Những giải pháp về phát triển thị trường Xuất khẩu đối với mặt hàng thuỷ sản

Phần mở đầu Sau hơn 15 năm đổi mới cho thấy chiến lược mà Đảng và Nhà nước đề ra là hết sức đúng đắn. Quan điểm của chúng ta là hướng vào xuất khẩu tích luỹ nội bộ cho nền kinh tế , phát huy mọi tiềm năng thế mạnh sẵn có để công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia muốn phát triển không thể bó buộc nền kinh tế của mình trong phạm vi một quốc gia mà phải mở rộng ra t

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp về phát triển thị trường Xuất khẩu đối với mặt hàng thuỷ sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oàn thế giới. Trong xu thế phát triển đó, Việt nam chúng ta cũng đã từng bước gia nhập vào nền kinh tế chung thế giới, hàng hoá của Việt Nam đã xuất đi nhiều nước với nhiều mặt hàng khác nhau như gạo, cao su, cà phê, dầu mỏ, thuỷ hải sản...Xuất khẩu thuỷ sản được coi là mặt hàng có tiềm năng của nước ta. Hiện nay nước ta đứng vị trí thứ 17 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản và về tương lai thuỷ sản xuất khẩu của ta có khả năng tăng cao hơn nữa vì tiềm năng thuỷ sản của ta rất lớn với bờ biển trải dài từ Bắc vào Nam, có nhiều vùng biển cửa biển phù hợp với việc nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản. Do đó, việc nghiên cứu tìm kiếm thị trường cho xuất khẩu thuỷ sản là hết sức cần thiết. Trong thời gian qua thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Nhật Bản, Singapo, Hồng Kông, Trung Quốc... và gần đây thị phần xuất khẩu thuỷ sản của chúng ta đã tăng rất nhiều ở thị trường EU và Mỹ. Tuy nhiên, để ngành thuỷ sản ngày càng phát triển hơn và để được coi là ngành hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam thì chúng ta cần có những giải pháp hợp lý về phát triển thị trường xuất khẩu đối với mặt hàng thuỷ sản. Vì vậy em đã chọn đề tài “Những giải pháp về phát triển thị trường xuất khẩu đối với mặt hàng thuỷ sản” Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Duy Bột đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Phần I Cơ sở Lý luận về thị trường và thị trường xuất khẩu I. Lý luận chung về thị trường. I.1. Khái niệm thị trường. I.1.1.Thị trường là gì?. Theo quan điểm cổ điển:Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá. Theo định nghĩa này cho ta thấy hình ảnh của các loại chợ cửa hàng. Đặc trưng của thị trường này là trên cùng một không gian, thời gian, địa điểm đồng thời diễn ra ba yếu tố, người mua người bán và hàng hoá. Theo quan điểm hiện đại: Thị trường là tổng thể các mối quan hệ lưu thông hàng hoá, tiền tệ, các dịch vụ Theo cách này thị trường được nhìn rộng hơn nhiều và được nhận biết qua các quan hệ mua bán trao đổi nói chung chứ không chỉ bằng trực quan ba yếu tố. Người mua, người bán hàng hoá và dịch vụ. Thị trường được mở rộng cả về không gian và thời gian, cá nhân và dung lượng Theo cách khác thị trường là tổng khối lượng nhu cầu có khả năng thanh toán, như vậy theo cách này thị trường nhận ra và xác định căn cứ vào dung lượng nhu cầu và khả năng thanh toán đươc dung lượng ấy Thị trường không chỉ bao gồm các mối quan hệ mà còn bao gồm cả các tiêu đề cho các mối quan hệ và hành vi. 1.1.2. Đặc điểm của kinh tế thị trường Ưu điểm Được tự do lưu thông hàng hoá và dịch vụ theo quy luật “ kinh tế thị trường và theo pháp luật”. Nhờ ưu điểm này mà hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều hơn, tiêu dùng tăng, đáp ứng được các nhu cầu ngày càng cao hơn. Phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn tiến tới khu vực hoá toàn cầu hoá nhanh chóng. Việc cấm chợ ngăn sông hoàn toàn bãi bỏ, người ta có thể mua cái gì mà mình thích và sản xuất những gì phù hợp với nhu cầu của thị trường theo đungs quy luật của pháp luật. Mở rộng thị truờng chúng ta có điều kiện giao lưu với nhiều nước về kinh tế cũng như văn hoá, học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các nước tiên tiến, tiếp thu và ứng dụng khoa học một cách có hiệu quả. Các dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hoá phát triển mạnh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh góp phần phục vụ đời sống nhân dân và xuất khẩu để thu ngoại tệ đầu tư cho đất nước, nhập khẩu những mặt hàng mà mình còn thiếu. Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế công nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế thị trường làm cho con người ta năng động hơn, luôn luôn vận động không ngừng. Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng bộc lộ những nhược điểm của nó. Nhược điểm Nhược điểm lớn nhất của kinh tế thị trường là phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Đi đôi với phân hoá giàu nghèo là đạo đức con người cũng bị bào mòn, người ta chỉ chú ý đến lợi ích riêng của mình mà không từ một thủ đoạn nào cho dù nó làm hại đến những người xung quanh, có khi đó có thể là những người thân yêu của mình. Con người ngày càng nghĩ về cái tôi của mình nhiều hơn. Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề toàn cầu mà thế giới quan tâm. Đây cũng là nhược điểm của kinh tế thị trường. I.2. Thị trường xuất khẩu. I.2.1. Thị trường xuất khẩu là gì ? Khái niệm: Thị trường xuất khẩu là thị trường mà ở đó người mua và người bán hàng hoá và dịch vụ tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng của hàng hoá và dịch vụ đó, là nơi diễn ra các hoạt động mau bán trong một thời gian và không gian nhất định. Đối tượng mua bán phải được dịch chuyển qua biên giới của một quốc gia. Vị trí của thị trường xuất khẩu Trong kinh tế thị trường, thị trường có vị trí trung tâm. Thị trường vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh vừa là môi trường của hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Trên thị trường người mua người bán gặp nhau trao đổi hàng hoá dịch vụ. Quá trình sản xuất xã hội gồm 4 khâu: sản xuất – phân phối – trao đổi- tiêu dùng thì thị trường bao gồm 2 khâu: phân phối và trao đổi. Đó là khâu trung gian cần thiết là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Vì vậy nó có tác động nhiều mặt đến sản xuất, tiêu dùng xã hội. I.2.2. Tính tất yếu của việc phát triển thị trường xuất khẩu Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, khi mà mọi doanh nghiệp đều muốn hướng hoạt động sản xuất của mình ra thị trường nước ngoài thì hoạt động xuất khẩu có một vai trò rất to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Xuất khẩu giúp các doanh nghiệp mở rộng được sản xuất do đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động mở ra cho doanh nghiệp nhiều mối quan hệ ở nước ngoài. Ngày nay các quốc gia trên hành tinh của chúng ta đang trong quá trình phát triển đã tạo lập nên các mối quan hệ song phương đa phương nhằm từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức đọ khác nhau. Chính các liên kết kinh tế quốc tế đó là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hướng khu vực hoá toàn cầu hoá đang diễn ra sôi động và đặc biệt trong những năm gần đây. Nhằm mục đích hỗ trợ lẫn nhau. Sự hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới đang đưa lại những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên. Vì vậy việc mở rộng thị trường xuất khẩu có nghĩa là chúng ta sẽ tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới để được hưởng các lợi ích mà nó đem lại tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nước thành viên. Trước những lợi ích đó Việt Nam chúng ta đã quyết định tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như ASEAN, APEC... và đã đệ đơn gia nhập WTO. Như vậy phát triển thị trưỡngxuất khẩu là tất yếu mà bất kỳ một nước đang phát triển nào cũng phải quan tâm và thực hiện. I.