Những khó khăn và thách thức của tiêu thụ hàng hoá Việt Nam trong điều kiện hội nhập và mở cửa. Phương hướng giải quyết

Lời nói đầu Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế khu vực và xu thế toàn cầu hoá như hiện nay có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Nó vừa là cơ hội lại vừa là thách thức, cơ hội thì rộng mở nhưng thách thức không ít mà hiện nay bài toán hóc búa, khó giải đang đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam là vừa phải tìm đầu ra cho các sản phẩm của mình ngay tại thị trường trong nước và một số thị trường truyền thống quốc tế. Điều đó có ngh

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những khó khăn và thách thức của tiêu thụ hàng hoá Việt Nam trong điều kiện hội nhập và mở cửa. Phương hướng giải quyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa là các sản phẩm mà chúng ta sản xuất ra đã và đang đối đầu, cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại có cùng chủng loại nhưng nó có nhiều ưu thế hơn các sản phẩm của ta, do đó mà sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước còn rất yếu; bên cạnh đó các sản phẩm xuất khẩu sang một số thị trường truyền thống quốc tế hiện đang có nhiều thay đổi và ngày càng khó tính hơn. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng phối hợp với chính phủ và các tổ chức có liên quan đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm giúp các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh về sản phẩm và từng bước phát triển. Đây là một đòi hỏi hết sức cấp bách, qua quá trình học tập, nghiên cứu môn học Kinh Tế Doanh Nghiệp Thươhg Mại, được sự giúp đỡ, hướng dẫn của PGS.TS Phạm Công Đoàn, học viên đã nghiên cứu, phân tích về những khó khăn và thách thức của tiêu thụ hàng hoá Việt Nam trong điều kiện hội nhập và mở cửa; phương hướng giải quyết những khó khăn và thách thức này. Vì điều kiện thời gian và kiến thức có hạn nên bài viết không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được sự giúp đỡ của PGS.TS Phạm Công Đoàn, giúp học viên có thể nâng cao nhận thức và xây dung cho mình phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học tốt hơn. Học viên xin chân thành cảm ơn ! Phần 1 Những khó khăn và thách thức của tiêu thụ hàng hoá Việt Nam trong điều kiện hội nhập và mở cửa Những năm gần đây, nhờ có sự ổn định về an ninh, chính trị nên sản xuất vật chất của Việt Nam vẫn tăng trưởng đều và ổn định, các doanh nghiệp chủ động tận dụng thời cơ phát triển sản xuất, kinh doanh, mở mang mặt hàng, từng bước bội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Trong đó, công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp vẫn diễn ra đều, lớn dần về số lượng, tăng dần về chất và ngày càng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nội địa lẫn nhu cầu của các hạn hàng truyền hệ thống quốc tế. Song thực tế hiện nay công tác này vẫn còn tồn tại và phát sinh nhiều khó khăn cũng như những thách thức. I. Những khó khăn, thách thức chung trong việc tiêu thụ hàng hoá Việt Nam. 1. ảnh hưởng bởi đặc điểm của doanh nghiệp Việt Nam. Kinh tế Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường chưa lâu, thêm vào đó vốn tích luỹ cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp Nhà nước không nhiều do chiến tranh và cơ chế kinh tế cũ để lại, cho nên các doanh nghiệp Việt Nam có những đặc điểm sau: - Thứ nhất, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ; lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh còn ít, do đó nó qui định lượng đầu ra ở mức khiêm tốn ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm, nhất