hồi khoảng 1000ha, trong đó 80% là đất nông nghiệp, liên quan đến 178.205 hộ dân. Dự báo đến năm 2020 thành phố tiếp tục triển khai nhiều dự án hạ tầng, khu đô thị sẽ thu hồi hàng nghìn hecta đất nông nghiệp, liên quan đến hàng trăm hộ dân sống ở các huyện ngoại thành. Do vậy, vấn đề việc làm và thu nhập của người có đất bị thu hồi đang là vấn đề nóng bỏng, tác động sâu sắc tới sự phát triển của đất nước. [13]
Long Biên cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung của đất nước và của thành phố. Là một trong những quận mới được thành lập của thành phố Hà nội, là kết quả của quá trình đô thị hoá, hiện đại hoá nông thôn của thủ đô. Đồng nghĩa với đó là diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp để chuyển sang phục vụ nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, các khu đô thị, khu công nghiệp. Tính đến năm 2007 toàn quận đã chuyển gần 300 ha đất nông nghiệp sang các loại đất khác, ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của hàng nghìn lao động.
Đô thị hoá đã tác động không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần cho người dân Long Biên nói chung và các hộ nông nghiệp nói riêng. Các khu công nghiệp được xây dựng, các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ phát triển. Nhưng bên cạnh đó cũng không ít khó khăn cho những người nông dân mất đất, những người trước nay chỉ quen với ruộng đồng. Họ được những cơ hội gì từ đô thị hóa? Họ phải làm gì để ổn định và nâng cao cuộc sống gia đình? Quá trình đô thị hoá đã làm thay đổi việc làm và thu nhập của họ như thế nào? Đó không chỉ là vấn đề quan tâm của người nông dân nội thành Hà Nội mà còn là vấn đề quan tâm của cả cộng đồng để đưa Long Biên thực sự phát triển về mọi mặt, theo kịp tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Những thay đổi về việc làm và thu nhập của các hộ nông dân trong quá trình đô thị hoá ở quận Long Biên- thành phố Hà Nội ”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu những thay đổi về việc làm và thu nhập trong các hộ gia đình dưới tác động của quá trình đô thị hoá tại các phường mới thành lập của quận Long Biên, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của các nông hộ trong thời gian tới.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về đô thị hoá, tác động của đô thị hoá, việc làm và thu nhập của nông hộ.
- Đánh giá sự thay đổi về việc làm và thu nhập của các hộ nông dân tại quận Long Biên trong thời gian qua.
- Đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của đô thị hoá tới việc làm, thu nhập và trình độ văn hoá của nông hộ.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần cải thiện đời sống hộ nông dân quận Long Biên trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đô thị hoá và tác động của đô thị hoá đến việc làm và thu nhập của các hộ nông dân quận Long Biên.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Về nội dung:
Tìm hiểu những vấn đề lý luận về đô thị hoá và thu nhập của các hộ nông dân, đánh giá thực trạng thu nhập việc làm của các hộ, các tác động tích cực và tiêu cực từ đô thị hoá tới thu nhập của nông hộ tại các phường của quận Long Biên trong thời gian qua, định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, góp cải thiện đời sống kinh tế và tinh thần của các nông hộ.
* Về thời gian:
- Đánh giá những thay đổi về việc làm, thu nhập của các nông hộ dưới tác động của đô thị hoá ở các phường thuộc quận Long Biên - Hà Nội trong thời kỳ 2004-2007 (số liệu điều tra năm 2008).
- Một số giải pháp đề ra nhằm tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho nông hộ trong những năm 2008-2010.
* Về không gian:
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn các phường: Gia Thụy, Giang Biên, Thạch Bàn tại quận Long Biên- thành phố Hà Nội.
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đô thị hoá
2.1.1.1 Một số khái niệm về đô thị, đặc điểm và phân loại đô thị
Khái niệm đô thị
Có nhiều quan điểm khác nhau về đô thị tuỳ theo từng góc nhìn khác nhau, tuy nhiên có thể hiểu chung nhất đô thị là “khu vực kinh tế phi nông nghiệp”, một vài khái niệm cơ bản như sau:
* Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sinh sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp.
* Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu lao động phi nông nghiệp, sống và làm việc theo kiểu thành thị.[10]
* Đô thị là nơi tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, cơ sở hạ tầng thích hợp, là tập trung tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của miền lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hay một vùng trong tỉnh huyện.[10]
Khái niệm đô thị có tính tương đối do sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế xã hội, hệ thống dân cư. Mỗi nước có quy định riêng tuỳ theo yêu cầu và khả năng quản lý của mình, song phần lớn thống nhất lấy hai tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Quy mô và mật độ dân số: quy mô trên 2000 người sống tập trung, mật độ trên 3000 người/km2. Đây là những chỉ tiêu phản ánh mức độ tập trung dân cư của một đô thị được xác định trên cơ sở số dân nội thị và diện tích xây dựng trong giới hạn nội thị của đô thị.
- Cơ cấu lao động: trên 60% lao động phi nông nghiệp. Trong đó lao động phi nông nghiệp bao gồm: lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản. lao động giao thông vận tải, bưu điện, dịch vụ, ngân hàng, lao động thương nghiệp, dịch vụ, du lịch và các cơ quan hành chính, văn hoá, thể dục thể thao...
ở Việt Nam quy định đô thị là những thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ theo tiêu chuẩn về quy mô dân số cao hơn nhưng cơ cấu lao động phi nông nghiệp thấp hơn. Điều đó xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là nước nông nghiệp đi lên XHCN giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện cụ thể.
Hiện nay ngoài hai tiêu chuẩn trên còn đưa ra tiêu chuẩn thứ ba là cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Cơ sở hạ tầng của đô thị có thể hoàn chỉnh hoặc chưa hoàn chỉnh, đồng bộ hoặc chưa đồng bộ nhưng phải có quy hoạch chung cho tương lai. Yếu tố này phản ánh trình độ phát triển, mức tiện nghi sinh hoạt của người dân đô thị và được xác định theo những tiêu chuẩn cơ bản như: chỉ tiêu cấp nước sinh hoạt, mật độ đường phố, đặc điểm giao thông, tầng cao trung bình.
Đặc điểm kinh tế xã hội đô thị
* Ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng
Tốc độ gia tăng quá nhanh về công nghiệp hoá và đô thị hoá dẫn đến phá huỷ một phần hệ môi trường sinh thái gây ô nhiễm moi trường mặt nước, mặt đất và không khí.
* Dân số gia tăng với tốc độ nhanh
Tốc độ gia tăng quá nhanh về dân số và dân số đô thị theo hai hướng dân cư chuyển dịch diễn ra song hành:
Theo chiều rộng: Từ nông thôn ra thành thị, từ đô thị nhỏ ra đô thị lớn, từ nước kém phát triển đến nước phát triển.
Theo chiều sâu: Chuyển dịch cơ cấu lao động từ hoạt động nông nghiệp sang phi nông nghiệp ngay trong lòng nông thôn.
* Tổ chức không gian và môi trường đô thị trở nên khó nhăn hơn
Quy mô dân số đô thị tập trung quá lớn so với trình độ quản lý dẫn đến không điều hoà nổi gây bế tắc trong tổ chức môi trường đô thị.
* Quan hệ thành thị và nông thôn luôn tồn tại, ngày càng trở nên quan trọng.
* Hệ thống thị trường đô thị với những đặc trưng riêng biệt. Do thành thị là nơi tập trung đông dân với các hoạt động sản xuất chuyên môn hóa cao, nhu cầu cung cấp trao đổi hàng hoá tiêu dùng cũng cao. Cung và cầu khu vực đô thị gặp nhau trên thị trường đô thị. Thị trường đô thị là hệ thống hoặc địa điểm ở đó diễn ra việc mua bán trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
Hệ thống thị trường của đô thị gồm thị trường lao động, thị trường đất và bất động sản, thị trường giao thông, thị trường hạ tầng đô thị, thị trường dịch vụ, thị trường tài chính.
* Đô thị mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất, kinh tế và văn hoá. [10]
Phân loại đô thị
Đô thị được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Các tiêu thức thường được sử dụng để phân loại là: quy mô dân số, cơ cấu lao động, chức năng hoạt động, tính chất hành chính, mức độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
Có thể phân loại đô thị theo từng tiêu thức khác nhau hoặc kết hợp một số tiêu thức:
* Theo chức năng kinh tế xã hội: Đô thị được chia thành đô thị công nghiệp, đô thị thương mại, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô thị cảnh quan
* Theo tính chất hành chính, chính trị: Đô thị được chia thành Thủ đô, thành phố, thị xã, trị trấn
* Theo không gian: Đô thị được phân thành nội thành, ngoại thành, nội thị, ngoại ô.
* Theo quy mô dân số, có thể chia đô thị thành 5 loại như sau:
- Đô thị loại 1: Đô thị lớn nhất như thành phố HCM, Hà Nội, Đà nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng. Đây là những trung tâm kinh tế xã hội, văn hoá, chính trị, khoa học kỹ thuật, dịch vụ du lịch, giao thông, công nghiệp, giao dịch quốc tế... có vai trò quan trọng trong sự phát triển của cả nước, khu vực này có dân số 1 triệu dân trở lên 90% lao động phi nông nghịêp, mật độ dân cư trung bình từ 15.000người/km2 trở lên, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình xây dựng đồng bộ.
- Đô thị loại 2: Đô thị lớn như Nha Trang, Vinh vv... là trung tâm kinh tế xã hội, văn hoá, chính trị, khoa học kỹ thuật, dịch vụ du lịch, giao thông, công nghiệp, giao dịch quốc tế... có vai trò quan trọng trong sự phát triển của cả nước, khu vực này có dân số 1 triệu dân trở lên 90% lao động phi nông nghịêp, mật độ dân cư trung bình từ 12.000người/km2 trở lên, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình xây dựng đồng bộ.
- Đô thị loại 3: Đô thị trung bình như Cà Mau, Đà Lạt vv... dân số 350.000 người với 80% lao động phi nông nghịêp, mật độ dân cư trung bình từ 10.000người/km2 trở lên, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình xây dựng từng bước.
- Đô thị loại 4: Đô thị trung bình nhỏ (thị xã) có vai trò quan trọng trong sự phát triển của một tỉnh. Dân số 30.000 - 100.000 người, mật độ dân cư trung bình 8.000 người/km2. Có 70% lao động là phi nông nghiệp, có sản xuất hàng hoá, đã và đang từng bước xây dựng hạ tầng và mạng lưới công trình công cộng.
- Đô thị loại 5: Đô thị nhỏ 9 (thị trấn) là trung tâm kinh tế xã hội, trung tâm chuyên ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế của một tỉnh hay một huyện. Dân số 4.000 - 30.000 người, 60% lao động là phi nông nghiệp, mật độ dân cư trung bình từ 6.000người/km2trở lên. Bước đầu xây dựng cơ sở hạ tầng và mạng lưới công trình công cộng.
Đô thị loại 1 và 2 do trung ương quản lý, loại 3 và 4 và một số ít loại 5 do tỉnh quản lý, loại 5 chủ yếu do huyện quản lý.
2.1.1.2 Khái niệm và đặc điểm đô thị hoá
* Khái niệm đô thị hoá
Trên quan điểm một vùng, đô thị hoá là một quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một quá trình biến đổi về sự phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu.
Đô thị hoá là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị hoá cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong điều kiện mới - đặc biệt là thay đổi cơ cấu dân cư.
Đô thị hoá nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật; là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt...). Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững.
Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạng vùng ngoại vi của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị.. góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn.
Đô thị hoá giả tạo là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến, đặc biệt là từ nông thôn.. dẫn đến tình trạng thất nghiệp, thiếu nhà ở, ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng cuộc sống...
