A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, trong mọi lĩnh vực, trong mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật sinh ra đến khi sự vật kết thúc. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đến một lúc nào đó sẽ được giải quyết, khi đó mâu thuẫn khác lại được hình thành. Trong đời sống xã hội nói chung cũng như trong hoạt động kinh tế nói riêng, mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng như là mâu thu
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẫn giữa cung và cầu, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tích lũy và tiêu dùng…Những mâu thuẫn này có vai trò trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển kinh tế của một đất nước. Chính vì thế yêu cầu cần thiết đặt ra cho mỗi quốc gia là phải nhận thức rõ và từng bước giải quyết những mâu thuẫn này nhằm phát triển kinh tế của nước mình.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI tháng 12 năm 1986, Đảng ta đã có những quyết sách đúng đắn đặc biệt trong việc chuyển đổi nền kinh tế đất nước từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước chuyển mình quan trọng đó đã đem lại những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội nước ta trong suốt 20 năm qua. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh triền miên, nước ta đã đạt được những kết quả đáng tự hào: tốc độ tăng GDP trung bình hàng năm trên 7%, cao thứ hai thế giới sau Trung Quốc, lạm phát ổn định, tốc độ tăng của các ngành kinh tế tương đối cao và ổn định. Việt Nam cũng được ghi nhận như là một nước đã có những thành công trong sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Nước ta đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên, trong những thành công và những mục tiêu đó, luôn tồn tại những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới, đòi hỏi chúng ta phải xem xét, tìm cách giải quyết nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề kinh tế, những quan điểm lý luận cũng như những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tôi xin được chọn đề tài: “Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận môn triết học Mác – Lênin của mình.
B. NỘI DUNG
1. Lý luận chung về mâu thuẫn
1.1 Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. V.I. Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập.”. Trong khi nghiên cứu quy luật mâu thuẫn, chúng ta sẽ xem xét các khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Mặt đối lập: mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kía làm tiền đề.
Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn đấu tranh với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
1.2 Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (…) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.”
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, người ta có nhiều cách phân loại mâu thuẫn: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài; mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu; mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng…
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ có thể giải quyết khi điều kiện chín muồi, phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
2. Tính tất yếu của quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1 Kinh tế thị trường và những đặc điểm của kinh tế thị trường
2.1.1 Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường được hiểu là một là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó, sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hóa – tiền tệ, quan hệ cung – cầu. Trong nền kinh tế thị trường, nét biểu hiện có tính bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hóa.
Có người cho rằng kinh tế thị trường đồng nghĩa với xã hội. Những gì diễn ra trong xã hội khi nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường thì đều là kinh tế thị trường. Có người lại cho rằng kinh tế thị trường chỉ là những quan hệ kinh tế hoạt động trên cơ sở trao đổi và chỉ bằng trao đổi, người ta sẽ có được những thứ mình cần, nhiều hơn và tốt hơn nếu tự mình sản xuất…Chính vì cách hiểu trên mà trước đổi mới, có nhiều quan niệm cho rằng kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, còn trong chủ nghĩa xã hội thì sẽ không còn kinh tế thị trường. Chúng ta cần tách biệt rõ ràng bản chất chủ nghĩa xã hội với quan hệ kinh tế thị trường.
2.1.2 Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thực tiễn đổi mới kinh tế - xã hội ở một số nước theo hướng phát triển kinh tế thị trường, đã chứng tỏ rằng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng không phải là tàn dư của chủ nghĩa tư bản, cũng không phải là cái mà chúng ta buộc phải chấp nhận mà không có sự lựa chọn nào khác. Kinh tế thị trường cũng không phải là bước quá độ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẽ được vượt qua khi chủ nghĩa xã hội giành được thắng lợi. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế và văn minh nhân loại, là trình độ phát triển cao hơn sau kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Như vậy, bản chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không phải là sự xóa bỏ kinh tế thị trường nói chung, mà là sự quá độ từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường chủ nghĩa. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, ngoài những nét chung với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: một nền sản xuất hàng hóa với sự liên kết và trao đổi trên qui mô rộng lớn ở phạm vi quốc gia và quốc tế, các yếu tố cơ bản của một nền sản xuất như sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai đều được quyết định bởi thị trường, Sản xuất và trao đổi hàng hóa trên thị trường phải tuân theo những quy luật của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá cả…kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa còn có những đặc điểm riêng có:
- Hướng kinh tế thị trường phát triển nhằm vào mục tiêu: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân.
- Lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu loại hình và hình thức sở hữu cũng như thành phần kinh tế làm cho kinh tế nhà nước phát triển trước hết về chất, nắm vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Thực hiện chế độ phân phối đa dạng, vừa có các nguyên tắc phân phối theo kiểu kinh tế thị trường (phân phối theo vốn, và theo giá trị sức lao động), vừa có phân phối theo nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội (phân phối theo hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội) trong đó, lấy phân phối theo nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội làm chủ đạo.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nền sản xuất nhỏ là phổ biến, do đó nền kinh tế mà chúng ta xây dựng chưa phải là một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mà là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là một nền kinh tế chưa hoàn toàn thoát khỏi những đặc điểm kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nhưng bước đầu đã mang yếu tố xã hội chủ nghĩa và những yếu tố này ngày càng lớn mạnh thay thế dần những yếu tố kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Có thể khái quát đặc điểm kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay như sau:
- Nền kinh tế hàng hóa còn ở trình độ kém phát triển: đặc điểm này thể hiện ở kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội còn ở trình độ thấp; cơ sở vật chất và trình độ công nghệ còn lạc hậu cho nên sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường còn thấp; trình độ lao động kỹ thuật còn thấp; thu nhập của đại bộ phận nhân dân còn thấp nên sức mua chưa cao.
- Nền kinh tế thị trường dựa trên nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó lấy chế độ sở hữu xã hội (sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể), lấy kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng lớn mạnh để trở thành nền tảng vững chắc cho việc thực hiện định hướng xã hội của kinh tế thị trường.
- Nền kinh tế thị trường vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa: đây là đặc điểm cơ bản nhất của nền kinh tế nước ta, bao gồm các đặc điểm: dựa trên chế độ phân phối đa dạng; lấy cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước làm cơ chế vận hành; không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín mà dựa trên cơ cấu kinh tế mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực song phải đảm bảo độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ nước ta và kết hợp văn hóa truyền thống dân tộc với văn hóa hiện đại có chọn lọc, trong đó lấy văn hóa dân tộc truyền thống làm chủ đạo.
2.2 Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế đất nước
2.2.1 Tính tất yếu tồn tại của kinh tế thị trường ở nước ta
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự tồn tại của sản xuất hàng hóa là một tất yếu khách quan. Bởi vì, trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Ở nước ta, trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế thị trường. Sản xuất càng xã hội hóa, chuyên môn hóa thì càng đòi hỏi phát triển sự hiệp tác và trao đổi hoạt động trong xã hội, càng phải thông qua sự trao đổi hàng hóa để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất khác nhau.
Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hóa mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển sản xuất. Phát triển kinh tế thị trường là phát triển lực lượng sản xuất xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. Phát triển kinh tế thị trường còn làm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan, là một nhiệm vụ kinh tế cấp thiết để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế thị trường không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ hơn.
Thực tiễn các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam cho thấy: khi nào và ở bất kỳ nước nào (dù là nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa) nếu không coi trọng kinh tế thị trường thì đất nước không phát triển nhanh được và ngược lại, nếu biết vận dụng kinh tế thị trường thì đất nước phát triển nhanh chóng. Chính vì thế mà Đảng ta đã khẳng định: “ Kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường)…không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”. Thực tiễn 20 năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình đó, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định đảm bảo nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 7%.
2.2.2 Những thành tựu đạt được trong công cuộc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã có được những thành tựu rất đáng tự hào:
- GDP tăng gấp đôi từ 1991 – 2000 với tỷ lệ tăng bình quân 7,5%.
- Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa và từng bước hiện đại hóa.
- Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa được xác lập, đang tiếp tục hình thành và phát triển các loại thị trường: hàng hóa, lao động, bất động sản, tiền tệ, chứng khoán, khoa học công nghệ…
- Tỷ lệ nghèo chung theo chuẩn quốc tế giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002 với khoảng 25 triệu người thoát khỏi đói nghèo, hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu.
- Chỉ số phát triển con người HDI được cải thiện và nâng cao đáng kể từ 0,610 năm 1990 lên 0,691 năm 2002.
- Quan hệ thương mại với trên 165 nước, ký hiệp định thương mại với hơn 72 nước.
- Chính trị, an ninh, quốc phòng, giáo dục, văn hóa, y tế được củng cố và tăng cường.
Những thành tựu trên cho thấy sự tất yếu khách quan trong việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường ở nước ta.
3. Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
3.1 Một số lý luận chung của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin thì kinh tế quyết định chính trị “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Chính trị là công cụ mãnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của mỗi giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, thực chất là đấu tranh về lợi ích kinh tế được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Và khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì khi đó nhu cầu được thay thể bởi một thể chế chính trị khác phù hợp, mở đường cho kinh tế phát triển là một nhu cầu tất yếu khách quan. Như vậy, có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế, đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới kinh tế xã hội ở Việt Nam nói riêng.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII tháng 6 năm 1991, Đảng đã khẳng định: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm, nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa, coi đó là điều kiện quan trọng để điều hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị”. Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng ta chỉ rõ phải tập trung sức để đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới kinh tế phải đi đôi với từng bước đổi mới chính trị. Trong quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế.
3.2 Một số mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và phương hướng giải quyết
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một nền kinh tế quá độ nên nó không thể tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Sau đây tôi xin được nêu ra một số mâu thuẫn và những suy nghĩ của mình về việc giải quyết những mâu thuẫn này.
3.2.1 Mâu thuẫn giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế
Công bằng xã hội là một nguyên tắc phân phối lợi ích, thước đo của nó là sự bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, được thực hiện dựa trên sự tự nguyện của các cá nhân. Nguyên tắc phân phối lợi ích được hình thành trong mối quan hệ lợi ích giữa người với người và là thước đo để phân chia lợi ích chung của xã hội. Thước đo này được quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của một phương thức sản xuất nhất định, trước hết là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (quan hệ xác định địa vị của mỗi cá nhân trong nền sản xuất). Nguyên tắc phân phối lợi ích dựa trên cơ sở địa vị của các cá nhân trong quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất trở thành nguyên tắc phân phối chung của mọi quan hệ sản xuất.
Trong khi đó, công bằng xã hội cũng là một nguyên tắc phân phối lợi ích. Khác với nguyên tắc phân phối nói chung, thước đo của nguyên tắc lợi ích công bằng chính là sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ tương ứng giữa cống hiến và hưởng thụ với tiêu chí cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Hơn nữa, nếu nguyên tắc phân phối nói chung được thực hiện bằng cách không dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện chung thì ngược lại, nguyên tắc phân phối lợi ích công bằng lại được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện của mọi cá nhân cùng tham gia vào một quan hệ lợi ích. Công bằng xã hội không chỉ có tác động mạnh mẽ, tích cực trong lĩnh vực kinh tế, mà còn đóng vai trò điều chỉnh quan hệ giữa con người với con người trong các lĩnh vực chính trị, đạo đức…Do vậy, nó vừa tạo nên trạng thái ổn định của xã hội, vừa tạo nên những điều kiện cần thiết thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. Đồng thời, công bằng xã hội còn là điều kiện để mỗi cá nhân có thể phát huy cao nhất năng lực vốn có cũng như được phát triển ngày càng toàn diện hơn.
Có thể nói, công bằng xã hội với tư cách là động lực phát triển kinh tế - xã hội hoàn toàn mang tính khách quan, phổ biến và tất yếu. Bởi vì, xã hội là kết quả hoạt động của những con người có nhu cầu, lợi ích và mục đích riêng của mình, mà nhu cầu, lợi ích và mục đích ấy của con người đều bị qui định bởi hoàn cảnh bên ngoài, trước hết là hoàn cảnh kinh tế. Ở mỗi một giai đoạn lịch sử cụ thể với một hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định, bao giờ cũng có một thước đo của công bằng xã hội tương ứng làm căn cứ để xác định một tỷ lệ tương ứng cụ thể giữa cống hiến và hưởng thụ cho mọi chủ thể cùng tham dự vào nền sản xuất kinh tế - xã hội. Ph.Ăngghen khẳng định: “Phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào chỗ số lượng nào của sản phẩm được phân phối…”. Nguyên tắc phân phối công bằng tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân đều có quyền tự do lựa chọn việc tham gia cống hiến vào sự phát triển của xã hội cũng như quyền được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến đó.
Nhưng, suy cho cùng, chỉ có hoạt động bằng lao động của con người mới thực sự đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Trong một hình thái kinh tế - xã hội, khi nào công bằng xã hội dựa trên xuất phát điểm bình đẳng giữa người và người trong quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và thước đo sự công bằng ấy là nguyên tắc phân phối theo lao động thì lúc ấy, công bằng xã hội mới đúng là sự công bằng của con người, do con người và vì con người.