là lượng sản phẩm dự trữ cho lưu thông nhiều khi còn bị thiếu hụt gây bất ổn giá cả thị trường, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Thứ hai, thành phần kinh tế có ảnh hưởng tương đối tới công tác tiêu thụ sản phẩm. Mặc dù các doanh nghiệp hiện nay đều có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh, độc lập và làm chủ về tài chính, chịu trách nhiệm trên tài sản và quyền hạn của mình nhưng vẫn còn sự ưu tiên, nhượng bộ cho các doanh nghiệp quốc doanh trong công tác tiêu thụ sản phẩm nhất là chính sách về thành phần kinh tế và chính sách khuyến khích xuất khẩu. 2. ảnh hưởng bởi tâm lý tiêu dùng và thói quen mua sắm của người Việt Nam. Hiện nay, phần lớn người Việt Nam có thu nhập trung bình, ngân sách dùng cho chi tiêu hạn chế, thêm vào đó thói quen sử dụng tiền mặt đi mua sắm còn phổ biến trong dân, kể cả chủ các doanh nghiệp, các quan chức cấp cao; đồng thời người Việt Nam chưa hình thành và xây dựng kế hoạch mua sắm như các nước tư bản phát triển ở phương Tây mà thường có thói quen mua sắm theo ngân sách và cảm hứng. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm thường tổ chức tiêu thụ sản phẩm thông qua các kênh phân phối ngắn, trực tiếp cho nên năng lực tập trung cho bán hàng của các doanh nghiệp thường rất cao, nhất là lực lượng bán hàng trực tiếp và chăm sóc khách hàng, song hiệu quả vẫn chưa cao. Đây là một đặc điểm khó khắc phục một sớm, một chiều mà bản thân từng doanh nghiệp phải có phương án kế hoạch bố trí, sắp xếp để hiệu quả bán hàng được tăng lên. 3. ảnh hưởng bởi đặc điểm của đặc trưng sản phẩm. Đặc điểm này được biểu hiện rõ rệt ở các sản phẩm ngành nông nghiệp bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Những đặc điểm đó là: Sản phẩm và thị trường sản phẩm màn tính chất vùng và khu vực do điều kiện tự nhiên quy định, nó tạo ra lợi thế so sánh tuyệt đối về sản phẩm giữa các vùng với nhau. Hai là do tính chất mùa vụ có tác động tới cung - cầu và giá cả thị trường về sản phẩm này nên cần phải tổ chức tốt các công tác chế biến, bảo quản và dự trữ sản phẩm để công tác tiêu thụ sản phẩm được thông suốt, giá cả được ổn định. Ba là sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng, phong phú là nhu cầu tối thiểu hàng ngày của mỗi người do đó tiêu thụ phải hết sức linh hoạt. Thêm vào đó là sản phẩm cồng kềnh, tươi sống khó bảo quản, vì vậy cần tổ chức các chợ nông thôn, cửa hàng lưu động, kèm theo đó là các phương tiện chuyên dùng riêng. II. Những khó khăn và thách thức cụ thể trong tiêu thụ hàng hoá hàng hoá Việt Nam 1 Quy mô của Doanh nghiệp Việt Nam. Quy mô sản phẩm của hầu hết các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp quốc doanh đều nhỏ do quy mô các yếu tố đầu vào và công tác dự trữ, bảo quản, phân phối của chúng ta còn nhỏ và yếu. Một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp sau khi sản xuất xong sản phẩm thường phân phối, tiêu thụ ngay, trực tiếp tới người tiêu dùng (bán buôn, bán lẻ và tiêu dùng cuối cùng), thêm vào đó trình độ tổ chức, quản lý ở nhiều doanh nghiệp còn yếu. Do đó, mở rộng quy mô sản phẩm tổ chức các kênh phân phối, lập kế hoạch dự trữ, ứng dụng công nghệ bảo quản,... là những đòi hỏi có tính bắt buộc, khẩn cấp khi chúng ta đề cập tới một nền sản xuất hàng hoá. 2. Chất lượng hàng hoá Việt Nam Chất lượng sản phẩm hàng hoá của ta còn chưa cao. Thể hiện ở những điểm sau: + Đối với các sản phẩm công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng thì chất lượng sản phẩm thường tập trung ở độ chính xác về các chỉ số kỹ thuật độ thích ứng với các tác nhân ngoại cảnh (trong đó có độ bền, độ chịu nhiệt, chịu xung lực kéo, lực cản,...) và độ an toàn trong sản xuất, trong tiêu dùng. Các yêu cầu về chất lượng này thì hầu như các sản phẩm mà chúng ta sản xuất ra còn thấp, chưa thể đáp ứng được với yêu cầu của sản xuất với tốc độ cao, độ chính xác gần như tuyệt đối; yêu cầu về sự tiện ích cũng như an toàn với người sử dụng. Cho nên, các sản phẩm công nghiệp mà các doanh nghiệp của ta đang tổ chức tiêu thụ chủ yếu là các sản phẩm gia công tiếp và hoàn chỉnh từ các sản phẩm dở dang hay mua các linh kiện của nước ngoài về lắp ráp để tiêu thụ hoặc các sản phẩm công nghiệp mà chúng ta sản xuất ra phần nhiều là ở dạng thô, chưa hoàn thiện phải nhờ một hay hai nước trung gian có trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến gia công, tinh chế nốt. Chẳng hạn như dầu thô, một số chi tiết của ô tô, các khối quặng,... + Đối với các sản phẩm nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp lâm nghiệp và thuỷ sản, chất lượng sản phẩm thể hiện ở tính có ích hương vị, màu sắc và độ sạch của sản phẩm. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động trong ngành này đã và đang nhanh chóng đưa quản lý chất lượng vào kinh doanh. Bên cạnh đó, một số vấn đề chưa được giải quyết triệt để như: chất lượng các nguyên liệu đầu vào các sản phẩm nông nghiệp cho chế biến còn chưa đồng đều, công tác thu hoạch, bảo quản, dự trữ còn yếu nên sản phẩm sau thu hoạch còn bị hao hụt mất độ hoàn hảo về hình thức, giảm hương vị, màu sắc,... độ an toàn vệ sinh thực phẩm còn thấp nhất là các sản phẩm hoa quả tươi, thuỷ sản,... Do vậy, để đảm bảo chất lượng, độ tươi ngon của sản phẩm cần có giải pháp hữu hiệu, kịp thời, trong đó tổ chức tiêu thụ cũng là một trong các nguyên nhân quan trọng. Ví dụ: Để giữ cho sản phẩm tươi, ngon, giảm hao hụt thì nên tổ chức kênh phân phối ngắn, trực tiếp hay sử dụng các hình thức mua tận gốc, bán tận ngọn... 3. Thương hiệu sản phẩm và hình thức trao đổi. Thương hiệu sản phẩm, đây là một phạm trù không phải là mới mẻ trên thế giới, song nó lại là vấn đề bức xúc , quan trọng ở Việt Nam hiện nay. Thực chất, vấn đề này đã xuất hiện và tồn tại rất lâu ở các doanh nghiệp kinh doanh có uy tín trong nước và một số thị trường khu vực như: Bia Sài Gòn, nước mắm Phú Quốc, nước mắm Phan Thiết, May 10, May Việt Thắng, giấy Bãi Bằng,... Những thế mạnh kinh doanh này chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm và chăm sóc, cho nên khi giao dịch, trao đổi hay buôn bán với các bạn hàng nước ngoài thường phải qua một hay nhiều trung gian với cái tên của họ hay cái tên khác mà họ áp đặt, đương nhiên sản phẩm do công sức, trí tuệ của mình nhiều năm gây dựng lại rơi vào tay kẻ khác. Chính vì hình thức trao đổi hàng hoá qua đại diện, qua trung gian như vậy đã biến hàng của ta thành hàng của họ làm công tác tiêu thụ sản phẩm của chúng ta gặp trở ngại, phụ thuộc nhiều vào bên đại diện, đồng thời thiệt hại rất lớn về lợi ích kinh tế. Mối liên hệ giữa các nhà sản xuất trong cùng ngành với nhau. Hiện nay, chính phủ Việt Nam cho phép phát triển tất cả các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà luật pháp không cấm. Cho nên, mấy năm gần đây những hộ kinh doanh thoả sức làm giàu, xuất hiện nhiều gương mặt trẻ trong kinh doanh. Song một thực tế đặt ra họ phải đương đầu với các tập đoàn kinh tế, các hiệp hội kinh tế, các tổ chức kinh tế kinh doanh phát đạt nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam hay thông qua buôn bán hai chiều, họ có đủ những kiến thức, trình độ và năng lực để đối phó với những gì mà họ quan tâm, trong đó lợi ích từ các doanh nghiệp