Những thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA

Lời nói đầu Mỗi một quốc gia không thể tự mình phát triển mà không cần đến những mối liên hệ với bên ngoài. Vì vậy hội nhập khu vực và thế giới là một tất yếu với Việt Nam và bất kỳ quốc gia nào. Một quốc gia sẽ giảm được nhiều rủi ro khi hội nhập nếu quốc gia đó nhận thức đúng đắn về khả năng và vị thế của mình trong tương quan so sánh với các quốc gia khác. Là một quốc gia đang phát triển với một nến kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi từ kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường có sự điều

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiết của Nhà nước, Việt Nam có rất nhiều lợi thế khi đang có những điều kiện thuận lợi mà nhiều quốc gia đang phát triển khác không có, hơn nữa, nhận thức rõ được xu thế phát triển của thời đại. Có thể nói khu vực ASEAN là một khu vực rất năng động- theo như đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu- với một tốc độ phát triển đáng kinh ngạc khoảng từ 5-6% mỗi năm. Nguồn đầu tư từ bên ngoài vào cũng rất lớn, trong thời gian qua, các nước này đã thu hút được 60% tổng luồng vốn ngắn hạn vào các nước đang phát triển. Việt Nam có lợi ích rất lớn khi cùng nằm trong khu vực này. Việc tham gia các khối liên minh khu vực và thế giới là xu hướng chung của thời đại. Trong những mối liên kết đó, mỗi quốc gia đều có những cơ hội đạt được những lợi ích to lớn và họ chỉ tham gia khi họ thấy được những cơ hội đó. Tuy vậy, bất kỳ một sự lựa chọn nào cũng có hai mặt của nó. Đi đôi với cơ hội luôn là những thách thức đặt ra và phải đương đầu với nó. Một cơ thể vững mạnh sẽ chống chịu được những tác động mạnh mẽ, và ngược lại, nếu yếu sẽ thất bại nặng nề. Việc Việt Nam tham gia ASEAN là bước đầu tiên trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Sự hội nhập từng bước vào nền kinh tế khu vực sẽ tạo cho Việt Nam sự thích ứng dần trong tiến trình làm quen với những thay đổi. Khu mậu dịch tự do ASEAN-AFTA là một bước hội nhập mới đối với Việt Nam. Với Việt Nam, một nền kinh tế còn đang phát triển và còn nhiều yếu kém thì thách thức đặt ra là nhiều và to lớn. Tận dụng cơ hội là điều tất nhiên phải làm vì đó chính là mục đích ta hướng tới, nhưng làm sao để hạn chế những rủi ro, đánh đổi ở mức tối thiểu là điều cần thiết phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng. khoá luận "Những thách thức của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA" sẽ cố gắng giải quyết phần nào vấn đề này. Khoá luận của được chia làm 3 chương: Chương 1: Hiệp định AFTA và những cam kết của Việt Nam. Chương 2: những thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA. Chương3: Giải pháp đối mặt với thách thức và triển vọng hợp tác của Việt Nam trong thời gian tới. Chương 1 Hiệp định AFTA và những cam kết của Việt Nam 1.1 Khu mậu dịch tự do ASEAN- AFTA: 1.1.1 Sự ra đời của AFTA: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) được thành lập năm 1967, ban đầu gồm 5 nước thành viên là Indônêxia, philipin, Malaixia, Singapo và Thai Lan. Từ năm 1984, Brunây gia nhập ASEAN, đưa số thành viên lên 6. Việt Nam bắt đầu là quan sát viên trong ASEAN từ năm 1992. Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành viên thứ bảy của tổ chức này. Các năm sau đó là các nước Myanma, lào, Campuchia. Ngay từ khi mới thành lập, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á - ASEAN- đã đề ra mục tiêu chủ yếu là thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội duy trì nền hoà bình và ổn định trong khu vực. Trong lĩnh vực kinh tế, ASEAN chủ trương đẩy mạnh hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, năng lượng, giao thông vận tải, thông tin viễn thông….Tuy nhiên ở giai đoạn đầu lĩnh vực hợp tác chủ yếu của ASEAN lại là chính trị và an ninh. Hợp tác kinh tế ASEAN chỉ thực sự bắt đầu sau hội nghị thượng đỉnh đầu tiên của ASEAN được tổ chức tại Bali (Indônêxia) vào tháng 2/ 1976. Năm 1977, các nước thành viên đã ký kết hiệp định ưu đãi thuế quan PTA tại Manila (Philipin). Những ưu đãi ban đầu dựa trên cơ sở tự nguyện và được thực hiện lần lượt đối với từng sản phẩm, đây có thể nói là bước đi đầu tiên ( ở trình độ sơ khai) để ASEAN tiến tới việc tự do hoá thương mại. Tiếp theo, để thúc đẩy hơn nữa quan hệ thượng mại trong nội bộ kku vực, các nước ASEAN đã có những chính sách thay đổi nhằm mở rộng các mặt hàng trao đổi theo hiệp định. Sau năm 1980, bên cạnh việc thực hiện ưu đãi thuế quan đối với từng sản phẩm ở cấp đa phương, một số nước thành viên ASEAN tiến hành đàm phán song phương tiến hành ưu đãi lẫn nhau. Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 (12-1987), các nhà lãnh đạo ASEAN chủ trương tăng cường những nỗ lực để đẩy mạnh hợp tác kinh tế. Theo hướng này, ASEAN đã đưa ra giải pháp trọn gói mới nhằm cải thiện PTA trong giai đoạn 5 năm từ 1988 đến 1992. Các nước thành viên đã ký nghị định thư về việc mở rộng các ưu đãi thuế quan như: đưa dần các sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời vào PTA giảm yêu cầu về nội dung nguồn gốc từ 50% xuống 35%… Tuy thế, truy nguyên đến cùng thì sự ra đời của AFTA là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các nhân tố bên trong và bên ngoài dưới đây: Về nhân tố bên trong, có thể thấy rằng công nghiệp goá trong 2 thập kỷ qua đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán lẫn nhau giữa các nền kinh tế ASEAN. Người ta tính ra rằng vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội bộ ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm các nước này đã đạt tới khoảng 20% và điều đó chứng tỏ khuynh hướng kiên kết thương mại khu vực đã ngày càng trởi nên mạnh mẽ. Các nền kinh tế ASEAN đã mang đặc tính huêóng ngoại dựa vào xuất khẩu và hơn bao giờ hết chúng có nhu cầu bức thiết trong việc tìm kiếm và liên kết thị trường, trước hết là các thị trường láng giềng kề cận. Điều này càng được thúc đẩy nhanh hơn nhờ ở sự tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế khu vực đối với các biện pháp tự do hoá thương mại và theo đó, các nước này dễ dàng đi đến chỗ mặc nhiên thừa nhận AFTA. Các chính phủ của từng nước ASEAN cũng đã thấy rõ trở ngại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lược phát triển, đã đi đến nhất trí cởi bỏ bằng việc đeo đuổi các chiến lược tự do hoá theo hướng xuất khẩu. Do đó, về thực chất, chính sự chuyển đổi trong chiến lược phát triển và tình hình kinh tế của các nước ASEAN đã khiến cho đề xuất về một khu vực mậu dịch tự do ASEAN mang tính khả thi. Về các nhân tố bên ngoài, có thể thấy : với sự kết thúc chiến tranh lạnh và sự chuyển đổi sang nên kinh tế thị trường của hàng loạt các quốc gia, khu vực như Trung Quốc, Việt Nam và các nước Đông Âu… các quốc gia ASEAN ngày càng có nhiều địch thủ cạnh tranh nới về thu hút đầu tư nước ngoài và thương mại. Hơn nữa, trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, các nền kinh tế ASEAN còn phải đứng trước những thách thức mới do sự xuất hiện của những tổ chức hợp tác kinh tế khu vực hơn hẳn về quy mô, tiềm năng và trình độ phát triển như EU, NAFTA. Nói cách khác, trước sức ép của chủ nghĩa khu vực mở của với sự xuất hiện của EU, NAPTA và những biến đổi của nền kinh tế thế giới theo hướng này càng có nhiều dấu hiệu có nguy cơ làm mất đi các lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế ASEAN, vị thế và triển vọng tăng trưởng của các nền kinh tế này sẽ không được củng cố và thúc đẩy nếu như toàn hiệp hội không tạo dựng được sự nỗ lực chung. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự cần thiết thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. ở đây sự hiện hữu của tiến trình AFTA sẽ được giải thích trên hai góc độ: thứ nhất, việc liên kết thị trường khu vực như một trung tâm sản xuất và thương mại quốc tế là điều kiện căn bản để cải thiện thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - một nhân tố được coi là động lực tăng trưởng và tạo ra sự năng động của châu á trong những năm gần đây, và thứ hai, nhu cầu cải thiện thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và hội nhập vào nền kinh tế thế giới sẽ bắt buộc ASEAN không thể trở thành các nhà bảo hộ mậu dịch và hơn nữa, ASEAN cần phải mở cửa mạnh mẽ thị trường của mình với tất cả thành phần còn lại của thế giới chứ không chỉ bó hẹp ở việc xoá bỏ các hàng rào thương mại trong nội bộ ASEAN. Như vậy, tổng thể các nhân tố bên trong và bên ngoài tác động, AFTA ra đời như một khái niệm hướng ngoại. Nó trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do thương mại rộng lớn hơn ở khu vực châu á - Thái Bình Dương và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA cho ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng mới cho sự phát triển của ASEAN trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng ASEAN sẽ thành công trong việc tạo lập AFTA. Một là, tự giữa những năm 80, các thành viên của ASEAN đã lần lượt thực hiện phi tập trung hoá và tự do hoá nền kinh tế của mình, đã cải thiện đáng kẻ môi trường đầu tư và thương mại và trên cơ sở này. AFTA sẽ đặt từng quốc gia thành viên ASEAN trước những nhu cầu bức thiết phải tiến hành cải cách nền kinh tế quốc gia nhằm đáp ứng các tiêu chí hoà đồng khu vực. AFTA sẽ góp phần đán kể vào việc cải thiện hiệu quả sản xuất cho mỗi quốc gia thành viên với chi phí ít hơn. Hay nói đúng hơn, AFTA sẽ hỗ trợ cho các nền kinh tế này trở thành các nền kinh tế có hiệu suất thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa điều chỉnh cơ cấu kinh tế khu vực với cơ cấu kinh tế nội địa của từng nước. Hai là, tạo ra AFTA, về thực chất, ASEAN sẽ thực hiện một cam kết chính trị đầy đủ, nghĩa là chính phủ ASEAN không chỉ thể hiện những nỗ lực của mình ở trong nước mà thông qua AFTA, họ còn muốn điều hoà, giả quyết các khó khăn riêng của từng quốc gia thành viên. Ba là, các nước ASEAN có những bài học kinh nghiệm trong thực hiện Hiệp định thương mại ưu đãi ASEAN ( PTA- Priority Trade Agreement) không mấy thành công từ cuối những năm 70. Do đó, có thể nói rằng AFTA, là thành tựu và là nấc thang mới trong chiếc lược hợp tác ASEAN hiện nay. AFTA giúp các nhà xuất khẩu giảm chi phí đầu vào khi các thi trường ASEAN mở cửa, mặt khác các nhà sản xuất hàng hoá sẽ được kích thích bởi tiến trình tự do hoá nhập khẩu nhờ AFTA và đồng thời nhờ đó họ có thể được lợi do nhận được chi phí về các sản phẩm trung gian cấu thành đầu vào giảm. Cũng tương tự như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng lên do bởi các nhà đầu tư nước ngoài muốn được hưởng thụ các ưu dãi của AFTA. 1.1.2 Mục tiêu của AFTA. Có thể nói việc các thành viên ASEAN đạt được thoả thuận thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN- AFTA là một buớc tiến quan trọng trong tiến trình hình thành nên một khu vực Đông Nam á thống nhất. Tuy có đạt được những kết quả bước đầu như vậy nhưng cần phải đặt ra các mục tiêu cụ thể để các bước đi được rõ ràng, mạch lạc và hiệu quả hơn. Về cơ bản các mục tiêu đó như sau: Thứ nhất, tự do hoá trong nội bộ ASEAN, tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng cách loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đây là mục tiêu đầu tiên song không phải là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA vì quy mô thị trường ASEAN tương đối nhỏ so với các thị trường khu vực khác như EU, NAFTA. Trong khi (theo số liệu năm 1990) NAFTA chiếm 27,8% sản lượng thế giới, 18,2% sản lượng thương mại thế giới, trong đó nội bộ khu vực chiếm 40% và EU lần lượt có các chỉ số tương ứng là 26,8%, 42,1%và 60% thì ASEAN chỉ có 1,5% sản lượng thế giới, 4,5% thương mại thế giới và buôn bán khu vực là 20%. Mặc dù vậy, ASEAN mong muốn trở thành một khu vực mậu dịch tự do trong xu thế thương mại toàn cầu. Hơn nữa, do đặc tính hướng ngoại của các nền kinh tế ASEAN với tỷ lệ ngoại thương trong GDP chiếm tới 96,4% trong khi các khu vực khác như: NAFTA chỉ chiếm 19,1% và EU là 46%, các nền kinh tế này sẽ hết sức thuận lợi trong việc tiến tới tự do hoá. Điều này không thể giúp các quốc gia thành viên ASEAN đạt được những thoả thuận thương mại lớn cho thị trường khu vực như EU, NAFTA. Song chí ít nó cũng hỗ trợ các quốc gia này đẩy mạnh tăng trưởng, thay đổi cơ cấu, bổ sung lẫn nhau theo hướng trở thành một thế lực cạnh tranh có ưu thế so với các thị trường khu vực khác. Thứ hai, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo dựng một khối thị trường thống nhất. Đây là mục tiêu trung tâm của AFTA. AFTA sẽ tạo ra một nền tảng sản xuất thống nhất trong ASEAN, điều đó cho phép hợp lý hoá sản xuất, chuyên môn hoá trong nội bộ khu vực và khai thác thế mạnh của các nền kinh tế thành viên khác nhau. Có 3 lý do: một là, sự phân công quốc tế được đẩy mạnh trong nội bộ ASEAN, nghĩa là đầu tư vào bất cứ quốc gia nào trong ASEAN đều được hưởng thụ mọi quyền ưu đãi của AFTA trên thị trường toàn khu vực; hai là, đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN sẽ tăng vì kết quả chuyển hoàn mậu dịch giữa các quốc gia này tăng theo AFTA và do đó, sẽ kích thích các công ty Nhật, Mỹ, EU và NICs đầu tư nhiều hơn để giữ thị trường này thay vì trước đây họ thường cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN ; ba là, đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) vào ASEAN tăng nhờ sự lớn mạnh của thị trường nội địa khu vực và nhờ sự lớn mạnh của chính thị trường nội địa khu vực và nhờ sự tăng lên của sức mua của thị trường khu vực ASEAN và theo đó, sẽ ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhằm cung cấp sản phẩm cho các thị trường này. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và thông qua AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với các khu vực khác. Vấn đề đáng lưu ý là ASEAN cần phải đón bắt được các dòng đầu tư quốc tế đang trong xu hướng chuyển mạnh từ các khu vực Âu, Mỹ trở lại châu á. Dĩ nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN không phải là một hiện tượng mới, song những tác động của tiến trình ASEAN sẽ nâng cao và thúc đẩy chúng khởi sắc. Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở liên kết thị trường bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể kỳ vọng tới khả năng đẩy mạnh thế thương lượng cạnh tranh về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ ba, làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hoá thương mại thế giới. AFTA sẽ đưa ASEAN đi đến chủ nghĩa khu vực mở và là sự phản ứng đáp lại với các mô hình bảo hộ mậu dịch ở cả trong và ngoài khu vực. Theo xu thế tự do nền sản xuất toàn cầu, AFTA là nấc thang đầu tiên trong xu thế tiến tới thực hiện sự hợp tác toàn diện. Trước những biến động của bối cảnh quốc tế, AFTA buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện và không chỉ dừng lại ở một khu vực mậu dịch hay liên minh quan thuế mà trong tương lai nó sẽ tiếp tục được phát triển thành một liên minh tiền tệ, một liên minh kinh tế. Nhờ năng lực buôn bán trong và ngoài khu vực, AFTA sẽ trợ giúp cho các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng với chế độ thương mại đa biên đang tăng lên ngày càng nhanh chóng. Có thể thấy mục tiêu đầu không phải là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Với quy mô tương đối nhỏ của thị trường ASEAN, với thực tế hầu hết các nguồn cung cấp sản phẩm chế tạo nằm ngoài ASEAN, kim ngạch thương mại chịu ảnh hưởng của AFTA sẽ không lớn. Về mặt này, AFTA sẽ không thể so được với các thoả thuận thương mại khu vực như EU hay NAFTA trong việc tạo ra một thị trường nội địa rộng lớn vao gồm các cường quốc dẫn đầu về công nghiệp. Mặc dù các nước ASEAN đang có tình hình phát triển kinh tế rất đáng khích lệ, nhưng các nước này, trừ Singapo, vẫn là các nước đang phát triển, do vậy vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư, công nghệ, bí quyết quản lý của nước ngoài. Mục tiêu trung tâm của AFTA là thu hút đầu tư nước ngoài. Tính cấp thiết của mục tiêu này được giải thích bởi sự cạnh tranh tiếp tục tăng lên trong vấn đề thu hút đầu tư của các nước đang trong quá trình chuyển đổi như đã phân tích ở trên. AFTA sẽ tạo ra một cơ sở sản xuất thống nhất cho ASEAN, từ đó sẽ cho phép việc hợp lý hoá sản xuất, chuyên môn hoá trong nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế khác nhau. Mục tiêu thứ ba có liên quan đến môi trường thương mại không ổn định và tương đối không thuận lợi mà các nước ASEAN phải đương đầu ở kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh. Vào thời điểm AFTA ra đời, các nước phát triển lớn trên thế giới thiên về việc phát triển các thoả thuận thương mại khu vực (RTA), qua đó thể hiện việc bảo hộ thị trường của mình đối với hàng xuất khẩu của các nước Đông á. Chính vì vậy, AFTA là sự đáp lại khuynh hướng về việc chủ nghĩa khu vực đang ngày một tăng lên trên thế giới. Tuy nhiên, AFTA mới chỉ dừng lại ở nấc thang đầu trong hợp tác kinh tế khu vực. với sức ép của hợp tác kinh tế khu vực và các tổ chức thương mại quốc tế khác như APEC, WTO liệu AFTA có bị lu mờ hay không? Đứng trước tình hình như vậy AFTA buộc phải đẩy nhanh tốc độ thực hiện và có thể không chỉ dừng lại ở một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do, mà trong tương lai có thể sẽ tiếp tục tiến đến tầm cao mới như thị trường chung, liên minh kinh tế. 1.1.3 Nội dung chính của AFTA. Theo thoả thuận tại Singapo, AFTA sẽ được thực hiện trong vòng 15 năm (từ 1/1/1993 đến 1/1/2008) và Chương trình về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) do Indônêsia đưa ra sẽ được dùng làm công cụ chính để thực hiện AFTA. Đáng chú ý CEPT chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng nhất định trong buôn bán nội bộ ASEAN, chú không phải áp dụng cho buôn bán của ASEAN với các nước nằm ngoài tổ chức này. Theo kế hoạch của CEPT mức thuế quan sẽ được giảm một cách có hệ thống từ 0 đến 5% đối với tất cả các mặt hàng chế tạo và phải do các nước thành viên đưa ra. Sau đây là những nội dung chính: Trong thời kỳ đầu chỉ có các mặt hàng chế tạo mới được đưa vào CEPT với thuế quan giảm dần trong 15 năm. Khi kế hoạch được tiến hành sẽ có thêm nhiều danh mục hàng hoá nữa như tư liệu sản xuất và các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến được sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến được đưa vào CEPT. Các sản phẩm nông nghiệp sơ chế dự kiến sẽ tiếp tục thực hiện theo thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA) như hiện nay trong khi dịch vụ bị loại ra khỏi chương trình này. Các quốc gia thành viên đã xác định 15 nhóm sản phẩm để giảm thuế quan theo kế hoạch CEPT, đó là: dầu thực vật, xi măng, hoá chất, dược phẩm, phân bón, chất dẻo, sản phẩm cao su, sản phẩm da, bột giấy, hàng dệt, đổ gốm và thuỷ tinh, đồng thỏi, hàng điện tử, đổ gỗ và song mây, đá quý và đồ trang sức. Đối với các sản phẩm này, các hạn chế về số lượng và các hàng rào phi quan thuế khác sẽ bị loại bỏ hoàn toàn trong vòng 15 năm (đến năm 2008). Chương trình CEPT chỉ áp dụng đối với các sản phẩm được chế tạo tại các nước ASEAN. Các nước ASEAN cũng xác định rằng một sản phẩm chỉ được coi là có nguồn gốc ASEAN nếu như có ít nhất 40% hàm lượng nguyên liệu để sản xuất ra sản phẩm đó có nguồn gốc từ bất cứ quốc gia thành viên nào. Do mức thuế quan hiện áp dụng tại các nước ASEAN quy định rất khác nhau: những nước có mức thuế quan cao nhất là Thái Lan, Philipine, tiếp đến là Indônêsia, Malaysia và thấp nhất là Brunei và Singapo, vì vậy để tránh "sốc" cho một số nước thành viên, chương trình CEPT sẽ được thực hiện theo lộ trình sau: - Đối với các mặt hàng trong 15 nhóm sản phẩm nêu trên hiện quy định mức thuế quan từ 20% trở lên thì mức thuế quan đó sẽ được giảm từ 20% trở xuống trong thời gian từ 5 đến 8 năm, bắt đầu từ 1/1/1993. - Việc giảm mức thuế quan tiếp theo từ 20% hoặc thấp hơn xuống từ 0 đến 5% sẽ được thực hiện trong khoảng thời gian 7 năm. Theo quy định thì các nước thành viên sẽ quyết định các mặt hàng giảm thuế quan trong hai chương trình trên và phải thông báo cho các nước thành viên khác biết vào lúc bắt đầu thực hiện chương trình. Tuy nhiên, đối với mức thuế quan của một số mặt hàng đã ở mức từ 20% trở xuống (tính đến ngày 1/1/1993), thì các nước thành viên sẽ quyết định chương trình và thời hạn giảm thuế quan riêng cho các mặt hàng này. Hai thành viên trở lên có thể tham gia thoả thuận giảm thuế quan nhanh xuống từ 0 đến 5% đối với một số sản phẩm cụ thể, không nhất thiết phụ thuộc vào chương trình kéo dài 15 năm. Thoả thuận này cũng không đòi hỏi các nước có mức thuế quan thấp (chẳng hạn như Singapo và Brunei) phải nâng thuế quan của mình lên ngang hàng với thuế quan của các nước khác. Điều quan trọng trong thoả thuận thực hiện AFTA là việc các nước thành viên ASEAN đưa ra công thức 6-x (6-x formula), theo đó những thành viên nào chưa muốn tham gia vào chương trình giảm thuế quan CEPT ngay từ khi nó bắt đầu có hiệu lực thì có thể tham gia vào giai đoạn sau. 1.1.4 Cơ chế hoạt động và tiến trình thực hiện AFTA. 1.1.4.1 Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung- CEPT. Đây là cơ chế chủ yếu trong tiến trình thực hiện AFTA. Các mục tiêu của AFTA sẽ được thực hiện thông qua một loạt các thoả thuận trong hiệp định AFTA như là: sự thống nhất và tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau, xoá bỏ những quy định hạn hế đối với ngoại thương; hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô … trong đó CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu. CEPT, về thực chất, đó là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN suống còn 0 - 5% thông qua "cơ cấu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung" đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hoá tư bản và các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Tuy vậy, trong khung hiệp định đó, CEPT được nhấn mạnh cho các mặt hàng công nghiệp chế biến là đối tượng chủ yếu được tiêu thụ hưởng các ưu đãi của chương trình giảm thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan cho chúng sẽ được áp dụng trong một lịch trình cụ thể theo 2 kênh giảm nhanh và giảm thông thường đồng tuyến, nghĩa là trong vòng 7 đến 10 năm, phải đưa được khoảng 90% trong số hơn 44.000 dòng thuế của các ASEAN xuống mức thuế dưới 5% vào năm 2000 và sau đó sẽ đưa được mức thuế quan bình quân của toàn ASEAN vào năm 2003 khoảng 2,63%. Kênh giảm thuế nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế quan tăng tốc) sẽ được áp dụng cho 15 nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến của ASEAN như: ximăng; hoá chất; phân bón; chất dẻo; hàng điện tử; hàng dệt; dầu thực vật; sản phẩm da, sản phẩm cao su; giấy; đồ gốm và thuỷ tinh; đồ dùng bằng gỗ và song mây; dược phẩm với khoảng 3200 mặt hàng, chiếm tới 34% tổng số danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Lịch trình giảm thuế nhanh sẽ được phân định thành hai nấc: các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống còn 0- 5% vào 1/1/2000 và các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/1998. Kênh giảm thuế bình thường (còn gọi là chương trình giảm thuế quan theo lịch trình thông thường) sẽ áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chế biến còn lại. Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, việc giảm thuế suất của chúng xuống tới 20% vào năm 1998 và sau đó sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào năm 2003. Đối với sản phẩm đã có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm thuế đến 0 -5% trong vòng 7 năm, tức là kết thúc vào năm 2000. Các danh mục giảm thuế theo kênh thông thương hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các danh mục hàng hoá tham gia CEPT với 59%. Với các tỷ lệ lớn của hai danh mục giảm thuế trong chương trình thực hiện CEPT (khoảng 93%), các lịch trình giảm thuế này nếu được thực hiện, về căn bản, chúng đã gần như hoàn thành tỷ suất tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN. Điều đáng lưu ý ở đây là sau một số năm thực hiện CEPT, các nước thành viên ASEAN đã có đề xuất về một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là không thống nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến với các quy định rạch ròi cho các suất thuế cần cắt giảm qua từng thời kỳ. Tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế của từng nước để xây dựng lịch trình cắt giảm miễn sao đẩy nhanh được mục đích giảm thuế quan xuống còn 0 - 5% càng sớm càng tốt trước năm 2003. Hiện nay Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề xuất đó như một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu về việc tạo dựng một khu vực tự do hoá thương mại ASEAN trước thời hạn đã định. Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (15-16/12/1998), với sáng kiến thực hiện các thoả thuận đa phương và song phương, đã khẳng định một lần nữa việc đẩy nhanh tiến trình AFTA, chí ít là phải hoàn thành AFTA vào các năm 2000 đối với 6 nước thành viên ASEAN đã kết nạp trước năm 1995. Cũng xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt của từng quốc gia thành viên, CEPT còn quy định danh mục các sản phẩm tạm thời chưa tham gia giảm thuế (còn gọi là danh mục loại trừ tạm thời) để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này có thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể như: tiếp tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ cho sự ổn dinh thương mại hoặc để chuyển hướng sản xuất đối với một số sản phẩm thương đối trọng yếu trong buổi đầu tham gia CEPT. Các sản phẩm trong danh mục này sẽ không được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên và chỉ tồn tại mang tính chất tạm thời, nghĩa là sau 5 năm, chúng sẽ buộc phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến đã định. Do đó, kể từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, danh mục trừ tạm thời sẽ phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi năm. Dĩ nhiên, loại danh mục này không thiếu nhiều, chỉ chiếm khoảng 8% tổng số các danh mục tham gia giảm thuế. Một vấn đề gây tranh luận nhiều nhất trong việc xây dựng chương trình CEPT là vấn đề đưa hay không đưa các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến vào danh mục giảm thuế. Theo Hiệp định CEPT năm 1992, các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến không đưa vào danh mục giảm thuế theo CEPT. Nhưng đến tháng 9/1994 các thành viên ASEAN đã đồng ý đưa chúng vào danh mục này. Do đó, cùng với các danh mục giảm thuế và loại trừ tạm thời, phạm vi sản phẩm tham gia tiến trình tự do hoá thương mại theo CEPT đã được mở rộng tới 98% tổng số dòng thuế của toàn khối ASEAN. Các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến cũng sẽ được phân định thành ba danh mục: danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ hoàn toàn và một danh mục đặc biệt khác là danh mục các sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm. Trừ một số nhỏ hàng nông nghiệp chưa qua chế biến được đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn. Hiện hàng nông nghiệp chưa qua chế biến của toàn bộ ASEAN bao gồm 1823 dòng thuế, chiếm 4% tổng số dòng thuế sẽ giảm theo CEPT của các quốc gia này. Các sản phẩm thuộc danh mục nhạy cảm là đối tượng cần có cơ chế tự do hoá riêng phù hợp với các quy định của Hiệp định về nông sản của WTO. Tuy nhiên, mức cam kết giảm thuế của các sản phẩm thuộc danh mục này ở ASEAN sẽ cao hơn mức mà các nước thành viên đã cam kết tại vòng đàm phán Urugoay. Đến nay, theo đề xuất của các quốc gia thành viên, những mặt hàng này đã được phép kết thúc lịch trình giảm thuế đến 0 -5% vào ngày 1/1/2010. Như vậy xét một cách tổng quát, cấu trúc CEPT bao gồm 3 danh mục chính: danh mục giảm thuế, danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế và danh mục các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến. Tuy nhiên, để vận dụng đúng hơn về CEPT, các thành viên ASEAN đã thống nhất xây dựng một danh mục loại trừ hoàn toàn một số sản phẩm ra khỏi lịch trình gảm thuế theo CEPT, tức là việc cắt giảm thuế cũng như xoá bỏ các biện pháp phi quan thuế đối với những sản phẩm này sẽ không được áp dụng theo các quy định của CEPT. Đó là những sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ của con người, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, các di tích lịch sử, khảo cổ… Khi vận dụng CEPT, chúng ta không được quên một điều kiện bổ sung cho cơ chế giảm thuế theo CEPT. Đó là những nhượng bộ trao đổi giữa các quốc gia ASEAN khi thực hiện CEPT trên các nguyên tắc có đi có lại. Nguyên tắc này bắt buộc các nước thành viên để được hưởng các ưu đãi về thuế quan của nhau khi xuất khẩu theo CEPT cần đảm bảo đúng các yêu cầu sau đây: thứ nhất, sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan tối đa là 20%; thứ hai, sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đông AFTA thông qua và thứ ba, sản phẩm đó phải là những sản phẩm có hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN với ít nhất là 40%. Nếu một sản phẩm đảm bảo được ba yêu cầu đo, chúng sẽ được hưởng ưu đãi hoàn toàn từ phía các quốc gia nhập khẩu. Để xác định các sản phẩm có đủ điều kiện hưởng thuế quan ưu đãi theo chương trình CEPT hay không, mỗi nước thầnh viên hàng năm phải công bố "tài liệu trao đổi ưu đãi CEPT" trong đó cần thể hiện được mức thuế quan của các sản phẩm theo CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện ưu đãi. Tóm lại, CEPT được thực hiện sẽ đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại trong nội bộ ASEAN. Bởi vì dựa vào các kế hoạch giảm thuế đã được các nước thành viên ASEAN cam kết theo chương trình CEPT. Đến năm 2000 chắc chắn 87,7% tổng số các dòng thuế tham gia giảm thuế sẽ có mức thuế từ 0 đến 5%. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi mà hiện nay các sản phẩm CEPT đã tăng rất nhanh trong tổng kim ngạch xuất khẩu nội bộ ASEAN, từ 81,38% năm 1994 lên 84,7% năm 1995. Bảng 1: Danh mục các mặt hàng cắt giảm thuế Nước Danh mục cắt giảm ngay Danh mục loại trừ tạm thời Danh mục nhạy cảm Danh mục loại trừ hoàn toàn Tổng số Brunei 6.276 - 202 14 6.492 Indônêxia 7.158 21 69 4 7.252 Lào 1.247 2.126 90 88 3.551 Malaixia 9.092 - 63 73 9.228 Mianma 2.356 2.987 108 21 5.472 Philipin 5.571 35 27 62 5.695 Singapo 5.739 - 102 - 5.859 Thailan 9.103 - - 7 9.110 ViệtNam 3.573 984 219 51 4.827 Campuchia 3.114 3.523 134 50 6.821 ASEAN 6 42.939 56 481 160 43.636 %trên tổng ASEAN 6 98,4 0,13 1,1 0,37 100 ASEAN 4 10.290 9.620 551 210 20.671 %trên tổng ASEAN 4 49,78 46,54 2.67 1,02 100 Nguồn: Ban thư ký ASEAN. Dẫn theo UBQGHTKTQT: Việt Nam và các tổ chức quốc tế, NXB. 1.1.4.2 Loại bỏ các hạn chế về định lượng và hàng rào phi quan thuế. Đây là cơ chế quan trọng thứ hai được tiến hành đồng thời với thực hiện chương trình CEPT. Các nước thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm CEPT trên cơ sở chế độ ưu đãi thuế quan được áp dụng cho các sản phẩm đó. Các hàng rào phi quan thuế khác cũng sẽ được soá bỏ dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. Đây là sự hỗ trợ cực kỳ quan trọng cho tiến trình AFTA vì lẽ cắt giảm thuế là biện pháp cần thiết, đầu tiên, song đó không phải là biện pháp duy nhất của chương trình tổng hợp về tự do hoá thương mại. Các kênh giảm thuế đồng tuyến, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục hàng nông nghiệp chưa qua chế biến… chỉ là những khía cạnh khác nhau cấu thành nên mặt kỹ thuật và cơ chế điều hoà thuế quan của chính sách tự do hoá thương mại. Còn một mặt khác rất quan trọng cấu thành nên sự tác động