Vậy thì phải chăng công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế là những mục tiêu không tương dung nhau và do đó, hoặc là phải hy sinh công bằng xã hội để đạt được tăng trưởng kinh tế hoặc là phải hy sinh tăng trưởng kinh tế để đạt được công bằng xã hội?
Phân tích vai trò của quy luật kinh tế thị trường mà hạt nhân là nguyên tắc trao đổi ngang giá cho thấy, nguyên tắc này đã mở ra những khả năng cho việc giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tính năng động và năng lực sáng tạo của từng cá nhân. Sự tác động của nguyên tắc này đòi hỏi mọi chủ thể sản xuất kinh doanh và từng cá nhân người lao động phải tuân theo quy luật kinh tế nhằm đảm bảo các lợi ích kinh tế của mình. Kinh tế thị trường mở ra những điều kiện, những cơ hội thuận lợi cho con người phát triển năng lực của mình, đồng thời cũng làm bộc lộ những yếu kém, bất cập của con người. Sự khác nhau về khả năng giữa các chủ thể dẫn đến mức độ đáp ứng không giống nhau trước những đòi hỏi khắc nghiệt của các quy luật trong nền kinh tế thị trường. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo và tình trạng bất bình đẳng trong quan hệ kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt nguyên tắc trao đổi nganh giá sẽ phát triển và thúc đẩy một sự trao đổi ngang giá ngày càng thực sự hơn so với trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa cũng khiến cho quan hệ ngang giá ở đây trở nên công bằng hơn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng tạo ra nhiều cơ hội bình đẳng hơn cho tất cả mọi người có thể phát huy được tính năng động, sáng tạo của mình, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và đưa đất nước đi lên, đồng thời, cho phép thực hiện các hình thức phân phối tương xứng với sự cống hiến nhiều mặt của mỗi cá nhân trong xã hội. Nói cách khác, việc tạo ra một xuất phát điểm như nhau sẽ phần nào hạn chế được sự khác biệt vốn có giữa người với người về khả năng bẩm sinh cũng như những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Điều đó làm cho việc phân phối trở nên công bằng hơn.
Vậy thì làm thế nào để tạo ra một xuất phát điểm bình đẳng cho mọi cá nhân, khi đó vai trò điều tiết của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Sự điều tiết của Nhà nước thực sự là “chìa khóa để đáp ứng những nhu cầu phức tạp và trái ngược nhau của xã hội”. Sự điều tiết của Nhà nước phải được thực hiện bằng những chủ trương, chính sách phù hợp với thước đo công bằng xã hội, chứ không phải áp đặt một cách chủ quan. Điều này thể hiện ở chỗ, Nhà nước phải dùng những chính sách kinh tế - xã hội khác nhau để điều chỉnh và tạo đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế, đặc biệt là dùng các chính sách thu hút những nguồn lực về vốn, tài sản hay lao động. Bên cạnh đó, cần phải kết hợp chính sách phát triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội. Có như vậy mới thực sự làm cho công bằng xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trở nên đầy đủ hơn.
3.2.2 Mâu thuẫn giữa vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường
Theo quan điểm duy vật biện chứng, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh một cách tự giác, tự nguyện hành vi của con người vì lợi ích của cộng đồng, của xã hội.
Kinh tế thị trường là yếu tố thúc đẩy sự năng động và sáng tạo, cổ vũ sự cách tân và phát triển đất nước. Song, nền kinh tế ấy cũng để lại cho chúng ta không ít những tiêu cực của xã hội, trong đó có cả những vấn đề về đạo đức, mặc dù đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong cơ chế thị trường, tiền bạc được dùng làm thước đo giá trị, người nào kiếm được nhiều tiền càng được coi trọng, do đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều người với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã sử dụng mọi biện pháp và thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn xấu xa và tàn ác theo triết lý “khôn sống mống chết”. Đối với họ, có tiền là có tất cả, tiền bạc có thể mua được mọi thứ, vì thế khi ma lực của đồng tiền càng lớn thì khả năng phá hoại của nó trước những mối quan hệ tinh thần, đạo đức giữa người và người càng mạnh. Nhiều người đã hối hả làm giàu, làm giàu bằng mọi thủ đoạn, mánh khóe như buôn lậu, trốn thuế, buôn gian bán lận…Không ít những trường hợp khi tham gia thị trường đã bất chấp tất cả, coi thường đạo lý, vi