Đô thị hoá gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ.. do vậy đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy từ những quan điểm trên khái niệm đô thị hoá có thể được hiểu như sau: Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số. [10]
* Đặc điểm đô thị hoá
Quá trình đô thị hoá gắn liền với nó là sự biến đổi sâu sắc cả về kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, đô thị hoá mang những đặc điểm cơ bản như:
- Dân cư thành thị có xu hướng tăng nhanh tập trung vào các thành phố lớn và cực lớn:
Sự dịch chuyển luồng dân cư từ nông thôn ra thành thị, từ đô thị nhỏ ra đô thị lớn để tìm kiếm cơ hội việc làm tốt hơn cộng với sự mở rộng các đô thị hiện có đã làm gia tăng số dân thành thị. Càng ở các đô thị lớn thì cơ hội việc làm nhiều hơn, dân số tăng nhanh hơn, mật độ dân số ngày một cao và phân bố không đều, dân cư thành thị đông hơn với mật độ dân số ngày càng tăng. Việc tăng nhanh dân cư thành thị đã dẫn đến việc hình thành nên các chùm đô thị.
- Đô thị hoá gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn:
Quá trình đô thị hoá trên cơ sở và phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ, do vậy đô thị hoá không thể tách rời một chế độ kinh tế - xã hội. Đô thị hoá phổ biến rộng rãi lối sống thành thị, làm kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công gnhiệp, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp.
Phương hướng và điều kiện phát triển của quá trình đô thị hoá phụ thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. ở các nước phát triển, đô thị hoá đặc trưng cho sự phát triển các nhân tố chiều sâu (điều tiết và khai thác tối đa các lợi ích, hạn chế bất lợi của quá trình đô thị hoá). ở các nước đang phát triển như Việt Nam, đô thị hoá đặc trưng cho sự bùng nổ về dân số, còn sự phát triển công nghiệp tỏ ra yếu kém. Sự gia tăng dân số không dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp và phát triển kinh tế. Mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn trở nên sâu sắc do sự mất cân đối, do độc quyền trong kinh tế.Tiền đề cơ bản của đô thị hoá là sự phát triển công nghiệp hay công nghiệp hoá là cơ sở phát triển đô thị. đô thị hoá trên thế bắt đầu từ cách mạng thủ công, sau đó cách mạng công nghiệp đã thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc với năng suất lao động cao hơn và đã làm thay đổi về cơ cấu lao động xã hội trên cơ sở phân công lao động xã hội. Đồng thời cách mạng công nghiệp đã tập trung hoá lực lượng sản xuất ở mức độ cao dẫn đến hình thành đô thị mới, mở rộng quy mô đô thị cũ. Ngày nay, với cách mạng khoa học kỹ thuật mà tượng trưng cho nó là những cỗ máy vi tính những siêu sa lộ thông tin và điện thoại di động thì sự phát triển đô thị hoá đã và sẽ mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Như vậy, mỗi nền văn minh đều tạo ra một phong cách sống, làm việc thích hợp, một hình thái phân bố dân cư, một cấu trúc đô thị thích hợp. [7]
2.1.1.3 Tính tất yếu khách quan của đô thị hoá
Từ nhiều thế kỷ trước, các nước trên thế giới nhất là nước phát triển đã diễn ra quá trình đô thị hoá nhanh chóng, xu hướng phát triển của đô thị hoá gắn liền với sự biến độ sâu sắc về phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở phát triển công nghiệp hoá,hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. Trong sự phát triển kinh tế - văn hóa xã hội của quốc gia đô thị đóng vai trò như những trung tâm hạt nhân quan trọng, là đầu mối của giao lưu phát triển kinh tế, là trung tâm văn hoá chính trị trong khu vực. Theo dự báo của các nhà xã hội học đô thị thế kỷ 21 là thế kỷ của đô thị. Đô thị sẽ phát triển cực nhanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đặc biệt sẽ bùng phát ở khu vực châu á và, châu Phi. Hiện nay tỷ lệ gia tăng dân số đô thị nhiều hơn gấp 4 lần tỷ lệ gia tăng dân số nông thôn [7]. Qua thực tế phát triển của các nước người ta đã kết luận; đô thị hoá và công nghiệp hoá là con đường duy nhất để trở thành một quốc gia hùng mạnh.
ở nước ta, qua hai mươi năm tỷ lệ dân cư ở đô thị cũng không ngừng tăng lên, năm 1980 tỷ lệ dân cư đô thị là 19,1% năm 1985 là 19,3%, năm 1990 là 20,3% năm 1999 là 21 % và dự báo năm 2010 sẽ là 35%
Như vậy quá trình đô thị hoá không chỉ diễn ra ở một số nước mà nó diễn ra hầu hết các nước trên thế giới và đang diễn ra rất mạnh mẽ ở Việt Nam đó là yếu tố khách quan gắn liền với phát triển kinh tế khu vực nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói chung trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
2.1.1.4 Xu hướng đô thị hóa
Quá trình đô thị hoá đã và đang diễn ra với tốc độ cao hình thành các khu công nghiệp, các trung tâm thương mại, mở rộng đô thị... Cụ thể là:
* Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô thị lớn
Sự hình thành các trung tâm có tính chất chuyên ngành trong những đô thị lớn là xu thế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đô thị, là biểu hiện của tính chuyên môn hoá cao trong sản xuất. Tất cả các hoạt động sản xuất có cùng đặc điểm, tính chất được tập trung bào một khu vực tạo điều kiện đáp ứng các yêu cầu tốt hơn, sản xuất với năng suất và hiệu quả cao hơn và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm của đô thị, thị trường lao động phong phú hơn...
* Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại dịch vụ ở các vùng ngoại ô
Sự hình thành các trung tâm công nghiệp của mỗi vùng có tính khách quan nhằm đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống ngày càng tăng lên của chính vùng đó. Đó là biểu hiện của tính tập trung hoá trong sản xuất. Tuy nhiên, quy mô sản xuất và hoạt động thương mại dịch vụ sẽ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và quy mô dân số của vùng để đảm bảo tính hoạt động có hiệu quả. Đồng thời các trung tâm này còn là điểm nối, hay sự chuyển tiếp giữa các đô thị lớn làm cho tính hiệu quả của hệ thống đô thị được nâng cao. Trong quá trình đô thị hoá, các trung tâm này sẽ trờ thành những đô thị vệ tinh của các đô thị lớn.
* Mở rộng các đô thị hiện có
Việc mở rộng các đô thị hiện có theo mô hình làn sóng xu thế tất yếu khi nhu cầu về đất xây dựng đô thị tăng và khả năng mở có thể thực hiện tương đối dễ. Xu hướng này tạo sự ổn định tương đối và giải quyết được các vấn đề quá tải cho đô thị hiện có.
* Chuyển đổi một số vùng nông thôn thành đô thị
Đây là xu hướng hiện đại được thực hiện trong điều kiện có đầu tư lớn của Nhà nước. Vấn đề cơ bản là tạo nguồn tài chính để cải tạo đất, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. [2]
2.1.1.5. Những vấn đề có tính quy luật thường phát sinh trong quá trình đô thị hoá theo chiều rộng.
* Mở rộng diện tích đất đô thị và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp
Cả hai hình thức đô thị hoá đều dẫn đến sự chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất. Hình thức phát triển theo chiều rộng đưa đến tình trạng thu hẹp đất canh tác nông nghiệp nhanh chóng vì một phần đất do Nhà nước thu hồi để xây dựng các công trình, một phần đất dân cư bán cho những người nơi khác đến ở, hoặc kinh doanh. Trong quá trình đô thị hoá Nhà nước nắm thế chủ động chuyển đổi mục đích sử dụng đất tạo đà mạnh mẽ cho sự phát triển đô thị.
Trong điều kiện kinh tế nước ta, đô thị hoá dẫn đến tình trạng thu hẹp đất canh tác nông nghiệp. Thực chất quá trình đó là thay đổi mục đích sử dụng đất: từ đất nông nghiệp chuyển sang sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ... Quá trình này góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng đất nói chung nhưng cũng gây ra không ít các vấn đề xã hội.
* Vấn đề dân số, lao động và việc làm đối với nông dân trong quá trình đô thị hoá
Một trong những vấn đề nảy sinh trong quá trình đô thị hoá ở mỗi quốc gia đó là vấn đề về dân số, lao động và việc làm của người lao động đặc biệt là người nông dân. Quá trình đô thị hoá với đặc trưng là thu hẹp diện tích đất nông nghiệp làm cho một số lượng lao động nông nghiệp không còn đất để sản xuất dẫn đến tình trạng dôi dư lao động nông nghiệp, chênh lệch về thu nhập giữa người bị thu hồi đất và người còn đất. Không những vậy đô thị hoá làm gia tăng dân số do sự gia tăng tự nhiên và gia tăng do dòng người nhập cư vào các đô thị để tìm việc làm.
* Vấn đề môi trường
ở những khu vực đô thị mới, lao động nông nghiệp với những thói quen sinh hoạt của người nông dân sản xuất nhỏ làm tăng thêm sự phức tạp về xã hội và môi trường sinh thái, hiện tượng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường ngày càng gia tăng. Từ đó dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường về mặt nước, mặt đất và không khí. [1], [14]
* Vấn đề văn hoá xã hội
Đô thị hoá góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, hình thành lối sống công nghiệp, xây dựng xã hội mới, tuy nhiên khi tăng quy mô thành phố bằng cách mở rộng không gian, hình thành các quận mới, phường mới sẽ dẫn đến tình trạng gia tăng thất nghiệp. Số tiền nhà nước đền bù để tạo công việc làm mới không được người dân sử dụng đúng mục đích làm cho tỷ lệ thất nghiệp và các vấn đề xã hội khác gia tăng nhanh chóng.
Sự thay đổi tập quán lối sống và sự phân hoá giàu nghèo diễn ra nhanh chóng, nhu cầu giáo dục, y tế tăng, tệ nạn xã hội trở thành vấn đề lớn, vấn đề nghèo đói, thất nghiệp được đặt ra.
Thay đổi tập quán sinh hoạt, lối sống, phương thức kiếm sống là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hoá. Người dân đô thị sẽ nhanh chóng biến đổi theo lối sống mới với những nhu cầu và mục tiêu khác cao hơn như tục lệ cưới xin, học hành.
2.1.1.6 Những tác động chủ yếu của đô thị hoá
* Tác động tích cực của đô thị hoá
- Đô thị hoá thúc đẩy mạnh nền kinh tế phát triển làm chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế.
Quá trình phát triển của đô thị hóa được gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong vùng. Trong góc độ dân số và lao động đô thị hóa quá trình chuyển đổi cơ cấu dân số từ khu vực nông thôn sang thành thị. đối với người nông dân trước đây gắn bó với ruộng vườn sau đó trở thành dân cư đô thị, do mất một phần lớn diện tích canh tác cùng với số tiền được nhà nước đền bù, họ dùng để tạo nghề mới, tìm việc làm mới ngoài nông nghiệp, xây dựng nơi cư trú mới và nhiều vấn đề khác cũng thay đổi theo. Trong quá trình đô thị hoá cơ cấu ngành kinh tế trong vùng cũng thay đổi theo.
Hướng giảm tỷ trọng kinh tế ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng kinh tế ngành công nghiệp và dịch vụ. Khi đô thị hoá phát triển mạnh mẽ, hình thành các khu dân cư đô thị ở các vùng được đô thị hoá nên các hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ phát triển nâng cao thu nhập cho người dân.
Khi đô thị hoá diễn ra, kinh tế ở các đô thị mới tăng trưởng nhanh chóng, nhờ có sự tập trung lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao động cao, cách tổ chức lao động hiện đại. Thực chất quá trình tăng trưởng kinh tế đó vừa làm tăng tổng việc làm vừa làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong kinh tế đô thị. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo chiều sâu, tăng năng suất lao động xã hội, tăng GDP bình quân đầu người ở đô thị. Trong khu vực nông thôn giáp ranh đô thị chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của đô thị hoá nên mật độ dân cư ở khu vực này sẽ tằng dần, đất đai thay đổi nhanh về mục đích sử dụng. Một phần diện tích đất khu vực này thường được chuyển xây dựng các khu nhà nghỉ, nhà trọ, dịch vụ giá trị phục vụ người dân nên cơ cấu kinh tế ngành dịch vụ tăng lên nhanh chóng.
