lời nói đầu
Từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ VI đến nay, nước ta có nhiều đổi mới quan trọng, đặc biệt là chuyển đổi nền kinh tế tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa vận hành theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế mở cửa đã tạo điều kiện cho nhiều lĩnh vực kinh tế hoạt động, giao lưu và hội nhập những khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, bước đầu đã gặt hái được những thành công đ
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1547 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những mâu thuẫn chủ yếu trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và giải quyết những mâu thuẫn đó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áng kể như kiềm chế được lạm phát trong điều kiện nền kinh tế phải đối phó với nhiều khó khăn và nguồn viện trợ từ bên ngoài rất hạn chế, lạm phát năm 1986 là 487% đến năm 1994 chỉ còn 14%.
Trong nông nghiệp, thu nhập tăng 60% khoảng từ năm 1993-1998, ngoài ra hiện nay Việt nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan. Quan hệ kinh tế- thương mại quốc tế tăng nhanh, mở rộng giao lưu với nhiều bạn hàng trên thế giới, đặc biệt tăng cường mối quan hệ Việt- Mỹ. Kim nghạch xuất nhập khẩu tăng 28% trong những năm 1989-1991. Thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI vào Việt Nam, mỗi năm có khoảng 400 dự án với số vốn đăng kí khoảng 3 tỷ USD.
Tuy nhiên bên cạnh những thành công, Việt Nam còn gặp không ít những hạn chế như vẫn còn khoảng 85% số người nghèo sống ở nông thôn và 79% số người nghèo lao động trong nông nghiệp, chiếm 1/4 GDP và 1/3 tổng kim nghạch xuất nhập khẩu .
Tổng số nợ của các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả hoặc không có lãi đến cuối năm 1999 theo ước tính chính thức là 126 nghìn tỷ VND ( tương đương gần 9 tỷ USD hay chiếm 32% GDP ) và làm suy yếu các hệ thống ngân hàng Thương mại quốc doanh, ít nhiều làm suy giảm nền kinh tế đất nước.
Những hạn chế trên là do nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN. Mặt khác sau ngày giả pháng ( 30-4-1975) chúng ta áp dụng máy móc phương thức sảm xuất của Liên xô (cũ), xoá bỏ nền kinh tế hàng hoá, phủ định những quy luật khách quan như quy luật Cung-Cầu, quy luật Phân phối...
Phải đến năm 1986 chúng ta nhận thức lại chủ nghĩa Marx-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, công nhận sự phát triển của kinh tế hàng hoá như một tất yếu của thời kì quá độ nhưng phải dưới sự quản lý của nhà nước.
Nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn và trong giai đoạn tranh tối tranh sáng, nhà nước cần phải có những bước đi chắc chắn và dứt khoát nếu không nền kinh tế dễ dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ gây ảnh hưởng tới quá trình phát triển đi lên CNXH ở nước ta hiện nay.
Để giải quyết những khó khăn và trả lời những câu hỏi ?. Làm thế nào để khắc phục được cái nghèo và nguy cơ tụt hậu so với các nước trên thế giới và trong khu vực?. Làm thế nào để phát triển kinh tế theo mục tiêu định hướng, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh?. .Làm thế nào để tiến lên con đường XHCN một cách ngắn nhất?. Chúng ta cần nghiên cứu những mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế, tìm ra giải pháp và giải quyết những mâu thuẫn đó, nền kinh tế tất nhiên sẽ đi đúng hướng XHCN mà đảng và nhà nước ta đã lựa chọn.
Đề tài “Nghiên cứu những mâu thuẫn chủ yếu trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay và giải pháp giải quyết những mâu thuẫn đó” , là đúng đắn và có giá trị thực tiễn trong thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay.
Đề tài này có 4 phần chủ yếu sau:
Chương I: Sự cần thiết phải nghiên cứu những mâu thuẫn chủ yếu trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Chương II: Những mâu thuẫn chủ yếu trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Chương III: Những khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá đem lại
Chương IV: Một số giải pháp và kiến nghị giải quyết những mâu thuẫn nhằm phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN.