Việt Nam giờ còn non nớt về kinh nghiệm, yếu về trình độ quản lý, chưa sâu về luật pháp, chưa thoáng về các thủ tục giao dịch và buôn bán quốc tế; ngoài ra, các doanh nghiệp của ta còn gặp khó khăn lớn về vốn. Đây là điểm yếu mà họ có thể khai thác về ta. Như vậy, nếu các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề của chúng ta không biết liên kết, hợp tác, trao đổi và hỗ trợ cho nhau thì ắt hẳn gặp nhiều khó khăn, thất bại trong các cuộc chiến sắp tới. Tuy nhiên, công tác tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều trở ngại, đồng thời thiệt hại nặng nề về kinh tế và các lợi ích kinh tế khác. Lấy ví dụ điển hình vừa qua những người nuôi cá da trơn (cá tra, cá ba sa) của Việt Nam bị thất bại trong vụ tranh chấp thương mại với hiệp hội nuôi cá nheo của Mỹ. Đây là một bài học "xương máu" cho những nhà sản xuất, kinh doanh trong nước khi không biết lợi dụng, phát huy thế mạnh liên kết, hợp tác trong cùng ngành nghề để tồn tại và phát triển. 5. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức thương mại. Trong thời buổi bây giờ, khi mà nền kinh tế đã bước vào "guồng máy" của kinh tế thị trường với bao cơ hội nhưng không thiếu thách thức. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển không thể nằm ngoài môi trường đó, qui luật đó; đồng thời phải chịu sự điều tiết bởi cơ chế và các qui tắc đối xử của pháp luật; Nghị định của chính phủ và chịu sự kiểm soát của cơ quan làm công tác thương mại, quản lý thị trường. Ngoài ra, còn phải tham gia vào các tổ chức thương mại, phối hợp với các cơ quan quản lý thương mại trong nước và quốc tế nhằm các mục tiêu sau: - Được tham gia vào môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh, không có tranh chấp phi lý làm tổn hại tới lợi ích mỗi bên. - Nhận sự hỗ trợ về: Kiến thức quản lý, kiến thức pháp luật, thông tin kinh tế, vốn cho kinh doanh, giá tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giá các yếu tố đầu vào; giúp đỡ trong xúc tiến thương mại và hội nhập thương mại quốc tế,... - Định hướng và vạch đường đi, nước bước cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được thuận lợi, hạn chế va vấp, thất bại. - Bảo vệ bản quyền sản phẩm, công nghệ sản xuất và thương hiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp trước tình trạng ăn cắp, nhái, giả đang diễn ra phổ biến và đầy ác liệt như hiện nay. Song thực tế hiện nay, mối quan hệ này chưa được doanh nghiệp thúc đẩy, phát triển mà nó còn tồn tại một vài trở ngại , ngăn cản vô hình làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như kết quả của công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam. Qua thực trạng và những khó khăn còn tồn tại và mới phát sinh trong công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đòi hỏi chúng ta phải đưa ra những giải pháp phù hợp, hiệu quả nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi dễ dàng. Phần II Phương hướng giảI quyết những khó khăn và thách thức nhằm thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá việt nam trong đIều kiện hội nhập và mở cửa Các căn cứ để đề xuất phương hướng. - Căn cứ vào thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. - Căn cứ vào chủ trương, chính sách khuyến khích xuất khẩu và ưu tiên cho những ngành hàng cơ bản, truyền thống nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của chính phủ Việt Nam. - Căn cứ vào xu hướng liên kết, hợp tác kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhanh chóng. I. Các phướng hướng giải quyết của bản thân doanh nghiệp. Hiện nay, Nhà nước và chính phủ Việt Nam đã cho phép tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh trên những ngành nghề, lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Đồng thời giao quyền chủ về mặt tài chính, chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản và quyền hạn của mình khi tham gia kinh doanh. Do đó, những vấn đề giải quyết nội bộ không cần sự can thiệp của chính phủ thì tự doanh nghiệp phải chủ động bàn bạc và đề xuất hướng giải quyết, đó là quyền tự chủ về mặt kinh doanh. Trong đó, để thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm thì các doanh nghiệp phải đưa ra những phương hướng giải quyết phù hợp với doanh nghiệp của mình và đem lại hiệu quả cao nhất. Một là, các doanh nghiệp cần nhanh chóng xây dựng và triển khai hiệu quả các kế hoạch, chương trình nâng cao vị thế của sản phẩm truyền thống (sản phẩm đã có mặt trên thị trường trong khoảng thời gian dài); giới thiệu, quảng bá và đi vào tâm trí khách hàng mục tiêu những sản phẩm mới hay ở những thị trường mới. Cụ thể là: - Đối với các sản phẩm truyền thống, doanh nghiệp có thể áp dụng những biện pháp như khi mới đưa sản phẩm ra thị trường. Mục đích chính là nhằm nổi bật, đánh bóng thương hiệu sản phẩm của mình, bắt khách hàng phải thừa nhận sự tồn tại và đặc trưng riêng của nó trên thị trường, do đó mà vị thế cũng như ý nghĩa của sản phẩm mới được khẳng định, đồng thời khách hàng mới thoả mãn và yên tâm khi tiêu dùng. Như thương hiệu cà phê Trung Nguyên chẳng hạn. Song để thực hiện được mục đích đó ngoài việc quan tâm, triển khai các biện pháp làm nổi bật sản phẩm thì doanh nghiệp không thể coi thường hay lơ là đến các yếu tố làm nên giá trị đích thực của sản phẩm đó là: chất lượng cũng như hương vị đặc trưng của sản phẩm đối với sản phẩm liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Chất lượng cũng như độ chính xác, an toàn khi sử dụng đối với các sản phẩm công nghiệp; hình thức, mẫu mã, chủng loại tạo nên sự hấp dẫn bên ngoài của sản phẩm giúp khách hàng có quyền lựa cọhn hàng hoá trong phạm vi rộng và tạo trí tưởng tượng của khách khi đi mua hàng. Ngoài ra, một yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại, đó là giá thành sản xuất, nghĩa là giá thành sản xuất còn thấp thì sức cạnh tranh còn cao nhưng không đồng nghĩa là cứ giảm giá thành là được ngay đâu; vì nó còn phụ thuộc vào giá mua các yếu tố đầu vào của sản xuất, phụ thuộc vào năng suất lao động vào công tác hoạch toán giá thành và quản lý tổ chức trong doanh nghiệp. Như vậy, để tăng sức tiêu thụ sản phẩm truyền thống thì doanh nghiệp cần giải quyết tốt các vấn đề sau: - Thúc đẩy công tác quảng bá, sản phẩm; đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng về các thông tin liên quan tới sản phẩm và có các chương trình, dịch vụ hỗ trợ khách hàng trước và sua khi mua hàng. - Nâng cao giá trị thương hiệu sản phẩm thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm; thay đổi mẫu mã, chủng loại cho phù hợp với thị hiếu, tâm lý khách hàng; đồng thời giảm giá thành sản xuất để thích ứng với "túi tiền" của đại bộ phận dân cư còn thu nhập thấp hay khách hàng có lượng vốn khiêm tốn. Vấn đề này quả là một bài toán khó, nhiều doanh nghiệp Việt Nam rất băn khoăn khoăn và vướng mắc ở đây. Vì thường khi chất lượng tăng đồng thời năng suất phải giảm xuống mà giá thành sản xuất lại phụ thuộc nhiều vào năng suất lao động; ngoài ra, để có sản phẩm đạt chất lượng cao không thể nào sử dụng những yếu tố đầu vào có chất lượng thấp được, buộc doanh nghiệp phải sử dụng các yếu tố đầu vào có chất lượng cao, điều này đồng nghĩa với giá các yếu tố này phải đắt. Đây quả là một nghịch lý đang xảy ra đối với