Bên cạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình đô thị hoá thì vấn đề cơ sở hạ tầng luôn được gắn với phát triển đô thị.
- Xây dựng củng cố cơ sở hạ tầng vững chắc, tạo thuận lợi về giao thông, giao lưu, buôn bán, đi lại.
Đô thị hoá tức gắn liền với quá trình hình thành nhanh chóng kết cấu hạ tầng kỹ thuật tiên tiến như hệ thống giao thông, điện, cấp thoát nước, hệ thống thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, hệ thống chợ, khu ở dân cư...Các hệ thống cơ sở hạ tầng trên thường được phát triển nhanh trong quá trình đô thị hoá, hệ thống giao thông phát triển là điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất và lưu thông các sản phẩm công nghiệp và các loại nông sản. Quá trình đô thị hoá đã thức đẩy đầu tư xây dựng các tuyến đường liên thông, xã, huyện và liên tỉnh và hệ thống giao thông luôn đóng một vai trò quan trọng tạo đầu mối giao lưu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thức đẩy nhanh quá trình cơ giới hoá, hiện đại hoá khu vực nông thôn. Bên cạnh đó đô thị hoá tạo điều kiện phát triển nhanh các mạng lưới điện cho sản xuất cũng như sinh hoạt ở các vùng ngoại vi. Từ chỗ chất lượng điện thắp sáng phục vụ sinh hoạt thấp đã dần được đầu tư sửa chữa nâng cấp đường dây đủ để phục vụ đời sống nhân dân khu vực đô thị hoá. Cùng với hệ thống giao thông, điện được nâng cấp thì các cơ sở hạ tầng khác cũng được hoàn thiện hơn như tỷ lệ hộ được dùng nước sạch tă._.ng, các trường học, trạm y tế cũng được quan tâm phát triển đồng bộ với sự phát triển của đô thị.
- Đô thị hoá làm nâng cao trình độ dân trí, làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
Đô thị hoá còn góp phần nâng cao trình độ nhận thức, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Hình thành các lối sống công nghiệp, xây dựng xã hội mới, hạn chế các tập tục lạc hậu và vùng nông thôn như; sử dụng thửa chất hoá trong sản xuất nông nghiệp, những hủ tục nặng nề rườm rà trong lễ hiếu hỷ, tạo không khí làm mạnh trong đời sống dân cư. Đô thị hoá còn làm một động lực thức đẩy các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao nhằm nâng cao sức khoẻ và chất lượng cuộc sống, phát huy nét đẹp về thuần phong mỹ tục của từng vùng nông thôn. Các hoạt động văn hoá văn nghệ phát triển rất phong phú, đa dạng, đặc biệt là văn hoá và nghệ quần chúng. Trong các địa phương đang diễn ra đô thị hoá thì hầu hết điều có nhà văn hoá khang trang trong phục vụ cho hoạt động giao lưu văn nghệ và các hoạt động mang tính chất lành mạnh khác trong các ngày lễ, liên hoan.. Mặt khác đô thị hoá góp phần cải tạo và xây dựng các khu du lịch, vui chơi giải trí cho người dân, xây dựng tư sửa các di tích văn hoá lịch sử làm nổi bật nét đẹp của văn hoá dân tộc vốn có từ lâu đời.
Như vậy, đô thị hoá đã từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, làm cho người dân có điều kiện tiếp tục xúc với tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để học hỏi nâng cao trình độ nhận thức của mình góp phần phát triển xã hội theo xu hướng nền văn minh lịch sự.
* Những tác động tiêu cực của đô thị hoá
Bên cạnh những tác động tích cực mà đô thị hoá đã mang lại thì đô thị hoá cũng còn tồn tại nhiều hạn chế
- Đô thị hoá làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp
Quá trình đô thị hoá đã làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và thu thập cho các hộ nông dân do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dẫn tới thu hẹp sản xuất nông nghiệp. Thay vào đó là tăng diện tích đất ở, đất đô thị và đất chuyên dùng.
- Đô thị hoá làm tăng lao động thất nghiệp ở các vùng nông thôn, chủ yếu là lao động có trình độ văn hoá và chuyên môn thấp.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO).[27] ngày 11/8 công bố báo cáo “ Xu hướng việc làm cho thanh niên năm 2004”, cho biết tỷ lệ thất nghiệp trong thanh nên thế giới đã tăng lên mức báo động. Lớp người ở đô tuổi từ 14 - 24 chiếm một nửa số người thất nghiệp trên toàn thế giới. Tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên cao hơn 3,8 lần so với lứa tuổi khác tại các nước đang phát triển.
Các chuyên gia ILO cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp trong thanh niên tăng cao, một phần do nền kinh tế chưa phát triển, chưa tạo được nhiều việc làm; mặt khác do số người ở độ tuổi thanh niên tăng nhanh 10,5% trong 10 năm qua so với tốc độ tăng việc làm dành cho thanh niên chỉ chiếm 0,2%. Hiện nay có 1300000 triệu người trong số 550 triệu người nghèo nhất thế giới là thanh niên. [5]
Bên cạnh đó, đô thị hoá cũng góp phần không nhỏ trong việc làm tăng tỷ lệ thất nghiệp lao đông nông thôn. Hiện nay trung bình mỗi năm nước ta có khoản 80.000 - 100.000 ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mực đích sử dụng và kéo theo khoảng 1,5 - 2,0 triệu chỗ làm bị mất [11]. Đất nông nghiệp bị thu hẹp đã tác động trực tiếp đến tình hình thu nhập của các hộ nông dân, mặt dù diện tích đất nông nghiệp đã được đền bù, tiền hỗ trợ thì mua sắm vật dụng phương tiện chứ không trú tâm đến việc học nghề giải quyết việc làm, vì thế sau một vài năm lại rơi vào tình trạng khó khăn do thất nghiệp. Đó là một trong những tồn tại chủ yếu của quá trình đô thị hoá ở các quốc gia.
Hiện đại hoá và công nghiệp hoá là nguyên nhân tác động đến nguy cơ mất việc làm của số lao động. Khi quá trình đô thị hoá phát triển mạnh thì các ngành công nghiệp sẽ phát triển đồng bộ với đô thị hoá. Các doanh nghiệp sẽ áp dụng công nghệ máy móc hiện đại tự động hoá được đưa vào sản xuất, một số lao động chủ chốt được giữ lại và số lao động chân tay khác sẽ bị thay thế bởi máy móc. Do đó công nghiệp hoá và hiện đại hoá góp phần vào việc làm tăng tỷ lệ lao động thất nghiệp.
- Đô thị hoá làm tăng ô nhiễm môi trường và các vấn đề tệ nạn xã hội khác nảy sinh.
Quá trình đô thị hoá diễn ra trong điều kiện kinh tế thị trường hay điều kiện kinh tế hoạch hoá tập trung, cũng đều thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Bên cạnh những mặt mạnh của đô thị hoá như tăng trưởng kinh tế, năng cao dân trí và chất lượng cuộc sống, nâng cao kỹ năng lao động và giải quyết công ăn việc làm, thị công nghiệp hoá cũng kéo theo hàng loạt vấn đề tiêu cực như thấp nghiệp và tệ nạn xã hội, vấn đề chất thải công nghiệp và phát huy môi trường ngày một gia tăng. Đặc biệt ở các nước đang phát triển có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, các vấn đề môi trường lại càng bức xúc hơn.
Các vấn đề tồi tệ mà con người phải chịu đựng lại thường xảy ra ở các thành phố nghèo, nhất là các nước đang phát triển. Đặc biệt ở các thành phố có số dân tăng nhanh, chính quyền không có khả năng cung cấp nhu cầu tốt thiểu cho dân số đô thị. Trong thế giới đang phát triển người nghèo đô thị luôn sống trong điều kiện không an toàn, ít nhất có tới 220 triệu thị dân không có đủ nước sạch. Khoảng 1/3 đến 2/3 lượng chất thải rắn không được thu gom chất đống trên đường phố, đổ bừa bãi xuống cống rãnh, gây ngập ứng và phát sinh bệnh tất. Hiện nay có trên 1,1 tỷ người sống trong khu vực đô thị, các mức ô nhiễm không khí vượt qua mức cho phép. Nhiều thành phố trên thế giới, nước thải sinh hoạt và công nghiệp thải vào các thuỷ vực, chỉ xử lý qua loa hoặc không xử lý, đe doạ đến sức khoẻ đời sống con người lẫn đời sống thuỷ sỉnh.
Jakata (Indonesia) là biểu tượng của nhiều lược lượng tương phản ở các siêu thành phố công nghiệp hoá nhanh trên thế giới. Thế nhưng các vấn đề môi trường cũng đồng thời đang đe doạ tới sự thịnh vượng về kinh tế và sức khoẻ con người, mức bụi hạt trong không khí vượt quá tiêu chuẩn, ít nhất 173 ngày/ năm. Khí thải xe cộ là nguồn gây ô nhiễm quan trọng nhất (44% bụi hạt, 89% hydrocacbón, 73% nitrogenoxitde và 100% chì). Năm 1989, mỗi ngày thành phố thải ra khoảng 200.000 m3 nước thải không qua xử lý, đỏ thẳng vào các đường nước của thành phố. Nước thải sinh hoạt gây ô nhiễm nguồn nước 80%, bên cạnh đó, nước thải công nghiệp đang ngày càng gây nhiều lo lắng.
Ô nhiễm không khí trong nhà do đốt nhiên liệu như, củi hoặc phân động vật, được coi là vấn đề nan giải ở nông thôn. Phụ nữ và trẻ em là đối tượng bị ảnh hưởng lớn nhất. Năm 1992, Ngân hàng thế giới đã xác định ô nhiễm không khí trong nhà là một trong bốn vấn đề toàn cầu nghiêm trọng nhất, những bệnh hô hấp cấp, viêm phổi đã gây tử vong cho trể em các nước đang phát triển chiếm khoảng 10% tổng số bệnh. Khói cũng làm chết gần 4 triệu trẻ em và sơ sinh mỗi năm. Ô nhiễm không khí đặc biệt nghiêm trong tại các thành phố lớn như Bắc Kinh, Seoul, Mexico City đã vượt mức hướng đẫn của WHO. Cơ sở hạ tầng hư hỏng do tập trung quá đông người. Các đường phố đông nghẹt, đi lại mất nhiều thời gian, dịch vụ và giá cả kinh doanh nhìn chung tăng lên ở các thành phố. Giao thông tắc nghẽn làm mất nhiều thời gian và tạo ra sự mệt mỏi cho con người, ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội. [22]
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá, vấn đề ô nhiễm môi trường tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp đang ở mức báo động. Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn, có mức ô nhiễm cao hơn các thành phố Hà Nội, Cần thơ và các thành phố khác trong cả nước. Tại nạn giao thông ngày một tăng theo thống kê, mỗi năm số tai nạn giao thông tăng bình quân 2.000 vụ. Mặt khác, trong các khu đô thị số gia đình tan vỡ tăng nhanh, chỉ riêng Hà Nội trung bình hàng năm (1987 – 1995) có 7.000 cặp vợ chồng kết hôn và 3.600 cặp vợ chồng xin Ly hôn. Trẻ em lang thang gia tăng. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội (1994) số trẻ lang thang trên toàn quốc khoảng 50.000 trẻ. Trong số trẻ lang thang thì 40 - 50% các em là nạn nhân của gia đình tan vỡ. Tình trạng nghiện, hút trộm cắp, cướp giật trong học sinh, sinh viên là điều đáng lo ngại.
