Những thành tựu và hạn chế trong việc phát huy nguồn lực con người. Để phát huy nguồn lực con người VN hiện nay thì phải làm..

LỜI MỞ ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, khi mà trên thế giới đang hướng tới một nền văn minh nhân loại, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ thay thế dần những máy móc thô sơ trước đây. Nước ta hiện nay cũng không thể nằm ngoài xu hướng đó, chúng ta cũng đang cùng đi chung trên một con đường toàn cầu hoá về mọi mặt, vì thế vấn đề quan trọng nhất hay được toàn thế giới đề cập đến đó là vấn đề nguồn lực con người. Nguôn lực con người đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế bền vững của

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2046 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Những thành tựu và hạn chế trong việc phát huy nguồn lực con người. Để phát huy nguồn lực con người VN hiện nay thì phải làm.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mỗi quốc gia. Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phải phát huy có hiệu quả nguồn lực con người của đất nước. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến nguồn lực con người của đất nước, như chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, tạo mọi điều kiện để họ phát huy tài năng của mình góp phần vào xây dựng đất nước Để tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn nữa về vấn đề phát huy nguồn lực con người em đã chọn đề tài “Những thành tựu và hạn chế trong việc phát huy nguồn kực con người Việt Nam từ những năm qua. Để phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện nay thì cần phải làm gì? Nêu và phân tích.” Với vốn kiến thức và sự hiểu biết của em về vấn đề này còn có nhiều hạn chế, vì vậy đề tài em chọn và nghiên cứu còn chưa thật đầy đủ, em mong thầy cô hết sức giúp đỡ để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG I. Những thành tựu và hạn chế trong phát huy nguồn lực con người Việt nam trong những năm qua. 1. Những thành tựu. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cuộc sống của nhân ta vô cùng khó khăn và gian khổ, người dân phải sống cuộc sống bị áp bức mất đi quyền làm chủ của mình, thì sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 số phận của người dân đã bước sang một trang mới, ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời đã đánh dấu một trang sử vàng chói lọi. Người dân Việt nam đã hoàn toàn làm chủ đất nước. Điều đó được chứng minh bằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai ( 2/1951) họp tại xã VInh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Đây là Đại hội đại biểu của Đảng được tổ chức đầu tiên ở trong nước trong điều kiện mới. Mọi công dân Việt nam không phân biệt giàu, nghèo, trai gái, dân tộc hay tôn giáo hễ là công dân đều có quyền bầu cử, đi lựa chọn cho mình những đại biểu xứng đáng có tài có đức để tham gia công việc Nhà nước. Ai muốn ra giúp đều có quyền ứng cử. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt nam là Nhà nhà nước của dân, do dân và vì dân, tạo cho mọi người đề phát huy tài năng, trí tuệ đóng góp cho đất nước. Về mặt kinh tế, kinh tế - xã hội: Việt nam trong những năm qua ngày càng phát triển , năng suất lao động gày càng tăng, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân, giúp cho việc chăm sóc con người ngày càng tốt hơn. Khi vừa mới giành được độc lập, đất nước ta còn phải đương đầu với hang loạt những khó khăn, thử thách nghiêm trọng. Ngoài việc bọ giặc ngoại xâm còn hoành hành, thì chúng ta còn phải đối phó với nạn giặc đói, giặc dốt cũng không nguy hiểm kém gì giặc ngoại xậm. Nạn đói ở ngoài Bắc do Nhật – Pháp gây ra chưa được khắc phục, ruộng đất bị bỏ hoang, công nghiệp đình đốn. Hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ còn 1.2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Sau ngày tuyên bố độc lập, chính phủ lâm thời đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra việc cấp bách cần làm ngay lúc này là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Điển hình là “diệt giặc đói”, Bác hồ đã phát động phong trào “hũ gạo tiết kiệm” và toàn dân ta hưởng ứng thực hiện, rồi tăng ra sản xuất, dần dần nạn giặc đói được đẩy lùi. Và ngày nay điều kiện ăn ở của người dân đã được cải thiện so với trước. Đảng và Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng như kế hoạch phát triển kinh tế của từng đại phương, từng cơ sở sản xuất kinh doanh. Trong các đơn vị kinh tế đã động viên mọi người dân góp tài năng, trí