các doanh nghiệp nước ta. Khi giải quyết được bài toán năng suất và chi phí các yếu tố đầu vào thì lúc đó vấn đề thứ hai mới được giải quyết triệt để và công tác tiêu thụ các sản phẩm truyền thống diễn ra nhanh chóng, thuận lợi. * Đối với các sản phẩm mới hay đưa sản phẩm truyền thống tới thị trường mới. Trước tiên, doanh nghiệp không thể kỳ vọng quá nhiều vào thị trường mới này được mà phải cần có những phương pháp, cách thức tiếp cận thị trường thông qua hàng loạt các hoạt động marketing như: nghiên cứu, thăm dò và phân tích thị trường, nhất là tập trung vào thị trường mục tiêu trong đó có nhóm khách hàng mục tiêu; sản xuất và đưa ra thị trường số sản phẩm thử nghiệm ở mức vừa phải nhờ vào các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu quầy, mua sớm được giảm giá hay mua hàng có thưởng và các dịch vụ chăm sóc khách hàng kèm theo. Trong thời gian đó cần tiếp thu, lắng nghe ý kiến từ phía khách hàng và đối thủ cạnh tranh nhằm mục đích đáp ứng những đòi hỏi từ phía khách hàng và hành động cạnh tranh của đối thủ giúp công tác tiêu thụ sản phẩm chính thức được thực hiện. Hai là, các doanh nghiệp phải từng bước đổi mới và nâng cao năng lực quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh trong đó có công tác tổ chức, quản lý nhân sự (gồm lao động quản lý, điều hành và lao động trực tiếp sản xuất, bán hàng) nhằm tăng năng suất lao động, giảm chi phí không cần thiết, tiết kiệm và tận dụng nguồn lực... để giảm giá thành sản xuất, tăng sức cạnh tranh tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu thụ sản phẩm, giúp doanh nghiệp phát triển kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh. Khi đó quy trình sản xuất kinh doanh mới đi vào sản xuất hàng hoá lớn, công tác tiêu thụ sản phẩm diễn ra điều đặn nhờ công tác dự trữ, bảo quản, phân phối ổn định. Ba là, doanh nghiệp phải chủ động tạo mới quan hệ và tiếp cận với những địa chỉ, chủ thể tổ chức sẽ giúp ích cho sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. * Hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề nằm tranh thủ sự hỗ trợ tương tác quan hệ về kinh nghiệm sản xuất - kinh doanh, bảo về sản phẩm trước sự cạnh tranh của các tổ chức khác, đặc biệt là các tổ chức, hiệp hội nước ngoài kinh doanh cùng loại sản phẩm; thêm vào đó là trao đổi thông tin thị trường (thị trường đầu vào và thị trường đầu ra liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp) giúp đỡ nhau về vốn, các vấn đề liên quan khác. * Tạo và thúc đẩy mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức quản lý Nhà nước về thương mại, kế hoạch và đầu tư, các ngân hàng (nhất là các ngân hàng hỗ trợ, ưu đãi). Nhằm mục đích nhân sự hỗ trợ của họ về kiến thức quản lý, về đường đi nước bước trong các thủ tục hành chính; về vốn kinh doanh và hỗ trợ trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tham gia các hiệp hội, tổ chức liên quan tới thương mại quốc tế nhằm tìm kiến bạn hàng, đối thủ cạnh tranh tìm kiếm và học tập kiến thức quản lý, điều hành... Mục đích chính là mở rộng phạm vi bán và mua; giảm các khâu trung gian trong công tác tiêu thụ sản phẩm, nâng cao giá trị củ sản phẩm, khẳng định tên gọi và vị trí của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Đây là một vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải cố gắng, quyết tâm giải quyết bằng được khi chúng ta đang dần hoà nhập với kinh tế khu vực và quốc tế; gần đây nhất là tổ chức mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA) và một thời gian không xa nữa là tổ chức thương mại quốc tế WTO). Trong đó, một nhân tố quyết định đến sự thành bại