Kết luận
Tất nhiên đề tài này chỉ là một phần đóng góp nhỏ bé của tôi trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, nhất là Đảng vừa họp đại hội khoá IX đã đề ra cương lĩnh chính trị, kinh tế... nhằm phát triển xã hội đưa cả nước tiến lên con đường CNXH.
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong bạn đọc thông cảm và chỉ dẫn tôi hoàn chỉnh đề tài này được tốt hơn.Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và bạn bè đã giúp đỡ tôi làm đề tài này.
Chương I
sự cần thiết phải nghiên cứu những mâu thuẫn chủ yếu trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xhcn ở việt nam.
I. tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Vì sao lại phát triển KTHH nhiều thành phần?
Nước ta quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Sau ngày giải phóng miền Nam nước ta tồn tại ba loại hình kinh tế chủ yếu: kinh tế hàng hoá (đặc trưng ở miền Nam) kinh tế cổ truyền (tự cung, tự cấp), kinh tế kế hoạch tập trung (đặc trưng ở miền Bắc) và chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả nước. Cơ chế kế hoạch gắn liền với việc quản lý quan liêu, bao cấp đã không phù hợp với tình hình thực tế. Do chủ quan cứng nhắc chúng ta không thể quản lý được hiệu quả nguồn lực của quốc gia và khi nền kinh tế quan liêu phát triển, phổ rộng trên cả nước thì nền kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng, hệ thống XHCN có nguy cơ sụp đổ. Tài nguyên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, nhà nước bao cấp tiến hành bù lỗ trên diện rộng gây nên các hậu quả của nên kinh tế như sự tăng trưởng chậm lại, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách thâm hụt nặng nề, thu nhập kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ coi như không, lạm phát tăng cao giá cả leo thang...
Việc áp dụng cơ chế tập trung kém hiệu quả ở nước ta là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu đó là áp dụng mô hình kinh tế chưa thích hợp với điều kiện của đất nước. Các Marx - Phớt Ănghen viết: Chỉ khi nền sản xuất xã hội hoá cao, lúc đó đòi hỏi khách quan phải quản lý toàn bộ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thống nhất. Không phải tự nhiên giai cấp vô sản tăng lên nhanh chóng cả về chất lẫn về lượng trong một thời gian ngắn được, mà phải trải qua một thời kì lâu dài.
Trong tác phẩm, Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ăng ghen khi bàn về vấn đề xây dựng một nền kinh tế công hữu đã chỉ ra rằng: Không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu, cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô sản sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu. Nhưng trong thời gian ngắn, cả nước ta đã thay thế hoàn toàn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất với chế độ công hữu, lực lượng sản xuất chưa đủ khả năng quản lý phương thức sản xuất mới đó đã dẫn đến hậu quả cả nước lâm vào tình trạng tồi tệ, kinh tế giảm sút, thất nghiệp, đói ngèo... Dõ dàng khi mà chế độ công hữu chưa thể trở thành một tất yếu kinh tế, khi lực lượng sản xuất chưa phát triển đến trình độ nhất định thì tất yếu vẫn tồn tại chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu vẫn là hình thức chủ yếu trong thời kì quá độ ở nước ta hiện nay, chúng ta không thể xây dựng nhanh chóng chế độ công hữu mà phải trải qua thời kì lịch sử lâu dài, qua nhiều nấc trung gian, quá độ. Thông qua mỗi bước đi, mỗi hình thức quá độ để tạo điều kiện cho nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng tăng lên .
Như vậy sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu khách quan.
Bởi lẽ trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa ở nước ta, do lực lượng sản xuất chưa phát triển cao nên còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu và chưa thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu và thiét lập chế độ công hữu, chúng ta cần phải có tác động tích cực đến lực lượng sản xuất. Những thành phần kinh tế của xã hội cũ chỉ có thể mất đi khi không còn tác dụng đối với phát triển của lực lượng sản xuất và những thành phần kinh tế mới đặc trưng cho phương thức sản xuất mới sẽ ngày càng phát triển và dẫn dắt, chuyển hoá các thành phần kinh tế khác hội nhập vào phương thức sản xuất mới.