tuệ cùng nhau đưa ra các sang kiến để cải tiến kỹ thuật, thay đổi quy trình sản xuất nhằm tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Về mặt văn hoá – giáo dục: trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945, người dân Việt nam chỉ có 5% dân số biết chữ, nhiệm vụ “Diệt giặc dốt” đựơc Đảng đề ra và Bác Hồ phát động ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, mọi người dân đều thi đua học chữ, lớp “Nha bình dân học vụ” được thành lập, với khẩu hiệu Người biết chữ dạy người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy người biết ít, đã tạo nên không khí thi đua sôi nổi trong cả nước. Và giặc dốt cũng được đẩy lùi. Từ tỷ lệ số người biết chữ từ 5% trước đây, tới nay đã gần 90% dân số biết chữ. Trình độ dân trí đã có tiến bộ nhiều so với trước. nhiều tỉnh đã thực hiện xoá mù chữ, phổ cập Tiểu học hay Trung học phổ thong cơ sở. Hiện nay ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đào tạo năm sau cao hơn năm trước. Giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa được quan tâm ngày một tốt hơn. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hang đầu, tạo ra điều kiện thuận lợi để “cả nước trở thành một xã hội học tập”. Trong quá trình giảng dạy học tập, cán bộ giáo viên đã tìm mọi cách để thực hiện “phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học; tự hoàn thiện học vấn và tay nghề”. Điển hình là trong những năm gần đây, số kượng học sinh giỏi tăng lên rất nhiều, tham gia vào các cuộc thi học sinh giỏi quốc tế cũng tăng cao và cũng giành nhiều giải lớn đem về cho đất nước. Và sinh viên trong quá trình tu dưỡng và học tập cũng tự hoàn thiện bản than bằng cách thực hành bằng những sang kiến kinh doanh, bằng những ý tưởng sang tạo trong những ngành kinh tế cũng như khoa học: các cuộc tổ chức thi Robocon trong nước cũng như quốc tế, sinh viên các trường đều tham gia và hang năm trong các cuộc thi Robocon quốc tế năm nào Việt nam cũng giành được giải cao. Trong lao động sản xuất kinh doanh, cán bộ công nhân viên các doanh nghiệp ngoài việc thi đua sản xuất để nâng cao năng suất, thì việc bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cũng đựơc chú trọng,. Công ty May 10 hàng năm vẫn thường xuyên mở cuộc thi tay nghề loại giỏi cho công nhân. Điều đó càng khích lệ công nhân hăng hái sản xuất hơn nữa. Trong mấy chục năm qua, chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo, hơn mười nghìn người có trình độ trên đại học, hơn một triệu người có trình độ đại học đang công tác trong các lĩnh vực đời sống xã hội; họ đã có những đóng góp to lớn trong kháng chiến giải phóng dân tộc; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày nay cũng đang tích cực đóng góp cho sự nghiệp công nghiệ hoá, hiện đại hoá đất nước. Cơ sở y tế chăm sóc sức khoẻ cho người dân: Việc chăm sóc sức khoẻ cho người dân đã được quan tâm. Những cơ sở khám chữa bệnh được xây dựng xuống tận các xã, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên rất nhiều so với trước đây. Thể lực của người Việt Nam đã được cải thiện hơn trước. Trang thiết bị y tế trong các bệnh viện cũng được nâng cấp hiện đại hơn. Ngày nay, do trình độ học vấn của người dân Việt nam được nâng lên, quan hệ xã hội, giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng, cho nên, tính tích cực xã hội, tính tự chủ, sự năng động sang tạo của con người Việt nam đã được nâng lên so với trước đây. Nhìn chung trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo tới việc bồi dưỡng nguồn nhân lực của đấ nước, cả sức khoẻ, tri thức, năng lực, phẩm chất - đạo đức; tạo điều kiện cho mỗi người phát huy được khả năng của mình đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Chủ nghĩa xã hội. 2. Những mặt hạn chế. Ngoài những thành tựu mà chúng ta đã đạt được, thì cũng vẫn còn tồn tại không ít những mặt hạn chế. Do có những lúc tuyệt đối hoá tính xã hội của con người nên dẫn tới việc coi nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm đúng mức tới nhu cầu vật chất, chưa thực sự chú ý tới lợi ích cá nhân người lao động; có lúc, có nơi đã đồng nhất lợi ích cá nhân với chủ nghĩa cá nhân, nên không phát huy mạnh mẽ được tính tích cực xã hội của người lao động; vai trò của cá nhân bị lu mờ; tài năng của cá nhân không được khuyến khích. Ta phải hiểu rằng muốn có được lợi ích tập thể, thì việc đầu tiên phải quan tâm đến lợi ích cá nhân, vì cá nhân có lợi ích thì lúc đó sẽ có một tập thể có lợi. Đó là một điều tất để không xảy ra tình trạng “Cha chung