MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước có tầm quan trọng hơ
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Công ty may Tùng Phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bao giờ hết. Ở nước ta, khi xác định những quan điểm lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta đã khẳng định “Kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới”
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta và vị thế mới trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ ngoại giao với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC, WTO... Điều này đã đặc biệt làm cho lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay càng trở nên sôi động.
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với điều kiện tình hình nước ta hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn phù hợp.
Vì vậy, tăng cường khả năng xuất khẩu là một công việc quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sự cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, là công việc quyết định sự tồn tại và phát triển trên thị trường.
Hàng dệt may Việt nam là một trong những mặt hàng chịu nhiều tác động nhất khi Việt nam gia nhập WTO. Nhiều đối thủ cạnh tranh, đặc biệt các đối thủ mạnh là Trung Quốc, Ấn Độ nên kim ngạch xuất nhập khẩu của ngành này luôn có sự biến động.
Công ty may Tùng Phương (tỉnh Thanh hóa) là một Công ty TNHH thuộc loại vừa hoạt động trong lĩnh vực dệt may. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm vẫn còn khiêm tốn so với các doanh nghiệp khác hoạt động trong ngành. Để có thể tồn tại và cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay, công ty nên có những chính sách đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu là yêu cầu cấp thiết.
Vì vậy, dựa vào kiến thức đã được trang bị ở nhà trường cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy GS.TS. Trần Chí Thành, và sự giúp đỡ của các cô chú, anh chị trong công ty May Tùng Phương, em đã chọn đề tài “Những giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty may Tùng Phương” để làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
Đề tài này gồm các nội dung sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
Chương 2. Phân tích thực trạng xuất khẩu của công ty may Tùng Phương trong thời gian qua.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hoạt động xuất khẩu của công ty may Tùng Phương.
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. Bản chất và vai trò của xuất khẩu
1.1. Tầm quan trọng của hoạt động ngoại thương
Trong suốt thập niên 1990 đã có một sự gia tăng đáng kể nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh đã tham gia vào kinh doanh quốc tế. Ðây là kết quả của quá trình quốc tế hóa.
Các công ty chỉ chuyên kinh doanh trong nước đã đến lúc nhận ra rằng cung của họ đã vượt cầu, ít ra là ở phương diện năng suất sản xuất ngày một nâng cao; điều này ảnh hưởng đến một số nhân tố làm giảm dần sự tăng trưởng của thị trường (hoặc chựng lại), làm gia tăng thêm sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong nước kể cả đối với các công ty ngoại quốc. Lịch sử đã chứng minh rằng không một nền kinh tế nào có thể phát triển nếu nó thực hiện chính sách đóng cửa và cách biệt với thế giới xung quanh. Trên thực tê cho thấy các nước có nền kinh tế phát triển đều dựa trên sự phát triển các mối quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa, khoa học kỹ thuật và công nghệ với các nước khác. Các mối quan hệ đó chính là hoạt động xuất nhập khẩu.
Thương mại quốc tế ra đời trên các mối quan hệ trao đổi hàng hóa giữa các nước trên thế giới. Thương mại quốc tế phát triển không những tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, mở rộng và nâng cao quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa của một nước nào đó mà còn tạo sự phát triển chung cho tất cả các nước tham gia các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Không ngừng mở rộng, phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu, đó là những đòi hỏi khách quan của thời đại”.
Tóm lại, việc tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế là một xu thế bắt buộc, một yêu cầu khách quan, mà khi tham gia vào mậu dịch thế giới, doanh nghiệp tìm thấy một số thuận lợi như sau:
Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp mở rộng được thị trường tiêu thụ, kể cả dịch vụ, vì rõ ràng là thị trường nước ngoài lớn hơn nhiều so với thị trường trong nước, mở rộng được đầu tư.
Khi thị trường nội địa không tiêu thụ hết sản phẩm của công ty, thì thị trường quốc tế là một lối thoát duy nhất để tiêu thụ sản phẩm dư thừa, kết quả nhà xuất khẩu có thể phân bổ chi phí cố định cho nhiều sản phẩm, hạ thấp giá thành, nâng cao lợi nhuận, dẫn đến giá bán có khả năng hạ thấp tạo điều kiện tác động trở lại để đẩy mạnh khối lượng hàng hóa bán ra hơn nữa.
Giảm được rủi ro: bán ở nhiều thị trường tốt hơn chỉ bán ở một nước.
Ước vọng của các nhà lãnh đạo: các nhà lãnh đạo cao cấp, cổ đông đều muốn công ty của họ tham gia thương mại quốc tế.
Mở rộng chu kỳ sống của sản phẩm.
Khai thác lợi thế hiện có trong thị trường chưa được khai thác.