phạm pháp luật, làm đảo lộn các giá trị đạo đức. Chúng ta đều biết và thực sự đau lòng trước thực trạng những năm gần đây, số vụ buôn lậu, nhất là buôn lậu ma túy, nạn làm hàng giả và buôn bán hàng giả ngày càng gia tăng. Các vụ việc tiêu cực lớn như Tamexco, Epco, Minh Phụng, Vũ Xuân Trường lần lượt được đưa ra ánh sáng, phải chăng tất cả những sự việc đó đều bắt nguồn từ việc con người ngày càng theo đuổi những thụ hưởng vật chất. Chúng ta phải thừa nhận một điều, kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi cho sự nảy sinh và phát triển chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thụ hưởng. Kinh tế thị trường dẫn tới một bộ phận đề cao quá mức thậm chí tuyệt đối hóa tự do cá nhân, lợi ích cá nhân. Đối với họ, lợi ích của cá nhân là trên hết, vì lợi ích của bản thân mình mà họ có thể làm những việc ảnh hưởng đến lợi ích của những người khác, thậm chí của cả cộng đồng. Trong nhiều trường hợp, những toan tính ích kỷ đầy màu sắc thực dụng đã len lỏi, chi phối quan hệ giữa người với người. Chủ nghĩa thụ hưởng cũng gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sẵn có đồng tiền (có thể bằng con đường bất chính), nhiều kẻ tiêu xài lãng phí theo kiểu “vứt tiền qua cửa sổ”, sa đọa, trụy lạc. Điều đáng buồn và suy nghĩ là hiện nay, những tiêu cực của nền kinh tế thị trường không những làm tha hóa một bộ phận không nhỏ người dân mà còn làm tha hóa không ít những cán bộ nhà nước, những người nhận lương của nhà nước nhằm phục vụ nhân dân. Thực tế cho thấy, không ít cán bộ đã bị tha hóa về phong cách sống, lối sống, trở thành nô lệ của đồng tiền, lợi dụng chức quyền, đánh mất nhân phẩm của mình và chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Biểu hiện nổi bật nhất của tình trạng suy thoái đạo đức của cán bộ nhà nước là hành vi tham nhũng. Tệ nạn này đã trở thành “quốc nạn”, gây ảnh hưởng cực kỳ nguy hại đến nền tảng đạo đức của xã hội. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Những tài liệu được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng trong những năm vừa qua với những vụ án điển hình như vụ PMU 18, vụ tiêu cực về phân phối quota dệt may của một số quan chức bộ Thương mại, những tiêu cực của tổng công ty dầu khí hay viễn thông đã chứng minh cho nhận định của Đảng: “Tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”. Một thực tế đau lòng mà chúng ta phải công nhận, đó là những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đang ăn mòn những giá trị đạo đức truyền thống vốn có của dân tộc ta, dường như những giá trị đạo đức, như tinh thần tương trợ lẫn nhau, kính già yêu trẻ, thấy việc nghĩa không từ nan, các truyền thống tốt đẹp trong gia đình và nhà trường…của mọi người ngày càng mờ nhạt và có nguy cơ bị mai một, vứt bỏ.
Mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức là mối quan hệ hữu cơ, mật thiết. Mỗi một cơ chế kinh tế mới đều trở thành yếu tố làm nảy sinh những hành vi đạo đức của con người. Do vậy, để có thể xây dựng được những giá trị đạo đức tích cực, phù hợp và thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì quan trọng chúng ta phải xây dựng được “những điều kiện mới” cho việc nảy sinh những hành vi đạo đức tích cực. Việc xây dựng đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải là sự kết hợp một cách tổng thể giáo dục đạo đức và thi hành luật pháp. Nếu chỉ áp dụng thuần túy phương pháp tuyên truyền, giáo dục sẽ không thắng nổi sức mạnh của tập quán, của sự thờ ơ, coi thường và phớt lờ dư luận. Nếu không dựa vào những biện pháp pháp luật sẽ không tác động được đến ý thức công dân, đến lối suy nghĩ của con người trong quá trình xây dựng những giá trị đạo đức mới và đấu tranh với những hành vi đạo đức đối lập được sinh ra trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa giao tiếp để làm cho mỗi con người đều phải tuân thủ những chuẩn mực và quy tắc đạo đức mới một cách tự nhiên và dần dần trở thành thói quen, trở thành một nhu cầu tinh thần là yếu tố không kém phần quan trọng. Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách đạo đức của con người, chúng ta cần quan tâm giáo dục đạo đức trong gia đình, nhà trường và tập thể lao động. Cùng với đó, chúng ta phải thường xuyên quan tâm tới việc tăng cường áp lực xã hội, sự phản ứng của xã hội đối với nh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35809.doc