Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng gần 80% dân số sống ở khu vực nông thôn và gần 70% lao động làm việc ở ngành sản xuất nông nghiệp. Do đó nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đây là nơi cung cấp những sản phẩm thiết yếu như lương thực, thực phẩm để duy trì sự sống của con người. Do vậy nông nghiệp nước ta có vai trò quyết định ch
57 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp và kết quả đạt được trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá ở xã Ngọc Quan – huyện Đoan Hùng – tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o sự phát triển của nền kinh tế quốc dân trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế bắt đầu từ chỉ thị 100 của Ban bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị đã mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển nền nông nghiệp nước ta. Nông nghiệp nông thôn nước ta phải phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá nhằm tận dụng và phát huy hết tiềm năng về đất đai, lao động, tiền vốn ở nông thôn, sản xuất ra các loại nông sản hàng hoá chất lượng cao có giá trị trên thị trường trong và ngoài nước. Trong những năm qua nông nghiệp nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng từ một nước thiếu lương thực triền miên đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Tuy nhiên trong ngành sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt trong ngành sản xuất nay còn nhiều khó khăn, sản xuất còn lại hậu thủ công, chịu ảnh hưởng và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Vì vậy phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ chiến lược được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm. Một trong những biện pháp hiện nay là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng theo hướng sản xuất hàng hoá.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng là quá trình tạo ra một cơ cấu cây trồng phù hợp có hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng địa phương đó là việc làm không đơn giản. Do đó cần thiết và phải có một sự xem xét đánh giá một cách trung thực, đầy đủ và khoa học về vấn đề nói trên từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể hợp lý nhất để giải quyết ván đề đạt hiệu quả cao.
Ngọc Quan là xã có diện tích đất đai rộng lớn đứng thứ hai huyện Đoan Hùng, dân số là 5913 người. Trong đó 3540 người trong độ tuổi lao động, đây là lực lượng lao động lớn, người lao động rất cần cù, chăm chỉ, có kinh nghiệm trong sản xuất và có tinh thần vươn lên làm giàu. Được sự quan tâm chỉ đạo của cáp uỷ, chính quyền và đoàn thể nhân dân từ xã tới cơ sở, thực hiện Nghị quyết 05 của Tỉnh uỷ về công tác dồn đổi ruộng đất ở địa phương đã tiến hành quy hoạch bố trí vùng sản xuất hình thành cánh đồng, khu đồi, hộ gia đình có thu nhập cao. Đời sống của người nông dân đã được cải thiện một cách rõ rệt. Tuy nhiên ở đây thuần nông vẫn là chủ yếu, năng xuất cây trồng, vật nuôi còn thấp. Do vậy vấn đề cấp bách hiện nay là nghiên cứu các giải pháp để nâng cao thu nhập cho người dân từ ngành sản xuất nông nghiệp nói chung, ngành trồng trọt nói riêng, trên cơ sở bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý, khai thác tốt thế mạnh, tiềm năng vốn có của sản xuất nông nghiệp. Để góp phần giải quyết vấn đề trên trong thời gian thực tập tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Những giải pháp và kết quả đạt được trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá ở xã Ngọc Quan – huyện Đoan Hùng – tỉnh Phú Thọ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
* Mục tiêu chung
Trên cơ sở điều tra, đánh giá trung thực, khoa học thực trạng cơ cấu cây trồng của địa phương và các định hướng phát triển ngành trồng trọt, lựa chọn cơ cấu cây trồng hợp lý mang lại hiệu quả kinh tế cao.
* Mục tiêu cụ thể:
+ Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về cơ cấy cây trồng, sản xuất hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng hàng hoá.
+ Đánh giá, phân tích đúng thực trạng cơ cấu cây trồng hiện nay trên địa bàn xã đồng thời tìm ra nguyên nhân làm hạn chế quá tình chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn xã những năm qua.
+ Đưa ra một số định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng hoá của xã trong những năm tới.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá trên địa bàn xã Ngọc Quan – huyện Đoan Hùng – tỉnh Phú Thọ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian:
- Đề tài nghiên cứu trong phạm vi xã Ngọc Quan – huyện Đoan Hùng – tỉnh Phú Thọ.
* Về thời gian:
- Số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài trong 3 năm ( 2005 – 2007)
- Thời gian nghiên cứu đề tài từ ngày…… tháng 12 năm 2007 đến ngày 31 tháng 3 năm 2008
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài em đã chọn các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp xử lý số liệu
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề có 3 chương
Phần mở đầu: Sự cần thiết, mục tiêu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng hàng hoá
Chưong II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng hàng hoá trên địa bàn xã Ngọc Quan
Chương III: Phương hướng - giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn xã Ngọc Quan.
Phần kết luận: Kết luận và đề xuất, kiến nghị.
Nhờ sự giúp đỡ tận tình của cô giáo: Đào Thị Ngân Giang với sự cố gắng nỗ lực của bản thân chuyên đề tốt nghiệp đã được hoàn thành. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế, thời gian thực tập ngắn bản thân là cán bộ xã vừa làm vừa học nên chuyên đề tốt nghiệp của em không tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, bổ xung của các thầy giáo, cô giáo để chuyên đề tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn: Cô Đào Thị Ngân Giang cùng các thầy cô trong khoa KTNN & PTNT trường đại học kinh tế Quốc dân Hà Nội.
Chương I:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu cây trồng
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấy cây trồng
1.1. Khái niệm cơ cấu cây trồng
Có một số quan niệm định nghĩa về cơ cấu cây trồng như:
“Cơ cấy cây trồng là 1 phạm trù khoa học biểu hiện trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp đồng thời cơ cấu cây trồng cũng là một chỉ tiêu quan trọng của chiến lược nông sản hàng hoá”.
“Cơ cấu cây trồng là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định, chúng tác động qua lại quan hệ tương tác với nhau trong điều kiện không gian và thời gian nhất định, cụ thể tạo thành một hệ thống kinh tế nông nghiệp nông thôn, một bộ phận quan trọng không thể tách rời của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu cây trồng còn là một bộ phận chủ yếu của cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta”.
Cơ cấu cây trồng không phải là bất biến mà nó được thay đổi phù hợp với từng thời kỳ nhất định, hay cơ cấu cây trồng được xác lập bởi cơ cấu của từng loại, nhóm cây sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế và tập quán canh tác của từng vùng, từng địa phương.
Xác định cơ cấu cây trồng phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội song phải đáp ứng được nhu cầu tại chỗ và nhu cầu thị trường trong hiện tại và tương lai kể cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Nghĩa là cơ cấu cây trồng đó vừa sử dụng hợp lý các nguồn lực của địa phương và mang lại giá trị sản xuất cao nhất trên 1 ha diện tích đất canh tác. Cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá là cơ sở để xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững và hiệu quả. Muốn làm được điều đó cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Khai thác một cách khoa học các điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết, nguồn nước, đất đai…) nhằm hạn chế thấp nhất các tác hại do thiên tai gây ra như lũ lụt, hạn hán, chua mặn… Đồng thời không ngừng thâm canh cải tạo đất.
Khai thác và lợi dụng một cách khoa học triệt để những đặc tính sinh học của cây trồng như khả năng chống chịu các điều kiện ngoại cảnh (hạn úng, chua, mặn…) khả năng chống chịu sâu bệnh, tính thích nghi rộng, sinh trưởng phát triển tốt, chịu thâm canh khả năng cho năng suất cao, chất lượng tốt.
Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ thời gian sản xuất và lao động thường tập trung vào thời điểm gieo trồng và thời gian thu hoạch. Vì vậy bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp sẽ tạo điều kiện để sử dụng sắp xếp lao động một cách hợp lý, giảm bớt tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu cây trồng hợp lý sẽ tăng năng xuất cây trồng và cải tạo đất nâng cao độ phì cho đất, điều hoà dinh dưỡng. Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý sẽ điều hoà nguồn nhân lực, kích thích thúc đẩy các ngành nghề phi nông nghiệp phát triển góp phần giải quyết việc làm nâng cao thu nhập cho người dân.