2.1.2 Những vấn đề lý luận cơ bản về thu nhập, việc làm của hộ nông dân
2.1.2.1 Khái niệm thu nhập của hộ nông dân
Có nhiều quan điểm khác nhau khi nhìn nhận về vấn đề thu nhập của hộ nông dân Thu nhập là một trong những phương tiện giúp con người định hướng giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống. Từ đó dẫn đến nhiều khái niệm khác nhau về thu nhập của hộ nông dân:
Quan điểm của Chayanov về thu nhập của hộ nông dân trong điều kiện không tồn tại thị trường sức lao động [23]: Theo ông thu nhập của hộ nông dân không giống thu nhập của các xí nghiệp tư bản. Thu nhập trong nông hộ không chỉ có tiền lãi kinh doanh mà còn bao gồm toàn bộ giá trị lao động. Như vây, thu nhập của hộ nông dân là phần còn lại sau khi lấy tổng giá trị sản xuất trừ đi tổng chi phí vật chất.
Quan điểm của Barnum và Squire về thu nhập của hộ nông dân trong điều kiện có tồn tại thị trường sức lao động [23]: Theo các ông trong điều kiện tồn tại thị trường sức lao động thì thời gian lao động được phân chia thành thời gian lao động nghỉ ngơi, thời gian lao động làm việc nhà, thời gian làm việc sản xuất nông nghiệp và thời gian làm việc có tiền công (bao gồm lao đông thuê ngoài và lao động đi làm thuê). Từ đó các ông khái niệm thu nhập hộ nông dân như sau: Thu nhập của hộ nông dân được tính bằng giá trị sản phẩm sau khi trừ đi các phần: Phần sản phẩm hộ đã tiêu dùng, giá trị công lao động thuê ngoài, chi phí đầu vào cho sản xuất và công giá trị lao đông đi làm thuê. Song ở đây các ông lại tính giá tiền công giống nhau, điều này không đúng. Sau đó khai niệm này được Allanlow nghiên cứu và bổ sung thêm với điều kiên tiền công là khác nhau cho các lao động, giá cả các sản phẩm cũng khác nhau.
Quan điểm của một số nhà nghiên cứu của Việt Nam: Khái niệm này còn đa dạng và phong phú nhiều. Có người lấy giá trị sản phẩm hàng hoá để đánh giá thu nhập của hộ nông dân. Đứng trên góc độ khác có người lấy giá chỉ tiêu tổng giá trị trên một ha diện tích để phân tích đánh giá thu nhập của nông hộ [23]. Một số khác lại cho rằng thu nhập của hộ là tổng giá trị sản phẩm từ nông nghiệp, ngành nghề, chăn nuôi, thuỷ sản… Song để đi sâu nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau về nông hộ nhiều nhà khoa học và nghiên cứu kinh tế ở Việt Nam đã sử dụng chỉ tiêu thu nhập hỗn hợp để đánh giá thu nhập của hộ nông dân. Thu nhập hỗn hợp của hộ nông dân là phần thu được sau khi lấy tổng thu (Tức là toàn bộ giá trị sản phẩm từ các hoạt động sản xuất trong nông hộ) trừ đi chi phí vật chất, trừ tiền công thuê ngoài và trừ chi phí khác (bao gồm thuế, kháu hao tài sản cố định…) [8]. Như vây trong phần thu nhập của nông hộ sẽ bao hàm tiền công lao động của chủ hộ, tiền công lao động của các thành viên và lãi kinh doanh.
Xuất phát từ những quan điểm trên và đặc trưng về hộ nông dân ở Việt Nam. Chúng tôi tổng quát về khái niệm thu nhập của hộ nông dân như sau:
+ Thu nhập của hộ nông dân là thu nhập hỗn hợp
+ Thu nhập của hộ nông dân bao gồm các khoản thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông hộ, Tiền công lao động gia đình (chủ hộ và các thành viên), bao gồm các khoản trao đổi hay không được trao đổi trên thị trường.
+ Ngoài nguồn thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, nông hộ có thể có thu nhập từ các công việc khác như đi làm thuê, thù từ tài sản bất động sản, tiền lương hưu, tư việc chuyển nhượng tài sản khác như quà biếu, tiền gửi…
Nhìn chung, có thể nói hộ nông dân có thu nhập là từ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau như thu nhập theo sản xuất mùa vụ, từ sản xuất nông nghiệp khác, từ sản xuất ngành nghề phi nông nghiệp và nguồn ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh. Riêng thu nhập màu vụ vẫn quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập của hầu hết các hộ nông dân. Thu nhập mùa vụ là tổng thu nhập từ các sản phẩm được sản xuất theo mùa vụ như thóc, ngô, lạc, rau…
Như vậy, thu nhập của hộ nông dân dùng để chi tiêu và tích luỹ mà không phân chia cho các thành viên trong nông hộ.
2.1.2.2 Khái niệm việc làm
Việc làm có nhiều khái niệm khác nhau, tuy nhiên vẫn có một quan điểm chung nhất là các hoạt động của con người để tạo ra của cải vật chất.
Người ta có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau để xác định hoạt động nào là việc làm, hoạt động nào là không phải việc làm và thế nào là thời gian làm việc, mức thu nhập, hiệu quả kinh tế - xã hội. Theo từ điển “kinh tế khoa học xã hội”, xuất bản tại Paris năm 1996, khái niệm việc làm được định nghĩa là: “công việc mà người lao động tiến hành nhằm có thu nhập bằng tiền hoặc hiện vật.
Khái niệm việc làm có thể được hiểu ở hai trạng thái “tĩnh” và “động”. ở các trạng thái “ tĩnh” việc làm chỉ nhu cầu sử dụng sức lao động và các yếu tố vật chất - kỹ thuật khác nhằm mục đích tạo ra thu nhập hoạc kết quả có ích cho cá nhân, cộng đồng. Theo cách hiểu này, việc làm là khả năng làm tăng của cải của xã hội, tăng lợi ích cho dân cư và cộng đồng, là khả năng sử dụng nguồn nhân lực và là các hoạt động có ích. Theo nghĩa “động” việc làm là hoạt động của dân cư nhằm tạo ra thu nhập có lợi cho cá nhân hoặc cộng đồng, trong khuôn khổ pháp luật cho phép: việc làm là hình thức vận dụng sức lao động, là hoạt động có chủ đích của con người, được tiến hành trong một không gian và thời gian nhất định với sự kết hợp các yếu tố giữa vật chất va kỹ thuật.
Từ khái niệm trên có thể hiểu việc làm là tác động qua lại giữa hành động của con người với những điều kiện vật chất - kỹ thuật và môi trường tự nhiên, tạo ra giá trị vật chất và tinh thần mới cho bản thân và xã hội, đồng thời những hoạt động phải trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Theo tác giả Đặng Xuân Thao trong cuốn sách “ mối quan hệ giữa dân số và việc làm” đã định nghĩa “ Việc làm là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người thân, cho gia đình hoặc cộng đồng”
Tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung trong cuốn “ về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” đã đưa ra khái niệm: “ người có việc làm là người đang làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình đồng thời góp một phần cho xã hội”.
Khái niệm này phù hợp với quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về người có việc làm: người có việc làm là những người đang làm việc gì đó được trả tiền công hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự thoả mãn lợi ích hay thay thế thu nhập của gia đình (dẫn theo 16).
Khái niệm về người có việc làm của ILO được áp dụng ở nhiều nước khi tiến hành các cuộc điều tra thống kê về lao động việc làm, nhưng được cụ thể hóa thêm bằng một số tiêu thức khác tuỳ thuộc vào mỗi nước. Các nước thường phân thành hai nhóm người trong độ tuổi lao động xét trong mối quan hệ việc làm. nhóm thứ nhất là nhóm lao động có việc làm và đang làm việc, đó là những người làm bất kể công việc gì được trả công hoặc mang lại lợi ích vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình. Nhóm thứ hai là nhóm người có việc làm nhưng tạm thời nhất định nào đó lại không làm việc hoặc tạm nghỉ việc.
ở Việt Nam, điều 13 Luật lao động của Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 có ghi: “Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm, đều được thừa nhận là việc làm” (dẫn theo 5) bao gồm: các công việc được trả công dưới hình thức bằng tiền hoặc hiện vật; những công việc tự làm để tạo thu nhập và thu lợi nhuân cho bản thân hoặc chi cho gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) cho công việc đó.
Trong điều kiện hiện nay có thể hiểu việc làm như sau: việc làm là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân gia đình người lao động hoặc cho một cộng đồng nào đó (dẫn theo 5)
Từ những cơ sở và phân tích trên chúng ta có thể kết luận người có việc là những người trong độ tuổi lao động và đang làm việc trong các cơ sở kinh tế văn hoá xã hội.
Việc làm là một hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thu nhập cho những người trong cùng hộ gia đình.
Việc làm bao gồm ba dạng: Một là những việc làm nhằm nhận được tiền công, tiền lương dưới dạng tiền hoặc hiện vật. Hai là việc làm nhằm thu được lợi nhuận, ba là những công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao.
Phân loại việc làm và thất nghiệp
Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc tổ chức lao động quốc tế phân chia việc làm thành các loại:
- Việc làm ổn định và việc làm tạm thời: căn cứ vào số thời gian có việc làm thường xuyên trong một năm. Trong đó người có việc làm ổn định là người có việc từ 6 tháng trở lên trong một năm, hoặc làm việc dưới 6 tháng trong một năm nhưng vẫn tiếp tục làm công việc đó trong những năm tiếp theo.
- Việc làm đủ thời gian và việc làm không đủ thời gian, căn cứ vào số thời gian thực hiện trong một tuần.
- Việc làm chính và việc làm phụ: căn cứ vào khối lượng thời gian hoặc mức độ thu nhập trong thực hiện một công việc nào đó.
Người không có việc làm hay nói cách khác là thất nghiệp được hiểu theo cách phân loại như sau:
- Người không có việc làm (thất nghiệp): là người đang tiếp tục tìm việc làm hoặc đang chờ trở lại làm việc.
Tổ chức ILO đưa ra nhận xét sau: xét trong một khoảng thời gian nhất định những người thất nghiệp là những người: có khả năng làm việc nhưng không có việc làm.
Phần lớn các nước đều sử dụng khái niệm trên để xác định người thất nghiệp, song cũng có sai lệch khi xác định khoảng thời gian không có việc làm.
- Thất nghiệp tự nhiên: trong nền kinh tế quốc dân luôn tồn tại một lượng thất nghiệp nhất định gọi là thất nghiệp tự nhiên. Thất nghiệp tự nhiên là lực lượng thất nghiệp trong điều kiện thị trường lao động chung của nền kinh tế đã được cân bằng. Quy mô thất nghiệp tự nhiên lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng của lao động
- Những người không thuộc lực lượng lao động: Bao gồm các đối tượng là học sinh, những người mất khả năng lao động, nội trợ và những người đã nghỉ làm việc vì lý do sức khỏe, tuổi tác cao v.v
Vai trò của việc làm và ổn định thu nhập
Vai trò 2 mặt của con người trong quá trình phát triển kinh tế - vừa là người được hưởng lợi ích của sự phát triển vừa là tiềm lực sản xuất chính. Lao động được sử dụng trong hoạt động kinh tế có thể được hiểu theo cả hai mặt chi phí và lợi ích. Lao động là một chi phí nếu nó được sử dụng một cách có lựa chọn. Lao động cũng chứa một lợi ích tiềm tàng theo hai nghĩa. Thứ nhất, trong một số trường hợp, do sự chưa hoàn hảo của thị trường cho nên nó có thể làm sản xuất tăng lên thông qua những chính sách có tác dụng tổ chức tốt hơn nguồn lao động sẵn có và thông qua việc áp dụng công nghệ phù hợp với khả năng của các nước chậm phát triển. Thứ hai, chưa kể đến ảnh hưởng đến tổng sản lượng, việc tăng thêm việc làm cho người nghèo khổ có thể coi là một biện pháp rất hiệu quả và ít tốn kém để tăng phần đóng góp của họ vào tổng thu nhập.
