Những giải pháp vĩ mô nhằm phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Lời nói đầu Một quốc gia hùng mạnh, vững chắc thì trước hết các phần tử trong quốc gia đó phải phát triển mạnh mẽ và vững chắc. Mà các phần tử kinh tế chủ yếu của mỗi quốc gia là các doanh nghiệp bao gồm: Các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cho nên quốc gia nào muốn có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ thì cần có những chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ mói riêng. Đối với Việt Nam ta thì chủ yếu là các doanh nghiệp v

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp vĩ mô nhằm phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừa và nhỏ, nó đã góp phần to lớn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết công văn việc làm và tăng tổng sản phẩm quốc gia. Tuy sinh sau đẻ muộn nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( sau 1986 là chủ yếu ) ở nước ta đã chứng tỏ được sự cần thiết của mình trong sự nghiệp phát triển đất nước. Nhà nước ta đã thấy được tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên đã có một số chính sách cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (được trình bày trong bài viết) Trong bài viết này em đã nêu lên thực trạng của doanh nghiệp vừa và nhỏ, những chính sách cơ bản của nhà nước ta và một số kiến nghị của bản thân. Trong bài viết chắc không thể tránh khỏi những khuyết điểm do thiếu kinh nghiệm thực tế. Có gì sơ suất mong thầy giáo Trần Chu Toàn cho em nhận xét. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Chu Toàn đã hướng dẫn em hoàn thành bài viết này. Như vậy trước hết ta phải định nghĩa được doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp như thế nào? ở Việt Nam ta, cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp lý qui định cụ thể: chỉ tiêu và tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vào những năm 60-70 trong công nghiệp có chia thành 5 loại doanh nghiệp căn cứ vào các chỉ tiêu; giá trị tổng sản lượng, tổng số công nhân, cơ quan chủ quản là Trung ương hay địa phương, yêu cầu phức tạp của quản lý. Phân chia thành 5 loại như vậy chủ yếu nhằm phục vụ cho bộ máy quản lý. Mấy năm gần đây một số cơ quan và một số nhà nghiên cứu đã đưa ra các chỉ tiêu và tiêu chuẩn cụ thể để phận loại doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể kể ra các phân loại đó là: - Ngân hàng công thương hoạt động cho vay tín dụng đối với các qui định rằng, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có vốn từ 5- 10 tỷ đồng với lao động từ 500- 1000 người. Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 500 người. - Nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng, trong khu vực sản xuất và xây dựng, doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng và số lao động dưới 100 người là doanh nghiệp nhỏ, còn lại vốn từ 500 xuống 100 là doanh nghiệp vừa. Còn trong khu vực thương mại, dịch vụ, doanh nghiệp có vốn từ 500 triệu đồng đến 5 tỷ đồng và số lao động từ 50 đến 250 là doanh nghiệp vừa. Nhưng chung qui lại các chỉ tiêu để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta cho tất cả các ngành và các thời kỳ khác nhau nên đồng thời sử dụng 3 chỉ tiêu để phân loại qui mô doanh nghiệp ở nước ta đó là: 1-Tổng số vốn của doanh nghiệp (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động). 2-Tổng số lao động thường xuyên của doanh nghiệp. 3-Tổng doanh thu (Tổng sản lượng hiện vật/năm). Nếu chỉ dùng một chỉ tiêu là sẽ không phản ánh chính xác qui mô doanh nghiệp. Ví dụ: Doanh nghiệp may với số lao động là 2000 người có thể xếp vào loại lớn vì vốn lớn. Hoặc với các doanh nghiệp trong cùng một ngành sản xuất cùng một mặt hàng doanh nghiệp nào đó có tổng sản lượng lớn hơn thì qui mô lớn hơn. Nhưng dù sao đi nữa Nhà nước cần phải có qui định về mặt pháp lý; chỉ tiêu đánh giá và tiêu chuẩn cụ thể để phân việt doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên cơ sở tiêu chuẩn khung đó, các ngành và lĩnh vực sẽ có qui định cụ thể phù hợp với ngành và lĩnh vực của ngành mình quản lý. Để đi sâu vào tìm hiểu vai trò, thực trạng của doanh nghiệp vừa và nhỏ, chúng ta tìm hiểu xem tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp. Giai đoạn tiền sử (C.Mác gọi là sản xuất hàng hoá giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và người thợ. Người sản xuất hàng hoá vừa là người sở hữu các tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của mình, vừa là người trực tiếp mang sản phẩm ra trao đổi. Đó là loại doanh nghiệp (DN) cá thể hay còn gọi là doanh nghiệp cực nhỏ. Trong thời kỳ hiện đại, thông thường đại đa số những người trưởng thành để đi làm việc được, đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Với một số vốn trong tay ít ỏi, với một trình độ tri thức nhất định lĩnh hội được trong các trường chuyên nghiệp, bắt đầu khởi nghiệp, phần lớn họ đều thành lập doanh nghiệp nhỏ chỉ của riêng mình, tự sản xuất kinh doanh. Trong kinh doanh một số người giàu lên nhờ sự nhanh nhạy và tháo vát họ lại mở rộng qui mô sản xuất, kinh doanh, đến một lúc nào đó, lực lượng của gia đình không đảm đương hết các công việc và phải thuê người làm và họ trở thành ông chủ. Bên cạnh đó một số người làm ăn thua lỗ, buộc phải bán dần tài sản của mình và có khi phải đi làm thuê cho người khác. Những người đã trở thành ông chủ ban đầu họ và những người thợ, những người thợ mới đầu thường là bà con, họ hàng và láng giềng, về sau họ mở rộng đến những người xa xứ và ông chủ chỉ đứng ra chỉ đạo, quản lý thợ. Loại hình doanh nghiệp này thường được các học giả xếp vào loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn, bé tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ doanh nghiệp vừa và nhỏ và thông qua liên kết với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đưa đất nước tiến lên, không thể không có các doanh nghiệp lớn, vốn nhiều, kỹ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế. Ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp lớn là cần thiết chúng ta còn phải thực hiện những biện pháp để tăng khả năng tích tụ và tập trung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho chúng có thể nhanh chóng vươn lên trở thành những doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại qui mô doanh nghiệp trong từng ngành, cũng như trong toàn nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại, thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phù hợp với xu thế chung và phù hợp với điều kiện xuất phát điểm về kinh tế xã hội của nước ta hiện nay. Vì vậy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phương hướng chiến lược quan trọng của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam. Như vậy doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế và bất lợi nào? Trước tiên chúng ta xét lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ: Doanh nghiệp vừa và nhỏ gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Chúng có qui mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh. Doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều doanh nghiệp lớn. Cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn. Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp. Quan hệ giữa nngười quản lý với người lao động khá chặt chẽ. Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế- xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền. Bên cạnh những lợi thế quan trọng, doanh nghiệp vừa và nhỏ có những bất lợi so với doanh nghiệp lớn như: nguồn vốn tài chính hạn chế. Cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc hậu. Khả năng tiếp cận thông tin và tiệp thị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế rất nhiều. Trình độ quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng suất lao động và sức cạnh tranh kinh tế thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Đối với Việt Nam chúng ta, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí vai trò tác động kinh tế xã hội rất lớn đó là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. ở hầu hết các nước, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng trên dưới 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Nước ta hiện nay chưa có số liệu thống kê chính xác các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam chiếm khoảng 80-90% số doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nên kinh tế. Chúng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi nước. Việt Nam, theo đánh giá của viện nghiên cứu Trung Ương, thì hiện nay, khu vực Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 24% GDP. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác động lớn vào kinh tế – xã hội đó là giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thêm thu nhập cho người lao động góp phần xoá đói giảm nghèo. ở hầu hết các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho khoảng 50-80% lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn doanh nghiệp lớn. Việt Nam thì số lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực phi nông nghiệp hiện có 7,8 triệu người chiếm 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm 22,5% lực lượng lao động của cả nước (theo Viện nghiên cứu Trung Ương). Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Do lợi thế của qui mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường, cho nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút được khá nhiều vốn trong dân cư. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chúng tạo lập dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hình thành khu vực “ mồi” cho việc thực hiện có kết quả vấn đề huy động vốn của dân cư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần đáng kể vào việc thực hiện đô thị hoá phi tập trung. Sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thông sẽ thu hút người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút số lượng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần số lượng lao động nông nghiệp sang công nghiệp và làm việc ngay tại quê hương. Và nó hình thành khu tập trung là quá trình đô thị hoá phi tập trung. Cuối cùng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh qui mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn tài ba, biết đưa doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh sẽ được ươm mầm từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua những lý luận ở trên chúng ta đã biết được doanh nghiệp vừa và nhỏ có một vị trí rất quan trọng và vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế – xã hội của một đất nước. Vậy thực trạng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong những năm qua như thế nào? Từ năm 1996 lại đây nhờ tác động tích cực của chủ trương, các luật và phát triển kinh tế nhiều thành phần nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ bước sang giai đoạn phát triển mới. Đó là giai đoạn không chỉ có sự tăng lên về số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà là có sự cơ cấu lại doanh nghiệp vừa và nhỏ, là sự phát triển gắn với thị trường hơn, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao hơn, vai trò vị trí của nó trong nên kinh tế quốc dân được nâng cao hơn. Và bước đầu đã đạt được một số thành tựu đó là: Số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc loại hình công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh với nước ngoài tăng lên nhanh. Năm 1986 cả nước gần như không có doanh nghiệp tư nhân nào nhưng đến tháng 12/1994 cả nước có 13.772 doanh nghiệp tư nhân, 5.120 công ty trách nhiêm hữu hạn, 133 công ty cổ phần, tỷ trọng giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 15,6% (1986) lên 27,5% (1994). Các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới ra đời ở nước ta, từ năm 1986 đến nay phần lớn là các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh. Nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn được hình thành trên cơ sở sắp xếp lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã. Qua điều tra 100 chủ doanh nghiệp tư nhân ở Hà Nội và 200 chủ doanh nghiệp tư nhân đã từng là cán bộ công nhân viên của Nhà nước (ở Hà Nội 63%, ở Thành phố HCM 48%). Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chuyển hướng mặt hàng, chuyển hướng điều kiện theo nguyên tắc kế hợp chuyên môn hoá với đa dạng hoá trên cơ sở đổi mới công nghệ, tăng cường liên doanh, liên kết làm cho sản xuất kinh doanh thích hợp với thị trường tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đã có đổi mới theo hướng: Gắn với thị trường, tạo được động lực phát triển, thiết thực, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực Nhà nước được chủ động sản xuất xuất kinh doanh hơn trong nước. Nhưng bên cạnh những thành tựu vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề đó là: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều gặp vòng các khó khăn trở ngại chi phối và gây ảnh hưởng nhân quả cho nhau. Đó là: thị trường hạn hẹp, không ổn định, vốn ít, kĩ thuật công nghệ lạc hậu. Không có thị trường nên không có nhu cầu đầu tư và đổi mới công nghệ. Vốn ít không đổi mới công nghệ nêu khả năng cạnh tranh sản phẩm kém. Do đó không có thị trường. Trong số các doanh nghiệp được hỏi về khó khăn có 68,57% cho là khó khăn do thiếu vốn, 37,62% cho là khó khăn bởi không có thị trường. Phát triển và đổi mới các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn mang tính tự phát và còn nhiều lúng túng. Nguyên nhân của tồn tại yếu kém trên, một phần là do hạn chế về năng lực bản thân doanh nghiệp vừa và nhỏ, phần quan trọng hơn là do chưa có môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Biểu hiện trên các mặt: Thiếu chính sách riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự giúp đỡ của Nhà nước tuy đã có nhưng chưa nhiều. Vì vậy để giải quyết khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp này Nhà nước phải có những chính sách vĩ mô đúng đắn để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: Tập hợp các giải pháp gồm: Chính sách tạo hành lang pháp lí đồng thời đổi mới hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô gồm: Chính sách tài chính – Tín dụng; chính sách về thuế; chính sách về thương mại và công nghệ; chính sách công nghệ đào tạo và tổ chức mạng lưới cung cấp dịch vụ và thông tin. Trước hết chúng ta xem xét về hành lang pháp lý đó là: Hình thành và phát triển các tổ chức quản lý Nhà nước, tổ chức đại diện và tổ chức tư vấn để hỗ trợ, giúp đỡ quả lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng quản lý, đối tượng này rất đa dạng về ngành nghề, về sở hữu và thường gặp khó khăn về vốn, công nghệ kỹ thuật, thông tin. Hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang bị phân tán quản lý bởi nhiều đầu mối. Ví dụ: Trên địa bàn Hà Nội, gần 200 doanh nghiệp vừa và nhỏ của công nghiệp Trung Ương chịu sự quản lý của 22 đầu mối và trên 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ của quốc doanh địa phương do 13 đầu mối quản lý. Sự phân tán đầu mối đã gây ra tình trạng phân tán chồng chéo, vừa nắm cái lẽ ra không cần nắm, vừa buông cái lẽ ra không được buông, nhiều việc cần thiết ảnh hưởng lớn đến sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chẳng hạn qui hoạch phát triển chuyên ngành, giúp đỡ khó khăn về thị trường, chuyển giao công nghệ. Trong quá trình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần sự hỗ trợ từ bên ngoài, cần có người bảo vệ quyền lợi và cần có người đại diện để nói lên tiếng nói của mình. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thực sự trở thành chủ thể kinh doanh và được sự quản lý bằng pháp luật, chính sách. Vì vậy đã đến lúc phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các hướng: Tăng cường quản lý Nhà nước thông qua pháp luật, chính sách, xoá bỏ cơ quan chủ quản. Cơ quan quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các bộ phận quản lý ngành và bộ phận quản lý chức năng. Hình thành, phát triển các tổ chức tư vấn, hỗ trợ giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên các lĩnh vực: xuất khẩu, tài chính chuyển giao công nghệ, đào tạo. Phát triển các tổ chức đại diện theo ngành và theo các loại hình sở hữu để vừa bảo vệ quyền lợi, vừa giúp đỡ lẫn nhau, vừa nói lên tiếng nói của người chủ, người lao động và tham mưu cho Nhà nước trong xây dựng qui hoạch, chính sách liên quan đến ngành mình. Đồng thời phải tăng cường và đổi mới quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước đã ban hành một số luật và chính sách liên quan đến phát triển và quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ như: Luật doanh nghiệp tư nhân; Luật công ty; Luật đầu tư trong nước… và nhiều chính sách liên quan. Song so với yêu cầu thì công tác quản lý Nhà nước còn cần phải làm nhiều việc đúng tầm hơn. Trong những năm tới Nhà nước cần chú ý vấn đề sau: Hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế như Luật Hợp Tác Xã; Luật doanh nghiệp Nhà nước. Hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội hiện nay và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010. Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho các vùng, ngành. Đây là cơ sở để định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoàn thiện, đổi mới các chính sách phát triển và quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hướng đồng bộ, thể hiện sự gắn bó giữa chủ trương phát triển với qui mô và qui hoạch phát triển từng ngành với chính sách, biện pháp thực hiện. Tính đồng bộ của chính sách không chỉ thể hiện ở số lượng các chính sách phải đủ và đồng bộ để thực hiện sự ăn nhịp và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tóm lại Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động bằng cách nghiên cứu ban hành các bộ Luật và các văn bản pháp qui để bổ sung, hoàn chỉnh môi trường pháp luật về kinh doanh. Chính phủ phải thống nhất sự quản lý, kiểm tra, giám sát, hỗ trợ và cáp giấy phép cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động. Đồng thời qui định các thủ tục hành chính theo hướng cải tiến, giảm bớt phiền hà các chủ đầu tư thành lập doanh nghiệp vừa và nhỏ. áp dụng các biện pháp kiên quyết và có hiện quả nhằm ngăn chặn hàng lậu, khuyến khích sản xuất trong nước để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển và phải xử lý nghiêm minh các doanh nghiệp vừa và nhỏ vi phạm pháp luật. Cùng với sự tạo lập hành lang pháp lý Nhà nước phải có sự đổi mới các chính sách kinh tế vĩ mô đó là: Về chính sách tài chính - tín dụng: Nhà nước cho phép đa dạng hoá các nguồn vốn, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội huy động vốn vào sản xuất-kinh doanh. Nhà nước cần phải dành phần tích luỹ hàng năm từ 30% đến 40% GDP để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua hệ thống tài chính – tín dụng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải huy động vốn bằng các con đường như: Huy động vốn trong nhân dân và để huy động được nguồn vốn trên, ngoài chính sách lãi suất hợp lý, cần phải ổn định nền kinh tế đồng thời giải toả được tâm lý lo sợ sự mất giá của đồng tiền. Phải huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của các loại hình doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh. Ngoài sự huy động vốn trong nước thì nguồn vốn nước ngoài cũng phải được tận dụng. Thông qua liên doanh, liên kết, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để tăng nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Tận dụng nguồn vốn ODA để nâng cấp cơ sở hạ tầng giúp các doanh nghiệp có cơ hội hoà nhập vào thị trường chung của đất nước và quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích Việt Kiều đầu tư về nước và tận dụng nguồn vốn mà Việt Kiều ở nước ngoài gửi về cho thân nhân trong nước. Để thực hiện giải pháp nêu trên, trước mắt chúng ta tập trung vào một số biện pháp cụ thể sau: Cho phép các doanh nghiệp làm ăn có hiệu qua phát hành cổ phiếu trong nội bộ doanh nghiệp, nhằm thu hút vốn nhàn rỗi của người lao động. Từng bước hình thành thị trường chứng khoán ở các đô thị lớn, tiến tới thị trường chứng khoán ở các vùng đô thị lớn và trên địa bàn cả nước. Lập quĩ quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy định tỷ lệ tín dụng tối thiểu dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với các ngân hàng thương mại (ngân hàng thương mại). Hình thành các tổ chức tài chính, ngân hàng chuyên hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thông qua các biện pháp cho vay vốn, thanh toán thương mại. Việc thực hiện các giải pháp huy động vốn trong nước đã thực hiện khá mạnh mẽ trong những năm qua thông qua các công cụ như thuế, lãi suất… Nhờ đó trong những năm qua sản xuất trong nước phát triển mạnh mẽ, tỷ lệ tiết kiệm đầu tư toàn xã hội đạt là 444.585,6 tỷ đồng. Nhưng chính sách huy động vốn còn nhiều trở ngại là chưa tạo được điều kiện thông thoáng trong việc huy động vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù tính đến thời điểm hiện tại Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể vay theo hình thức tín chấp. Nhưng trong thực tế hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể vay theo hình thức này vì không có tổ chức đại diện đứng ra bảo lãnh Còn vòng quay theo hình thức thế chấp thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không có đủ tài sản