1.2. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng thực chất là thực hiện một bước chuyển từ cơ cấu cây trồng cũ sang cơ cấu cây trồng mới, hay thực chất của nó là phát triển hệ thống cây trồng phù hợp, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn dựa trên đặc tính sinh học của từng loại cây trồng. Chuyển dịch cơ cấu là tổ hợp các thành phần trong cơ cấu có mối quan hệ tương tác với nhau, thúc đẩy lẫn nhau nhằm khái thác tốt lợi thế về điều kiện tự nhiên tạo cho cơ cấu có sức sản xuất cao và bảo vệ môi trường sinh thái tốt hơn.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng hàng hoá là sự thay đổi tỷ lệ phần trăm của các cây trồng theo hướng tăng diện tích của các loại cây trồng, nhóm cây có giá trị hàng hoá cao và giảm diện tích các loại cây, nhóm cây có giá trị hàng hoá thấp. Nghĩa là chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải tính đến nhu cầu của thị trường trình độ, tiến độ phát triển của khoa học kỹ thuật và khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất của người lao động. Do vậy chuyển dịch cơ cấu cây trồng là một vấn đề lớn cần phải xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng, khoa học khi áp dụng vào một địa phương hay 1 vùng cụ thể.
2. Vai trò của cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng
Cơ cấu cây trồng hợp lý dẫn đến sử dụng các yếu tố đầu vào đầy đủ và hợp lý hơn, cơ cấu cây trồng là căn cứ để xây dựng kế hoạch đầu tư vốn, sử dụng lao động và các loại tư liệu sản xuất nông nghiệp cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật một cách có hiệu quả và chủ động khắc phục được tính thời vụ trong lao động nông nghiệp.
Cơ cấu cây trồng hợp lý góp phần đáng kể vào việc bảo vệ môi trường đất vì đất đai là nơi cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng sinh trường và phát triển. Vì vậy, cơ cấu cây trồng hợp lý sẽ bảo vệ được môi trường đất, làm tăng độ phì nhiêu cho đất. Ngoài ra nước, không khí là yếu tốt ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Do đó vấn đề quan trọng để bảo vệ môi trường sinh thái là phát triển một nền nông nghiệp sạch bền vững. Việc xác định một cơ cấu cây trồng hợp lý đạt hiệu quả là một đòi hỏi tất yếu đối với mọi thành phần sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Như vậy muốn chuyển dịch cơ cấu cây trồng mang lại hiệu quả cao, phục vụ cho chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững trong tương lai phải thuân thủ theo các quan điểm chủ trương chính sách của đảng chứ không phải là thay đổi hoàn toàn, ồ ạt, vội vã, cũng có thể chần trừ, chậm trễ. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải có căn cứ khoa học.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu
Nông nghiệp là một ngành kinh tế với đặc thù riêng khác với ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác, sản xuất trong nông nghiệp mang nặng tính thời vụ, phụ thuộc và bị ảnh hưởng của tự nhiên đất đai, khí hậu, nước…, sản xuất diễn ra chủ yếu là ngoài trời và phạm vi không gian sản xuất rộng lớn. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật và cây trồng, vì vậy cây trồng và quá trình chuyển dịch cơ cấu cây chịu ảnh hưởng đặc trưng của sản xuất nông nghiệp.
3.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu, địa hình có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của các loại cây trồng, ảnh hưởng đến việc bố trí các loại cây trồng cho nên nó có ảnh hưởng đến quá trình chuyển dich cơ cấu cây trồng.
- Đất đai: Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề của mọi quá trình sản xuất. Sự ảnh hưởng của đất đai là khác nhau đối với từng ngành khác nhau. Trong sản xuất nông nghiệp đất đai không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực không thể thay thế được. Đất cung cấp chất dinh dưỡng, nước cho cây trồng phát triển hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất quyết định đến năng xuất cây trồng, nhưng sự tác động của đất đai tới sản xuất nông nghiệp là có hạn vì diện tích đất đai là không thể tăng được mà hiện nay trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì diện tích đất đai đang bị thu hẹp. Dân số ngày càng gia tăng do đó diện tích đất canh tác trên đầu người giảm, vấn đề sử dụng đất trong nông nghiệp ngày càng khó khăn hơn. Chúng ta khắc phục hạn chế trên bằng cách khai thác chiều sâu trong sản xuất nông nghiệp để tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cấu tiêu dùng của người dân. Đất đai có vị trí cố định gắn liền với điều kiện kinh tế xã hội của mỗi vùng, nó khác với các tư liệu sản xuất khác bởi nó không bị hao mòn và đào thải qua quá trình sử dụng. Nếu sử dụng đúng mục đích, hợp lý thì chất lượng của đất ngày càng tốt hơn, sức sản xuất của ruộng đất ngày càng cao hơn . Do dó vấn đề đặt ra là chú trọng chăm sóc đất đai, kết hợp trồng lúa hoa màu xen kẽ là hết sức cần thiết và khoa học để cải toạ đất. Có thể nói rằng ngành nông nghiệp không thể tồn tại được nếu như không có đất đai, vì vậy chúng ta cần khai thác và sử dụng đất đai hợp lý, đồng thời luân chú trọng cải tạo đất.
- Khí hậu: Thời tiết khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng để xác định cơ cấu cây trồng, thời vụ cây trồng. Ví dụ như miền Bắc và miền Nam khí hậu khác nhau cũng tạo ra cây trồng và cơ cấu cây trồng cũng khác nhau. Điều này phù thuộc vào nhu cầu nhiệt lượng của cây trồng và tổng nhiệt lượng hàng năm của vùng đó.
- Vị trí địa lý: Vị trí địa lý là một trong những nhân tố quan trọng để quyết định thế mạnh của từng vùng, từng địa phương phù hợp với một giống cây trồng nhất định, Vì vậy xác định cơ cấu cây trồng và chuyển dich cơ cấu cây trồng của vùng, địa phương phải căn cứ vào thế mạnh của vùng, địa phương, đồng thời phải với xu thế quan điểm công nghiệp hóa và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
3.2. Điều kiện kinh tế – xã hội
- Điều kiện kinh tế xã hội gồm: Cơ sở vật chất, kỹ thuật vốn nguồn lực thị trường tiêu thụ, tập quán và kinh nghiệm sản xuất. Quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng chịu ảnh hưởng đế nhân tố này. Cho nên nó có tác động lớn quyết định chuyển dịch và xác định cơ cấu cây trồng hợp lý.
Cơ sở vật chất kỹ thuật như hệ thống giao thông, thuỷ lợi kỹ thuật chăm sóc… là các nhân tố có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Thực tế cho thấy ở địa phương nào mà đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi kênh mương tưới tiêu tốt ở đó thâm canh, tăng vụ có hiệu quả, năng xuất cao ổn định, chất lượng tốt. Hệ thống giao thông tốt sẽ đảm bảo việc vận chuyển nông sản sau thu hoạch thuận lợi, nhanh chóng đảm bảo chất lượng.
Vốn có vai trò quan trọng không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Vốn được biểu hiện bằng tiền của, tư liệu sản xuất và đối tượng lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất. Sự tác động của vốn đến hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua cây trồng vật nuôi, yếu tố kỹ thuật trong nông nghiệp. Cơ cấu chất lượng của vốn sản xuất phải phù hợp với từng loại đối tượng sản xuất, từng loại đất đai. Ngoài ra trong sản xuất nông nghiệp cần phải có một lượng vốn lưu động nhằm tránh tình trạng bị ứ đọng vốn do sản xuất gặp rủi do. Có thể nói nguồn vốn đầu tư sản xuất nông nghiệp là một trong các nhân tố quyết định đến quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nó quyết định đến hiệu quả của quá trình chuyển dịch vì muốn có giống cây trồng mới cho năng xuất cao chất lượng tốt thì phải có tiền để mua và muốn xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật khoa học mới phục vụ cho quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũng phải có vốn. Do đó khi nguồn vốn được sử dụng trong nông nghiệp tăng thì quá trình chuyển dịch trong cơ cấu cây trồng diễn ra nhanh và đạt hiệu quả cao.
Sản xuất nông nghiệp có đặc tính là sản xuất mang tính thời vụ cao cho nên lao động cũng mang tính thời vụ do đó cần phải làm tốt công tác chuẩn bị nguồn nhân lực, hạn chế sự nhàn rỗi, khai thác và phát huy tối đa sức lao động khi mùa vụ tới.
Nông sản hàng hoá bán trên thị trường bao gồm sản phẩm hàng hoá bán cho người tiêu dùng, cho các ngành công nghiệp chế biến trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm cây trồng tham gia trên thị trường qua rất nhiều kênh, các kênh này đan xen mối quan hệ phức tạp. Giá cả và tỷ trọng sản xuất bán ra trong tổng số sản xuất ra phụ thuộc nhiều vào mục tiêu của người sản xuất, trình độ phát triển của hệ thống thị trường và thông tin mà người sản xuất có được. Bởi vậy thị trường đầu ra cho sản phẩm cây trồng rất quan trọng, nó thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng diễn ra nhanh hay chậm tốt hay xấu.