Trong mọi hình thức kinh tế - xã hội, nguồn lao động luôn là nhân tố trung tâm, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của sản xuất và đồng thời là mục đích của nền sản xuất xã hội, vai trò ấy thể hiện trên các mặt cụ thể sau:
- Người lao động là yếu tố hàng đầu quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố quan trọng nhất, lao động của con người tác động vào tự nhiên, vào đối tượng sản xuất hay tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân mình và gia đình, để xã hội tồn tại và phát triển. Trong quá trình lao động, người lao động không những tim tòi suy nghĩ, năng động, sáng tạo ra những tư liệu lao động cho năng suất lao động cao và kết hợp tư liệu lao động để tạo ra những sản phẩm theo mục đích và nhu cầu xã hội hoàn thiện từng bước tư liệu sản xuất thông qua hoạt động của con người, từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ con người được đặt vào một quá trình lao động rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự sáng tạo có trình độ kỹ thuật cao và ý thức trách nhiệm lớn, có như vậy mới sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả nguồn lao động góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Lao động là chủ thể sáng tạo, đổi mới và hoàn thiện phát triển kinh tế xã hội.
Trong quá trình lao động con người luôn luôn cố gắng tìm tòi sáng tạo để vươn tới cái tốt đẹp nhất, hoàn thiện nhất bằng với chính khả năng lao động của mình, với nhu cầu về vật chất ngày càng cao, đa dạng về mẫu mã, số lượng chủng loại đòi hỏi con người phải có tư duy sáng tạo, nâng cao tay nghề kỹ xảo để tạo ra những sản phẩm phù hợp, thoả mãn nhu cầu con người và xã hội, quá trình lao động con người chính là những quá trình hoàn thiện hơn nữa bản thân mỗi con người và cũng là sự hoàn thiện của xã hội.
- Lao động là lực lượng to lớn để phát triển kinh tế - xã hội
Trong qúa trình sản xuất con người luôn luôn hoạt động theo nhu cầu của mình, của xã hội, suy cho cùng đều xuất phát từ vấn đề đảm bảo và duy trì lợi ích của mình. Con người cho dù làm việc ở đâu, dưới hình thức nào cũng đều nhằm đạt được lợi ích. Lợi ích càng cao càng tạo lên sự hấp dẫn để con người hoạt động có hiệu quả hơn. Như vậy, lợi ích trở thành động cơ của hành động, thoả mãn lợi ích chính đáng của con người là động lực kinh tế trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Lao động là mục đích của sự phát triển
Nhu cầu của con người luôn thay đổi và con người không bao giờ thoả mãn nhu cầu của mình, để đáp ứng được nhu cầu của con người là mục tiêu mà mọi chế độ xã hội hướng tới. Đảng ta đã khẳng định “phát huy yếu tố con người là lấy con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động”
Như vậy, nguồn lao động nói riêng và con người nói chung có vai trò quan trọng và quyết định sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở mọi thời đại nhận thức đúng đắn không chỉ giúp chúng ta thấy rõ ý nghĩa tầm quan trọng của nó mà còn là cơ sở khoa học để nghiên cứu sử dụng lao động đầy đủ hợp lý.
2.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập
* Những yếu tố ảnh hưởng tới việc làm
- Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng
Đất đai cùng tài nguyên sinh vật trên đất vừa là đối tượng vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt của con người tác động vào nó tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu phát triển của xã hội. Diện tích đất canh tác, mặt nước càng lớn tài nguyên nông lâm sản càng phong phú thì khả năng tạo việc làm càng nhiều.
Hiện nay tài nguyên nông lâm sản đang bị suy giảm nghiêm trọng do sự khai thác quá mức của con người. Vì vậy vấn đề tạo việc làm đang trở nên khó khăn và phức tạp khi lao động xã hội ngày một tăng lên.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc cũng là yếu tố gián tiếp góp phần tạo việc làm và nâng cao hiệu quả việc làm. việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các cộng đồng dân cư sẽ tạo khả năng thu hút nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp tạo môi trường phát triển việc làm trong từng cộng đồng.
- Dân số - nguồn lao động
Dân số và việc làm vừa có quan hệ tương hỗ, vừa hạn chế lẫn nhau. Quy mô dân số lớn, dân số tăng nhanh tất yếu sẽ làm tăng nguồn lao động và đồng nghĩa với tăng sức ép về giải quyết việc làm với mỗi thành viên và cộng đồng gây ra tình trạng thất nghiệp trong xã hội. Mặt khác, lao động là nguồn lực rất cơ bản để phát triển kinh tế. Khi kinh tế phát triển thì khả năng tạo việc làm trong xã hội càng nhiều. Giải quyết mối quan hệ dân số và việc làm là vấn đề nan giải của mỗi quốc gia. Chính phủ phải luôn đối phó với xu hướng gia tăng số lượng lao động với quy mô lớn hơn tốc độ gia tăng số chỗ việc làm không kém phần quan trọng là phải nâng cao chất lượng nguồn lao động - một yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng giải quyết việc làm trong xã hội.
- Chính sách lao động và việc làm trong xã hội
Đây là một trong những chính sách cơ bản của mỗi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. chính sách việc làm còn bao gồm các giải pháp trợ giúp cho các loại đối tượng đặc biệt (người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi hương..) có cơ hội và điều kiện được làm việc.
Cũng như các chính sách xã hội khác, chính sách việc làm rất đa dạng và phong phú, có thể phân loại như: các chính sách ở tầng vĩ mô, có mục đích mở rộng và phát triển việc làm cho lao động toàn xã hội bao gồm chính sách tín dụng, chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động; các chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, ngành nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động như chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách phát triển khu vực kinh tế phi hình thức, chính sách di dân phát triển vùng kinh tế mới, chính sách tự do di chuyển lao động và hành nghề, chính sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài v.v chính sách việc làm cho các đối tượng đặc biệt (người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội). Mặt khác trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, tình trạng thất nghiệp là điều khó tránh. Để hạn chế thất nghiệp một mặt phải tạo ra chỗ làm mới, mặt khác phải tránh cho người lao động đang làm việc lâm vào thất nghiệp. Ngoài ra phải có hệ thống bảo hiểm cho người lao động khi họ bị thất nghiệp. Thực hiện tốt các chính sách việc làm, nguồn lao động được sử dụng có hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, sẽ giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi chính sách việc làm chưa được giải quyết tốt, nhất là vào thời kỳ kinh tế suy thoái, nạn thất nghiệp sẽ tăng lên và các tệ nạn xã hội sẽ dễ dàng phát sinh. Khi đó gánh nặng của chính sách về bảo đảm xã hội, an ninh xã hội sẽ tăng lên. Đặc biệt nếu giải quyết không tốt chính sách việc làm còn có thể gây bất ổn về chính trị xã hội. [11], [19]
* Những yếu tố ảnh hưởng đến thu thập
- Việc làm của người lao động: Đây là yếu tố quyết định đến thu nhập hàng ngày, hàng tháng cho bản thân và gia đình. Người lao động không có việc làm hay nói cách khác là thất nghiệp thì khả năng thu nhập cho bản thân là không thể. Do đó, để có thu nhập trước hết phải có việc làm.
- Công việc đang làm: là những việc hiện tại của người lao động đang và tiếp tục làm có được thuận lợi hay không, công việc đó có thể đem lại thu nhập để đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình hay không cũng là yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập.
- Mức thu nhập hàng tháng: là các khoản mà người lao động được hưởng từ việc trả lương hay từ quá trình sản xuất của cải vật chất.
- Chính sách của Chính phủ: Bao gồm các chính sách tiền lương, chính sách thuế thu nhập có tác động không nhỏ đến thu nhập của người lao động.
- Trình độ người lao động: Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công việc đang làm, nơi làm việc và thu nhập của lao động. Trong sản xuất nông nghiệp, trình độ kĩ thuật của người lao động quyết định đến năng suất và sản lượng cây trồng vật nuôi. Trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ, trình độ của người lao động quyết định đến năng suất lao động, chất lượng, tiêu chuẩn sản phẩm và hàng hoá dịch vụ. Do đó trình độ người lao động sẽ gắn liền với thu nhập của người lao động nhận được. [11], [19]
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Tình hình đô thị hoá ở các nước trên thế giới
Gần 150 năm trước, trào lưu đô thị hoá bắt đầu ở phương Tây rồi lan sang Mỹ những năm cuối thế kỷ 19 và châu á là những thập niên 60, 70 thế kỷ 20 đều là hệ quả tự nhiên của quá trình hiện đại hoá đất nước thông qua các cuộc cách mạng công nghiệp. Trước đó nữa, sự chuyển biến các chức năng đô thị trong thời kỳ giao lưu hàng hoá, tiền tệ phát triển mạnh làm xuất hiện hàng loạt nhà ga, hệ thống hạ tầng giao thông, điện nước, các phương thức xây dựng mới bằng vật liệu bê tông sắt thép làm thay đổi bộ mặt của đô thị, kiến trúc thế giới. Trong thế kỷ 20, các nước phát triển đã chuyển gần 80% - 90% dân số cư trú từ nông thôn sang cư trú ở đô thị, đưa số người sống trong đô thị hiện nay lên 50% dân số của thế giới (khoảng hơn 3 tỷ người chỉ trong một thế kỷ). Các cuộc cách mạng công nghiệp tác động đã làm thay đổi diện mạo của cả khu vực thành thị và nông thôn một cách sâu sắc, hình thành nên hệ thống kiến trúc hiện đại, nếp sống văn minh đô thị tại các nước phát triển trên thế giới.
Theo dự báo của Liên hiệp quốc, đến cuối năm 2008, lần đầu tiên trong lịch sử, một nửa dân số thế giới sẽ sống ở thành thị. Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá nhanh cũng làm số người sống trong các khi ổ chuột ở đô thị ngày càng tăng, đồng thời làm tăng gánh nặng cho môi trường.
Liên hiệp quốc cũng dự báo dân số thế giới sẽ tăng từ 6,7 tỷ người hiện nay lên tới 9,2 tỷ người vào năm 2050. Như vậy, đến năm 2050, toàn thế giới sẽ có 27 “siêu thành phố” - những thành phố có dân số trên 10 triệu người- tăng so với con số 19 thành phố như hiện nay và nhiều thành phố nhỏ hơn với không quá 500.000 dân sẽ xuất hiện.
Tokyo của Nhật là thành phố đông dân nhất, có tới 35,7 triệu người. Các thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải (Trung Quốc); Mumbai và New Delhi (ấn Độ); Cairo (Ai Cập); London (Anh)... nằm trong 19 thành phố đông dân nhất.
Với tốc độ đô thị hoá tăng cao như hiện nay, số dân số sống ở nông thôn toàn thế giới sẽ giảm dần, dự báo từ 3,4 tỷ người năm 2007 còn 2,8 tỷ người năm 2050.
Tại các quốc gia nằm ở châu âu, khu vực Bắc Mỹ, Mỹ Latinh, tỷ lệ dân số ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn. Trong khi đó tốc độ đô thị hoá đang diễn ra chậm hơn tại các khu vực châu Phi và châu á. Hiện dân số châu Phi và châu á chủ yếu sống ở nông thôn, song theo dự báo của Liên hiệp quốc, tỷ lệ dân số ở thành thị và nông thôn của hai khu vực này sẽ cân bằng trong khoảng những năm 2045-2050 đối với châu Phi và 2020-2025 đối với châu á.
Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu á - Thái Bình Dương (ESCAP) đã đưa ra nhận định cảnh báo về những mặt trái của quá trình đô thị hoá quá nhanh đang diễn ra ở nhiều nơi. Theo đó, quá trình đô thị hoá trên thế giới góp phần làm tăng trưởng kinh tế cao hơn, song cũng dẫn đến hệ quả là nạn nghèo đói tăng nhanh tại các đô thị và hàng loạt các vấn đề môi trường - xã hội khác.
Châu á - Thái Bình Dương đô thị hoá nhanh nhất
Trong cuốn “Phân tích niên giám thống kê của châu á - Thái Bình Dương” Pietro Gennari, Trưởng cơ quan Thống kê của ESCAP cho biết, đô thị hoá ở khu vực châu á._.n đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó có 5% ý kiến đánh giá thu nhập giảm do không tìm được việc làm ổn định.
* Tự đánh giá của nhóm hộ 3
Nhóm 3 là nhóm có sự biến động nhiều nhất trong 3 nhóm hộ về thu nhập trong mấy năm trở lại đây. Căn cứ vào kết quả tự đánh giá của nhóm hộ 3 trên đồ thị 5, 5 % ý kiến đánh giá thu nhập tăng nhiều do họ đã chuyển sang mở cửa hàng bán đại lý tạp hoá kết hợp với đi làm thêm. Nhưng cũng có 334% ý kiến cho rằng thu nhập không thay đổi mặc dù bị thu hồi đất, họ mất đi phần thu nhập từ nông nghiệp nhưng lại có thêm thu nhập từ lao động làm thuê. 12% ý kiến thu nhập giảm nhiều, đây là các hộ không có việc làm ổn định sau khi bị thu hồi đất vì khả năng không đáp ứng được yêu cầu công việc của các công ty nên không có việc làm.
Đồ thị 7: Đánh giá của hộ về thay đổi thu nhập
4.5.2 Đánh giá về tác động của đô thị hoá đến việc làm của hộ nông dân
Người lao động là người chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình đô thị hoá. Việc làm của các hộ nông dân biến động theo xu hướng phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp. Để có thể thấy rõ sự đánh giá của người lao động về tác động của đô thị hoá đến việc làm của họ, chúng tôi đã tiến hành điều tra và tổng hợp các ý kiến của từng nhóm hộ dựa trên các tiêu chí về cơ hội tìm kiếm việc làm, thời gian có việc trong năm...Cụ thể như sau:
Bảng 4.12: Tự đánh giá của người dân về tác động của đô thị hoá đến việc làm
ĐVT: %
Chỉ tiêu
Tăng
nhiều
Tăng
ít
Không
đổi
Giảm
nhiều
Giảm
ít
I. Nhóm hộ 1
1. Cơ hội tìm kiếm việc làm
30
46,7
16,6
-
6,7
3. Thời gian có việc làm trong năm
21,7
46,6
23,3
-
8,4
2. Thu nhập từ nghề phi NN
30
63,4
6,6
-
-
4. Thu nhập từ NN
26,7
43,3
16,7
6,7
6,7
II. Nhóm hộ 2
1. Cơ hội tìm kiếm việc làm
20
36,6
16,7
3,3
23,4
3. Thời gian có việc làm trong năm
6,7
13,3
33,3
20,7
26,3
2. Thu nhập từ nghề phi NN
56,6
36,7
6,7
-
-
4. Thu nhập từ NN
-
6,7
13,3
26,6
53,4
III. Nhóm hộ 3
1. Cơ hội tìm kiếm việc làm
6,7
13,3
10,7
56,7
13,3
3. Thời gian có việc làm trong năm
11,7
16,7
6,6
43,3
21,7
2. Thu nhập từ nghề phi NN
63,3
30
6,7
-
-
4. Thu nhập từ NN
-
-
-
100
-
* Đối với nhóm hộ 1:
Cơ hội tìm kiếm việc làm, thời gian làm việc của lao động nhóm 1 tăng lên đáng kể. Một phần là do nhóm hộ này không bị thu hồi đất nông nghiệp, hơn nữa lại được đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng khu ngoài bãi để phát triển sản xuất rau an toàn nên thời gian làm việc và thu nhập của lao động nhóm này tăng lên. Bên cạnh đó thu nhập từ ngành phi nông nghiệp cũng được đánh giá là tăng lên với ý kiến tăng lên ít là 63,4% do nhu cầu sử dụng lao động của các khu công nghiệp tăng, nhu cầu xây dựng nhiều nên thu nhập của lao động tăng lên.
* Đối với nhóm hộ 2:
Theo sự đánh giá của bản thân người lao động, cơ hội tìm kiếm việc làm và thu nhập từ nông nghiệp của họ không tăng nhiều như nhóm 1. Nguyên nhân: Một là, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, hộ chủ động chuyển sang trồng các loại rau an toàn trên phần diện tích còn lại, lao động dôi dư; Hai là, nhiều công ty trong các khu công nghiệp tuyển dụng lao động, song khả năng đáp ứng yêu cầu công việc của lao động không cao vì đa số trình độ thấp mà các công ty thì yêu cầu ít nhất phải tốt nghiệp phổ thông trung học; Ba là, nhiều lao động dôi dư nên mặc dù nhiều việc làm cũng không đủ đáp ứng số lượng lao động dư ra đó. Ngoài ra, các công việc tự do như thợ xây, xe ôm, bán hàng rong đều phụ thuộc vào thời tiết và mùa vụ nên thời gian lao động làm việc trong năm giảm.
* Đối với nhóm hộ 2:
Đây là nhóm hộ chịu tác động tiêu cực từ đô thị hóa. Toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi dẫn đến lực lượng lao động nông nghiệp rơi vào tình trạng thất nghiệp. Sự nhạy bén của người lao động khi cơ hội việc làm mở ra nhiều song không phải tất cả số lao động dư ra đó có việc làm tự do hay một công việc trong khu công nghiệp, phần vì những lao động ở nhóm này có độ tuổi trung bình tương đối cao, những lao động từ 26 đến 35 tuổi – những người là trụ cột chính trong gia đình, trở lên rất khó tìm việc làm, trong tương lai đây là đối tượng thất nghiệp kéo dài nhất. Các công ty chỉ tuyển dụng lao động vừa tốt nghiệp phổ thông hoặc tốt nghiệp trước đó 1-3 năm. Vì vậy, để đảm bảo cuộc sống, các lao động chỉ có thể làm thuê hoặc bán hàng rong, nên thời gian làm việc và thu nhập từ nông nghiệp của nhóm này giảm nhiều nhất trong 3 nhóm.
4.5.3 Tác động tới môi trường
Để khảo sát ý kiến đánh giá về môi trường khu vực quận Long Biên, chúng tôi tiến hành lấy ý kiến của cả 3 nhóm hộ về vấn đề môi trường trong thời gian gần đây.
Bảng 4.13. Khảo sát ý kiến về môi trường
ĐVT: %
Diễn giải
Tăng
nhiều
Tăng
ít
Không
đổi
Giảm
nhiều
Giảm
ít
1.Phương tiện tham gia giao thông
94,4
5,6
-
-
-
2. Hiện tượng tắc nghẽn giao thông
95
5
-
-
-
3. Tiếng ồn, khói bụi
100
-
-
-
4. Công trình xây dựng
97,7
2,3
-
-
-
5. Rác thải, nước thải công nghiệp
72,5
5,5
22
-
-
Quá trình đô thị hoá với xu hướng là phát triển các khu công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng sẽ mang lại cho quận bộ mặt hiện đại của đô thị mới. Song, trong thời gian vừa qua, quận đang trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng nên tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng. Càng ngày số lượng phương tiện tham gia giao thông càng tăng, hiện tượng tắc đường ở khu vực cầu Chương Dương và cầu Thanh Trì diễn ra hàng ngày. Khói bụi, rác thải của các công ty chưa có biện pháp xử lý, cộng với bụi từ các công trình như cầu Thanh Trì đã làm cho môi trường không khí ô nhiễm nghiêm trọng. Chính vì vậy khi khảo sát ý kiến của các hộ dân thì 100% số hộ cho rằng các khu công nghiệp và đô thị làm tăng ô nhiễm môi trường.
Nói tóm lại, theo đánh giá của người dân, đô thị hoá làm tăng thu nhập cho đa số dân, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, làm tăng thời gian làm việc. Song cũng làm giảm thu nhập cho số ít lao động mất đất hoàn toàn và không đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu công việc. Mặt khác đô thị hoá là tăng ô nhiễm môi trường
4.6. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các nông hộ quận mới Long Biên
Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Thủ đô 2001-2010 “Phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cao cấp hóa các sản phẩm nông nghiệp theo hướng nông nghiệp - đô thị - sinh thái, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa đặc sản như rau sạch, hoa, cây cảnh, cây ăn quả, tạo môi trường bền vững cho Thủ đô Hà Nội”. Bên cạnh đó tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, phần diện tích còn lại nằm rải rác trong các khu dân cư và khu công nghiệp ảnh hưởng đến việc tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Theo đó, chủ trương của quận là phát triển nền nông nghiệp đô thị sinh thái, phù hợp với tiến trình đô thị hóa và phát triển kinh tế của quận, tạo cảnh quan môi trường, làm vành đai xanh cho Thủ đô. Thực hiện chủ trương đó cần có một nhóm các giải pháp đồng bộ cho nông nghiệp nói chung và lao động nông nghiệp mất đất nói riêng.
4.6.1 Giải pháp chung
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để ổn định và nâng cao thu nhập cho hộ cần xây dựng chiến lược lâu dài về tạo việc làm cho lao động mất đất nông nghiệp. Cụ thể hóa chiến lược đã xây dựng cho từng thời kỳ, từng lĩnh vực khoa học công nghệ, vốn, đào tạo, quản lý lao động, phân bố và sử dụng hợp lý lao động đúng trình độ, đúng tay nghề…
Trong quá trình phát triển cần tập trung chú ý vấn đề đào tạo con người phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới là nông nghiệp đô thị sinh thái kết hợp với du lịch, phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quận theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.
Để làm được như vậy thì vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp mất đất nói riêng và lao động ở quận nói chung cần được xem. xét và xây dựng chương trình kế hoạch với sự tham gia đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và cần có sự tham gia nhiệt tình của chính bản thân người lao động.
Cụ thể là:
Thứ nhất, đa dạng hóa các nguồn vốn và hình thức đầu tư như nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp, vốn tín dụng, vốn huy động đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài…Thu hút các dự án tạo thêm việc làm, thu hút lao động. Ưu tiên các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần có chính sách hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp như hỗ trợ về giá giống cho những khu vực có dự án chuyển dịch, chuyển giao công nghệ, thăm quan mô hình cho các dự án, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ hai, có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân lành nghề, củng cố hệ thống đào tạo nghề trên địa bàn. Ngoài các trung tâm đào tạo nghề của nhà nước, quận sẽ đẩy mạnh việc xã hội hóa đào tạo nghề trên địa bàn để hình thành trung tâm dạy nghề được trang bị đầy đủ thiết bị dạy nghề với một số nghề mũi nhọn: điện tử, cơ khí vận tải, cơ khí chính xác, tự động hóa, sửa chữa phương tiện, thiết bị phục vụ đời sống.
Thứ ba, khuyến khích người nông dân còn đất dồn điền đổi thửa hoặc chuyển nhượng đất đai từ hộ có ít đất nông nghiệp sang một số hộ có chuyên canh sản xuất nông nghiệp, chuyển dần theo hướng nông nghiệp sinh thái.