Mặt khác, thực trạng cơ cấu hạ tầng vật chất xã hội nước ta còn thấp kém, trình độ vật chất trong các doanh nghiệp còn lạc hậu, không có khả năng cạnh tranh, sức mau của dân thấp, thu nhập theo đầu người còn nhỏ chưa đủ ăn và chi tiêu các nhu cầu khác. Đặc biệt chúng ta thiếu những người quản lý sản xất kinh doanh, có khả năng tham ra cạnh tranh trong nước cũng như ngoài nước.
Những năm qua do áp dụng máy móc vào nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa, vào nước ta đã làm sơ cứng các quy luật xưa nay vẫn nhậy cảm như quy luật cung - cầu, quy luật giá cả quy luật giá trị, quy luật phân phối ...Do những hạn chế và sai lầm trước kia đã xuất hiện một vấn đề cấp bách là thay đổi và phát triển nền kinh tế hàng hoán nhiều thành phần nhưng phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước.
Đặc điểm của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta hiện nay.
Trước hết cơ sở của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đó là tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hoá tuy có bản chất khác nhau nhưng chúng đều là những bộ phận hoạt động trong các quy luật và thống nhất với các quan hệ Cung - Cầu, Tiền tệ, giá cả chung ... Bởi vậy, chúng vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, chúng vừa phù hợp nhưng đồng thời các thành phần kinh tế ấy vừa mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên các thành phần kinh tế đều chịu tác động cuả các quy luật kinh tế khác, chính những tác động khác nhau đó đã tạo nên những mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và không chủ yếu, đối kháng và không đối kháng giữa chúng,khiến cho nền xản xuất hàng hoá ở nước ta có xu thế phát triển đa hướng.
Tuy nhiên đứng trước thực tại, nước ta đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội không thể để cho các thành phần kinh tế phát triển một cách tự phát. như kinh tế cá, thể kinh tế tư bản tư nhân có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất và vấn đề việc làm cho người lao động, mặt khác, đáp ứng nhu cầu về vốn, hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Nhưng vì dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sảm xuất, các thành phần kinh tế này hoạt động tự phát và chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nẩy sinh hiện tượng tiêu cực làm tổn hại những thành tựu mà ta đã đạt được và tìm mọi cách để thủ tiêu, xoá bỏ nhà nước xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Do đó, nhà nước trong thời kỳ quá độ này buộc phải tồn tại để tồn tại chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ người bóc lột người nhưng ở mức độ kiểm soát được. Cần phải phát triển kinh tế nhà nước đủ mạnh để làm vai trò chủ đạo, định hướng các thành phần kinh tế khác đi theo con đường mà đảng và nhà nước ta đã lựa chọn, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các loại hình cơ bản của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt nam.
Nền kinh tế nước ta trước Đại hội VI gắn liền với việc thi hành chính sách công cộng hoá hiện vật hoá trong cơ chế quản lý ngày càng bộc lộ thêm nhiều khuyết tật. Vì vậy tại Đại hội VI nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kế thừa và phát huy Đại hội IX ngày 19/5/2001 vừa qua Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ ché thị trường có sự quản lý của nhà nướctheo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hàng hoá có nhiều hình thức sở hữu hay có nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đảng chỉ ra có 6 loại hình kinh tế đó là:
Kinh tế nhà nước.
Kinh tế hợp tác xã.
Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế cá thể.
Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế 100% vốn đầu tư của nước ngòai.
II. Đặc trưng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh ngiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Để từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa , với trình độ phát triển hiện nay và trong năm tới của lực lượng sản xuất ở nước ta, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, phải không ngừng được củng cố và phát triển trong những nghành, những lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu, và được thể hiện thông qua các mặt:
Đi đầu về nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy sự tưng trưởng nhanh và bền vững của nèn kinh tế quốc dân.
Bằng nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để nhà nước để nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lý nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa..
Kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể mà thành phần trong nó có sự liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng cá nhân với sức mạnh của tập thể và giải quyết có hiệu quả những vấn đề về sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả của cổ phần và lao động. Mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung. Hợp tác xã được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình dẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ.