3.3. Nhân tố tổ chức sản xuất kỹ thuật
- Nhóm nhân tố báo gồm: Trình độ tổ chức sản xuất sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Thực tế cho thấy trình độ sản xuất tỷ lệ thuận với việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất góp phần hoàn thiện các phương thức sản xuất, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực vào sản xuất đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Đặc biệt thế kỷ XXI là thế kỷ CNH – HĐN nông nghiệp thông thôn, sự bùng nổ của khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ sinh học đưa các giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất thay thế các loại giống cũ năng suất thấp, chất lượng kém. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ giải phóng sức lao động, giảm chi phí sản xuất và hiệu quả kinh tế tăng.
Ngoài ra việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp sẽ dần quy hoạch, hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá, vùng sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường và khai thác được lợi thế của vùng. Bởi vậy nhóm nhân tố tổ chức sản xuất, kỹ thuật góp phần tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng để tạo ra khối lượng hàng hoá hơn.
3.4. Sự trợ giúp của nhà nước
Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng. Các chính sách về phát triển kinh tế xã hội của nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn và các chính sách về đất đai, chính sách hỗ trợ người nghèo… Trong những năm qua đang có tác dụng tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng nông nghiệp. Nền kinh tế nông nghiệp đã dần chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá.
+ Chính sách cho người nghèo vay vốn và chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng và tiến hành thực hiện thâm canh trong sản xuất nông nghiệp.
+ Chính sách đầu tư các mô hình áp dụng kỹ thuật thông qua công tác khuyến nông đã giúp các hộ tham gia mô hình dự án có điều kiện mở rộng sản xuất và tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới từ đó nhân rộng mô hình trong nhân dân.
4. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá là xu hướng tất yếu có tính quy luật
Sản xuất hàng hoá là xu hướng vận động tất yếu của nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng. Trong đó chuyển dịch cơ cấu cây trồng cũng phải tuân thủ xu hướng vận động này. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, nhà nước luôn chú trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp gắn liền với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Chính nhờ có công nghiệp hoá - hiện đại hoá cho phép nông nghiệp thực hiện sản xuất và quản lý mang tính khoa học, công nghiệp, giảm dần tỷ lệ lao động nông nghiệp song tỷ trọng (giá trị đóng góp) của ngành nông nghiệp không giảm mà ngày một tăng, góp phần tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới văn minh giàu mạnh.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá là xu hướng tất yếu bởi vì nó sẽ góp phần thúc đẩy cải tiến nhanh về kỹ thuật canh tác, công nghệ sản xuất, nâng cao năng suất cao động xã hội từ đó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Chuyển tịch cơ cấu cây trồng sẽ hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên sâu làm cho trình độ lao động của người nông dân được nâng lên, người nông dân được tiếp thu nắm bắt, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, trình độ chuyên môn hoá trong sản xuất được nâng lên, mối liên kết giữa các vùng, các ngành ngày càng chặt chẽ hơn và kết quả là đẩy mạnh được quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động đáp ứng thảo mãn sức mua của xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá là một xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay thì xu hướng này là một tất yếu khách quan khi mà nền nông nghiệp nước ta còn ở trình độ thất và lạc hậu. Khi mà thị trường nông sản ngày càng mang tình xã hội hoá và quốc tế hoá cao, sự cạnh tranh thị trường ngày một khốc liệt.
5. Điều kiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả đòi hỏi cần một số các điều kiện: Vốn, kỹ thuật, nguồn nhân lực, thị trường đầu ra cho sản xuất nông sản và môi trường kinh tế xã hội ổn định.
Nhân lực là điều kiện không thể thiếu được khi tiến hành chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Nguồn nhân lực ở đây bao gồm: Cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu, cán bộ chuyển giao khoa học trực tiếp hướng dẫn nông dân sản xuất và một đội ngũ lực lượng lao động dồi dào trực tiếp thực hiện quá trình kinh tế thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy đòi hỏi phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có trình độ tay nghề nắm bắt khoa học kỹ thuật vào sản xuất và nhạy bén với thông tin thị trường.
Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra một phần phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, phần còn lại đem ra thị trường để bán. Mục đích của chuyển dịch cơ cấu cây trồng là sản xuất ra thật nhiều sản phầm hàng hoá để bán trên thị tường thu lợi nhuận càng lớn càng tốt. Do đó vấn đề thị trường mà đặc biệt là thị trường đầu ra cho sản xuất nông nghiệp là rất quan trọng, phải có chiến lược thị trường đầu ra ổn định, thông thoáng cho sản phẩm nông nghiệp. Có như vậy chuyển dịch cơ cấu cây trồng mới đạt hiệu quả cao và từ đó mới phát triển một nền nông nghiệp bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng là quá trình đưa các giống mới vào sản xuất có hiệu quả kinh tế cao hơn các giống cũ. Ngoài ra cần các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Mà các loại giống và trang thiết bị này phải mua và như vậy phải cần vốn. Chính vì vậy mà vốn là điều kiện cần để quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng diễn ra nhanh và tốt hơn.
Tóm lại: Để chuyển dịch cơ cấu cây trồng diễn ra và đạt hiệu quả cao thì cần có rất nhiều điều kiện: Điều kiện kinh tế (vốn, khoa học, nguồn nhân lực…) điều kiện xã hội ( môi trường chính trị ổn định thị trường rộng lớn và ổn định) những điều kiện này nó có mối quan hệ qua lại đan xen, hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy không xem nhẹ bất cứ điều kiện nào có như vậy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả kinh tế cao.
6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng
Nói đến cơ cấu cây trồng là nói đến việc bố trí các loại cây trồng trên loại đất cụ thể. Mỗi loại cây trồng thích ứng với một loại đất và mật độ gieo trồng chính vì vậy nó quyết định quy mô số lượng và cơ cấu cây trồng của ngành. Hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng đó là: Thu nhập, giá trị kinh tế của cơ cấu cây trồng mới lớn hơn thu nhập, giá trị kinh tế của cơ cấu cây trồng cũ. Đánh giá hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng có thể dựa vào các chỉ tiêu như:
+ Năng suất cây trồng chính: Đó là sản lượng cây trồng mang lại trên một đơn vị diện tích gieo trồng.
+ Hệ số sử dụng đất: Là hệ số quay vòng của một đơn vị diện tích đất trong một năm, hệ số quay vòng càng lớn chứng tỏ trình độ sử dụng đất đạt hiệu quả cao.
+ Năng suất lao động là sản phẩm mà mỗi lao động làm ra trong một đơn vị thời gian trên 1 đơn vị diện tích.
+ Hiệu quả đầu tư vốn: Là kết quả thu được hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả này phải lớn hơn mức chi phí bỏ ra hiệu quả đầu tư vốn càng lớn chứng tỏ chuyển dịch cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả càng cao.
+ Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp: Là tổng giá trị kinh tế do lao động nông nghiệp tạo ra trong một thời gian nhất định.
+ Hiệu quả về mặt xã hội: Đó là khi chuyển dịch cơ cấu cây trồng sẽ giải quyết được bao nhiêu việc làm cho lao động nông nghiệp, sẽ đáp ứng được nhiều hơn hay ít hơn thị hiếu người tiêu dùng, giá cả sản phẩm nông sản làm ra sẽ thấp hơn hay không, đời sống của người nông dân sẽ được cải thiện như thế nào.
+ Hiệu quả về mặt môi trường: Khi chuyển dịch cơ cấu cây trồng chúng ta phải xem xét đến mặt môi trường, môi trường có được cải thiện hay không, đất đai và nguồn nước có bị ô nhiễm hay không, lượng cây xanh có tăng hay không, sức khoẻ của con người có bị ảnh hưởng không.
Khi đánh giá hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu cây trồng chúng ta phải đánh giá một cách toàn diện không bỏ qua bất kỳ các chỉ tiêu nào. Từ đó mới chuyển dịch cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả tốt nhất.
II. Bài học kinh nghiệm
1. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở một số nước trên thế giới chuyển dich cơ cấu cây trồng là một vấn đề lớn mang tính lý luận và thực tế cao của các nước trên thế giới đặc biệt là những nước đang phát triển mà nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở các nước như Thái Lan diễn ra nhanh và đạt hiệu quả cao, trước năm 1970 hệ số canh tác 2 vụ 1 năm là phổ biến, thì đến năm 1970 nông dân Thái Lan đã tiến hành thâm canh tăng vụ, diện tích gieo trồng 3 vụ trong năm tăng nhanh, chiến 85% tổng diện tích gieo trồng và hình thành được các vùng sản xuất chuyên môn hoá cao. Nông sản, sản xuất ra chất lượng tốt, giá cả cao đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. VD: Thái Lan đứng thứ nhất về xuất khẩu gạo.