không ai khóc”- việc ai người nấy làm. Phải công nhận cái “tôi” của cá nhân – cái “tôi” phải được thể hiện trong cái “chung” của tập thể. “Dân giàu, nước mạnh” và ngược lại, nước mạnh thì người dân đất nước đó sẽ được tự do phát triển kinh tế cho riêng mình và cũng không quên đi nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước. Có thời kỳ chúng ta đã chưa thực sự hiểu đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lê nin, đi đến đề cao quá tính giai cấp, coi nhẹ tính nhân loại. Bởi vì, theo triết học Mác xem bản chất con người xuất phát từ hoạt động vật chất của con người tức hoạt động của con người thực tiễn. Vì vậy con người là một động vật có tính xã hội với tất cả nội dung van hoá - lịch sử của nó. Triết học Mác không tuyệt đối hoá mặt xã hội trong con người mà cho rằng con người là thực thể thong nhất của mặt sinh vật và mặt xã hội. Khi hiểu chưa đúng về chủ nghĩa Mác – Lênin, nên chúng ta đã không chú ý kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc; chưa làm đúng quy luật mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra: Chủ nghĩa xã hội là sự tiếp nối quá trình phát triển của nhân loại, chúng ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua thời kỳ Tư bán chủ nghĩa không có nghĩa là chúng ta cũng phải bỏ qua những thành tựu mà con người đã đạt được, mà phải biết tiếp thu một cách có chọn lọc những di sản của quá khứ và nâng nó lên một tầm cao mới: Con người trong xã hội thuộc một giai cấp, một dân tộc nhất định, là cá nhân của một cộng đồng người, do vậy, trong nó mang dấu ấn của thời đại, những nét đặc trưng của dân tộc và mang bản chất một giai cấp nhất định. Con người muốn phát triển được thì phải biết kết hợp một cách hài hoà tất cả những phẩm chất, không được quá nhấn mạnh yếu tố này mà đi đến phủ nhận các yếu tố khác. Giai đoạn hiện đại ngày nay nó có tính hai mặt, nếu khong có những biện pháp và những cơ chế chặt chẽ thì sẽ dẫn đến hậu quả khó có thể sửa chữa được. Trong thời đại ngày nay, có nhiều giai đoạn ít chú ý đến giáo dục gia phong, gia lễ cho con cái. Điều đó chính là nguyên nhân tạo ra những khiếm khuyết về nhân cách trong một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay. Họ sẵn sang ăn chơi hưởng lạc, tham gia vào nhiều trò tiêu khiển vô ích, sống một cách buông thả, coi nhẹ bản thân mình, không trau dồi kiến thức về xã hội, thiếu quyết tâm phấn đấu vươn lên lập than lập nghiệp. và không ít những con người đó đã đi vào con đường ăn chơi hưởng lạc dẫn đến con đường rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, nhiều thanh niên đã mất đi lý trí, buông thả để rồi trở thành tội phạm thực sự nguy hiểm cho xã hội, trộm cắp, cướp của giết người. Gia đình tan nát, bố mẹ mất con, vợ mất chồng, xã hội mất đi nguồn nhân lực. Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, mỗi cá nhân là một viên gạch, một bức tường mà được xây dựng kiên cố đến đâu nếu như chân móng của nó thiếu đi một viên gạch thì liều bức tường đó sẽ đứng vững chăng. Rồi tình trạng quan liêu trong bộ máy Nhà nước, một bộ phận cán bộ tham nhũng, cửa quyền, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân; làm biến dạng nhân cách con người, làm cho con người bị phân than; không ít kẻ cơ hội, hữu khuynh, chui vào tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước gây ra những tác động xấu đang làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. “Tình trạng tham nhũng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng” và điều này đang tác động không nhỏ đến niềm tin và sự tu dưỡng rèn luyện, phấn đấu đạo đức của thế hệ trẻ hôm nay. Còn trong môi trường giáo dục và đào tạo, phương pháp giáo dục còn chưa kích thích được sáng tạo của người học, chưa thực sự gắn kết lý luận với thực tiễn cuộc sống, cho nên không ít sinh viên sau khi ra trường khó xin việc làm. Tình trạng học giả bằng thật, rồi mua bán bằng cấp diễn ra khá phổ biến, khiến cho môi trường giáo dục mất đi tính nghiêm trang và lành mạnh. Ở các địa phương, những nơi vùng sâu, vùng xa nhiều sinh viên khi ra trường không muốn trở về địa phương của mình mà tìm cách ở lại thành phố để kiếm sống, dù có phải làm trái ngành nghề mình đã học, gây lãng phí cho xã hội và gia đình. Cơ cấu đào tạo giữa các ngành còn tình trạng vừa dư thừa, vừa thiếu cán bộ như hiện nay. Nhìn chung việc đào tạo và sử dụng cán bộ ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Tình trạng thiếu việc làm trong một bộ phận thanh niên đang tạo sức ép lớn cho xã hội. Có