ở Việt nam, hợp tác xã vẫn và sẽ tồn tại ở nhiều hình thức đa dạng, phong phú từ thấp đến cao. Chẳng hạn có những hợp tác xã trở thành hoạt động chính của nền sản xuất kinh doanh hoặc có những hợp tác xã chỉ sản xuất ra một loại sản phẩm nhất định và xã viên chỉ góp một phần vốn, một phần sức lao động nhất định. Hợp tác xã có thể là kết quả của liên kết theo chiều dọc, chiều ngang, hoặc hỗn hợp hoặc không hỗn hợp, không bị giới hạn bởi địa giới hành chính và hoạt động kinh doanh. Mỗi người hoặc mỗi gia đình có thể tham gia vào nhiều hợp tác xã khác nhau và hợp tác xã có thể huy động vốn từ bên ngoài vào tuỳ theo tình hình hiện thực của hợp tác xã đó.
Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tếbao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và tư bản tư nhân ngoài nước.
Đây là hình thức kinh tế có vai trò quan trọng trrong việc động viên tiềm năng về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý, của các nhà tư bản vì lợi ích của chính bản thân họ cũng như công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Do vậy, sự phát triển thành phần kinh tế này là đòi hỏi khách quan, được đửng và nhà nước ta rất quan tâm và thực hiện một cách rộng dãi, lâu dài. Bước đầu đã thu được những thành tựu khả quan phục vụ cho mục tiêu phát triển của đảng trong những năm tới, nhất là Việtnam đang từng bước gia nhập vào khu vực tự do mậu dịch WTO với nhiều mục tiêu khác trong những năm (2001-2005) , (2001-2020).
Kinh tế cá thể tiểu chủ.
Là thành phần kinh tế nhỏ mà thu nhập hoàn toàn dựa vào sức lao động vốn có của bản thân người lao động và gia đình là chủ yếu. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể thuê lao động nhưng quy mô không lớn và cơ bản vãn dựa vào vốn và của gia đình là chính.
Hiện nay kinh tế cá thể có vị trí quan trọng trong nhiều ngành nhiều nghể nông thôn và thành thị. Có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động và tay nghề của mỗi gia đình. đễ nhậy cảm và thay đổi theo cơ chế thị trường và dễ dàng phục vụ những nhu cầu trong xã hội. Do đó cần phải mở rộng và phát huy nền kinh tế này.
Tuy nhiên do nền kinh tế này có nguồn vốn không lớn, sản xuất chủ yếu bằng lao động thủ công, chân tay là chính. Không đáp ứng được nhu ccù to lớn của thị trường, nền kinh tế đó còn mang tính tự phát, mánh khoé. Trong cả nước đang tiến lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề đặt ra cho các nhà chức trách một bài toán là càn phải phát triển nền kinh té này trong moọt khoảng thời gian và thời gian đó là như thế nào cho phù hợp với tình hình đất nước hiện nay và trong tương lai ra sao. Thứ nhất là cần phải kết hợp những gia đình này lại thành một hợp tác xã nhưng chỉ khoảng 5 - 5,5 gia đình mà thôi bởi lẽ nếu nhiều quá thì không kỉêm sóat được, nhằm tạo điều kiện hình thành một cơ sở có sự mở rộng về vốn và chất lượng cũng như số lượng, phát huy tính tự chủ trong quần chúng nhân dân, tận dụng những trang bị kĩ thuật tối tân trên thế giới hiện nay và sản xuất những mặt hàngđáp ứng thị trường trong lẫn như ngoài nước.
Kinh tế tư bản tư nhân .
Là thành phần kinh tế mà sản xuất dựa chủ yếu vào quá trình bóc lột sức lao động của giai cấp làm thuê và sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất.
Trong thời kì quá độ do lực lượng sản xuất chưa có thể phát triển đến trình độ nhất định và chưa thể hoàn thành nhiệm vụ thủ tiêu chế độ xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Do vậy kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước cần phát triển và khuyến khích giai cấp tư sản bỏ vốn vào đầu tư những nghành kinh tế không mang tính chất chi phối quyết định với đời sống xã hội. Nhà nước đã và đang xây dựng sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo họ quyền sở hữu, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế này về tín dụng, khoa học kĩ thuật, công nghệ, thông tin, kinh tế tri thức.
Mặc dù nền kinh tế tư bản tư nhân có những thuận lợi nhưng không thể để cho chúng phát triển một cách tự phát, cần phải đinh hướng thành phần kinh tế này đi đúng hương mà nhà nước ta đã chọn lựa.