Kinh nghiệm của Trung Quốc: Trung Quốc là một nước lớn có nhiều điểm tương đồng với nước ta, Trung Quốc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Quan điểm xuyên suốt của Trung Quốc là coi nông nghiệp trên cơ sở khai thác các lợi thế so sánh, coi sản xuất lương thực là cơ sở của nông nghiệp. Trung Quốc luôn đặt nông nghiệp lên vị trí hàng đầu và tập trung bảo đảm mọi mặt cho sản xuất nông nghiệp phát triển như: Thuỷ lợi, giống, cơ sở hạ tầng nông thôn… mở mang phát triển những ngành nghề đây là điểm cơ bản trong chính sách đối với sản xuất nông nghiệp mà Trung Quốc đã thực hiện trong thời gian qua. Trung Quốc chủ trương thi hành những biện pháp chủ yếu sau:
+ ổn định diện tích gieo trồng cây lương thực.
+ Nâng cao năng suất trên đơn vị diện tích bằng con đường thâm canh, xây dựng quy hoạch các vùng lương thực hàng hoá trọng điểm. Nhà nước thi hành chính sách các vùng trọng điểm sản xuất hàng hoá đặt ra các chính sách ưu đãi để giải quyết tốt các vấn đề cơ chế đầu tư, thực hiện tốt chính sách an ninh lương thực.
+ Điều chỉnh hợp lý lợi ích giữa các vùng, các khu vực sản xuất. Đối với các vùng sản xuất lương thực chủ yếu, Trung Quốc chủ trương thi hành các biện pháp đảm bảo lợi ích cho người nông dân (đóng bảo hiểm cho người nông dân, miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi…) để họ gắn bó với đồng ruộng. Mọi vùng địa phương căn cứ vào điều kiện của mình sau khi đảm bảo lương thực và có sự điều chỉnh cơ cấu hợp lý.
Tóm lại: Nhờ có đường lối, chính sách đúng đắn trong điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Trung Quốc đã phát triển nền nông nghiệp một cách toàn diện và đúng hướng làm cho bộ mặt nông thôn Trung Quốc thay đỏi một cách nhanh chóng, đời sống vật chất, tinh thần của nông dân được cải thiện rõ rệt.
Chương II
Thực trạng chuyển đổi cơ cấu cây trồng
trên đất nông nghiệp ở xã Ngọc Quan
I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Ngọc Quan ảnh hưởng đến cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
1. Đặc điểm tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý, địa hình
Ngọc Quan là một xã miền núi của huyện Đoan Hùng, cách thị trấn Đoan Hùng 2,5km về phía Tây. Có địa hình tương đối phức tạp, nhiều đồi núi cao địa hình thấp dần từ Tây sang đông, có dãy núi Đẫu, núi Mản, núi Ninh, núi Tích xen giữa đồi núi là những cánh đồng với diện tích nhỏ.
Phía Đông giáp Thị trấn Đoan Hùng và xã Sóc Đăng
Phía Tây giáp xã Tây Cốc và xã Ca Đình
Phía Nam giáp xã Yên Kiện
Phía Bắc giáp xã Phong Phú
Là xã miền núi nhưng rất thuận lợi về giao thông, địa bàn xã có quốc lộ 70 chạy qua với chiều dài 4,5km đi Yên Bái, Lào Cai và các tỉnh phía Tây tổ quốc nối với Quốc lộ II xuôi Hà Nội ngược Tuyên Quang xã có hơn 20km đường liên xã, liên thôn. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, quan hệ giao lưu phát triển kinh tế của nhân dân. Đặc biệt trên địa bàn xã có các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn như: Xưởng X78, Hạt I giao thông, công ty TNHH Đài Việt…
Trên toàn xã có 15 khu dân cư với 1533 hộ và 5.913 khẩu. Trong đó có 3.540 lao động chính. Xã Ngọc Quan có tổng diện tích đất tự nhiên là 1.420 ha đất đai chia làm một số loại như sau: Đất sản xuất nông nghiệp là 538 ha, đất lâm nghiệp là 636 ha, đất chuyên dùng 84ha, đất mặt nước 22,8 ha. Còn lại là các loại đất khác.
1.2. Thời tiết khí hậu
Ngọc Quan là xã thuộc trung du Bắc Bộ trong vùng mang đặc trưng là khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Khí hậu trong năm có 2 mùa chính: Mùa nóng và mùa lạnh.
Mùa nóng (mưa nhiều) bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, đặc điểm mùa này là nhiệt độ cao trung bình trên 280C, mưa nhiều lượng mưa trung bình là 1641 mm.
Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Mùa này nhiệt độ thấp, thời tiết lạnh và khô. Mưa ít dẫn điến tình trạng thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất.
Với đặc điểm thời tiết khí hậu như trên có ảnh hướng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt là mấy năm gần đây thời tiết khí hậu có sự thay đổi lớn, mùa nóng thì mưa nhiều, xảy ra mưa đá và bão lốc, độ ẩm lớn, sâu bệnh phát triển mạnh gây thiệt hại đến mùa màng. Mùa lạnh thì khô hanh, thiếu ánh sáng, nhiệt độ thấp vào các tháng 11, tháng 12 và tháng 1 nhiệt độ khoảng 70C, do đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, cây trồng phát triển chậm và bị chết rét dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn về các khâu: Giống, phân bón và chi phí công lao động. Đặc biệt là vụ chiêm xuân năm 2008 của xã gặp rất nhiều khó khăn do thời tiết lạnh. Vụ chiêm xuân n._.ăm 2008 toàn xã gieo cấy 180 ha lúa, hiện tại đã có tới 160 ha lúa bị chết rét gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của xã đặc biệt là khâu giống. Chính vì vậy cần phải nắm bắt và dự báo được những diễn biến của thời tiết khí hậu trong năm để bố trí kế hoạch sản xuất thích hợp, nhằm hạn chế được thấp nhất thiệt hại do thời tiết khí hậu gây ra.
1.3. Chế độ thuỷ văn
Ngọc Quan là xã miền núi, địa hình tương đối phức tạp, độ dốc lớn đồng ruộng xen kẽ dưới đồi núi do đó công tác thuỷ lợi, tưới tiêu phục vụ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Xã có 29 km mương tự nhiên 1 km kênh mương kiên cố có 5 hồ đập chứa nước nhưng các hồ đập này đều ở trong tình trạng xuống cấp trầm trọng, lòng đập bị bồi đắp, không nạo vét được, hệ thống cống tháo nước bị sập, khó khăn cho việc tưới tiêu phục vụ sản xuất.
2. Đặc điểm kinh tế xã hội
2.1. Đất đai và tình hình đất đai của xã
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu đặc biệt không thể thay thế. Đất là thành phần quan trong của môi trường sống, phân bổ dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế văn hoá xã hội. Với sinh vật đất đai không chỉ là môi trường sống mà còn là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng. Năng suất cây trồng phụ thuộc nhiều vào chất lượng đất đai xét trên phương diện này đất đai phát huy tác dụng như 1 công cụ lao động. Vì vậy để nâng cao hiệu qủa kinh tế cần phải quản lý và sử dụng đất đai một cách khoa học và hiệu quả.