4.6.2 Giải pháp cụ thể
Trong những năm gần đây và thời gian tiếp theo, quá trình đô thị hóa ở quận Long Biên sẽ tiếp tục diễn ra hết sức mạnh mẽ, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, làm cho đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc làm và thu nhập của các hộ nông dân của quận Long Biên. Quá trình đô thị hóa đã đẩy nông dân đến mất đất hoặc giảm phần lớn diện tích đất sản xuất nông nghiệp, trong khi đó lực lượng lao động không những giảm mà có xu hướng ngày một tăng lên khiến cho nhiều người dân rơi vào tình trạng thiếu việc làm. Để thu hút lao động chưa có việc làm do mất đất, trước mắt cần phải chú ý thực hiện một số giải pháp sau:
1. Phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái kết hợp với du lịch
Đối với các hộ nông dân còn đất nông nghiệp ở nhóm 1 và nhóm 2 cần giải quyết việc làm cho thời gian nhàn dỗi trong năm, phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái kết hợp với du lịch, tạo cảnh quan môi trường đô thị, vành đai xanh cho Thủ đô, hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho khu vực rau sạch vùng ngoài bãi,xây dựng hệ thống đường giao thông nội đồng, xây dựng hệ thống kênh tưới và nhà lưới, nhân rộng mô hình rau sạch đảm bảo chất lượng, rau chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng đặc biệt là người tiêu dùng khu vực Thủ đô Hà Nội. Khuyến khích phát triển trồng hoa cây cảnh, tổ chức thăm quan mô hình, chuyển giao công nghệ, thực hiện chính sách hỗ trợ về giá giống cho những khu có dự án chuyển dịch, đầu tư hỗ trợ cho đào tạo, hình thành các khu sản xuất lớn, gắn sản xuất với sơ chế và chế biến nông sản để tạo thương hiệu cho sản phẩm.
2. Phát triển kinh tế trang trại vừa và nhỏ
Để giải quyết lao động dôi dư trong các nhóm hộ 2 và 3 không có khả năng xin việc trong các công ty, các khu công nghiệp, dịch vụ cần phát triển các trang trại vừa và nhỏ. Để làm được như vậy cần có chính sách khuyến khích nông dân chuyển nhượng, cho thuê đất nông nghiệp cùng với việc giới hạn về quy mô tránh hiện tượng tích trữ ruộng đất, hợp tác giữa các nhóm hộ để cùng phát triển sản xuất tạo ra các sản phẩm chất lượng cao hơn. Khuyến khích việc nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với du lịch sinh thái (câu cá giải trí) nhằm khai thác có hiệu quả mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Khuyến khích các hộ, đơn vị cải tạo hồ, ao, đầu tư kè ao hồ nhằm khai thác có hiệu quả mặt nước đồng thời chống lấn chiếm của các hộ dân xung quanh.
3. Đào tạo nghề cho lao động
Trong thực tế, lao động trong các nhóm hộ hầu hết không qua đào tạo, không có nghề cụ thể, chủ yếu là lao động tự do và làm các nghề có thu nhập bấp bênh, nặng nhọc, không ổn định, ví dụ như phụ hồ, thợ xây hết sức vất vả lại phụ thuộc vào thời tiết, hay như các lao động chuyên đi bán bánh mì dọc đường 5 hoặc bán hoa quả men theo đường cầu Thanh Trì không những vất vả lại rất nguy hiểm, thu nhập tính theo ngày và theo mùa. Thời gian tới, do sự gia tăng dân số tự nhiên và sự giảm đi đất canh tác thì việc cạnh tranh về việc làm ngày càng tăng, sự ổn định về thu nhập lại càng giảm sút. Mặt khác, các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp chỉ tuyển những lao động ở độ tuổi từ 18 đến 22, còn lại các lao động khác nếu ngoài độ tuổi trên rất khó tìm được việc làm nếu không có trình độ tay nghề. Vì vậy, vấn đề đào tạo nghề cho lao động là hết sức cần thiết và cấp bách. Để làm được điều đó thì việc trước hết là quận phải xây dựng thêm các trung tâm đào tạo nghề, hiện nay trên địa bàn quận mới chỉ có 01 trường trung cấp Quan Trung, khuyến khích và tạo điều kiện cho các trung tâm đào tạo nghề tư thục, dân lập, mở rộng các loại hình đào tạo nghề, lớp nghề. Trong cơ cấu đào tạo nghề, cần chú ý đào tạo lao động theo hai hướng, thứ nhất là lao động đáp ứng nhu cầu trước mắt và thứ hai là lao động phục vụ nhu cầu lâu dài gắn liền với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhu cầu trước mắt không chỉ đào tạo lao động liên quan đến công nghiệp dịch vụ mà còn phải gắn liền với nông nghiệp đô thị, nông nghiệp sạch như kỹ thuật chăn nuôi, kỹ thuật gieo trồng hiện đại, kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa cây cảnh,... phù hợp với điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu của khu vực.
4. Chính sách đền bù của Nhà nước khi thu hồi đất
Đối với những hộ nông dân bị mất đất nông nghiệp để phục vụ nhu cầu sử dụng đất cho các khu công nghiệp và đô thị cần có sự cân nhắc tính toán kỹ lưỡng và thực hiện chính sách đền bù thỏa đáng cho người dân. ở đây chính sách phải đứng trên hai góc độ: bù đắp thiệt hại về mất đất và hỗ trợ người dân trong quá trình chuyển sang ngành nghề khác. Bên cạnh các giải pháp tạo việc làm cho các lao động trong phát triển nông nghiệp đô thị, thu hút lao động vào các khu công nghiệp cần ưu tiên tuyển chọn các lao động bị thu hồi đất có điều kiện đi lao động tại nước ngoài. Hiện nay đa số các hộ khi nhận tiền đền bù đều sử dụng vào việc mua sắm tài sản, tiêu dùng hàng ngày, số ít sử dụng để đầu tư kinh doanh dịch vụ nên số tiền đền bù dần dần cạn, nếu các lao động được đi lao động nước ngoài thì số tiền đặt cọc có thể được lấy ngay từ tiền chuẩn bị đền bù đối với những hộ đã có phương án lấy đất. Hoặc cũng có thể tạo điều kiện cho vay đối với những hộ này. Đây là vấn đề rất khó khăn đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ban ngành đoàn thể: dự án, lao động thương binh xã hội, các cấp chính quyền...Bên cạnh đó nên dành một phần đất của dự án để mở các cửa hàng kinh doanh dịch vụ tại tầng trệt của chung cư ưu tiên cho các lao động không có khả năng tìm việc tại các công ty.
5. Phát triển làng nghề truyền thống
Các ngành nghề truyền thống từ lâu đã trở thành thế mạnh của đất nước như sơn mài, mây tre đan... đã và đang giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động trên các địa phương của cả nước. Đối với quận Long Biên, làng nghề rắn lệ Mật từ lâu đã nổi tiếng cả nước. Nếu tập trung phát triển làng nghề này kết hợp ẩm thực và du lịch sẽ thu hút được rất nhiều lao động trong vùng, đồng thời tăng thu nhập cho người dân, thay đổi bộ mặt đô thị mới.
6. Chính sách của Nhà nước về thuế, đất đai tín dụng, khoa học công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Về tín dụng: Hiện nay,chính sách về tín dụng của nhà nước quá chặt chẽ, nhiều doanh nghiệp đã không thể tiệp tục hoạt động sản xuất kinh doanh do không đủ vốn, dẫn đến hàng trăm lao động thất nghiệp. Bên cạnh đó nhà nước cần có chính sách thông thoáng hơn trong việc hoàn tất các thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Hoàn thiện và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp để thu hút ngày càng nhiều các doanh nghiệp thuê địa điểm trên địa bàn quận tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho lao động.
- Về đất đai: Khuyến khích, tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra vùng bãi. Những doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp ở vùng bãi, ngoài việc được hưởng cơ sở hạ tầng do Nhà nước đầu tư, còn được tạo điều kiện cho thuê mặt bằng để gắn sản xuất với sơ chế và chế biến nông sản.
- Chính sách hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp:
+ Đầu tư hỗ trợ 50% giá giống (giống rau mới, giống rau tiến bộ kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao) cho những vùng, khu vực có dự án chuyển dịch trong vòng 2 năm kể từ vụ đầu tiên chuyển dịch.
-+ Đầu tư hỗ trợ 100% kinh phí tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, thăm quan mô hình cho các dự án, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Hỗ trợ 100% kinh phí tổ chức điều tra nông hoá thổ nhưỡng cho vùng bãi phường Giang Biên, phường Phúc Lợi và phường Cự Khối.
+ Hỗ trợ cho công tác diệt chuột theo kế hoạch từng đợt.
+Hỗ trợ công tiêm phòng bệnh lở mồm long móng cho đàn gia súc
+ Hỗ trợ đầu tư xây dựng mô hình điểm từ 3- 5 ha chuyển từ sản xuất ngô sang sản xuất rau an toàn tại phường Phúc Lợi.
7. Tập huấn để nông dân tiếp cận kỹ thuật mới
+ Tổ chức tập huấn kỹ thuật về chăn nuôi, trồng trọt cho những hộ dân, doanh nghiệp tiếp cận với những quy trình sản xuất mới, giống mới.
+ Tổ chức điều tra nông hoá thổ nhưỡng những vùng, những khu vực sản xuất nông nghiệp có tính ổn định, lâu dài, từ đó có những định hướng cải tạo đất, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý.
Ngoài ra, Nhà nước cần tạo những nguồn vốn ưu đãi như quỹ Khuyến nông, quỹ Giải quyết việc làm... cho các doanh nghiệp, các hộ vay vốn khi có nhu cầu. Củng cố quan hệ sản xuất đổi mới, củng cố hoạt động kinh doanh của các HTX nông nghiệp, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia liên kết, liên doanh nhằm tạo mọi nguồn lực để phát triển sản xuất nông nghiệp.
8. Cải tạo môi trường sinh thái:
- Bảo vệ môi trường nước:
Một trong những giải pháp quan trọng nhất đối với vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay và cả trong tương lai đó là giải pháp tuyên truyền, vận động ý thức bảo vệ môi trường của người dân, bao gồm: bảo vệ môi trường nước, môi trường không khí và rác thải. Cần có các quy định xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi gây tổn hại đến môi trường. Giải pháp này đã được nhiều nước Châu á và trên thế giới thực hiện rất có hiệu quả. Ngoài ra, việc bảo vệ môi trường nước cần có các giải pháp sau:
+ Đối với các hồ điều hòa: để có thể bảo vệ được các hồ điều hòa khỏi tình trạng xâm lấn trái phép một cách có hiệu quả và lâu dài, cần có sự quan tâm thỏa đáng của quận. Đối với các hồ điều hòa lớn cần đầu tư xây kè và làm các tuyến đường bao quanh để tránh xâm lấn và tạo cảnh quan chung. Đối với các hồ nhỏ, cần kè xung quanh và có biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.
+ Xây dựng hệ thống nước thải trong các khu đô thị, khu công nghiệp của quận tách riêng khỏi hệ thống thoát nước mưa. Nước thải sau khi tập trung xử lý tại các trạm xử lý theo tiêu chuẩn nước thải mới được xả ra sông, hồ. Hệ thống xử lý nước thải trong khu vực được thiết kế tách riêng thành hệ thống nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp.
+ Đối với các phường là khu vực làng cũ trước đây, trước mắt không thiết kế hệ thống thoát nước riêng biệt. Nước thải được xử lý tại các bể tự hoại sau đó thoát vào hệ thống thoát nước mưa. Có thể thiết kế hệ thống xử lý nước thải tập trung cho các công trình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các công trình công cộng, dịch vụ.
+ Đối với nguồn nước ngầm: giải pháp lâu dài để đảm bảo chất lượng nguồn nước ngầm là giảm tối đa lượng nước thải gây ô nhiễm ngấm xuống lòng đất. Muốn vậy phải xây dựng hệ thống cống rãnh thoát nước tốt, xử lý nghiêm những trường hợp đổ chất thải, rác thải ô nhiễm xuống lòng đất, từng bước kiểm soát việc khai thác nguồn nước ngầm.