6. Kinh tế 100% vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt nam (FDI).
Đây là thành phần kinh tế mới và tồn tại ở nước ta trong những năm gần đây và dược quốc hội khẳng định trong lần họp đại hội đảng lần thứ IX ngày 19-4-2001 vừa qua. Thành phần kinh tế này được phát triển bởi lẽ, Việt nam cần hội nhập và tận dụng thông tin tri thức từ thế giới chúng ta cần phải mở rộng thị trường trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng làm ăn hợp tác một cách bình dẳng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam có điều kiện tiếp xúc với nền tri thức của nhân loại. Chúng ta không nên độc đoán trong việc mở rộng giao lưu với các nước trên thế giới đặc biệt là Mỹ và các nước khác trong phe tư bản chủ nghĩa.
Hướng tới mục tiêu trên, Việt Nam dần dần từng bước xoá bỏ hàng rào thuế quan cho một số các loại mặt hàng và dự tính đến cuối năm 2005 hàng rào thuế quan sẽ bị phá bỏ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội tiếp xúc thị trừơng Việt Nam.
Nói chung nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là dặc trưng cho thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . các thành phần kinh tế này vừa tồn tại vừa phảt triển và có những mối liên hệ mật thiết, đan xen nhau, tác động, ảnh hưởng nhau, xâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Dưới sự quản lý của nhà nước và hướng giải pháp cho những mâu thuẫn tồn tại do qua trình mở cửa nền kinh tế thị trường tạo ra, định hướng cho các thành phần kinh tế này đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa.
III- lý luận chung về những mâu thuẫn
Mâu thuẫn theo quan điểm của Marxit là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Một sự vật chỉ tồn tại được, chỉ có sức sống chừng nào nó bao hàm mâu thuẫn, chứa đựng những mâu thuẫn, mâu thuẫn là khách quan là phổ biến.
Mâu thuẫn biện chứng không chỉ là sự phủ định, sự loại trừ lẫn nhau giữa các mặt đối lập mà nó là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập, vì vậy, nó bao hàm cả thống nhất giữa chúng. Thống nhất là điều kiện là cơ sở của đấu tranh, còn đấu tranh đi tới chuyển hoá.
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập dược làm sáng tỏ trong một loạt những phạm trù cơ bản: (mặt đối lập). Sự thống nhất, và đấu tranh của các mặt đối lập.
Mặt đối lập là những yếu tố, những thuộc tính có đặc điểm hay có khuynh hướng vận động ngược chiều nhau; chúng không phải chỉ thống nhất với nhau, đấu tranh với nhau mà còn chuyển hoá lẫn nhau. Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng luôn luôn tồn tại trong sự thống nhất với nhau, với nghĩa chúng nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm điều kiện làm tiền đề. Nói cách khác, sự thống nhất của hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng là tính không thể tách rời của hai mặt đó. Thống nhất là sự liên kết với nhau, sự bổ xung cho nhau, là tiền đề, là cơ sở tồn tại của nhau. Sự thống nhất không thể tách rời các mặt đối lập trong cùng một sự vật, cấu thành mặt bản chất của sự vật đó. Sự thống nhất còn có ý nghĩa là là sự đồng nhất, sự phù hợp, sự tác động ngang qua nhau. Sự thống nhất ở những giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển của sự vật
Với ý nghĩa đó : sự thống nhất giữa các mặt đối lập- còn bao hàm, sự đồng nhất của các mặt đối lập. Lê nin cho rằng sự thống nhất chỉ là tương đối, là tạm thời, là thoáng qua là có điều kiện.Tồn tại trong một thể thống nhất hai mặt đối lập luôn luôn ,đấu tranh, với nhau.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự bài trự sự phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Đấu tranh còn là sự triển khai của những khuynh hướng khác biệt. Không nên quan niệm đấu tranh là sự đụng độ sự xung đột mà tuỳ thuộc vào sự vật cụ thể, các mâu thuẫn khác nhau, ở các giai đoạn phát triển khác nhau và trong những điều kiện khác nhau có những hình thức đấu tranh cụ thẻ khác nhau. Có thể nói đấu tranh là đa dạng, phong phú và mềm dẻo.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành các chất vô cơ khác hẳn cuộc đấu tranh giữa các thể sống. Đấu tranh trong lĩnh vực tự nhiên hoàn toàn khác đấu tranh trong xã hội. Đấu tranh trong thời kì man dã khác đấu tranh trong thời đại văn minh. Tuy nhiên, tính chất chung cơ bản của mọi cuộc đấu tranh là đưa đến xoá bỏ caí cũ, cái không phù hợp, cái lỗi thời để tạo thành những cái mới.