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu. Yếu tố kinh tế : -Kinh tế vĩ mô : Thực trạng của một nền kinh tế ảnh hưởng đến niềm tin của người tiêu dùng và cuối cùng ảnh hưởng đến kế hoạch mua sắm của họ. Như vậy, nó sẽ ảnh hưởng đến thị trường của nước này, chẳng hạn như khi hoàn cảnh kinh tế bị suy thoái thì người tiêu dùng có khuynh hướng không mua hàng hoá lâu bền nữa. Dân số và thu nhập của dân cư cũng quyết định đến tính chất của thị trường, khi thu nhập tăng thì có những nhu cầu mới sẽ gia tăng làm xuất hiện sức hấp dẫn của thị trường - Kinh tế vi mô: Đứng trên cương vị là nhà xuất khẩu, khi quyết định xâm nhập vào một thị trường thì điều không thể không cân nhắc đó là yếu tố cạnh tranh. Tuỳ xét xem sức mạnh, tiềm lực kinh tế của các đối thủ như thế nào, so sánh với thực lực của mình để từ đó đánh giá một cách chính xác thị trường và có giải pháp cụ thể. Địa lý và khí hậu: Thị trường cũng chịu tác động của yếu tố địa lý và khí hậu tự nhiên. Chính yếu tố này mà thị trường của một quốc gia, khu vực khác nhau có những yêu cầu khác nhau, đòi hỏi sản phẩm đưa vào phải thích hợp. Chẳng hạn như sản phẩm nào đó sử dụng tốt ở các nước có khí hậu ôn đới có thể ở khí hậu nhiệt đới lại bị hỏng, hoặc đòi hỏi phải để ở nhiệt độ lạnh hoặc bôi dầu mỡ bảo quản. Những sản phẩm dễ hỏng do sự tác động của khí hậu nóng ẩm thì lại yêu , bảo quản cao hơn khi xâm nhập vào thị trường có nhiệt độ cao, độ ẩm lớn. Chính trị và pháp luật: Ngoài các yếu tố đã nêu trên, thị trường quốc tế còn chịu sự tác động bởi ngoài chính trị và pháp luật. Thể hiện ở những ưu đãi và cản trở của Chính phủ đối với các nhà cung ứng khi xâm nhập vào thị trường quốc gia này. Có thể đó là những qui chế hàng rào thuế quan, về bảo hộ, hạn ngạch.. . Nếu mối quan hệ chính trị giữa nước nhập khẩu và xuất khẩu là bất ổn thì xâm nhập và mở rộng thị trường sẽ là rất khó khăn cho nhà xuất khẩu. Văn hoá: Khi xét các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế thì không thể bỏ qua yếu tố văn hoá. Chính yếu tố văn hoá đó đã làm cho khách hàng ở mỗi quốc gia phản ứng khác nhau với cùng một loaị sản phẩm. Tác động của yếu tố văn hoá đến thị trường thực sự là một vấn đề rộng, phức tạp, tuỳ cách quan niệm văn hoá theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp nhưng có một điều, yếu tố văn hoá được hình thành trên điều kiện tự nhiên, lịch sử dân tôc, tôn giáo.. . Do đó, thị trường của cùng các loại sản phẩm vào các quốc gia có nền văn hoá khác nhau thì sẽ khác nhau. Một ví dụ đơn giản về ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá tới thị trường quốc tế là việc giới thiệu và bán váy ngắn ở các quốc gia theo đạo hồi là điều không tưởng. Một số yếu tố khác như: Trình độ công nghệ, hệ thống phân phối.. cũng có tác động rất lớn đến các thị trường xuất khẩu của một nước. I.3.Vai trò và chức năng của thị trường xuất khẩu. I.3.1. Vai trò của thị trường xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu là cầu nối giữa các nhà kinh doanh trong nước và người tiêu dùng ở nước ngoài .Thị trường là vấn đề sống còn đối với sản xuất và kinh doanh trong thương mại quốc tế. Thị trường xuất khẩu là tấm gương phản chiếu còn sản xuất xuất khẩu là mục tiêu kiểm nghiệm chính xác nhất kết quả của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại quốc tế của một nước. Thị trường xuất khẩu là nơi quan trọng để đánh giá, kiểm nghiệm chứng minh tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách thương mại quốc tế của Nhà nước . Nơi đào tạo những cán bộ quản lý cán bộ kinh doanh nơi đào thải những cán bộ có năng lực yếu kém . I.3.2. Chức năng của thị trường xuất khẩu. Chức năng thông tin : Thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp biết nên xuất khẩu những hàng hoá nào, khối lượng bao nhiêu, nên tung ra thị trường ở thời điểm nào đồng thời chỉ ra cho người mua biết nên mua một loại hàng hoá hay mua một loại hàng hoá thay thế nào đó hợp với khả năng thu nhập của họ Chức năng này hình thành là do trên thị trường có chứa đựng các thông tin về tổng số cung và tổng số cầu, cơ cấu của cung cầu, quan hệ của từng loại hàng hoá, chi phí sản xuất, giá cả thị trường và chất lượng sản phẩm. Các điều kiện tìm kiếm và tập hợp các yếu tố sản xuất và phân phối sản phẩm. Công tác quản lý thông tin trên thị trường là rất quan trọng nên phải chọn lọc đưa ra quyết định đúng đắn nhất. Chức năng thừa nhận: Thị trường xuất khẩu là nơi gặp gỡ giữa các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và người mua