Tạo thêm thu nhập từ những kỹ thuật hiện có thông qua nhượng bản quyền (licensing) đặc quyền kinh tiêu ( franchising).
Nâng cao hiểu biết về cạnh tranh quốc tế.
Phát triển thêm lợi nhuận để đầu tư, tạo công ăn việc làm.
Thực hiện tốt quản trị nhân viên cũng như tiến bộ của sản phẩm (do thông qua cạnh tranh).
1.2. Đặc diểm của hoạt động xuất khẩu
Theo luật thương mại Việt nam thì: xuất khẩu là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Còn theo nghĩa thông thường: xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh thu lợi bằng cách bán sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài và sản phẩm hay dịch vụ đó phải di chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra giữa hai quốc gia khác nhau nên có những đặc thù riêng khác với buôn bán trong nước. Để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao cần xem xét các đặc điểm của hoạt động xuất khẩu:
Hoạt động xuất khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều luật khác nhau như: Công ước quốc tế về hoạt động ngoại thương (công ước Viên), luật quốc gia của các nước liên quan, tập quán thương mại quốc tế...và phụ thuộc đường lối chính sách quan điểm đối ngoại của Nhà nước, và mối quan hệ chính trị ngoại giao của nhà nước với nước khác.
Các phương thức giao dịch thông thường trong hoạt động xuất khẩu là: giao dịch qua trung gian, buôn bán đối lưu, giao dịch đấu giá, đấu thầu quốc tế, giao dịch qua sở giao dịch, giao dịch tại hội chợ triển lãm.
Mọi hoạt động xuất khẩu hàng hóa đều phải được tiến hành thông qua hợp đồng kinh tế. Các bên tham gia ký hợp đồng phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều khoản của hợp đồng. Mọi vi phạm hợp đồng đều gây thiệt hại rất lớn cho tình hình tài chính, uy tín, quan hệ ngoại giao và buôn bán lâu dài giữa các doanh nghiệp, giữa các nước.
Phương thức thanh toán trong hoạt động thương mại quốc tế nói chung và trong hoạt động xuất khẩu nói riêng rất đa dạng bao gồm các phương thức thanh toán như: phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ (L/C), thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt...Nhưng phương thức được sử dụng phổ biến nhất là phương thức tín dụng chứng từ (L/C).
Tiền tệ trong thanh toán thông thường là ngoại tệ mạnh, có sức chuyển đổi như: USD, EUR, JPY..
Điều kiện giao hàng hiện nay có nhiều (13 điều kiện theo Incoterm 2000) nhưng ở Việt nam có hai điều kiện được sử dụng phổ biến đó là: CIF và FOB. Thông thường các doanh nghiệp ta nhập khẩu theo điều kiện CIF còn xuất khẩu theo điều kiện FOB.
Kinh doanh xuất khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên địa bàn hoạt động rộng lớn, thủ tục phức tạp qua nhiều khâu, nấc. Do đó, thời gian chu chuyển chậm hơn rất nhiều so với kinh doanh trong nước.
Kinh doanh xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức kinh doanh trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ ngoại thương, kinh nghiệm kinh doanh ngoại thương, ngoài ra còn phụ thuộc vào sự am hiểu thị trường trong và ngoài nước, vào sự tiếp nhận một cách chính xác nhanh chóng các thông tin thị trường.
Do có sự cách xa nhau về mặt địa lý trong hoạt động xuất khẩu, nên có thể xảy ra nhiều rủi ro, có những rủi ro thuộc rủi ro hàng hóa, rủi ro thanh toán, rủi ro giao nhận...để đề phòng các rủi ro đó thì nhà kinh doanh nên mua bảo hiểm cho hàng hóa của mình.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Việt nam trong điều kiện kinh tế thị trường. Những đặc điểm này đã ảnh hưởng xuyên suốt quá trình kinh doanh của các đơn vị kinh doanh xuất khẩu. Do đó, khi phân tích tình hình xuất khẩu và đưa ra những giải pháp để nâng cao hoạt động xuất khẩu của công ty cần chú ý đến các đặc điểm này.
1.3. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Dưới đây là những vai trò chủ yếu của hoạt động xuất khẩu ở Việt nam:
1.3.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước
Thông qua xuất khẩu sẽ tạo nguồn vốn quan trọng để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu những tư liệu sản xuất thiết yếu phục vụ công nghiệp hóa đất nước. Trong thực tiễn xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ mật thiết với nhau, vừa là kết quả vừa là tiền đề của nhau, đẩy mạnh xuất khẩu để mở rộng và tăng khả năng sản xuất.
Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng đói nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hóa trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến...