Biểu 1: Tình hình sử dụng đất đai xã Ngọc Quan (2005 – 2007)
Loại đất
2005
2006
2007
Tốc độ tăng (giảm %
DT(ha)
Cơ cấu %
DT(ha)
Cơ cấu %
DT(ha)
Cơ cấu %
2006/
2005
2007/2005
2007/
2006
A. Tổng DT đất tự nhiên
1420
100
1420
100
1420
100
100
100
100
I. Đất nông nghiệp
562
39,6
556,30
39,2
538,74
37,93
99,6
98,33
98,73
1. Đất canh tác lúa
245,0
43,6
244,6
49,96
242
44,91
93,64
98,69
94,95
2. Đất trồng cây lâu năm
67,25
11,96
68,77
12,36
69,26
12,90
99,60
95,06
99,46
3. Đất trồng cây hàng năm
169,18
34,9
172,06
30,9
163,14
30,3
96,0
95,4
99,4
4. Đất mặt nước
22,52
4,0
22,52
4,04
22,52
4,18
99,96
99,82
99,86
5. Đất cây ăn quả
23,79
4,23
54,03
9,71
63,49
11,79
105,23
107,55
102,07
II. Đất lâm nghiệp
666,77
46,95
686,85
48,36
692,86
48,79
101,41
101,84
100,48
III. Đất ở
36,62
2,57
36,66
2,58
37,3
2,62
100,01
100,05
100,04
IV. Đất chuyên dùng
81,08
5,70
83,29
5,86
84,07
5,90
100,16
100,20
100,16
V. Đất nghĩa trang
11,96
0,84
11,96
0,84
11,96
0,84
100
100
100
VI. Đất hoang hoá
27,09
1,90
20,08
1,41
15
0,91
99,51
99,15
99,64
B. Một số chỉ tiêu
1. Đất NN/khẩu NN(m2)
962,81
915,39
885,60
2. Đất CT/khẩu
404,03
402,49
397,88
Nguồn: Ban địa chính xã Ngọc Quan
Qua biểu 1 ta thấy diện tích đất nông nghiệp của xã có xu hướng giảm qua các năm. Năm 2005 diện tích đất nông nghiệp là 562 ha chiếm 39,60% đến 2007 diện tích đất nông nghiệp là 538,74 ha chiếm 37,93%, bình quân 3 năm giảm 1,1%. Nguyên nhân là do diện tích đất canh tác diện tích đất trồng cây hàng năm giảm. Diện tích đất canh tác chiếm gần 45% trong tổng số diện tích đất nông nghiệp, song diện tích đất canh tác qua các năm không ổn định và có xu hướng giảm nguyên nhân là do diện tích đất ở và đất chuyên dùng (đất xây dựng hội trường nhà văn hoá, xây trạm xá, trường học, trụ sở, đất xây dựng khu, cụm công nghiệp) tăng. Đất ở năm 2005 là 36,62 ha đến năm 2007 là 37,3 ha. Đất chuyên dùng năm 2005 là 81,08 ha đến 2007 là 84,07 ha tăng hàng năm là 37,3%. Nhìn vào biểu ta thấy đất trồng cây lâu năm của xã tăng năm 2005 là 67,25 ha đến năm 2006 là 68,77 ha và đến năm 2007 là 69,26 ha, chỉ trong vòng 3 năm diện tích đất trồng cây lâu năm tăng 2,01 ha. Đặc biệt là diện tích đất trồng cây ăn quả tăng nhanh năm 2005 là 23,79 ha đến 2007 là 63,49 ha tăng 39,7 ha, lý do đất trồng cây ăn quả tăng nhanh là do diện tích đất quy hoạch và chuyển đổi sang trồng cây bưởi đặc sản Đoan Hùng hoạch trồng 40 ha và tính đến nay đã đạt 100% kế hoạch.
Diện tích đất chưa sử dụng giảm mạnh năm 2005 có 27,08 ha chiếm 1,90% đến năm 2007 còn 13ha chiếm 0,91%. Nguyên nhân là do trong những năm qua công tác chủ trương của tỉnh uỷ theo Nghị quyết 64/CP, dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước các cấp, diện tích đất chưa sử dụng của xã chủ yếu là đất đồi đã tiến hành giao đất cho nhân dân sử dụng lâu dài và người dân được sự hỗ trợ về vốn đã tiến hành trồng rừng. Vì vậy diện tích đất lâm nghiệp qua 3 năm tăng hơn 20 ha.
Đất canh tác/khẩu giảm năm 2005 là 404,03m2/khẩu đến năm 2007 là 307,88m2/khẩu. Nguyên nhân đất canh tác giảm do dân số tăng, số người trong độ tuổi xây dựng gia đình chiếm tỷ lệ cao nhu cầu đất ở ngày càng tăng, đất nông nghiệp, đất canh tác chuyển sang đất ở và chuyển sang mục đích sử dụng khác tăng. Những nguyên nhân này đã dẫn đến diện tích đất nông nghiệp giảm.
2.2. Dân số và lao động
Cùng với đất đai, lao động là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi quá trình sản xuất và vai trò này được thể hiện rõ hơn trong sản xuất nông nghiệp khi mà trình độ cơ giới hoá còn ở mức thấp. Tình hình dân số và lao động xã thể hiện qua biểu 2.
Biểu 2: Tình hình dân số và lao động xã qua 3 năm (2005 – 2007)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2005
2006
2007
Số lượng
Cơ cấu %
Số lượng
Cơ cấu %
Số lượng
Cơ cấu %
I. Tổng số hộ
Hộ
1484
100
1504
100
1533
100
- Hộ nông nghiệp
Hộ
1234
83,15
1246
82,85
1264
82,45
- Hộ phi nông nghiệp
Hộ
250
16,85
258
17,15
269
17,55
II. Tổng số nhân khẩu
Người
5804
100
5837
100
5913
100
- Khẩu nông nghiệp
Người
4946
85,28
4926
85,61
5006
85,51
- Khẩu phi nông nghiệp
Người
858
14,72
875
14,39
907
14,49
III. Tổng số lao động
LĐ
3377
100
3467
100
3540
100
- Lao động nông nghiệp
LĐ
2726
80,7
2782
80,2
2802
79,15
- Lao động phi nông nghiệp
LĐ
651
19,3
685
19,8
738
20,85
IV. Một số chỉ tiêu
- Khẩu nông nghiệp/hộ
Người
4
3,98
3,96
- Lao động nông nghiệp/hộ
LĐ
2,2
2,2
2,2
Nguồn: Ban thống kê xã Ngọc Quan
Nhìn vào biểu 2 ta thấy Ngọc Quan là một xã thuần nông, có tới trên 85% dân số sống ở nông thôn và 80% lao động làm nông nghiệp. Lao động nông nghiệp trong 3 năm qua có xu hướng giảm nhưng rất chậm năm 2005 lao động nông nghiệp chiếm 80,7% đến năm 2007 lao động nông nghiệp là 79,15%. Lực động lượng lao động nông nghiệp của xã là rất lớn năm 2007 là 2802 người, lao động nông nghiệp dư thừa trong khi đó thu nhập lại thấp. Lao động phi công nghiệp và các ngành nghề khác có xu hướng ngày một tăng song còn chậm năm 2005 chiếm 19,3%, năm 2007 chiếm 20,85% trong tổng số lao động chung của toàn xã. Tính chung năm 2007 bình quân mỗi hộ có 3,96 nhân khẩu nông nghiệp và 2,2 lao động. Do đó để người lao động có việc làm thường xuyên nâng cao thu nhập và đời sống cần phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển mạnh ngành nghề phụ, đặc biệt là phát triển ngành dịch vụ, đồng thời đưa các cây trồng mới cho năng suất, chất lượng cao với thời gian sinh trưởng ngắn vào trồng để tăng vụ. Đây là vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân xã Ngọc Quan trong công cuộc phát triển kinh tế từ nay đến 2010. Có thực hiện được nhiệm vụ này thì công cuộc xoá đói giảm nghèo tiến lên xây dựng một xã hội nông thôn ngày một giàu mạnh, văn minh mới thực hiện được và đạt hiệu quả cao.
2.3. Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của xã
Cơ sở hạ tầng là rất cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Nhận thức đúng điều này trong những năm qua với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Đảng uỷ, chính quyền địa phương và nhân dân trong xã đã đầu tư tiền vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất. Chính vì vậy mà cơ sở hạ tầng của xã được nâng lên và ngày một hoàn thiện hơn.
Hệ thống giao thông của xã hàng năm đều được duy tu, bảo dưỡng và nâng cấp. Hiện tại xã có hơn 4000m đường bê tông, hàng năm bảo dưỡng gần 20km đường liên thôn, liên xã. Đặc biệt năm 2007 xã đã hoàn thiện và đưa vào sử dụng 5,1 km đường đá răm từ dự án chè AFD qua 5 khu hành chính của xã nối liền với xã Yên Kiện. Đây là điều kiện thuận lợi đảm bảo việc đi lại cho nhân dân giao lưu trao đổi hàng hoá trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Xã đang quản lý và sử dụng 3 trạm biến áp điện, 100% số hộ trong xã có điện thắp sáng và có 71,8% số hộ sử dụng điện của xã. Phấn đấu thực hiện giá điện nông thôn 700đ/kw theo quy định của nhà nước.
Hệ thống thông tin liên lạc ngày càng phát triển, có hơn 90% số hộ có phương tiện nghe nhìn, có 50% số hộ trong xã sử dụng điện thoại cố định. Xã có 1 bưu điện văn hoá và 1 thư viện với các loại sách báo thu hút 1 lượng độc giả đến tham khảo. Hệ thống loa truyền thành của xã được nối đến các cụm khu hành chính nên rất thuận lợi cho việc thông tin phổ biến và triển khai các chủ trương về chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước cũng như của xã tới bà con nhân dân một cách kịp thời.
Xã có 3 trường học, cơ sở vật chất cho giáo dục ngày được quan tâm vì vậy mà quy mô, chất lượng giáo dục ngày được cải thiện.
Với đặc điểm cơ sở vật chất kỹ thuật của xã ngày được xây dựng khang trang cùng với tiềm năng về đất đai, nguồn lao động thì xã Ngọc Quan có đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp theo hướng hàng hoá đáp ứng được nhu cầu thị trường và có xu hướng phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam là thành viên của WTO.