trong qúa trình trao đổi hàng hoá, nhà doanh nghiệp đưa hàng hoá của mình vào thị trường với mong muốn chủ quan là bán được nhiều hàng hoá với giá cả sao cho bù đắp được chi phí đã bỏ ra có lợi nhuận cao nhất. Người mua tìm đến thị trường để mua hàng hoá đúng công dụng, hợp thị hiếu và có khả năng thanh toán theo mong muốn của mình. Chức năng thực hiện : Thị trường xuất khẩu là nơi diễn ra các hành vi mua bán hàng hoá giữa các bên thuộc các nước khác nhau người ta thường cho rằng thực hiện về giá trị là quan trọng nhất. Nhưng thực hiện về giá trị chỉ xảy ra khi giá trị sử dụng được thực hiện. Các hàng hoá xuất khẩu hình thành nên các giá trị trao đổi của mình thông qua thị trường xuất khẩu , làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực. Chức năng điều tiêt: Thông qua sự hình thành giá cả dưới tác động của quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh, trong quan hệ cung cầu hàng hoá mà chức năng điều tiết của thị trường được thực hiện đầy đủ. Phần II Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản và thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam I.Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian qua. I.1. Thực tiễn hoạt động xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian qua Giá trị xuất khẩu tăng nhanh Năm 1985, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 75 triệu USD, năm 1990 là 178 triệu USD và tăng nhanh với 1475 triệu USD năm 2000. Năm 2001 là 1760 triệu USD. Sau thập kỷ 90 vừa qua, giá trị xuất khẩu đã tăng lên 888% là mức tăng nhanh nhất trong số các sản phẩm lương thực và thực phẩm xuất khẩu. Trong 5 năm gần đây mức tăng này bình quân hàng năm là 24,2%/năm. Đây là mức tăng cao không chỉ ở nước ta mà còn trên thết giới (giá trị xuất khẩu thuỷ sản thế giới cùng thời kỳ chỉ tăng bình quân 1%/năm). Nhờ xuất khẩu thuỷ sản hàng năm tăng nhanh vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, Việt nam còn đứng hàng thứ 25, 26 tới cuối thế kỷ 20 đã vươn lên thứ 13, 14 trên thế giới và đã gia nhập danh sách những nước xuất khẩu thuỷ sản chính của thế giới. Trong khối ASEAN, Việt nam đã ngang ngửa với Indonesia, chỉ đứng sau Thái Lan về xuất khẩu thuỷ sản. Đây được coi là thành tích xuất sắc của Việt nam trong thời kỳ đổi mới và đã được quốc tế và bạn bè đánh giá cao. Các mặt hàng xuất khẩu Nếu như thời kỳ 1985-1995, chúng ta phải dựa vào một sản phẩm chủ yếu là tôm đông block. Từ năm 95 trở đi, tỷ lệ tôm đông giảm, các sản phẩm tăng nhanh như cá đông lạnh các loại, mực và bạch tuộc đông lạnh và phơi khô. Đến nay tôm đông vẫn còn là sản phẩm xuất khẩu số một với tổng trị giá xuất khẩu tăng lên rất nhanh từ 59 triệu USD năm 1985 lên 775 triẹu USD năm 2001, nhưng tỷ trọng đã giảm đi 34% so với cách đây 15 năm. Điều đáng chú ý là trứoc đây các sản phẩm cá ít được chú ý thì gần đây các sản phẩm cá đông lạnh, cá tưới, cá phi-lê được chú trong hơn. Hiện nay giá trị xuất khẩu cá đông đã chiếm tỷ trọng 20%. Năm 2001 mực khô đã trở thành một mặt hàngười xuất khẩu lớn thứ 3 đạt 144 triệu USD. Năm 1998 dến 1999, các mặt hàng thuỷ sản giá trị gia tăng mới chiếm 17-18% thì nay đã hơn 30% trong tổng số sản phẩm xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp tỷ trọng này chiếm 50%. Đây là kết quả của chủ trương đổi mới công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu và tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm theo chương trình HACCP và ISO 9002 của ngành. Hiện nay đã có trên 60 doanh nghiệp chế biên sthuỷ sản xuất khẩu được cấp giấy chứng nhận xuất khẩu trực tiếp sang EU. Nhiều mặt hàng đã chinh phục được các thị trường quan trọng như Mỹ, Nhật Bản. I.2. Thị trường xuất khẩu Nếu như trước đây xuất khẩu thuỷ sản phần lớn dựa vào thị trường Nhật Bản (thường chiếm 50-60% thị phần) và một vài thị trường khác như Hongkong, EU..thì hiện nay thuỷ sản Việt nam đã có mặt ở trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ tháng 8/2001, Mỹ đã vượut lên trên Nhật bản trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản số một của Việt nam . Trong năm 2001, Việt nam xuất khẩu sang Mỹ 481 triệu USD, chiếm 27,34% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Tháng 8/2001, Nhật Bản mất vị trí số một từng chiếm trong suốt 2 thập kỷ qua về xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Tuy nhiên , Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu thuỷ sản số một của thế giới. Trung Quốc và Hongkong vươn lên vị trí thứ 3 và hiện chiếm 16,9 % thị phần. Đây là thị trường có tiềm năng rất to lớn và đầy triển vọng cho hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam. Các thị trường như Trung Quôcs, Mỹ, Nhật Bản, Hongkong chiếm 70,9% trong tổng số giá trị xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Ngoài ra, các thị trường khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore cũng có nhiều triển vọng cho việc xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Tuy đã đạt được những thành tích đáng kế như trên nhưng xuất khẩu thuỷ sản của chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại. Nền kinh tế Nhật Bản suy thoái ảnh hưởng đến sức mua các mặt hang cao cấp như tôm, cá ngừ. Thị trường thuỷ sản mỹ có ảnh hưởng nhiều do nền kinh tế đang khó khăn đặc biệt là sau sự kiện 11/9 vừa qua. Việc EU tăng thuế đối voí tôm đông Việt nam từ đầu năm 2002 và tăng cường kiểm tra các lô hàng nhân sự kiện có chất cloramphenicol còn sót lại trong tôm đông cũng gây khó khăn cho chúng ta. Mới đây Triung Quốc tuyên bố sẽ ban bố hạn mức cho các hàng thuỷ sản từ Việt nam cũng là điều cần phải quan tâm. Bên cạnh đó việc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia xuất khẩu cùng mặt hàng thuỷ sản ngày càng tăng. Đây là những khó khăn và thử thách mà chúng ta cần phải tìm mọi cách vượt qua. I.2. Những thành tựu đạt được - Nâng cao chất lượng quản lý, hoàn thiện bộ máy quản lý ở các địa phương, phân cấp mạnh tới các cơ sở sản xuất. Bên cạnh đó tích cực hạn chế và khắc phục tính tự phát tăng cường hiệu quả và phát triển bền vững, đề xuất những chính sách, giải pháp cụ thể để thu hút các nguồn vốn đầu tư, xúc tiến tiếp tục mở rộng thị trường tiêu thụ. - Hoạt động quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh có sự khởi sắc đáng mừng và có những chuyển biến mang lại hiệu quả thực sự. Chế biến thuỷ sản là khu vực đi tiên phong trong áp dụng phương thức quản lý chất lượng theo hệ thống, các doanh nghiệp tích cực đầu tư đổi mới điều kiện sản xuất đảm bảo an toàn vệ sinh, áp dụng quản lý theo HACCP đưa ra những sản phẩm chất lượng, đáp ứng đòi hỏi của người tiêu dùng, đứng vững ngay cả lúc thị trường truyền thống trong khu vực chao đảo vì khủng hoảng tài chính, thị trường mới lại xâm nhập vô cùng khó khăn tính với thực phẩm thuỷ sản nhập từ nước ngoài. Các hoạt động kiểm tra đánh giá công nhận các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đảm bảo đủ điều kiện an toàn vệ sinhvà hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng áp dụng chương trình quản lý theo HACCP của cơ quan thẩm quyền cũng được triển khai mạnh. Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản (NAFIQACEN) do bộ thuỷ sản thành lập với một hệ thống gồm 6 chi nhánh trong cả nước được trang bị phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế đã có khả năng đáp ứng các nghiệp vụ chuyên môn và trở thành công cụ đắc lực của ngành trong quản lý Nhà nước về điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thuỷ sản, tạo thêm một lực đẩy cho xuất khẩu thuỷ sản ngày càng đạt cao hơn, thị trường mở rộng, tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng được nâng lên, nhiều mặt hàng đã đáp ứng được yêu cầu ăn ngay và nấu ngay và đã thâm nhập được các siêu thị khó tính nhất. - Nhà nước tích cực đổi mới cơ cấu quản lý, cho phép doanh nghiệp xuất khẩu tự do đi các nước, tự cân đối ngành. - Nghề nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển mạnh theo hướng tăng sản, ứng dụng tiến bộ sinh học trong chọn và lai tạo giống đi đôi với công nghiệp hoá sản xuất thức ăn. - Khuyến khích nuôi trồng thuỷ sản ven bờ theo mô hình trang trại , những vùng ven biển được Chính phủ cho phép chuyển đất trồng lúc sang nuôi tôn cá có hiệu quả hơn, quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất và phân công lại lao động nông thôn từ nông nghiệp thuỷ sản diễn ra rất nhanh, đạt hiệu quả cao, đã và đang góp phần giả quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân rõ rệt. - Hiện nay, công nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam đang lớn mạnh với 200 nhà máy đông lạnh, vùng nguyên liệu lớn đang được hình thành và theo chiều sâu. - Tích cực tập trung vốn, ngân sách ưu đãi để đóng mới sửa chữa tàu đáng cá và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và chế biến đồng thời tăng cường các trang thiết bị viễn thông dùng cho nghề cá. Hiện nay, toàn ngành đã có 71500 tầu thuyền cáo loại. - Tính đa dạng của các sản phẩm chế biến ngày càng rõ nét trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu. - Hàng năm, tạo thêm hàng trăm việc làm mới với đủ các trình độ tham gia các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ phục vụ sản xuất, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản. I.3. Những khó khăn và hạn chế Sau những bước phát triển nhảy vọt vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 hoạt động đánh băts thuỷ sản đã có dấu chững lại do hiệu quả giảm sút ,năng suất khai thác tàu thuyền là 0,92 tấn hải sản / mã lực ,đến 1995 giảm xuống còn 0,62 tấn / mã lực do các nguyên nhân tự nhiên ( khai thác hải sản ven bờ đã vượt mức cho phép 10% ) và các nguyên nhân chủ quan (máy móc và trang thiết bị lạc hậu ,thiếu phương tiện và kinh nghiệm đánh bắt hải sản đại dương, trình độ lực lượng lao động còn thấp ...) - Hiện nay, gần 80% số nhà máy chế biến thuỷ sản đã hoạt động trên 10 năm, chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng chế biến sản phẩm xuất khẩu. - Hầu hết hàng hoá thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam hiện nay dưới dạng thô (ướp lạnh, ướp đông.. .) với giá trị thấp. -Trong thời gian tới, ngành thuỷ sản sẽ phải dựa nhiều vào khu vực nuôi trồng mà chủ yếu là nuôi tôm xuất khẩu, trong khi đó diện tích nuôi thuỷ sản nước mặn và nước lợ hiện chỉ chiếm 35% tổng số 800 ngàn ha eo, vịnh, đầm phá tự nhiên ở nước ta. - Khu vực nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn về các chính sách thuế, luật pháp của Chính phủ vốn, công nghệ nuôi trồng, giống, chế biến.. . Thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam tự nuôi trồng chỉ chiếm 63% trong đó hơn 90% là nuôi thâm canh và bán thâm canh có chất lượng không ổn định và năng suất rất thấp, chỉ băng 15% so với Thái Lan. Vào đầu năm 2001, riêng tôm giống thiếu khoảng 3-4 tỷ con. - Còn thiếu nhiều phương tiện đánh bắt cá xa bờ hoặc các phương tiện này quá nghèo nàn, lạc hậu đã làm hạn chế khai thác luồng cá lớn có giá trị cao. - Các thiết bị bảo quản cần thiết cho thuỷ sản trước khi đưa vào bờ không có đủ làm giảm chất lượng hàng thuỷ sản do khâu bảo quản trên biển. - Tình trạng phát triển nuôi trồng thuỷ sản hiện nay thiếu định hướng thị trường, các chiến lược phát triển thị trường, thiếu quy hoạch và người sản xuất vội vã với lợi ích trước mắt đã gây lên bệnh dịch tôm làm thiệt hại lớn về kinh tế, môi sinh, môi trường bị ảnh hưởng nặng nề kéo dài. - Thiếu lao động có trình độ, các chuyên gia cao cấp và các nhà khoa học. Cơ cấu và chất lượng lao động thuỷ sản tuy có sự đổi mới nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành. - Việc ứng dụng công nghệ sinh học vào chọn và lai tạo giống nuôi trồng còn hạn chế, vấn đề đầu tư, giải quyết các mối quan hệ trong sử dụng đất đai ven biển giữa nuôi trồng thuỷ sản- rừng- muối-lúa còn nhiều điều phải xem xét đến. - Chương trình khai thác hải sản xa bờ được Nhà nước hỗ trợ đầu tư khá cao nhưng hiệu quả sản suất còn thấp. - Giá xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam hiện chỉ bằng một nửa giá xuất khẩu thuỷ sản cùng chủng loại và chất lượng của Thái Lan. - Sự thiếu đoàn kết trong sản xuất và kinh doanh giữa các doanh nghiệp, làm ăn theo kiểu chụp giật từ đó ảnh hưởng đến uy tín của ngành thuỷ sản Việt Nam. II. Một số thị trường xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu 1. Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là quốc gia có mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người cao nhất thế giới (67kg/người /năm). Người Nhật Bản coi trọng nguồn cung cấp protein từ tôm cá, đặc biệt trong năm, người Nhật có tới hàng trăm lễ hội và mỗi lễ hội hầu như có một hay vài món ăn chế biến từ thuỷ sản . Nhưng trong lịch sử phát triển lâu dài của mình, Nhật Bản đã sớm là một quốc gia biển nên có tiềm năng lớn về đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản , kim ngạch xuất khẩu những năm gần đây của Nhật Bản trên dưới 3,6 tỷ USD, riêng 6 tháng đầu năm 2001, xuất khẩu đạt 128.377 tấn, trị giá 44,9 tỷ yên. Nhật Bản chủ yếu xuất khẩu mực, cá hồi Thái Bình Dương sang Trung Quốc với khối lượng rất lớn, trên 90% lượng cá chuồn được xuất sang Thái Lan làm nguyên liệu cho hải sản đóng hộp. Mặt hàng thuỷ sản mà Nhật Bản nhập về chủ yếu là tôm, cá ngừ, cá mực, lươn, surimi, cua…Năm 2000, Nhật Bản nhập 246.627 tấn tôm đông lạnh, giảm 3% so với năm 1999. Các nước xuất khẩu tôm sang thi trường Nhật chủ yếu là ấn Độ, Inđônêxia và Việt Nam , cá ngừ vàng đông lạnh và cá ngừ mắt to từ Hàn Quốc và Đài Loan, cá hồi từ Nauy và Chi Lê, lươn tư Trung Quốc. 2. Thị trường Mỹ Trong thập kỷ vừa qua, Mỹ luôn đứng thứ ba, thứ tư trên thế giới về tổng sản lượng thuỷ sản với mức khá ổn định từ 5,5-5,9 triệu tấn/năm. Hầu hết các mặt hàng thuỷ sản của Mỹ đều có chất lượng cao, phong phú về chủng loại với nhiều sản phẩm quý như cá hồi, cá tuyết, cá ngừ, tôm hùm, sò, điệp, cá nheo...Tuy nhiên, sản lượng thuỷ sản nêu trên vẫn chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Hơn thế, thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ lại tập trung vào một số mặt hàng như: Tôm đông bóc đầu, cá ngừ đóng hộp, cá hồi tươi Đại Tây Dương, cá phi lê tươi, tôm hùm, thịt điệp...Các mặt hàng nêu trên của Mỹ lại có rất ít hoặc có nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Đặc điểm này là một trong những động lực quan trọng cho ngoại thương hàng thuỷ sản của Mỹ phát triển toàn diện cả về xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Những năm gần đây, xuất nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ đạt giá trị bình quân 10 tỷ USD/năm, lớn thứ 2 trên thế giới. Các mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ rất đa dạng, chủ yếu là thuỷ sản tươi sống và đông lạnh (khoảng 88% giá trị nhập khẩu), 73% là các mặt hàng thuỷ sản đóng hộp, còn lại là các mặt hàng thuỷ sản khác. Tôm đông lạnh là mặt hàng nhập khẩu quan trọng nhất vào Mỹ, chiếm tới 38% giá trị nhập khẩu của thuỷ sản nước này, chiếm gần 30% giá trị tôm đông lạnh nhập khẩu của thế giới. Tôm đông lạnh nhập khẩu vào Mỹ chủ yếu là tôm bóc đầu (chiếm 55% khối lượng và 58% giá trị) và tôm nguyên liệu thô (chiếm 38% khối lượng và 34% giá trị nhập khẩu tôm đông). Thái Lan tiếp tục chiếm lĩnh thị trường tôm đông lạnh ở Mỹ nhưng so với năm 1995 thì khối lượng giảm 7%. Equado lại là nhà xuất khẩu tôm đông lạnh thứ 2 sang Mỹ nhưng về khối lượng so với năm 1995 cũng giảm 8,5%. Sau nữa là đến Trung Quốc và một số nước khác có kim ngạch xuất khẩu tôm đông lạnh khá lớn sang thị trường Mỹ. Ngoài tôm đông lạnh, mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu lớn thứ hai là cá philê tươi và ướp đông. Mặc dù Mỹ có khả năng sản xuất cá philê nhưng do người Mỹ rất ưa chuộng cá philê của Tây Âu và Canada, vì vậy Mỹ phải xuất khẩu sản phẩm của mình và nhập khẩu sản phẩm của các nước khác (Canada, Chi Lê, Na uy, Tây Ban Nha...). Sau tôm đông lạnh và cá philê, các mặt hàng khác như : cá ngừ nguyên con, cá hồi nguyên con và ướp lạnh, cá ngừ đống hộp...