có tính chất hành chính, pháp lý giữa các quốc gia trong tiến trình chu chuyển thương mại: như các biện pháp về giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch, các hạn chế về tỷ ._.giá hối đoái, các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật hàng hóa… Những rào cản này thể hiện trong thực tiễn hoạt động thương mại ở các nước thường rất "bảo thủ", nó gắn chặt với các chính sách bảo hộ mậu dịch nặng nề và theo đó, việc loại bỏ chúng sẽ không dễ dàng nếu không có sự cải cách toàn diện ở tầm vĩ mô nền kinh tế của từng nước. Hơn nữa, hiện nay, những biện pháp này còn rất không đồng nhất giữa nước thành viên ASEAN. Do vậy, để chuẩn bị tốt tiến trình xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế, Uỷ ban Phối hợp thực hiện CEPT/AFTA của ASEAN đã tiến hành các bước như sau: Bước 1: Các nước thành viên cùng thống nhất định nghĩa về các biện pháp phi quan thuế dựa trên sự phân loại của UNCTAC; bước 2, tập trung trước tiên việc giảm các hàng rào phi thuế quan đối với các sản phẩm có tỷ trọng lớn trong chu chuyển thương mại nội bộ ASEAN; bước 3, Ban thư ký ASEAN sẽ tập hợp thông tin các hàng rào phi quan thuế của các nước thành viên, bản đánh giá chính sách thương mại của GATT, báo cáo của Phòng Thương mại - Công nghiệp ASEAN, hệ thống thông tin và phân tích dữ liệu thương mại của UNCTAC… để có một chính sách điều hoà thích hợp. Trừ một số lý do được phép duy trì các hàng rào phi quan thuế như: sự cần thiết phải bảo hộ một số sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn, sự bảo hộ đối với một số sản phẩm trong thời gian còn được hưởng chế độ miễn trừ tạm thời… việc xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế cần đựơc phối hợp đồng bộ với chương trình CEPT, trong đó quan trọng nhất và khó khăn nhất là việc thống nhất các tiêu chuẩn về hàng hoá và việc thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên. Hiện tại, Uỷ ban về Tiêu chuẩn Chất lượng của ASEAN (ACCSQ) đang tiến hành thống nhất hoá các tiêu chuẩn về kỹ thuật của các sản phẩm CEPT thuộc nhóm những hàng hoá có kim ngạch buôn bán lớn giữa các nước ASEAN. Tất nhiên, ở đây cần phân biệt rõ giữa các hàng rào phi quan thuế và các biện pháp phi quan thuế lại có tác dụng tốt cho việc tạo dựng môi trường thương mại. Ví dụ, chính sách trợ giá xuất khẩu của chính phủ, biện pháp chống bán phá giá… Dĩ nhiên, việc thống nhất và xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế là một công việc khó khăn vì ba lẽ: một là, các hàng rào phi quan thuế đa dạng và thường ẩn dấu đằng sau các chính sách (ví dụ chính sách kiểm dịch, chính sách duy trì hạn ngạch để hỗ trợ công nghiệp, chính sách đánh giá cao giá trị của đồng bản tệ…); hai là, các bộ luật thuế quan của các nước ASEAN vẫn còn chưa được điều hoà Việt Nam theo hệ thống điều hoà thuế quan (HS) 6 chữ số, Thái Lan là HS-8, Malaysia và Singapo là HS-9…, và theo đó, cơ quan hải quan trong từng nước thành viên khó có thể áp dụng đúng thuế, đúng sản phẩm và ba là, các nguyên tắc về xuất xứ sản phẩm cũng sẽ làm phức tạp hơn các tình thế xử lý về mặt phi quan thuế theo CEPT khi đầu tư và thương mại giữa các nước ASEAN đã chuyển hoàn cho nhau một cách thường xuyên, mật thiết. Để giải quyết các vấn đề này, Phòng thương mại - Công nghiệp ASEAN có nhiệm vụ đẩy nhanh quá trình điều hoà các bộ luật thuế quan với sự ưu tiên trước hết giành cho các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch buôn bán nội bộ ASEAN và những sản phẩm thuộc 15 danh mục hàng hoá tham gia kênh giảm thuế nhanh của CEPT. Hội đồng CEPT đã tán thành kế hoạch hành động để điều hoà về các các tiêu chí luật thuế và phi quan thuế trên toàn khu vực vào năm 1997. 1.1.4.3 Vấn đề hải quan Phối hợp hải quan là cơ chế thực hiện của chương trình CEPT khi nó hỗ trợ các nước thành viên thống nhất biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà (HS) của nó. Hơn nữa, nó tạo thuận lợi cho việc thực hiện giảm thuế và phi quan thuế khi hệ thống tính giá hải quan được thống nhất, các luồng xanh ưu đãi cho hàng hoá theo CEPT của ASEAN được hình thành và đặc biệt thủ tục hải quan được thống nhất. Như vây, tiến trình AFTA nhanh hay chậm được điều chỉnh hay bổ sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chương trình hợp tác hải quan. 1.1.4.4 Các thể chế phối hợp trong tiến trình thực hiện AFTA Thiết lập các thể chế phối hợp giữa các nước thành viên ASEAN là một vấn đề cần thiết, có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì xu hướng và đảm bảo thực hiện thành công CEPT. Cơ quan đặc trách để duy trì, phối hợp và điều chỉnh các hoạt động của AFTA là Hội đồng AFTA. Hội đồng này bao gồm đại diện các Bộ trưởng từ các nước thành viên và tổng thư ký ASEAN có chức năng thực hiện AFTA. Hội đồng điều tiết vĩ mô về tiến trình thực hiện AFTA. Hội đồng chỉ họp khi cần thiết nhưng ít nhất mỗi năm một lần. Hội đồng AFTA có trách nhiệm báo cáo lên Hội nghị các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM). Để giúp cho Hội đồng AFTA thực hiện nghĩa vụ của mình với AEM, Hội nghị các quan chức cao cấp ASEAN (SEOM) họp đều đặn hàng quý để phối hộp thực hiện CEPT giữa các nước thành viên. Dưới SEOM lại có Uỷ ban điều phối CEPT để thực hiện AFTA (CCCA) và các thành viên tham gia uỷ ban này là đại diện từ các cơ quan chính phủ khác nhau liên quan trực tiếp đến việc thực hiện Hiệp định CEPT. Trong mô hình tổ chức này, Ban thư ký ASEAN cho chức năng hỗ trợ hội đồng AFTA, SEOM và CCCA thông qua việc giám sát tiến trình và các ảnh hưởng của việc thực hiện chương trình CEPT. Cơ quan điều hành trực tiếp cụ thể các hoạt động thường xuyên của tiến trình AFTA là cơ quan AFTA thuộc Ban thư ký ASEAN và các cơ quan AFTA quốc gia tại từng nước thành viên, được thành lập theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26. Mặc dù cách thức tổ chức của các cơ quan AFTA quốc gia không thống nhất (cơ quan AFTA quốc gia của Inđônêxia, Malaysia được đặt ở Bộ Công nghiệp - Thương mại; của Thái Lan được đặt ở Vụ Chính sách tài chính thuộc Bộ Tài chính của Việt Nam được đặt ở Tổng cục Thuế thuộc Bộ Tài chính), chúng đều phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động chung là : thứ nhất, đảm bảo thực hiện CEPT trôi chảy; thứ hai, làm đầu mối cho các hoạt động phối hợp giữa Ban thư ký ASEAN, cơ quan AFTA của ASEAN với các quốc gia thành viên và thứ ba, trình những vấn đề nảy sinh trong tiến trình thực hiện CEPT tại các cuộc hội nghị ASEAN tương ứng để có thể đưa ra được những giải pháp hợp lý. Gần đây, để tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan AFTA quốc gia với cơ quan AFTA của ASEAN, Ban thư ký ASEAN và Hội đồng AFTA đã đồng ý đưa các mối quan hệ này vào mạng thông tin Internet. Hầu hết các thành viên ASEAN đều nhận rõ khu vực tư nhân là diễn viên chính của tiến trình thực hiện AFTA. Cơ quan AFTA của ASEAN và các cơ quan AFTA quốc gia thành viên sẽ trở thành những kênh quan trọng để cung cấp thông tin cho khu vực tư nhân cũng như tiếp nhận những yêu cầu, than phiền, thắc mắc từ phía họ. Nói một cách chính xác, các cơ quan này cần làm mọi việc từ cung cấp số liệu, các biểu mẫu đến liên hệ với các phòng công nghiệp thương mại các nước, đến tổ chức các cuộc hội thảo về AFTA… để có thể huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào tiến trình AFTA một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, cơ quan có tác động trực tiếp đến khu vực tư nhân lại là phòng Thương mại Công nghiệp của từng quốc gia thành viên. Cũng vì vậy, bắt đầu từ năm 1995, Phòng Thương mại - Công nghiệp ASEAN (CCI) được thành lập như một thể chế phối hợp tất yếu để thúc đẩy tiến trình khuyến khích tư nhân tham gia thực hiện CEPT. Những điều khoản an toàn cũng nằm trong nội dung các thể chế điều chỉnh AFTA. Có ba điều khoản an toàn quan trọng. Một là, nếu việc nhập khẩu một sản phẩm nào đó theo CEPT