2.4. Tình hình phát triển kinh tế của xã
Thực hiện Nghị quyết 05 của tỉnh uỷ về công tác dồn đổi ruộng đất ở địa phương, thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVII về công tác phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đó là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, tình hình kinh tế của xã đã đạt những kết quả rất cao. Đã từng bước chuyển dịch nền kinh tế từ tự cung tự cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Tốc độ phát triển kinh tế năm sau cao hơn năm trước.
Biểu 3: Cơ cấu kinh tế xã Ngọc Quan ( 2005 – 2007)
Chỉ tiêu
Năm 2005
2006
2007
Giá trị
sản xuất
Cơ cấu %
Giá trị
sản xuất
Cơ cấu %
Giá trị sản xuất
Cơ cấu %
I. Tổng giá trị sản xuất
25.430,0
100
6.103
100
26.900
100
1. Ngành nông nghiệp
16.158,0
63,5
16.353
62,64
16.400
60,96
* Trồng trọt
7.245
44,8
7.260
44,39
7.260
44,26
* Chăn nuôi
8.913
55,2
9.093
55,60
9.140
55,73
2. Công nghiệp – TTCN - XDCB
5.554
21,8
6.061
23,21
6.380
23,71
3. Thương mại dịch vụ
1.968
7,7
2.097
8,03
2.365
8,79
4. Lâm nghiệp
1.750
6,8
1.592
6,09
1.755
6,52
II. Một số chỉ tiêu BQ
1. Lương thực BQ/người (kg)
445
450
460
2. Thu nhập BQ/người/năm (TĐ)
4.381.000
4.471.000
4.549
Nguồn: Ban thống kê xã Ngọc Quan
Qua biểu 3 ta nhận thấy cơ cấu kinh tế của xã Ngọc Quan sản xuất nông nghiệp là chỉ yếu. Năm 2005 tổng giá trị sản xuất nông nghiệp là 16.158.000.000 đồng chiếm 63,5% tổng giá trị sản xuất năm 2005, qua các năm đều tăng trưởng năm 2007 tổng giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 16.400.000.000đ chiếm 60,96% tổng giá trị sản xuất năm 2007.
Trong ngành nông nghiệp, giá trị đóng góp của ngành trồng trọt có xu hướng giảm dần, xu thế giá trị đóng góp của chăn nuối có xu hướng tăng lên. Nguyên nhân giá trị đóng góp của ngành trồng trọt có xu hướng giảm dần vì tổng diện tích đất gieo trồng của xã đang có xu hướng giảm qua các năm, do nhu cầu ở, đất chuyên dùng tăng, thời tiết mấy năm gần đây khắc nhiệt nắng nhiều hơn mưa nên thiếu nước phục vụ sản xuất ở những tràn chân ruộng cao. Diện tích gieo trồng cây vụ đông (khoai lang, ngô, bí đao, đậu tương, rau xanh…) xu hướng giảm vì giá thành phân bón trên thị trường cao, thời tiết bất thường nên năng xuất không ổn định. Năm 2007 cả xã có tới 20 ha cây ngô đồng bị mất trắng do thời tiết quá lạnh cây ngô không thụ phấn được nên không có hạt. Song do sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền sự nỗ lực, cần cù của người dân giá trị sản xuất của ngành trồng trọt vẫn tăng trưởng, đảm bảo đủ an ninh lương thực, bình quân lương thực đầu người đạt 450 kg/người/năm. Một số cây trồng còn có giá trị kinh tế cao tham gia vào thị trường, được các công ty thu mua chiế biến như cây bí đao, ngô ngọt mang lại thu nhập ổn định cho người nông dân. Đó là những tín hiệu và những thành quả đáng mừng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng của xã.
Đóng góp vào sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế phải nói đến sự đóng góp của ngành chăn nuôi năm 2007 ngành chăn nuôi đóng góp 33,97% giá trị sản xuất trong tổng giá trị nền kinh tế và 56% giá trị sản xuất trong nền nông nghiệp. Trong xã đã hình thành được một số trang trại chăn nuôi với quy mô vừa và nhỏ chủ yếu là trang trại nuôi lợn thịt và gà. Hàng năm mỗi trang trại này xuất chuồng hàng chục tấn lợn hơi và 600kg – 800kg gà. Trừ chi phí còn lại hơn trăm triệu đồng.
Qua biểu thống kê ta nhận thấy năm 2007 ngành CN – TTCN và XDCB của xã tăng trưởng mạnh chiếm tới 23n71% tổng giá trị nền kinh tế, chủ yếu là các ngành như: Sơ chế gỗ, mộc cao cấp, ván ép và sản xuất chiếu trúc, sản xuất đũa xuất khẩu đi thị trường Đài Loan. Năm 2007 tổng giá trị xuất khẩu tăng 14,86% so với năm 2005 ngành thương mại dịch vụ năm 2007 tăng 20,71% so với năm 2005.
Qua biểu 3 cho thấy kết quả sản xuất kinh doanh của xã có nhiều chuyển biến tích cực, các ngành kinh tế đều giữ được mức tăng trưởng khá, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao, sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng lên qua các năm. Năm 2005 là 445kg/người đến 2007 là 460kg/người. Do vậy thu nhập bình quân đầu người cũng tăng qua các năm, năm 2005 đạt 4.381.000đ/người đến năm 2007 đạt 4.549.000đ/ngưòi. Nhìn chung cơ cấu kinh tế xã đã chuyển dịch đúng hướng giữa nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch giữa trồng trọt và chăn nuôi. Trong nội bộ ngành trồng trọt đã đi sâu vào khai thác chiều sâu của đất đai, đưa khoa học kỹ thuật và các loại giống có năng suất cao vào sản xuất, đã có sự chuyển dịch cơ cấu trong ngành chú trọng trồng các loại cây công nghiệp, cây thực phẩm ngắn ngày nhưng có giá trị kinh tế cao. Để hệ số quay vòng đất tăng đạt 2,5 lần.
3. Một số vấn đề xã hội
* Phong tục tập quán sinh hoạt
Nông thôn Việt Nam vẫn giữ được phong tục sinh hoạt cộng đồng. Đây là nét đẹp trong phong tục tập quán sinh hoạt của người Việt. Với tập tục sinh hoạt cộng đồng như vậy người nông dân có thể trao đổi kiến thức trong sản xuất cho nhau, giúp nhau làm kinh tế, cùng nhau vươn lên xoá đói giảm nghèo làm giàu chính đáng trên quê hương mình.
* Phong tục tập quán sản xuất
Ngọc Quan là một xã thuần nông, mặc dù trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đã có sự quy hoạch các vùng sản xuất tập chung, chuyên canh sau, sản xuất đã mang tính hàng hoá. Song phong tục sản xuất của người dân vẫn lạc hậu, sản xuất mang tính tự cung tự cấp là chủ yếu, chưa mang tính sản xuất hàng hoá cao.
* An ninh chính trị – an toàn xã hội
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh nông thôn trên địa bàn xã ổn định và giữ vững. Tình hình nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực. Số vụ việc vi phạm năm sau giảm hơn năm trước. Tỷ lệ giải quyết vụ việc đạt hiệu quả cao. Thường xuyên quan tam chỉ đạo xử lý giải quyết các mâu thuẫn từ cơ sở, tăng cường công tác hoà giải đoàn kết thôn xóm. Tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội quan tâm giải quyết nội bộ, tiếp dân giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo đảm bảo trình tự, thủ tục quy định pháp luật, không có đơn thư khiếu kiện đông người xảy ra.
Tóm lại: Qua phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã. Ta nhận thấy Ngọc Quan là xã có điều kiện tự nhiên thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, phát triển một ngành nông nghiệp đa dạng với các loại cây trồng có khả năng đem lại giá trị kinh tế cao và là ngành kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế xã. Song bên cạnh những thuận lợi Ngọc Quan còn gặp không ít khó khăn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá đó là khó khăn trong việc dồn đổi ruộng đất để quy hoạch sản xuất. Đã có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng đúng hướng hợp lý song còn chậm, sự chuyển dịch chưa tạo bước đột phá, cơ sở hạ tầng trang bị kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp còn thiếu và chậm phát triển. Để tạo được sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự đầu tư của nhà nước, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp chế biến từ khâu sản xuất đến thu mua sản xuất đầu ra cho nông nghiệp. Có như vậy người nông dân mới mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng có giá trị đem lại hiệu quả kinh tế cao.