Đấu tranh là tuyệt đối, bởi đấu tranh tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật và nó xuất phát từ sự khác biệt cuả các mặt đối lập. Vì vậy, đấu tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển của các mặt đối lập vì chỉ có đấu tranh mới loại bỏ được cái cũ, cái không hợp thời để tạo điều kiện nẩy sinh cái mới, cái phù hợp.
Hai xu hướng khác nhau trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập của một mâu thuẫn biện chứng, thống nhất và đấu tranh có quan hệ biện chứng với nhau, không có thống nhất của các mặt đối lập thì không có đấu tranh giữa các mặt đối lập và ngược lại thống nhất là tương đối đấu tranh là tuyệt đối. Tính tương đối của sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im ổn định tạm thời của sự vật, so với vận động đứng im chỉ là tương đối, tạm thời, đứng im là sự biểu hiện của sự vận động đang trong trạng thái cân bằng. Do đó thống nhất chỉ là tương đối, đấu tranh làm cho sự vật vận động và phát triển, mà sự vận động là tuyệt đối nên đấu tranh là tuyệt đối.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất và đấu tranh với nhau mà chúng còn chuyển hoá lẫn. Sự thống nhất bao hàm cả sự chuyển hoá của các mặt đối lập, chuyển hoá cũng hết sức đa dạng và phong phú, những chuyển hoá diễn ra dưới hai hình thức: Chuyển hoá từng phần và chuyển hoá toàn bộ. Sự chuyenr hoá từng phàn là sự di chyển của các nhân tố, những đặc điểm của các mặt đói lập này sang mặt đối lập khác, còn sự chuyển hoá toàn bộ là chuyển hoá toàn bộ mặt đối lập này sang mặt đối lập. Nói chung, các mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau và tác động qua lại gữa chúng tạo thành mâu thẫn giữa các mặt đối lập. Mọi sự vật đều là thể thống nhất của các mặt đối lập, cho nên sự vật nào cũng bao hàm mâu thuẫn hay sự vật nào cũng chứa đựng mâu thuẫn. Vị trí các mâu thuẫn không dống nhau có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài, có mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản, có mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đói kháng. Mọi quá trình dều có phát sinh và phát triển, bến hoá không ngừng (Đồng nhất- khác nhau- mâu thuẫn).
Mâu thuẫn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của sự vật mọi sự vật chỉ tồn tại chừng nào nó bao hàm mâu thuẫn. Mâu thuẫn là nguộn gốc của mọi sự vận động và phát triển. Chính và vậy phân tích đúng mâu thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật.
Đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu những thay đổi tương ứng của các mặt đang tác động qua lại cũng như của sự vật nói chung làm cho sự chuyển hoá chuyển sang trạng thái khác về chất. Nói cách khác, đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự phát triển và vận động là xung lực của cuộc sống. Mặt khác không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa các mặt đối lập và do đó không có mâu thuẫn nói chung. Hơn nữa,sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự ổn định là điều kiện cho sự phân hoá cho sự phân hoá cho sự thay đổi và phát triển. Như vậy thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật cụ thể, các mâuthuẫn được chia thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Những mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài là sự tác động qua lại giữa những mặt những khuynh hướng đối lập nhau của các sự vật khác nhau. Chẳng hạn mâu thuẫn giữa dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa với chủ nghĩa quan liêu ở nước ta hiện nay. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tất yếu thoả mãn những nhu cầu tối thiểu hợp lý của nhân dân với tình trạng thấp kém cuẩ nền kinh tế hiện nay là những mâu thuẫn bên trong. Còn mâu thuẫn giữa yêu cầu ổn định hoà bình để kiến thiết đất nước với những hành động thù địch của bọn phản động quốc tế đối với nước ta hiện nay là những mâu thuẫn bên ngoài. Song việc phân chia giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối. Có thể, một sự vật nào đó trong mối quan hệ này chúng là mâu thuẫn bên trong nhưng trong mối quan hệ kia chúng trở thành mâu thuẫn bên ngoài và ngược lại. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định đối với sự phát triển của sự vật, ngay cả khi mâu thuẫn bên ngoài đóng vai trò làm điểm suất phát với sự phát triển của một hệ thống. Mâu thuẫn bên ngoài có thể thúc đẩy mâu thuẫn bên trong phát triển hoặc có thể hạn chế mâu thuẫn bên trong, làm giảm bớt tác dụng của mâu thuẫn bên trong, tạo điều kiện lâu dài bền vững hơn của các sự vật.