được nhập khẩu vào Mỹ với giá trị hàng năm tương đối lớn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cư dân nước này và để tái chế rồi xuất sang nước khác. 3. Thị trường Trung Quốc Năm 2000, sản lượng thuỷ sản các loại của Trung Quốc đạt 42.785 ngàn tấn trong đó sản lượng thuỷ sản khai thác tự nhiên là 17.400 ngàn tấn và sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 25.385 ngàn tấn. Dự kiến đến năm 2001, sản lượng thuỷ sản của Trung Quốc sẽ tăng lên đến trên 50 ngàn tấn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước ngày càng tăng và nhu cầu cho xuất khẩu với khối lượng lớn. Về tiêu thụ, do mức sống của nhân dân Trung Quốc tiếp tục tăng lên và nhu cầu về thuỷ sản tươi sống cũng tăng theo, dưới đây là số liệu thống kê của Trung Quốc cho ta thấy. Bảng 1: Cơ cấu tiêu dùng và xuất nhập khẩu thuỷ sản Trung Quốc. Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 Mức tiêu thụ bình quân. - Thành thị: - Nông thôn: Nhập khẩu. Xuất khẩu. kg/người ,, ,, Tấn ,, 5,82 10,3 3,28 626.000 1.296.000 6,74 11,7 3,92 1.251.000 1.485.000 Tính đến hết tháng 4/2001, khối lượng thuỷ sản mậu dịch của Trung Quốc dự tính tăng 13% so với cùng kỳ năm 2000. Nga là thị trường chính xuất khẩu chính đối với mặt hàng cá ướp đông của Trung Quốc. Trên 50% khối lượng cá đông lạnh nhập khẩu vào Trung Quốc là từ thị trường Nga, phần còn lại được nhập khẩu từ ấn Độ và các thị trường khác. Hầu hết cá đông lạnh nhập khẩu vào Trung Quốc được lọc xương và tái xuất. Mực là loài nhuyễn thể thân mềm được giao dịch với khối lượng lớn, phần lớn mực nhập khẩu vào Trung Quốc được chế biến và tái xuất sang Nhật, Mỹ và Hàn Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc cũng xuất khẩu một khối lượng lớn mực sống, tôm đông lạnh, lươn sống và đông lạnh. 4. Thị trường EU Liên minh Châu Âu hiện nay bao gồm 15 quốc gia với hơn 365 triệu người tiêu dùng. Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất về hải quan, có định mức thuế hải quan chung cho tất cả các nước thành viên. Ngày 7/2/1992 hiệp ước Masstricht được ký kết tại Hà Lan mở đầu cho sự thống nhất về chính trị, kinh tế tiền tệ giữa các nước thành viên EU. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu thông sức lao động, hàng hoá dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên. Riêng đối với mặt hàng thuỷ sản, EU là một trong ba thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất thế giới bên cạnh Nhật Bản và Mỹ. Hàng năm Liên minh Châu Âu chiếm từ 25-30% nhập khẩu thuỷ sản của toàn thế giới. Mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người ở EU là 17kg/năm và tăng dần hàng năm khoảng 3%. Giá cả mặt hàng thuỷ sản ở thị trường EU cũng cao hơn các thị trường Châu á trung bình khoảng từ 1,1 đến 1,4 lần và có tính ổn định. Thị trường thuỷ sản EU có tính ổn định cao, với nhiều nhóm cư dân có nhiều yêu cầu khác nhau trong thói quen tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản. Trong khi nhu cầu về hàng thuỷ sản đang ngày càng tăng, Uỷ ban nghề cá của EU mới đây đã ra tuyên bố cắt giảm 1/3 sản lượng khai thác hải sản từ năm 1997-2010, nhằm để bảo vệ nguồn lợi hải sản. Chính điều này làm cho nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản của EU đang ngày càng tăng cao. Tuy nhiên thị trường EU thật sự là một thị trương khó tính, có tính chọn lọc cao với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. 5. Một số thị trường khác. Các thị trường này chủ yếu là Trung Quốc, Hồng Kông:Tính đến tháng 11/2000, thuỷ sản Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường này 252,1 triệuUSD tăng 2,3 lần so với năm1999. Trung Quốc và Hồng Kông đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của ngành thuỷ sản Việt Nam, chiếm tỷ trọng 19,3% tổng gía trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước, có tốc độ tăng trưởng nhanh, sát nút với thị trường Mỹ, đã khẳng định vị trí quan trọng của mình. Xuất khẩu cá sang thị trường này đã đạt 36,6 triệu USD, ngang ngửa với thị trường Nhật bản vốn là thị trường truyền thống lớn nhất của ta. Riêng mực và bạch tuộc đạt 12 triệu USD, vượt cả 13 nước EU cộng lại. Đặc biệt hơn là hàng khô các loại xuất khẩu sang thị trường này đã đạt 150,797 triệu USD chiếm tỷ trọng 60% kim n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV229.Doc
Tài liệu liên quan