của công tác này đó là năng lực của bản thân mỗi doanh nghiệp (nội lực). II. Các các phương hướng giải quyết từ bên ngoài. Tập trung chủ yếu từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, về pháp luật. * Trước tiên, để doanh nghiệp kinh doanh chân chính, lành mạnh trước đối thủ khác trên thị trường trong nước thì Nhà nước cần phải ban hànhluật đủ sức cưỡng chế, bắt buộc các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một khuôn khổ cho phép nhằm đảm bảo các lợi ích về xã hội, về cá nhân, duy trì ổn định kinh tế và từng bước phát triển. Ngoài ra, luật pháp của Nhà nước phải chứng tỏ tính nghiêm minh, công bằng, không phân biệt đối xử với tổ chức hay cá nhân kia khi họ đều được phép bước vào "sân chơi kinh doanh" mà hiện nay vấn đề này nước ta còn nhiều khúc mắc, nhất là ở khâu thi hành luật và công tác xét xử. Khi đó doanh nghiệp Việt Nam mới yên tâm làm ăn, đầu tư mở rộng kinh doanh cũng như công tác tiêu thụ sản phẩm càng tăng về lượng và ổn định về nguồn. * Các chính sách chính phủ đưa nhằm vào việc tạo mở tư duy, môi trường kinh doanh; kích thích và hỗ trợ kinh doanh cho các doanh nghiệp; ngoài ra còn kiểm soát và điều tiết các hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Đối với hầu hết các doanh nghiệp vìlợi nhuận thì kích thích và hỗ trợ các chính sách thiết thực hơn cả. Nhưng hiện nay, phần lớn các chính sách của ta chủ yếu tập trung vào các vấn đề phát triển các doanh nghiệp có khả năng thu hút nhiều lao động và các doanh nghiệp hoạt động sinh lợi không cao như: nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản nhưng nó lại là khu vực cần ổn định kinh tế, chính trị và xã hội hơn các khu vực khác; đồng thời tạo bước đệm cho nền kinh tế đất nước phát triển. Ngoài ra, chính sách cũng tập trung vào các mục tiêu dài hạn của nền kinh tế đất nước như: khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu; tăng dần tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm công nghiệp và tập trung đầu tư cho công nghệ cao... Thực ra, tất cả các lĩnh vực kinh doanh này phần nhiều do các doanh nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp Nhà nước) đảm nhiệm. Một khu vực có giá trị đóng góp không nhỏ (không nói là rất lớn) vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đó là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính họ rất năng động, có khả năng thích nghi cao với những thay đổi của kinh tế thị trường và góp phần rất lớn vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nhất là lao động phổ thông và lao động từ nông thôn ra các tỉnh lẻ đến. Ngoài những người lao động được công ăn việc làm họ còn được doanh nghiệp tạo ra một tác phong lao động, ý thức và kỷ luật lao động tốt hơn rất nhiều khi họ chưa bước chân khỏi nông thôn hay các tỉnh lẻ có nền kinh tế không phát triển. Thêm vao đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn đóng góp một phần tương đối lớn vào ngân sách quốc gia và các hoạt động công ích khác. Song chính sách lại không ưu ái nhiều cho họ mà chủ yếu dưới hình thức tạo điều kiện về môi trường, phát triển tư duy kinh doanh hơn là kích thích hỗ trợ bằng vật chất, bằng nhân lực, bằng sự bảo hộ sản phẩm; đặc biệt là các doanh nghiệp mới vào nghề hoặc các nghề có mức độ rủi ro cao như: thuỷ sản, nuôi trai lấy ngọc... hoặc các nghề có mức độ cạnh tranh lớn như: sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm thức ăn chăn nuôi... Do vậy, để phát triển kinh tế đất nước trước tiên phải phát triển sản xuất - kinh doanh củacác doanh nghiệp trong nước ở tất cả các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt chúng ta nên ưu tiên nhiều hơn nữa tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ (vì đây là loại hình doanh nghiệp phổ biến và đặc thù ở những nước đang phát triển). Thông qua các chính sách kích thích và hỗ trợ sản xuất - kinh doanh. Từ đó, việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng mới được thuận lợi. * Cần sự có mặt của các tổ chức xúc tiến thương mại trong hoạt động thương mại của các doanh nghiệp ở bên trong và bên ngoài đất nước. Trong đó, vai trò của tổ chức này là rất lớn khi tham gia xúc tiến, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam làm công tác xuất, nhập khẩu. Mặc dù đến nay chúng ta đã thành lập được cơ quan quản lý, chịu trách nhiệm về vấn đề này nhưng hiệu quả đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, một phần nguyên nhân là do trình độ quản lý, tổ chức cũ như kiến thức của các quan chức, nhân viên làm công tác này chưa cao, tác phong của họ còn mang nặng tính chất sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tư duy còn quan liêu, hách dịch và bảo thủ; thêm vào đó là trang thiết bị phục vụ công việc và thông tin liên lạc còn yếu, còn thiếu thốn. Như vậy, để hoạt động thương mại diễn ra thông thoáng, thuận lợi; công tác tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng, hiệu quả, buộc chúng ta phải đổi mới, đa dạng hoá loại hình xúc tiến phù hợp với từng vấn đề cần xúc tiến, hỗ trợ; đồng thời phối kết hợp với các cơ quan, bộ phận có liên quan khác cũng làm công việc này và thường xuyên cập nhật thông tin về điều luật, tối huệ quốc và các thủ tục liên quan tới giao dịch, buôn bán quốc tế. Đặc biệt là thông tin về các đối tác muốn làm ăn với Việt Nam và các thị trường tiềm năng cần khai thác, xâm nhập. Qua phân tích, tìm hiểu về thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam và các giải pháp nhằm thúc đẩy công tác này cho chúng ta biết và hiểu hơn đến những thuận lợi cũng như những khó khăng đang đặt ra trước mắt đối với các doanh nghiệp trong nước. Song để giải quyết được các vấn đề đó một cách tốt nhất cần phải có những giải pháp hữu hiệu và cần có thời gian. Kết luận Tới nay, nền kinh tế sản xuất hàng hoá ở Việt Nam tồn tại và phát triển chưa gần 20 năm, song nó không còn sớm để chúng ta chuẩn bị và tích luỹ kinh nghiệm từ các nước đi trước trong khi các doanh nghiệp của ta đang phải đối đầu với những thử thách đầy cam go trước mắt; cụ thể là "mảnh đất" cho các sản phẩm của Việt Nam ngày càng bị thu hẹp cả trong lẫn ngoài nước khi các sản phẩm hàng hoá của các quốc gia trong tổ chức mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA), tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của ta. Với các đặc tính trội hơn sản phẩm của ta như: chất lượng, mẫu mã, chủng loại và giá thành thì sớm mộn sản phẩm của ta cũng bị đối thủ đánh bại nếu chúng ta không đồng loạt giải quyết các vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của các sản phẩm hàng hoá mang nhãn hiệu Việt Nam. Trong đó, tìm ra các giải pháp hữu hiệu là một đòi hỏi mang tính bắt buộc, cần thiết và giải pháp nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam là một minh chứng điển hình. Tuy nhiên, để vấn đề này sớm được giải quyết thì bản thân mỗi doanh nghiệp Việt Nam nên chuẩn bị cho mình những gì cần thiết và phải đưa ra kế hoạch đối phó với những khó khăn, đồng thời tìm hướng đi phù hợp và lâu dài cho doanh nghiệp của mình trước khi có sự can thiệp, hỗ trợ từ phía Nhà nước và các tổ chức có liên quan khác. Học viên Trần Văn Giang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35714.doc
Tài liệu liên quan