Theo ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn xuất phát từ bản chất của sự vật, nó hoạt động và quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó quy định nẩy sinh của các mâu thuẫn khác. Mâu thuẫn cơ bản chỉ có thể mất đi khi sự vật mất đi hoặc thay đổi căn bản về bản chất.Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho phương diện nào đó của sự vật,nó quy định sự hoạt động và phát triển một mặt nào đó của sự vật.Trong lĩnh vực đời sống xã hội, việc phân tích mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản có ý nghĩa rất quan trọng trong công cục đổi mới ở nước ta hiện nay. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất
Với tính chất chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, mâu thuẫn này chi phối các hoạt động khác trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên trong từng giai đoạn và khi nó được giải quyết thì nó tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn, đó là mâu thẫn không chủ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Sự phát triển cao hơn của sự vật và chuyển hoá của nó sang giai đoạn tồn tại khác phụ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp (lợi ích kinh tế là chủ yếu) mâu thuẫn trong xa hội được chia thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có những khuynh hướng xã hội đối lập nhau về lợi ích cơ bản (mâu thuẫn giữa Chủ nô - Nô lệ, Địa chủ - Nông nô, Tư sản - Vô sản). Như vậy nguồn gốc trực tiếp xuất hiện mâu thuẫn đối kháng là sự tồn tại lợi ích thù địch không thể điều hoà. Mâu thuẫn dối kháng không thể giải quyết được nếu không thủ tiêu chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất- cái đã sinh ra sự đối kháng lợi ích. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn có khuynh hướng đấu tranh gay gắt nhất và chỉ khi đạt tới giới hạn độ mới giải quyết được. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các lực lượng xã hội có đối lập nhau về lợi ích không cơ bản cục bộ chỉ mang tính chất tạm thời. Do vậy, nó khôngnhát thiết phải dược giải quyết thông qua hình thức đấu tranh. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuãn không đối kháng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định giải pháp giải quyết mâu thuẫn. Song, cả hai loại mâu thuẫn dều phải được giải quyết thông qua hình thức đấu tranh chứ không thể là dung hoà giữa các mặt đối lập.
Chương ii
Những mâu thuẫn trong việc phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở việt nam hiện nay.
i. những mâu thuẫn cơ bản.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Bởi đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp, vừa không đồng đều. Đó là việc giải quyết mâu thuẫn biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Đã có thời kỳ chúng ta nóng vội, cải tạo quan hệ sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu công cộng và sở hữu tập thể. Hậu quả dẫn đến mâu thuẫn không được giải quyết, sản xuất đình trệ, kinh tế tụt hậu.
Ngày nay, Đảng ta đã nhận thức lại sự phù hợp và không phù hợp là biện chứng khách quan cho bất cứ một xã hội nào, cho nên sẽ là không đúng nếu quan niệm rằng chủ nghĩa tư bản luôn luôn không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cho nên dẫn đến khủng hoảng kinh tế và cũng sẽ không đúng nếu quan niệm dưới chủ nghĩa xã hội lúc nào cũng có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất cho nên chủ nghĩa xã hội không có khủng hoảng kinh tế.
Sự phù hợp và không phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có cả trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Chỉ khác nhau ở chỗ chủ quan nào phát hiện ra được mâu thuẫn sớm và giải quyết có hiệu quả mâu thuẫn đó thì kinh tế ở nước đó sớm phát triển.
Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là vận dụng đýng đắn quy luật giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò nhất định, cần thi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35087.doc