II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở xã ngọc quan
1. Cơ cấu cây trồng của xã trong những năm qua
1.1. Cơ cấu diện tích các loại cây trồng
Nhìn chung cơ cấu diện tích gieo trồng của xã qua 3 năm có sự biến đổi thất thường là do nhiều nguyên nhân khác nhau có nguyên nhân khách quan có nguyên nhân chủ quan đem lại, đã làm cho tổng diện tích gieo trồng trong 3 năm có sự biến đổi không đều.
Biểu 4: Cơ cấu cây trồng xã Ngọc Quan (2005 – 2007)
Loại đất
2005
2006
2007
Tốc độ tăng (giảm %
DT(ha)
Cơ cấu %
DT(ha)
Cơ cấu %
DT(ha)
Cơ cấu %
2006/
2005
2007/
2005
2007/
2006
I. Tổng diện tích canh tác
562,0
556,30
538,74
9898
96,84
95,86
II. Tổng diện tích gieo trồng
764,04
100
786,5
100
779,75
100
102,94
99,14
102,06
1. Cây lương thực
515
67,4
512,7
65,19
499
63,99
99,55
97,33
96,89
a. Cây lúa
425,0
82,52
42,4
82,69
415,0
83,16
99,76
97,88
97,65
- Lúa chiêm
180
42,35
180
42,45
170
40,96
100
94,44
94,44
- Lúa mùa
245
57,65
244
57,55
245
59,04
99,59
100,41
100
b. Cây ngô
90
17,48
88,7
17,30
84
16,83
98,56
94,70
93,33
2. Cây nông sản thực phẩm
124
16,23
116,5
14,81
113
14,49
93,95
97
91,13
a. Cây sắn
65
52,42
55
47,21
50
44,25
84,62
90,91
76,92
b. Cây khoai lang
45
36,29
45
38,63
45
39,82
100
100
100
c. Rau xanh các loại
14
11,29
16,5
14,16
18
15,93
117,86
109,1
128,57
3. Cây công nghiệp
34
4,45
34,5
4,39
35
4,49
101,48
101,45
102,94
- Cây lạc - đậu
34
34,5
35
4. Cây chè
67,25
8,80
68,77
8,74
69,26
8,88
102,26
100,71
102,98
5. Cây ăn quả
23,79
3,11
54,03
6,87
63,49
8,14
227,11
117,51
266,88
Nguồn: Ban thống kê xã Ngọc Quan
Qua biểu 4 ta thấy cây lúa chiếm diện tích lớn nhất trong tổng diện tích gieo trồng của xã, năm 2007 tổng diện tích gieo trồng của xã là 779,75 ha thì diện tích lúa là 415 ha chiếm 83,16%. Song diện tích gieo cấy lúa có xu hướng giảm nhẹ nguyên nhân là do bị hạn không gieo cấy được.
Cây ngô diện tích năm 2007 là 84ha giảm 4,7ha so với năm 2006. Nguyên nhân do giá phân bón trên thị trường cao, bà con tính toán không có lãi trong trồng ngô (đặc biệt là ngô đồng trồng ở ruộng lầy thụt thì chi phí về nhân công và phân bón lớn hơn ngô trồng bãi). Cho nên nhiều hộ không gieo trồng ngô mà chuyển trồng một số cây trồng khác.
Diện tích cây nông sản thực phẩm qua 3 năm có sự biến động trong đó cây sắn có sự biến đổi lớn nhất, diện tích trồng sắn ngày bị thu hẹp năm 2005 diện tích trồng sắn là 65ha đến 2007 còn 50 ha giảm 15ha. Nguyên nhân là bà con đã chuyển một phần diện tích trồng sắn sang trồng cây ăn quả (cây bưởi đặc sản Đoan Hùng) và sang trồng chè cho hiệu quả kinh tế cao hơn trồng sắn. Diện tích chè tăng lên năm 2005 là 67,25 ha đến năm 2007 là 69,29 ha tăng 2,04ha. Đặc biệt là diện tích cây ăn quả (cây bưởi đặc sản Đoan Hùng) được khảo nghiệm thành công và đưa vào trồng ở Ngọc Quan theo đúng kế hoạch trong 2 năm 2006, 2007 xã Ngọc Quan đã trồng mới được 37 ha bưởi và đã hoàn thành 100% kế hoạch, đưa diện tích đất trồng cây ăn quả năm 2007 lên 63,49ha.
Ngoài ra trong diện tích cây nông sản thực phẩm thì diện tích rau xanh có xu hướng tăng qua các năm, năm 2005 diện tích là 14 ha đến năm 2007 diện tích là 18 ha tăng 4 ha. Lý do diện tích rau xanh tăng là do giá cả rau xanh trong mấy năm gần đây tương đối cao, giá trị kinh tế trên 1 ha rau xanh đạt 25 – 30 triệu đồng.
Diện tích trồng khoai năm qua thống kê 3 năm diện tích khoai lang vẫn giữ mức ổn định không giảm, vì khoai lang là loại dễ trồng ít tốn phân bón, thích nghi rộng, ít tốn công chăm sóc đặc biệt là mấy năm gần đây ít mưa cho nên khoai lang vụ đông trồng ở chân ruộng lầy thụt lên rất mạnh do không bị ngập úng. Người dân trồng khoai lang lấy dây và củ chăn nuôi gia súc, gia cầm
Nhìn chung: Cơ cấu cây trồng qua các năm đều có sự chuyển dịch, có sự tăng giảm giữa các nhóm cây là loại cây trồng cụ thể song đều phản ánh sự thay đổi của cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng là tất yếu phù hợp với xu thế thị trường và giá trị hàng hoá mà chúng mang lại, cũng như để khai thác hợp lý điều kiện tự nhiên của địa phương. Tuy nhiên để tăng thêm quỹ đất gieo trồng và hệ số sử dụng ruộng đất trong những năm tới, thì cần cải tạo đưa vào gieo tồng các giống câu trồng cho năng xuất, chất lượng cao có thời gian sinh trưởng ngắn cho thu hoạch sớm.
1.2. Năng xuất, sản lượng các loại cây trồng
Qua biểu 5 ta thấy năng xuất của cây lúa, cây trồng chính của xã năm 2007 đạt 43,95 tạ/ha giảm 10,31% sơ với năm 2006 sản lượng thu hoạch đạt 1823,9 giảm 11,7% so với năm 2006. Nguyên nhân là do diễn biến thời tiết không thuận lợi, hạn hán, sâu bệnh sảy ra trên diện rộng nên năng suất, sản lượng lúa giảm. Tổng sản lượng lương thực đạt 2100,9 tấn, giảm 10,7% so với cùng kỳ. Mắc dù đã tiến hành đưa vào gieo cấy tới hơn 60% diện tích gieo cấy là lúa lai cao sản, năng suất cao như giống: Bồi tạp sơn thanh, Q. ưu 1, nhị ưu 838, nhị ưu số 7… song năm 2007 sản lượng lúa giảm so với các năm trước.
Cây ngô đồng qua 3 năm nhìn chung năng suất ổn định và có xu hướng tăng dần, năm 2005 và 2006 năng xuất đạt 32 tạ/1ha sản lượng đạt 288 tấn, năm 2007 năng xuất đạt 33 tạ/ha tăng 3,13% so với năm 2006. Song sản lượng thu hoạch ngô giảm 2007 đạt 277 tấn giảm 3,82% so với năm 2006. Năng suất cây ngô tăng là do bà con đưa các loại giống ngô mới có năng suất cao vào sản xuất như giống DK4300, DK4900, ngô mỹ 919, 888… song sản lượng giảm là do diện tích cây ngô năm 2007 giảm đi.
Biểu 5: Năng suất, sản lượng các loại cây trồng của xã Ngọc Quan (2005 – 2007)
Loại đất
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tốc độ tăng (giảm %
Năng suất
Sản lượng
N.suất (tạ/ha)
S.lượng (tấn)
N.suất (tạ/ha)
S.lượng (tấn)
N.suất (tạ/ha)
S.lượng (tấn)
2006/2005
2007/2006
2006/2005
2007/2006
1. Cây lương thực
2349,3
2353,7
2100,9
100,18
89,3
a. Lúa
48,5
2061,3
49
2069,9
43,95
1823,9
101,03
89,69
100,42
88,12
b. Ngô
32
288,0
32
283,8
33
277
100
103,13
98,54
96,18
2. Cây nông sản thực phẩm
104,89
a. Khoai lang
49
220,5
50
225
52,5
236
102,04
105
102,04
90,91
b. Cây sắn
90
585
100
550
100
500
111
100
94,01
109,46
c. Rau xanh các loại
133,8
187,3
135
222
135
243
100,89
100
118,52
3. Cây công nghiệp
- Lạc
14
47,6
14,5
50
14,5
50,75
103,57
100
105,40
101,5
4. Cây chè
80
538
80,5
553
82
625
100,62
99,38
102,79
113,01
Nguồn: Ban thống kê xã Ngọc Quan
* Các loại cây nông sản thực phẩm
- Cây khoai lang: Năng xuất và sản lượng tăng qua 3 năm, năm 2007 năng xuất đạt 52,5 tạ/ha tăng 5% so với năm 2006, sản lượng đạt 236 tấn tăng 4,89% so với 2006. Năng suất và sản lượng cây khoai lang tăng vì bà con nông dân đã đưa các loại giống khoai lang tăng sản có năng suất cao vào trồng và diện tích trồng khoai qua 3 năm đều ổn định không thay đổi.