thế chấp cho ngân hàng, trong khi đó lại chưa có một tổ chức tín dụng nào chuyên doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta, laịi có sự phân biệt đối xử giữa các Doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngoài ra việc chưa có hệ thống bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tiếp cận được với các khoản tín dụng trung và dài hạn từ hệ thống tài chính chính thức. Về chính sách thuế: Chúng ta đã áp dụng thuế giá trị gia tăng ở các doanh nghiệp đã đăng ký thành lập hầu hết các hệ thống VAT đều thực hiện miễn đóng thuế đối với doanh nghiệp quá nhỏ. VAT được thu đối với tất cả các các giai đoạn sản xuất và miễn thuế đối với doanh nghiệp siêu nhỏ. Đây cũng chính là một trong những ưu việt của thuế giá trị gia tăng. Hiện nay ở Việt Nam mức VAT nên nằm trong khoảng 5% á 10% là phù hợp. Sau một thời gian sản xuất phát triển có thể nâng mức VAT từ 10% lên 15%, đồng thời loại bỏ thuế vốn, thuế lợi tức, các điều tiêt tiếp theo là sử dụng thuế thu nhập. Đồng thời đơn giản hoá các thủ tục hành chính về thuế. áp dụng chế độ thuế khoán theo sự kê khai của chủ doanh nghiệp về mức doanh thu và mức chịu thuế đối với doanh nghiệp đang hoạt động theo quy định 66/HĐBT, kết hợp với kinh nghiệm quản lý của cơ quan thuế để xác định mức thuế. Doanh thu có thể tính theo từng tháng hoặc từng quý, tuỳ theo tình hình sản xuất kinh doanh. Cơ quan quản lý thuế có định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra hoá đơn, sổ sách kế toán để xác định mức thuế cho đúng luật, nhưng một năm không quá 2 lần ở một doanh nghiệp. Việc thu thuế đối với các doanh nghiệp hoạt động theo các luật định có thể thực hiện trực tiếp bằng cách chủ doanh nghiệp nộp cho kho bạc địa phương, trên cơ sở đó có sự xác nhận của cơ quan thuế về mức thuế phải nộp, để quản lý bớt lực lượng cán bộ thuế. Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Nghị định 66/HĐBT, có thể nộp trực tiếp cho cơ quan thuế trên cơ sở có hoá đơn hợp lệ. Cuối cùng là phải có chính sách miễn giảm thuế rõ ràng, để giảm bớt phiền hà trong việc nộp thuế ở những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy vậy vẫn còn những vướng mắc có ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí có doanh nghiệp còn cho rằng nếu thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế thì chắc chắn lợi nhuận sẽ âm hoặc bằng không. Chính vì vậy tình trạng trốn thuế xảy ra khá nhiều và đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh. Và các quy định về thuế vẫn rất rườm rà, rắc rối, phức tạp, thuế xuất nhiều khi bị trùng lặp hoặc thậm chí bình đẳng. Đơn cử như luật thuế thu nhập doanh nghiệp, tuỳ từng mức độ ưu đãi cho từng ngành nghề mà doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hưởng thuế suất 20%; 15% và 10%. Trong khi đó doanh nghiệp trong nước. Chịu mức thuế là 32%; 25%, 20% và 15%. Đồng thời lại chưa có cơ chế chính sách động viên và tạo nguồn thu. Nhiều khi các doanh nghiệp thuộc đối tượng được miễn giảm thuế nhưng vẫn tìm cách trốn thuế hơn là xin được chế độ miễn giảm. Tình hình này nói lên chính sách khuyến khích và miễn giảm của chúng ta cần phải đổi mới hơn cho phù hợp. Về chính sách công nghệ đào tạo: Trước hết phải thành lập các trung tâm hỗ trợ chuyển giao công nghệ nhà nước hoặc tư nhân ở các vùng, các trung tâm này có nhiệm vụ cung cấp các thông tin về kỹ thuật công nghệ, thực hiện các dịch vụ, tư vấn và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, kiểm định chất lượng, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với kỹ thuật, công nghệ hiện đại, khắc phục tình trạng thông tin về kỹ thuật, công nghệ và nhập khẩu thiết bị, máy móc lạc hậu.... Mặt khác, các trung tâm này cần phối hợp với các trung tâm nghiên cứu ứng dụng của vùng hoặc trung ương, các doanh nghiệp nghiên cứu cải tiến đổi mới thiết bị, kỹ thuật, công nghệ của hệ thống trung tâm này, không phân biệt đó là trung tâm do Nhà nước hay tư nhân thành lập mà tuỳ thuộc lĩnh vực trung tâm hoạt động có thuộc những ngành nghề mà nhà nước ưu đãi phát triển hay không. Và để đảm bảo năng lực hoạt động của hệ thống trung tâm này, đòi hỏi có sự giám sát chặt chẽ của bộ khoa học công nghệ và môi trường. Mặt khác các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng nghiên cứu ứng dụng, cải tiến máy móc, thiết bị cũng như nghiên cứu ứng dụng ở các vùng trong một số ngành kinh tế nhất định hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng kết quả nghiên cứu một cách nhanh nhất. Việt Nam ta mặc dù có rất nhiều tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong và ngoài nước nhưng đa số các tổ các chính sách này hoạt động vì lợi ích riêng. Chính vì vậy, có rất ít doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tham gia, hoặc nhận sự tư vấn, hướng dẫn của các tổ chức này. Trong khi đó nhu cầu về thông tin, chuyển giao công nghệ phổ biến kiến thức.... là rất lớn và cần có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước. Bên cạnh đó chúng ta chưa có những chính sách riêng cho các doanh nghiệp này về đào tạo nâng cao năng lực quản lý, kỹ thuật, về công nghệ thiết bị.... chưa có những biện pháp hữu hiệu, cụ thể rõ ràng để trợ giúp kinh phí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đại hoá trang thiết bị tiến tiến. Qua thực trạng này ta thấy cần có một chính sách công nghệ, đào tạo tốt nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Về chính sách Thương mại : Trong chính sách thương mại thì chủ trương của chúng ta là chủ động xây dựng quan hệ, hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, xây dựng nền kinh tế mở với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, tiến tới hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới đã và đang được Việt Nam ứng dụng trong những năm qua. Các quy định về xuất nhập khẩu ngày càng được nới lỏng, mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu cũng như nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều những khúc mắc gây cản trở tới quá trình này như: Chỉ cho phép một số mặt hàng, danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu hay thay đổi, thuế xuất nhập khẩu cao.... Ngoài ra những chính sách ưu tiên đăc thù nhằm hỗ trợ lâu dài cho hoạt động xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có như: Trợ giúp xuất khẩu, cấp tín dụng, làm hàng xuất khẩu Còn về chính sách công nghiệp thì chính sách bảo hộ hiện nay đã làm biến dạng thị trường trong nước. Đặc biệt, việc đánh thuế cao vào các mặt hàng nhập khẩu đã làm cho một số các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải nhập khẩu nguyên vật liệu với giá cao, từ đó làm ra các sản phẩm có giá thành cao và không thể cạnh tranh với các Công ty lớn. Ngoài ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong ngành công nghiệp tác nhân tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng khả năng thu hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp, chưa nhận được sự ưu đãi hợp lý về các vấn đề như: Thuế đất, vay vốn tín dụng .... Bên cạnh đó doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực ngoài quốc doanh bị sức ép của hàng nhập lậu và sự phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp Nhà nước. Còn về việc tổ chức mạng lưới cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp. Việc tổ chức hệ thống cơ quan cung cấp thông tin trong ngành dịch vụ là vấn đề rất quan trọng ở Việt Nam và là nhu cầu bức thiết đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc thu thập thông tin kinh tế, thông tin thị trường nhằm đem lại hiệu quả hoạt động hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay mặc dù có rất nhiều tổ chức trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong số các tổ chức này hoạt động vì lợi nhuận và thực sự không giúp Chính phủ trong công tác bảo lãnh cũng như thực thi các chính sách liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy chính phủ nên thiết lập các qui định cụ thể cho các tổ chức này để vừa có thể tận dụng được những thông tin sẵn có trong việc hoạch định và thực thi các chính sách cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được với nhau. Bên cạnh đó phải thiết lập hệ thống tổ chức – tư vấn – dịch vụ và cung cấp cả thông tin vì nó là những nhu cầu bức thiết của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do chủ doanh nghiệp hiểu biết có hạn, không toàn diện, nhưng họ lại có vốn, có tay nghề, có kinh nghiệm, có khả năng mở ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29318.doc
Tài liệu liên quan