được thực hiện theo một phương thức gây sức ép hoặc làm tổn thương đến các khu vực tạo ra các sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong các nước nhập khẩu thì các nước này, ngoài việc lúc đó cần phải khắc phục các thương tổn, là việc có thể đình chỉ các điều khoản ưu đãi. Hai là, một nước thành viên thấy cần thiết hoặc tăng cường các hạn chế về số lượng hoặc các biện pháp thu hẹp nhập khẩu vì mục đích ngăn chặn các sức ép làm giảm sút nghiêm trọng dự trữ tiền tệ của họ thì trong trường hợp đó, những nỗ lực của họ đã tuân thủ theo phương thức bảo toàn giá trị chuyển nhượng đã thoả thuận. Ba là, khi có các biện pháp cấp bách đặt ra, các thành viên phải lập tức thông báo ngay cho Hội đồng AFTA. Như vậy, các điều khoản an toàn được đặt trong sự phối hợp hoạt động giữa Hội đồng AFTA với các cơ quan hữu quan của các nước thành viên. Trong tiến trình thực hiên AFTA tất yếu sẽ xảy ra những bất đồng giữa các nước thành viên do giữa các nền kinh tế quốc gia có sự khác biệt về đặc điểm phát triển, trình độ tăng trưởng và cơ chế điều tiết. Do đó, các thành viên ASEAN rất quan tâm đến việc thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp. Về nguyên tắc, cơ chế này sẽ giúp các thành viên nhấn mạnh đến những lợi ích to lớn của AFTA với tư cách là một thể chế phối hợp hơn là việc đeo đuổi các mục tiêu riêng rẽ. Điều này cũng giúp cho ASEAN có sức mạnh đoàn kết trên bàn thương lượng với EU, NAFTA, APEC và WTO. Do đó, cơ chế giải quyết tranh chấp về CEPT/AFTA cũng có thể được coi là cơ chế dàn xếp tất cả những tranh chấp nảy sinh từ các hiệp định của ASEAN về hợp tác kinh tế. Để nhất thể hoá các nền kinh tế ASEAN hơn nữa, các quốc gia thành viên đã đồng ý khai thác các biện pháp hợp tác cả trong và ngoài khuôn khổ AFTA nhằm bổ sung và thúc đẩy nhanh hơn tiến trình tự do hoá thương mại. Đó là các biện pháp về sự thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn hàng hoá, về giấy xác nhận xuất xứ sản phẩm, về việc dỡ bỏ các loại rào cản đầu tư trục tiếp nước ngoài, về vấn đề tư vấn kinh tế vĩ mô giữa các nước thành viên, về các nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, về việc thúc đẩy đầu tư nội bộ khu vực… Hơn nữa, việc điều hoà các hoạt động hợp tác khu vực giữa các nước thành viên AFTA chắc chắn sẽ được mở rộng sang các lĩnh vực khác như: tài chính, ngân hàng, giao thông, thông tin viễn thông, sở hữu trí tuệ… 1.2 Tình hình triển khai AFTA trong thời gian qua 1.2.1 Tình hình triển khai tại các nước ASEAN - 6 Có thể khẳng định rằng các nước ASEAN - 6 có nhiều thuận lợi trong quá trình thực hiện AFTA hơn các nước còn lại. Các nước thành viên gốc ASEAN có nền kinh tế phát triển khá bền vững, mức sống của người dân ở mức cao, hơn nữa, nền kinh tế của cá nứoc này có tỷ trọng xuất khẩu trong GDP vào loại lớn nên việc tham gia thuế quan càng thuận lợi cho họ. Trước khi khu vực có khủng hoảng tài chính kinh tế, mặc dù có khó khăn, trục trặc ban đầu chủ yếu là đàm phán kỹ thuật và cơ chế điều phối thực hiện, việc triển khai CEPT diễn ra khá thuận lợi. Kết quả trước hội đồng AFTA lần thứ 7 (9/1995), danh mục cắt giảm thuế ngay (IL) đã có 38.388 dòng thuế, bằng 89,03% tổng số dòng thuế của 6 nước thành viên ASEAN: danh mục tạm thời chưa cắt giảm thuế (TEL) chiếm 7,11%; danh mục nhạy cảm (SEL) là các sản phẩm nông sản chưa chế biến được thực hiện cắt giảm thuế theo lịch trình và thời hạn riêng 2,87%. Số dòng thuế còn lại (khoảng 0,99%) là các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL). Kết quả thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của 6 nước thành viên cũ ASEAN đến tháng 7 năm 2001 đạt 92,8% có thuế suất 0-5% với tổng số 40.859 dòng thuế. Mức thuế theo CEPT trung bình hiện nay của những nước này là 3,21%. Dự tính đến năm 2002, 6 nước ASEAN cũ có 44.059 dòng thuế (chiếm 98,39 % tổng số dong thuế) có thuế suất từ 0-5%. Bảng 2: Tình hình thực hiện CEPT của ASEAN 6 Mục tiêu 100% tổng số dòng thuế cắt giảm có thuế suất 0- 5% vào năm 2002 với một số linh hoạt 60% tổng số dòng thuế có thuế suất bằng 0% vào năm 2003 Brunei Đến năm 2002 sẽ đạt 99,75% 80,8% Inđônêxia Đến năm 2002 sẽ đạt 99,08% 54,6% Malaysia Đến năm 2002 sẽ đạt 91% 60,2% Philipin Đến năm 2002 sẽ đạt 96,5% 0,07% Singapo Đến năm 2002 sẽ đạt 100% 100% Thái Lan Đến năm 2002 sẽ đạt 94,8% 47,87% 1.2.2. Tình hình thực hiện AFTA của ASEAN 4 Đối với các nước thành viên mới, việc đẩy nhanh thực hiện CEPT/AFTA được đặt ra là tối đa hoá số dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2003 (đối với Việt nam) và 2005 đối với Lào và Mianma. Với mục tiêu này, nếu tính theo danh mục thực hiện CEPT công bố 2001, Việt nam sẽ đạt khoảng 75% vào năm 2003; Lào và Mianma theo danh mục công bố cắt giảm, đến năm 2005 sẽ đạt khoảng 87% và 83%. Đến năm 2006, Việt nam tăng số dòng thuế có thuế suất 0% đạt 33,7%. Đến năm 2008, Lào tăng 73% dòng thuế suất 0%; của Mianma là 3,86%; của Campuchia là 45,66% trong tổng số các dòng thuế. 1.3 Những cam kết của Việt Nam. Có thể nói CEPT là một trong những bước đi quan trọng đối với Việt Nam cũng như các nước ASEAN trong chương trình hình thành nên một khu vực mậu dịch chung của khối. Hơn thế nữa, nó là một bước thử nghiệm để đánh giá khả năng cũng như những cố gắng của các thành viên trong nỗ lực thực hiện kế hoạch đã đề ra và từ đó có những điều chỉnh cho phù hợp để có những chương trình hành động sau này. Các danh mục hàng hoá thực hiện CEPT của Việt Nam đẫ được xây dựng tuân theo ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và công bố với các nước ASEAN vào ngày 10/12/1995 tại phiên họp lần thứ 8 của Hội đồng AFTA. Để đưa ra chương trình hành động CEPT, ta đã căn cứ vào những chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoài ra, việc xây dựng còn dựa trên những tính toán về tình hình kinh tế cũng như năng lực của Việt Nam chương trình thực hiện CEPT. Cụ thể như sau: 1.3.1 Danh mục loại trừ hoàn toàn: Danh mục này được xây dựng phù hợp với Điều 9 của Hiệp định CEPT và bao gồm những nhóm mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, cuộc sống và sức khoẻ con người, động thực vật, đến các giá trị lịch sử, nghệ thuật, khảo cổ như: các loại động vật sống, thuốc phiện, thuốc nổ, vũ khí,… Danh mục này bao gồm 213 nhóm mặt hàng, chiếm 6,6% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu, và là các mặt hàng cụ thể như sau: Các loại động vật sống (trừ loại để làm giống); Các chế phẩm dùng cho trẻ em đã đóng gói để bán lẻ; Thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện, xì gà, thuốc lá và rượu bia thành phẩm; Các loại xỉ và tro; Các loại xăng dầu (trừ dầu thô); Các loại thuốc nổ, thuốc phóng, các loại pháo; Các loại lốp bơn hơi cũ; Các loại thiết bị điện thoại, điện báo hữu tuyến, vô tuyến, các loại thiết bị ra đa, các loại máy thu sóng dùng cho điện thoại, điện báo …; Các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi, các loại ô tô và phương tiện tự hành có tay lái nghịch; Các loại vũ khí, khí tài quân sự; Các loại văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động, đổ chơi trẻ em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục và trật tự an toàn xã hội; Các loại hoá chất, dược phẩm độc hại, các chất phế thải, các đồ tiêu dùng đã qua sử dụng,… 1.3.2 Danh mục loại trừ tạm thời. Danh mục này chủ yếu bao gồm các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng tuy có thuế suất thấp hơn 20%, nhưng trước mắt cần thiết phải bảo hộ bằng thuế như biện pháp hạn chế sổ lượng nhập khẩu, hàng phải có giấy phép của quan thuế như biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, hàng phải có giấy phép của Bộ quản lý chuyên ngành, hàng phải qua kiểm tra Nhà nước về chất lượng, hàng phải qua kiểm tra về vệ sinh dịch tễ và hàng phải qua kiểm tra về an toàn lao động. Danh mục loại trừ tạm thời của Việt Nam gồm 1317 nhóm mặt