- Cây sắn: Năng suất năm 2006 và 2007 đạt 100tạ/ha tăng 10tạ/ha so với nă 2005 tăng 10%. Song sản lượng giảm năm 2007 đạt 500 tấn giảm 9,09% so với năm 2006 và 14,5% so với năm 2005. Nguyên nhân giảm là do diện tích đất trồng sắn bị thu hẹp chuyển sang trồng chè và cây ăn quả.
- Cây rau xanh: Năng suất rau xanh năm 2006, 2007 đạt 135tạ/ha tăng 1,2% so với năm 2005. Sản lượng rau tăng qua 3 năm đều tăng, năm 2007 sản lượng đạt 243 tấn tăng 9,46 so với năm 2006 nguyên nhân sản lượng rau xanh tăng nhanh là do diện tích trồng rau tăng.
* Cây lạc: Năng xuất 2 năm 2006 và 2007 đạt 14,5tạ/ha, sản lượng qua các năm đều tăng, năm 2007 đạt 50,75 tấn tăng 1,5% so với năm 2006 và tăng 6,6% so với năm 2005. Lý do là bà con đã đưa các loại giống lạc mới cho năng xuất cao vào trồng và đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào gieo trồng lạc (lạc che phủ nilon).
* Cây chè: Năng suất và sản lượng chè qua các năm đều tăng, năng xuất năm 2007 đạt 82 tạ/ha tăng 2,5% so với năm 2005 và 1,8% so với năm 2006. Sản lượng chè năm 2007 đạt 625 tấn tăng 6,1% so với năm 2005và 3,01% so với năm 2006. Cây chè là cây công nghiệp được đảng uỷ chính quyền địa phương coi là cây công nghiệp mũi nhọn có khả năng giúp bà con nông dân trong việc xoá đói giảm nghèo vươn lên làm giàu cho nên trong mấy năm nay đặc biệt là từ năm 2008 xã có chủ trương đưa diện tích trồng chè lên khoảng 100 ha trong đó có diện tích mới vào khoảng 25 – 30 ha. Diện tích chè cũ sẽ đưa vào dự án chăm sóc chè AFD.
2. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu theo mùa vụ
Biểu 6: Năng xuất và giá trị sản xuất của một số cây trồng
Đơn vi: Tạ/ha. Triệu đồng/ha
TT
Cây trồng
Giá bán (1000đ)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
NS
GTSX
NS
GTSX
NS
GTSX
1
Vụ xuân
- Lúa chiêm xuân
3.5
49,5
17.325
50
17.500
43,5
15.225
2
Vụ hè thu
Lúa mùa chính vụ
3.5
48,3
16.905
49,3
17.255
40
14.000
- Lạc
10
14
14.000
14,5
14.500
14,5
14.500
3
Vụ đông
- Ngô
5
32
16.000
32
16.000
33
16.500
- Khoai lang
2
49
9.800
50
10.000
52,5
10.500
- Rau xanh
2.500
133,8
33.450
135
33.750
135
33.750
Nguồn: Thống kê xã Ngọc Quan
Qua biểu 6 ta thấy: Năng xuất và giá trị sản xuất của rau xanh đạt hiệu quả cao nhất (33 triệu đồng/1 ha) đây là loại cây trồng được bà con nông dân đàu tư sản xuất, thâm canh với quy mô lớn. Các loại rau xanh được đưa vào trồng là súp lơ, cải thảo, cải ngọt và đặc biệt là cây bí đao. Cây bí đao được trồng với tổng diện tích khoảng 10ha cho thu hoạt sản lượng ổn định giá bán hợp lý, đầu ra đảm bảo cho nên mang lại thu nhập cao cho người nông dân.
Cây lúa: Đây là cây trồng chính của xã, giá trị sản xuất đạt 17triệu đồng/1ha.
Giá trị sản xuất vụ hè thu, trà lúa sớm và chính vụ các năm 2005, 2006 đạt trên 16 triệu đồng/ha, năm 2007 nhìn chung giá trị sản xuất của vụ hè thu đều bị giảm đạt 14 triệu đồng/ha.
- Giá trị sản xuất của cây lạc ổn định cho thu nhập khoảng tên dưới 14 triệu đồng/ha.
- Cây ngô: Giá trị sản xuất của cây ngô qua 3 năm đều đạt ở mức 16triệu đồng/1ha. Đây là loại cây trồng chiếm diện tích tương đối lớn của xã trên 80ha,trong những năm tiếp theo Đảng uỷ, UBND xã tiếp tục chỉ đạo tăng diện tích gieo trồng cây ngô lên 100ha. Trong đó đặc biệt là tăng nhanh diện tích gieo trồng cây ngô ngọt.
- Nhìn chung qua biểu năng xuất và giá trị sản xuất của một số loại cây trồng của xã ta thấy: Năng suất các loại cây trồng còn thấp và không ổn định dẫn đến giá trị sản xuất trên 1ha diện tích gieo trồng còn thấp chưa đạt được giá trị sản xuất 50 triệu đồng/ha.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu của mọi ngành sản xuất nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng trong đó ngành trồng trọt. Để tối đa hoá lợi nhuận nâng cao giá trị kinh tế trên 1 diện tích đất gieo trồng thì cần phải có sự đầu tư tăng vụ như đưa các loại giống lúa có năng suất, chất lượng cao thời gian sinh trưởng ngắn, thích ứng rộng và chống chịu sâu bệnh cao vào sản xuất, đồng thời phải quan tâm cải tạo đất, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh hơn nữa quá trình dồn đổi ruộng đất để hình thành các vùng sản xuất tập trung có như vậy thu nhập của người dân trên diện tích đất canh tác mới tăng lên, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động.
3. Thị trường
Thị trường là khâu quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất kỳ một ngành sản xuất nào. Đặc biệt đối với ngành nông nghiệp thì vấn đề thị trường, kể cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp là hết sức cần thiết. Hiện nay đối với ngành sản xuất nông nghiệp nước ta vấn đề thị trường còn gặp rất nhiều khó khăn và có nhiều bất cập. Thị trường các sản phẩm đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp như giống, phân bón, thuốc trừ sâu… giá thành cao và ngày một tăng mạnh dẫn đến chi phí cho một đơn vị diện tích tăng, người nông dân gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất. Trong khi đó thị trường sản phẩm đầu ra cho ngành sản xuất nông nghiệp còn gặp không ít khó khăn giá bán thấp và bấp bênh, thường bị tư thương ép giá…. cho nên giá trị sản xuất chưa cao, thu nhập của người nông nghiệp còn thấp. Chính vì vậy mà vấn đề tìm kiếm thị trường cho sản phẩm nông nghiệp là hết sức cần thiết. Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ cho sản phẩm đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp như chính sách trợ giá giống, trợ giá phân bón, hay các chính sách khuyến khích mời gọi các doanh nghiệp các nhà đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp như chính sách về mặt bằng pháp lý, chính sách miễn giảm thuế… để các doanh nghiệp và các nhà đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất các sản phẩm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và thu mua các sản xuất nông nghiệp tại gốc để chế biến, người nông dân có thể mua vật tư phục vụ nông nghiệp tại gốc và bán sản phẩm của mình tại nhà máy chế biến. Có giải quyết tốt khâu thị trường cho sản xuất nông nghiệp thì chúng ta mới có thể khai thác tốt tiềm năng thế mạnh của ngành và qúa trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng sẽ diễn ra nhanh chóng, đạt hiệu quả cao.
III. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân
1. Những kết quả đạt được
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng của xã đã góp phần tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động, tăng năng suất cây trồng, tăng hiệu quả sử dụng đất, góp phần tích cực làm tăng thu nhập cho người dân góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người nông dân.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng đã phá vỡ thế độc canh cây lương thực nhất là cây lúa, đã phát triển trồng thêm được nhiều loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, có giá tị để đưa nền sản xuất nông nghiệp từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng giúp bà con nông dân dần dần bỏ được tập quán sản xuất lạc hậu, thủ công ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7764.doc