- Giải pháp xử lý rác thải: cần xã hội hóa việc thu gom vận chuyển và xử lý rác thải. Các đường ngõ phố tại 14 phường cần tổ chức thu gom và vận chuyển rác đến nơi tập kết, các điểm chân rác của quận tổ chức vận chuyển đi. Cần xử lý riêng rác thải của bệnh viện và các trung tâm y tế để triệt tiêu các mầm bệnh nguy hiểm.
- Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí và tiếng ồn: để góp phần hạn chế tình trạng ô nhiễm không khí và tiếng ồn hiện nay, quận cần tập trung vào cac giải pháp sau:
+ Trong định hướng phát triển kinh tế, không xây dựng và phát triển tiếp các khu công nghiệp trên địa bàn; không phát triển mới các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường mà lựa chọn ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch như: truyền thông, phần mềm, công nghệ sinh học... kiến nghị với UBND thành phố di dời các nhà máy gây ô nhiễm môi trường lớn ra khỏi địa bàn như: gạch Thạch Bàn, kho xăng dầu Đức Giang... Đối với các cơ sở ô nhiễm khác cần có định hướng di dời hoặc thay đổi công nghệ không làm ảnh hưởng đến môi trường.
+ Tăng cường kiểm tra, xử lý các phương tiện vận chuyển cát, đất quá tải, không che phủ đúng quy định làm rơi đất, cát và rác ra đường. Trang bị thùng rác tại các tuyến phố văn minh - đô thị, lắp đặt nhà vệ sinh công cộng tại các công viên, vườn hoa và các vị trí công cộng khác.
Tốc độ đô thị hóa nhanh, mạng lưới giao thông đô thị phát triển, sẽ đi kèm với nó là sự gia tăng về các phương tiện giao thông, sự ô nhiễm và khí thải gây ra. Song song với các biện pháp trồng nhiều cây xanh hai bên trục đường để điều hòa không khí và giảm bụi, phải mở rộng và nâng cao chất lượng giao thông công cộng để góp phần làm giảm bớt lượng phương tiện tham gia giao thông trên đường.
5. Kết luận
5.1. Kết luận
Đô thị hoá là quá trình tất yếu của nước ta cũng như các quốc gia khác trên thế giới. Đô thị hoá góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng hướng tăng công nghiệp dịch vụ. Đô thị hóa góp phần cải tạo bộ mặt nông thôn, cải tạo hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng nông thôn. Do đó việc thu hồi đất để phục vụ các mục tiêu trên là việc làm cần thiết, là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, song gắn với nó là hàng triệu người dân mất đất, mất nhà, mất việc làm. Giải quyết các vấn đề này thế nào cho hợp lý vừa đảm bảo được lợi ích quốc gia, vừa đảm bảo được quyền lợi chính đáng của người dân, từ đó giữ vững sự ổn định để phát triển là bài toán vô cùng kho khăn và phức tạp.
Quá trình đô thị hóa trên địa bàn quận Long Biên diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Thể hiện ở việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ và giảm nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp từ năm 2004 đến năm 2007 là 290,7ha chuyển sang đất đô thị và đất ở làm nhiều hộ dân không còn diện tích đất nông nghiệp để canh tác. Đô thị hoá làm thay đổi cơ sở hạ tầng của quận Long Biên theo chiều hướng tích cực.
Quá trình đô thị hoá tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân, thu nhập của các hộ tăng lên, tuy lao động trong các hộ không thất nghiệp hoàn toàn nhưng thời gian nhàn dỗi rất cao là nguyên nhân làm giảm thu nhập của các hộ. Cụ thể là:
- Về thu nhập: Thu nhập bình quân trong tất cả các nhóm hộ đều tăng qua các năm. ở nhóm hộ 1 tăng lên 14.656 nghìn đồng, nhóm 2 tăng lên 14.050 nghìn đồng và nhóm 3 tăng lên 13.465 nghìn đồng
- Về trồng trọt: Trồng trọt có xu hướng giảm ở nhóm hộ bị thu hồi đất. Nhóm hộ 2 từ chỗ có 5.58 ha giảm xuống chỉ còn 1.44ha, nhóm 3 từ chỗ 1.97 ha đến năm 2007 đã không còn diện tích canh tác. Nhóm hộ 1 vẫn giữ nguyên diện tích đất nông nghiệp.
- Về lao động: cơ cấu sản xuất thay đổi kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu lao động. Số lao động tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp giảm từ 130 lao động năm 2004 xuống chỉ còn 94 lao động năm. Thay vào đó là sự tăng lên mạnh mẽ của lao động ngành nghề và lao đông dịch vụ.
Bên cạnh những mặt tích cực thì đô thị hoá cũng làm xuất hiện các vấn đề tiêu cực tuy hạn chế về mức độ song cũng có nguy cơ bùng phát cao. Diện tích đất nông nghiệp dần dần sẽ chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp, làm cho người nông dân bị thiệt thòi, các lao động có tuổi trung bình cao, trình độ thấp không có cơ hội tìm việc làm ổn định. Việc tham gia vào các nghề phi nông nghiệp như xây dựng, bán hàng không đem lại thu nhập ổn định cho người dân. ô nhiễm môi trường và tệ nạn xã hội song hành cùng quá trình đô thị hoá cũng là vấn đề đáng lo ngại trong quá trình đô thị hoá.
5.2 Kiến nghị
1. Đối với nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền: Để việc thu hồi đất, giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người dân có đất bị thu hồi được thực hiện tốt, thực sự có hiệu quả chung tôi xin kiến nghị một số việc sau đây:
- Giao cho các cơ quan có chức năng cùng với các viên nghiên cứu xây dưng sớm chiến lược, qui hoạch kế hoạch sử dụng nguồn lực đất đai và chiến lược đào tạo lao đông cho các vùng qui hoạch trước khi thu hồi đất từ nay cho đến năm 2010, 2020 tương đối rõ ràng và có cơ sở khoa học. Chấm dứt tình trang việc sử dụng tuỳ tiện và thiếu kế hoạch cung như một số địa phương rơi vào tình trang qui hoạch treo.
- Nhà nước có thể xây dựng quỹ đào tạo nghề cho những người có đất bị thu hồi. Có thể trích một phần từ phần cho thuê đất để hình thành quỹ này và nó chỉ dùng vào việc hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất trong việc đào tạo nghề.
- Nhà nước cần ra soát lại toàn bộ các chính sách có liên quan đến việc thu hồi đất, đền bù, tái định cư, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, chính sách nào phù hợp thì thì giữ, còn không phù hợp thì kiên quyết loại bỏ, đưa ra các chính sách mới phù hợp với thực tế hơn. Cụ thể như sau: Một là Sửa lại giá đền bù cho sát với giá thực tế hơn. Hai là Về cơ bản chuyển số lao động bị thu hồi đát sang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Ba là nghiên cứu cách trả tiền đền bù cho dân sao cho hợp lý, để số tiền ấy không bị sử dụng một cách lãng phí, không tao ra cuộc sống ổn định lâu dài cho người dân.
- Nhà nước cần có cơ chế để huy động tất cả các cơ quan, các đoàn thể và các tổ chức xã hội cùng tích cực tham gia vào việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập và ổn định đời sống của người dân có đất bị thu hồi. Làm sao để các cơ quan đoàn thể có liên quan phải coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trong của họ.
2. Đối với Quận Long Biên: cần quan tâm hơn đối với lao động của những hội bị thu hồi đất nói riêng và lao động của địa phương nói chungCó trách nhiệm hướng dẫn người dân hiểu rõ và luật đất đai và đền bù đất nông nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân có được việc làm.
3. Đối với chính quyền địa phương: Trước hết phải can cứ vào chiến lược, quy hoạch và kế hoạch sử dung đất của nhà nước để xây dưng cho mình một quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất hợp lý với tình hình cụ thể của địa phương, bảo đảm cho việc sử dụng đất ở địa phương thực sự có hiệu qủa. Mặt khác cần tích cực tuyên truyền cho người dân hiểu được ý nghĩa thiết thực đối với công đồng và quốc gia khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp. Ngoài ra cũng cần phải giả thích kỹ hơn cho người dân hiểu cách tính giá đất theo hạng đất. Ngoài ra chính quyền địa phương cũng cần phải thoả thuận chặt chẽ hơn đối với các công ty đặt cơ sở trên địa bàn xã, đặc biệt là vấn đề lao động và việc làm cho người dân trong xã.
4. Đối với người dân: trước hết cần phải tự mình tìm ra hướng đi mới, năng động, sáng tạo học hỏi kinh nghiệm của những người đã thành công nhằm phát huy hết khả năng vốn có để vươn lên làm giàu chính đáng. Mạnh dạn đầu tư cho phát triển sản xuất, sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Ngoài ra cũng cần phải thay đổi nếp nghĩ, cách làm tuỳ tiện đồng thời luôn bổ trợ kiến thức học hỏi cái mới phong cách làm việc công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực của các nhà máy khi họ có nhu cầu cần tuyển dụng.
Tài liệu tham khảo
ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá đến môi trường không khí ở Hà Nội. Tạp chí hoạt động khoa học số 3 -2008.
Nguyễn Văn áng, Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (2002), ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, NXB chính trị Quốc gia Hà Nội.
Báo cáo quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá quận Long Biên 2006 – 2008.
Nguyễn Thanh Bình (8/2005), Dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn,
Bộ luật lao động và những văn bản hướng dẫn thi hành (1998), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Quyết Chiến (2008), "Một số biện pháp đào tạo lực lượng công nhân cho các khu công nghiệp ”, Tạp chí phát triển kinh tế số 23.
Trần Văn Chử, Trần Ngọc Hiên (1998), Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Minh Hoài (2003) “Phương pháp tính chỉ tiêu 50triệu đồng/ha/năm và 50 triệu đồng/hộ/năm” Tạp chí tài chính số 10 năm 2003.
TH. Dương (19/06/2006), "Giải quyết việc làm - chuyện không dễ”, Báo kinh tế đô thi.
Nguyễn Đạt, Quy hoạch và kiến trúc Sài Gòn 10 năm đổi mới,
Nguyễn Hữu Đoàn, Nguyễn Đình Hương (2002), Giáo trình kinh tế đô thị, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Giải quyết việc làm và ổn định đời sống dân cư vùng chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp, tạp chí lao động và xã hội số 322/2007.
Lê Đăng Giảng (1998), Vấn đề di truyền lao động từ các vùng nông thôn và thành phố, TT nghiên cứu lao động - Bộ luật lao động TB - XH, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hà Nội: Quy hoạch ngoại thành đáp ứng quá trình đô thị hoá (19/06/2007)
Vũ Kim Ngọc, Bảo vệ môi trường trong quá trinhd đô thị hóa ở Đồng Tháp,
Những thử thách, thiên nhiên đa dạng nhưng đầy thách thức,
Nghị quyết 15/NQ-TW ngày 15/12/2000 của bộ Chính trị (khoá V) về phương hướng nhiệm vụ phát triển đô thị Hà Nội thời kỳ 2001-2010
Niên giám thống kê quận Long Biên 2004 - 2007
Đàm Huy Phường (1995), Đô thị Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà Nội.
Chu Tiến Quang (2001), việc làm ở nông thôn - thực trạng và giải pháp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Quận Long Biên, Đề án phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp - đô thị – sinh thái 2004 -2005, định hướng tới năm 2010
Quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế – xã hội quận Long Biên đến năm 2010.
Nguyễn Duy Quý (1998), Đô thị hóa trong quá trình công nghiệp hóa kinh nghiệm của Nhật Bản và một số nước khác, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đỗ Văn Viễn - Đăng Văn Tiến (2000) Bài giảng kinh tế hộ nông dân, ĐHNN I Hà Nội.
Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam (2000), NXB Thống kê, Hà Nội.
Việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất. (17/4/2008) Nguyễn Tiệp, PGS.TS – Hiệu trưởng trường Đại học lao động xã hội, tạp chí cộng sản số 17/2008.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen huong giang (nop).doc