hàng, chiếm 40,9% tổng số các dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu và là những mặt hàng chủ yếu sau: Các loại ô tô (trừ các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi); Xe đạp, các loại đồ chơi trẻ em; Các loại máy gia dụng (như máy giặt, máy điều hoà, quạt điện, …); Các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu; Các loại vải sợi và một số đồ may mặc; Các loại sắt, thép; Các sản phẩm cơ khí thông dụng; … Ngoài ra, một trong những lí do chưa đưa các mặt hàng này vào Danh mục cắt giảm thuế quan là theo quy định của CEPT, những mặt hàng nào của nước thành viên ASEAN công bố cắt giảm thuế quan và hưởng thuế suất ưu đãi từ các nước thành viên khác, thì đồng thời cũng phải loại bỏ ngay các hạn chế về định lượng và nhất là trong thời gian 5 năm sau đó, cũng sẽ phải thực hiện việc loại bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu thông qua các rào cản phi thuế quan. Do đó, nếu Việt Nam đưa các mặt hàng như đề cập ở trên vào Danh mục loại trừ tạm thời, để trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến 2003 sẽ chuyển dần sang Danh mục cắt giảm thuế quan ngay, thì có nghĩa là Việt Nam sẽ có thêm 5 năm, kể từ năm mặt hàng được chuyển sang Danh mục cắt giảm, mới phải loại bỏ các biện pháp hạn chế phi thuế quan. Khoảng thời gian này là cần thiết để hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước và tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước làm quen dần với môi trường cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động để làm cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả hơn. 1.3.3 Danh mục cắt giảm thuế quan ngay. Danh mục các mặt hàng cắt giảm thuế quan ngay của Việt Nam chủ yếu gồm các mặt hàng trong Biểu thuế hiện đang có thuế suất thấp dưới 20% - tức là các mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi theo CEPT ngay. Do đó, việc xuất khẩu của Việt Nam đối với các mặt hàng này sẽ được áp dụng ngay lập tức các thuế suất ưu đãi CEPT từ các nước thành viên ASEAN khác. Ngoài ra, Danh mục cắt giảm thuế quan cũng bao gồm một số mặt hàng hiên có thuế suất cao nhưng Việt Nam đang có thế mạnh về xuất khẩu. Do đó sẽ góp phần khuyến khích phát triển các ngành sản xuất phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu của Việt Nam. Tổng số nhóm mặt hàng trong Danh mục cắt giảm thuế quan là 1661 nhóm mặt hàng, chiếm 51.6% của tổng các mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Mặc dù Danh mục này của Việt Nam chiếm tỷ lệ thấp so với các nước thành viên ASEAN khác khi họ bắt đầu thực hiện chương trình CEPT (trung bình la 85%), nhưng đây là biện pháp an toàn nhất để Việt Nam có thời gian nghiên cứu kỹ thêm và rút ra các bài học kinh nghiêm trong năm đầu tiên thực hiện chương trình CEPT, từ đó có đối sách cho những năm tiếp theo. 1.3.4 Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng nông sản chưa chế biến và đồng thời có tham khảo danh mục này của các nước ASEAN, theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Danh mục này bao gồm 26 nhóm mặt hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành. Trong hai năm 1996, 1997, Việt Nam đã đưa 1.496 nhóm mặt hàng nhập khẩu của Danh mục IL vào thực hiện giảm thuế với ASEAN (quy định tại Nghị đinh 91 CP ngày 18/12/1995 và Nghị định 82 CP ngày 13/12/1996 của Chính phủ). Các nhóm mặt hàng này phần lớn đều có thuế suất từ 0 - 5%. chương 2 Những thách thức của việt nam trong quá trình hội nhập AFTA 2.1 Cơ hội cho Việt nam . Có thể nói rằng việc tham gia AFTA của Việt Nam chính là một cố gắng hơn nữa để hội nhập ASEAN và tiến tới hội nhập thế giới. Tuy vậy, mục đích chính của việc tham gia các tổ chức trên quy mô khu vực hay thế giới đều vì rằng chúng ta nhận thức rõ được những lợi ích quốc gia của việc tham gia đó. Tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA cũng vậy, Việt Nam sẽ giành được được nhiều cơ hội hơn nữa cho việc phát triển nền kinh tế và đem lại lợi ích cho con người. Cơ hội cho chúng ta không chỉ được nhìn nhận trong thời gian trước mắt mà còn đem lại nhiều thuận lợi về lâu dài. 2.1.1 Cơ hội mở rộng thị trường. Thực hiện AFTA tức là tạo dựng một thị trường chung rộng lớn hơn trong lòng ASEAN để có thể thu hút được nhiều đầu tư của nước ngoài cũng như trong khuôn khổ AFTA. AFTA sẽ tích cực tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và đến lượt mình, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ lại củng cố và thúc đẩy tiến trình nhất thể hoá khu vực, đóng góp vào việc nhanh chóng hoàn tất AFTA. Điều này hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại của Việt Nam, trong đó AFTA sẽ tạo cho Việt Nam những quan hệ kinh tế rộng mở với thế giới và do đó, giúp Việt Nam có thêm cơ hội thêm nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo thống kê của Bộ Thương mại, hoạt động thương mại giữa các nước ASEAN với Việt Nam đã tăng với tốc độ 26,8% năm. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN chiếm từ 30-50% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương giữa Việt Nam với các nước ASEAN đã tăng lên 20 lần trong vòng 9 năm ( 120 triệu $ năm 1986 lên 2,5 tỷ năm 1995). 2.1.2 Thu hút nhiều đầu tư hơn Với những ưu thế hơn so với trước về hầu hết các mặt khi thực hiện AFTA như: thuế suất giảm, hệ thống thuế tối ưu hơn, bộ máy quản lý hiệu quả hơn, môi trường đầu tư được cải thiện hơn rất nhiều nhờ sự bình đẳng hơn trong quan hệ đối xử giữa các thành phần kinh tế, các đối tác kinh doanh…các nhà đầu tư sẽ chú ý hơn và đầu tư vào Việt Nam với quy mô rộng lớn cả về vốn hình thức kinh doanh cũng như lĩnh vực kinh doanh. Có thể nhận thấy hết sức rõ rệt những thay đổi này trong mấy năm gần đây. Nhiều vùng lãnh thổ, nhiều tổ chức quốc tế ngày càng quan tâm tới và đầu tư vào Việt Nam. Cho đến nay, đã có trên 20 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký lên đến 18.242.688.000 USD. Riêng Singapo đã đầu tư vào Việt Nam với số vốn 1.542.000 USD (đứng đầu trong ASEAN); tiếp đến là Malaixia, Thai lan, Philipin, Indonexia. 2.1.3 Nguồn đầu vào của Việt Nam sẽ hơn ASEAN sẽ cung cấp cho những công ty trong nước dùng nguồn đầu vào rẻ hơn và có chất lượng tốt hơn do được hưởng mức thuế thấp với những điều kiện ưu đãi khác đối với loại đầu vào đó. Đây là điều kiện rất quan trọng vì Việt Nam nhận được nguồn nguyên vật liệu và hàng hoá trung gian từ ASEAN. Do đó nguồn nguyên vật liệu mà Việt Nam cần nghiễm nhiên đã có sẵn và được quyền lựa chọn theo phương án tối ưu nhất. Chính nhờ những lợi thế đó mà các ngành sản xuất nội địa phát triển có hiệu quả và tăng sức cạnh tranh hơn. Lâu nay, nhiều ngành công nghiệp nước nhà thường phải phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ bên ngoài hết sức bấp bênh và chi phí cao do bị áp đặt thuế suất, cho nên giá thành các sản phẩm đầu ra thường rất cao. Với việc tham gia khu mậu dịch tự do ASEAN lần này khó khăng này sẽ được loại bỏ bớt phần nào, giảm áp lực đối với doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Mặt khác, AFTA cũng là môi trường đầu tư mang tính khu vực nhằm chuẩn bị cho các nhà doanh nghiệp địa phương săn sàng tiếp nhận sự cạnh tranh có tính chất phổ biến và quyết liệt mà họ buộc phải đối mặt trên các thị trường khu vực và thế giới. 2.1.4 Tăng hiệu quả kinh tế AFTA là động lực mạnh mẽ thúc đẩy Việt Nam phải loại bỏ những quyết định đã lỗi thời về thể chế diều tiết. Điều đáng nói nhất là cùng với việc thực hiền, vấn đề cải cách thuế qua mà Nhà nước Việt Nam đang có những bước chuẩn bị như sửa đổi theo các tiêu chí quốc tế, sẽ được thúc đẩy một cách mạnh mẽ. Nếu Việt Nam áp dụng một cơ chế mậu dịch đồng nhất hơn với mức định thuế hợp lý cho một số mặt hàng phù hợp với AFTA sẽ mang lại lợi ích lớn: quản lý thuế sẽ dễ dàng, có hiệu quả hơn và cơ cấu thuế đó sẽ giúp chính phủ không phải thường xuyên sửa đổi thuế suất. Khi thị trường rộng lớn sẽ cho phép các công ty khai thác các lợi ích tăng dần theo quy mô. Nó đẩy nhanh quá trình chuyên môn hoá giữa các ngành công nghiệp, từ đó làm tăng các hoạt động thương mại giữa các ngành như đã được kiểm nghiệm qua thực tế hội nhập của Châu Âu. Giảm thuế quan dẫn tới cạnh tranh trong nước sẽ làm tăng năng suất lao động và đẩy mạnh về đổi mới về công nghệ, thông tin ở các xí nghiệp trong nước. Do tình hình thực tế ở các nước ASEAN, có nững ý kiến cho rằng làm ăn với họ giúp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới không? Những người theo quan điểm kỹ thị thì cho rằng, chỉ công nghệ cao mới giúp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường thế giới nên phải hợp tác với những nước có công nghệ tiên tiến nhất thế giới. Nhưng nếu như vậy, Việt Nam sẽ không thực hiện được mục tiêu quan trọng là tạo công ăn việc làm cho người lao động, bởi vì công nghệ cao thường sử dụng rất ít nhân công. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần kết hượp nhứng yếu tố ngắn hạn tức là những công nghệ sử dụng nhiều lao động ở những ngành không nhất thiết đòi hỏi công nghệ cao, đầu tư vốn không lớn và dễ thay đổi công nghệ để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp phần ổn định chính trị xã hội, cùng với yếu tố dài hạn, tức là sử dụng công nghệ cao để tạo sức đẩy về sau. Hiện nay những nước phát triển trong khu vực ASEAN đang có xu hướng xuất khẩu những công nghệ lạc hậu sang những nước kém phát triển để tập trung vào những ngành công nghiệp mũi nhọn cho thế kỷ XXI. Do đó, Việt Nam phải lựa chọn khi tiếp thu công nghệ từ các nước ASEAN nói riêng, và các nước khác trên thế giới nói chung, để kết hợp được cả hai yếu tố trước mắt và lâu dài. Tóm lại, việc hội nhập AFTA tạo ra rất nhiều động lực trong việc củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng pháp lý, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng hơn. Xét trên bình diện vĩ mô, đây là quá trình cá doanh nghiệp Việt Nam điều chỉnh biện pháp và phương pháp quản lý tiên tiến để thích ứng với môi trường cạnh tranh hơn. 2.2 Những thách thức Bên cạnh những thuận lợi kể trên, việc Việt Nam hội nhập AFTA cũng đặt ra những khó khăn và đang trở thành thách thức lớn, nhất là trong hoàn cảnh nước ta còn nhiều hạn chế về trình độ phát triển so với khu vực. 2.2.1 Thông tin và xử lý thông tin Thông tin là nhân tố hết sức quan trọng trong thời đại công nghệ tiên tiến ngày càng được xử dụng rộng rãi, được áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Thế nên, khả năng thu thập và xử lý nó bằng các công nghệ tiên tiến cũng là một thuận lợi hết sức quan trọng đối với mọi nền kinh tế, điều này càng đóng vai trò quan trọng với một nước đang phát triển như Việt Nam. Trước hết phải nói rằng ASEAN và việc hội nhập ASEAN đối với Việt Nam còn khá mới mẻ. Nói như vậy là vì Việt Nam gia nhập ASEAN khá muộn so với các nước khác, các thông tin về hợp tác cũng như các thông tin về các thành viên còn lại khác. Để có được thông tin và hiểu biết đầy đủ về các chương trình hợp tác của ASEAN, Việt Nam cần tổ chức các kênh thu nhận thông tin để một mặt nắm bắt được các vấn đề cần thiết phục vụ cho việc tham gia dự án, chương trình hợp tác đã và đang thực hiện. Mặt khác, cần hệ thống hoá lại những chương trình hợp tác đã được thực hiện trước đây để có thể tranh thủ kinh nghiệm của cả một quá trình hình thành ASEAN. Có thể nói hội nhập kinh tế ASEAN là thực tế đầu tiên của Việt Nam trong một tổ chức hợp tác toàn diện cả về an ninh chính trị, kinh tế và văn hoá xã hội. Chính việc tập hợp và hệ thống hoá các thông tin hợp lý chính xác là cơ sở vững chắc cho việc phân tích đưa ra các quyết định. Các quyết định cuối cùng có đem lại hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào việc xử lý thông tin trước đó. Không chỉ có vậy, vấn đề thời gian đưa ra các phản ứng hay hành động một cách hợp lý, kịp thời cũng là yếu tố đáng quan tâm. Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển tuy có tốc độ phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật khá cao thì điều này càng trở nên quan trọng. Tuy đã có nhiều tiến bộ được đánh giá là nhanh chóng nhưng những gì Việt Nam có được vẫn chưa đáp ứng kịp với yêu cầu thực tế. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng một cáh nhanh chóng nhưng những ứng dụng này không được phổ biến đồng đều, cho nên thường tạo ra sự khập khễnh. Trong những năm qua ta đã chú trọng hơn đến điều này nhưng mức độ tién triển vẫn còn chậm chạp. Trong tương quan với các nước trong khu vực, chúng ta vẫn còn ở tốp dưới. Nếu như muốn hội nhập nhanh chóng và ít tổn thất thì cần thiết phải xúc tiến hơn nữa,nâng cao khả năng tiếp cận và xử lý thông tin cao hơn nữa. Qua những kinh nghiệm vừa qua trong quan hệ thương mại với các nước, Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam càng thấm thía hơn điều này. 2.2.2 Nguồn nhân lực và năng lực quản lý Đội ngũ cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý của Việt Nam chưa được chuẩn bị tốt và tranh bị đầy đủ ngoại ngữ, kiến thức và phương pháp làm việc trong môi trường vừa mang tính đa phương, vừa mang tính cụ thể, trực tiếp như các hoạt động của ASEAN. Không thể tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của Hiệp hội, đảm bảo lợi ích quốc gia và lợi ích chung của Hiệp hội nếu không có một đội ngũ cán bộ, đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trên mọi lĩnh vực, thông thạo ngoại ngữ ( với ASEAN, vấn đề ngoại ngữ cấp bách hơn các diễn đàn kinh tế khác vì ASEAN có phong cách làm việc riêng, làm việc và quyết địng các vấn đề ở bàn ăn, vào buổi tối, tại sân golf…) am hiểu nghiệp vụ, năng động, sáng tạo, làm việc hiệu quả trong môi trường quốc tế với những phương tiện hiện đại, đáp ứng nhu cầu của mọi thời đại mới khi thế giới thu hẹp lại, ước vọng của con người lại mở ra trước những thành tựu khoa học kỹ thuật. Cần phải nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực cũng như nâng cao năng lực quản lý vì nó ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích lâu dài của quốc gia. Tang cường năng lực cho đội ngũ cán bộ còn giúp Việt Nam tăng cường khả năng hội nhập cũng như vị thế trên trường quốc tế. Mặc dù những tiêu chí này đã được cải thiện nhiều trong những năm vừa qua, nhưng sự vận động của thời đại là không ngừng nên cần phải cố gắng hơn nữa vì những tiêu chuẩn cao hơn, phù hợp hơn đáp ứng được nhu cầu thực tế. Con người vừa là động lực, vừa là trung tâm của mọi tiến trình, vì vậy, để đáp ứng tốt hơn nữa những như cầu thực tế thì bản thân con người phải nâng cao hơn nữa khả năng của bản thân. 2.2.3 Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Thách thức này gây nên từ trong bản thân những yếu tố tồn tại trong bản thân nền kinh tế. Hiện nay chúng ta vẫn còn phụ thuộc quá lớn vào có chế áp đặt xin cho, hầu hết các sản phẩm cũng như dịch vụ đều theo chỉ đạo của cấp trên, các doanh nghiệp Nhà nước thì kém linh hoạt, các doanh nghiệp tư nhân thì chưa đủ đội ngũ cán bộ nhất là cho bo phận nghiên cứu và phát triển thị trường như nhiều nước ASEAN đã làm. Có thể khẳng định rằng năng lực của người Việt Nam có thể làm những việc đó, nhưng tác phong công nghiệp chưa "ngấm" vào họ đủ để những người này có thể phát huy hết năng lực vốn có. Về hình thức, hầu hết các hàng hoá của Việt Nam đều ít thay đổi mẫu mã cũng như kiểu dáng hoặc kiểu dáng không thu hút được sự chú ý của khách hành. Có nhiều hàng hoá của Việt Nam tuy cùng chất lượng như một số những hành hoá của nước noài nhưng lại yếu thế hơn là do hình thức không phù hợp với thị hiếu của người mua. Đây là một điểm rất đáng quân tâm đối với các doanh nghiệp của ta. Về chất lượng, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa chú ý đến việc đăng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5250.doc
Tài liệu liên quan