những lúc chúng ta suy nghĩ một cách đơn giản “thời đại nào, con người đó”, chú trọng tới mức nêu những đặc trưng của con người mới xã hội chủ nghĩa tách rời những quy trình lịch sử cụ thể của xã hội, chưa chú ý tới việc nghiên cứu kế thừa những yếu tố hợp lý của quá khứ, những giá trị truyền thống của dân tộc. Nguyên nhân gây ra những hạn chế nói trên là do: Chúng ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại di qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, với khẩu hiệu: tất cả cho tiền tuyến “ Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” nên sau khi ra khỏi cuộc chiến tranh thì gần như người dân ta phải xây dựng lại đất nước từ đầu. Những ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen sản xuất nhỏ lẻ dẫn tới thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, cách nhìn thiển cận, tâm lý tự ti, tính vị kỷ, cục bộ địa phương, kể cả tác phong gia trưởng trong giáo dục và đánh giá mỗi con người,… Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, một mặt cũng tạo ra những tác động tích cực, nhưng mặt khác đang tạo ra những tác tiêu cực như: lối sống thực dụng, chỉ vì chức, vì quyền, vì tiền mà không ít người có thể bất chấp luân thường đạo lý. Điều đó gây ra những tác động xấu trong xã hội. Sự đầu tư cho giáo dục đào tạo còn hạn chế, tình trạng tiêu cực trong giáo dục còn đang phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế. Trực tiếp gây ảnh hưởng đến việc phát huy nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay. Những yếu kém trong quản lý Nhà nước, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, tính gia trưởng, sự bảo thủ trong một số cán bộ có chức có quyền, tâm lý đố kỵ, ghen ghét với những người có năng lực của một số người đang hạn chế phát huy nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. II. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn nhân lực con người ở Việt nam hiện nay. 1. Những phương hướng. Để phát huy nguồn nhân lực con người Việt Nam thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần thực hiện một số phương hướng sau: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nội dung chuyển đổi cơ cấu lao động thủ công, nhỏ lẻ sang lao động cơ khí máy móc, làm việc theo dây chuyền, tạo ra những điều kiện để nâng cao mức sống nhân dân, tạo điều kiện cho xã hội và gia đình quan tâm tới giáo dục nhiều hơn. Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đặt ra những yêu cầu, những thách thức buộc người lao động phải phấn đấu vươn lên, nếu họ không muốn bị thải loại khỏi dây chuyền sản xuất. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn nhân lực con người, đồng thời đến lượt nó phát huy nguồn lực con người lại là yếu tố quyết định thắng lợi sự nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù hợp, chính sách xã hội là những chính sách trực tiếp đảm bảo những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người biểu hiện rõ nhất bản chất của một chế độ xã hội, đó là chính sách điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; và là một trong những động lực trực tiếp để con người hoạt động trên lĩnh cực xã hội. Phát triển kinh tế nâng cao năng suất lao động là tiền đề, là điều kiện cho việc thực hiện chính sách xã hội. thực hiện tốt chính sách xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, chăm lo tới người lao động, tạo điều kiện cho người lao động học tập phấn đấu vươn lên, cống hiến sức mình cho xã hội. Chính sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội phải hướng tới con người và vì con người. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, cơ chế quản lý của một xã hội là toàn bộ những thiết chế, những quy định về mối quan hệ trách nhiệm, quyền hạn giữa cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nhằm thực hiện mục đích quản lý xã hội theo một định hướng nhất định của giai cấp cầm quyền. Do vậy, xã hội phải tạo ra những điều kiện cho người lao động tham gia tích cực vào công tác quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, thong qua đó mà họ tích cực đóng góp tài năng, trí tuệ cho xã hội. Những phương hướng trên đây nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực nước ta ngày càng có tri thức, có trình độ tay nghề, có sức khoẻ, có năng lực quản lý, có ý thức, năng lực làm chủ đất nước; đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tiến tới chủ nghĩa xã hội. 2. Một số giải pháp Để phát huy nguồn lực con người cần có những giải pháp sau: Trong lĩnh vực kinh tế: Nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sản xuất, thực hiện giao khoán ruộng đất, giao rừng cho từng hộ dân, tao điều kiện cho mọi người dân làm chủ cụ thể những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế. Phát huy sang kiến của người lao động, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của họ, thực hiện phân phối công bằng, công khai, dân chủ. Phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần làm cho mọi người thấy được trách nhiệm của mình phải lao động nghiêm túc, có chất lượng, có hiệu quả, tạo ra hàng hoá tốt, nâng cao chất lượng dịch vụ. Phê phán mạnh mẽ thói lười biếng, làm bừa, làm ẩu; ngăn chặn làm ăn phi pháp, phi đạo lý. Trong lĩnh vực chính trị:Nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhận thức chính trị (chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta), từ đó nâng cao trách nhiệm và năng lực của họ tích cực tham gia vào công việc của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị của nước ta. Thực hiện dân chủ hoá đời sống, huy động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia chống tham nhũng. Kiên quyết đấu tranh với hiện tượng tiêu cực, tình trạng vi phạm kỷ cương, phép nước và những âm mưu chống phá kẻ thù, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng. Trên lĩnh vực xã hội: Từng bước loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, những thói hư tật xấu, những quan hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ giữa người với người trên tinh thần tương trợ ,giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh daonh, trong đời sống xã hội. làm giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ. Thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo; tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm. Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo: cần phải tuyên truyền làm cho mọi người dân thấy được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp chung của đất nước mà quan tâm đến lĩnh vực này. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp của gia đình, nhà trường, xã hội trong đào tạo thế hệ trẻ. phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp dạy phải kích thích được sự sang tạo, sự hăng say tìm tòi nghiên cứu của người học. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật: Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta kgẳng định, văn hoá là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong thời kỳ cách mạng, văn hoá nghệ thuật nước ta đã động viên được nhân dân tích cực tham gia trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chiến đấu giải phóng miền Nam. Trong những năm gần đây văn hoá nghệ thuật nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Song , bên cạnh đó văn hoạc nghệ thuật vẫn còn một bộ phận đi chệch hướng, chạy theo thị hiếu thấp hèn, dễ dãi của một bộ phận thanh thiếu niên thiếu giáo dục. Dư luận xã hội phải lên tiếng ủng hộ những tác phẩm có hình thức, nội dung hay, phê phán những tác phẩm có ình thức và nội dung dở. Cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý của Nhà nước trong hoạt động sáng tác, biểu diễn, sao cho văn học nghệ thuật phải cổ vũ cái hay, cái đẹp, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao những giá trị nhân văn, phát huy những giá trị tốt đẹp trong con người Việt nam. KẾT LUẬN Nguồn lực con người luôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học – công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy. Các nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng phong phú và đa dạng. Chủ nghĩa xa hội có xây dựng thành công hay không, tuỳ thuộc vào việc chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, việc phát huy nguồn lực con người hết sức được quan tâm, do đó Nhà nước và Đảng ta không ngừng nêu cao tầm quan trọng về việc đào tạo con người trong xã hội mới để đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Tuy nhiên, trong những năm qua ở Việt nam, vấn đề phát huy nguồn lực ngoài việc đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế. Và để khắc phục những hạn chế đó, Đảng và Nhà nước đã đưa ra được một số những phương hướng và giải pháp để khắc phục nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học – NXB chính trị quốc gia. Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt nam - NXB chính trị quốc gia. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lê nin - NXB chính trị quốc gia. MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35834.doc
Tài liệu liên quan