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được huy động từ: xuất khẩu hàng hóa; đầu tư nước ngoài; vay nợ, viện trợ; thu từ hoạt động du lịch, thương mại dịch vụ; xuất khẩu sức lao động...
Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, hay vay viện trợ tuy quan trọng nhưng bằng cách này hay cách khác sẽ trả ở kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng hơn cả để nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa là xuất khẩu. Nó quyết định đến quy mô, tốc độ của nhập khẩu.
1.3.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa là tất yếu với nước ta.
Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì những lý do sau:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng.
- Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường
Ðể đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách chủng loại sản phẩm đòi hỏi một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải nâng cao tay nghề, học hỏi kinh nghiệm sản xuất tiên tiến; có vậy, sản phẩm mới có thể xuất khẩu ổn định.
1.3.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô lẫn tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, các ngành nghề mới được ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện.
1.3.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu thúc đẩy các quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế...Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại là tiền đề để xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
II. Phân loại xuất khẩu và các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu
2.1. Các hình thức xuất khẩu
Có hai hình thức xuất khẩu chủ yếu mà các công ty xuất khẩu thường áp dụng, là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp.
Khi muốn xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, các doanh nghiệp thường chọn một trong hai hình thức xuất khẩu để làm chiến lược hoạt động cho mình. Mỗi hình thức có những ưu và nhược điểm riêng. Vì vậy khi áp dụng, doanh nghiệp phải dựa trên những nguồn lực của công ty để chọn hình thức xuất khẩu cho phù hợp với công ty.
2.1.1. Hình thức xuất khẩu trực tiếp
Hình thức này đòi hỏi chính doanh nghiệp phải tự lo bán trực tiếp các sản phẩm của mình ra nước ngoài. Xuất khẩu trực tiếp nên áp dụng đối với những doanh nghiệp có trình độ và qui mô sản xuất lớn, được phép xuất khẩu trực tiếp, có kinh nghiệm trên thương trường và nhãn hiệu hàng hóa truyền thống của doanh nghiệp đã từng có mặt trên thị trường thế giới. Hình thức này thường đem lại lợi nhuận cao nếu các doanh nghiệp nắm chắc được nhu cầu thị trường, thị hiếu của khách hàng...Nhưng ngược lại, nếu các doanh nghiệp ít am hiểu hoặc không nắm bắt kịp thời thông tin về thị trường thế giới và đối thủ cạnh tranh thì rủi ro trong hình thức này không phải là ít.
2.1.2. Hình thức xuất khẩu gián tiếp
Hình thức xuất khẩu gián tiếp không đòi hỏi có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người mua nước ngoài và người sản xuất trong nước. Ðể bán được sản phẩm của mình ra nước ngoài, người sản xuất phải nhờ vào người hoặc tổ chức trung gian có chức năng xuất khẩu trực tiếp. Với tính chất đó, xuất khẩu gián tiếp thường sử dụng đối với các cơ sở sản xuất có qui mô nhỏ, chưa đủ điều kiện xuất khẩu trực tiếp, chưa quen biết thị trường, khách hàng và chưa thông thạo các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện xuất khẩu gián tiếp thông qua các hình thức sau đây:
2.1.2.1. Các công ty quản lý xuất khẩu
Công ty quản lý xuất khẩu là công ty quản trị xuất khẩu cho công ty khác. Các nhà xuất khẩu nhỏ thường thiếu kinh nghiệm bán hàng ra nước ngoài hoặc không đủ khả năng về vốn để tự tổ chức bộ máy xuất khẩu riêng. Do đó, họ thường phải thông qua các công ty quản lý xuất khẩu để xuất khẩu sản phẩm của mình.
Các công ty quản lý xuất khẩu không mua bán trên danh nghĩa của mình. Tất cả các đơn chào hàng, hợp đồng chuyên chở hàng hóa, lập hóa đơn và thu tiền hàng đều thực hiện với danh nghĩa chủ hàng.
Thông thường, chính sách giá cả, các điều kiện bán hàng, quảng cáo ... là do chủ hàng quyết định. Các công ty quản lý xuất khẩu chỉ giữ vai trò cố vấn, thực hiện các dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu và khi thực hiện các dịch vụ trên công ty quản lý xuất khẩu sẽ được thanh toán bằng hoa hồng.
Một khuynh hướng mới của công ty quản lý xuất khẩu hiện nay, đặc biệt là những công ty có qui mô lớn là thường mua hàng trực tiếp từ nhà sản xuất và mang bán ra nước ngoài để kiếm lời.
Nói chung, khi sử dụng công ty quản lý xuất khẩu, vì các nhà sản xuất hàng xuất khẩu ít có quan hệ trực tiếp với thị trường, cho nên sự thành công hay thất bại của công tác xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng dịch vụ của công ty quản lý xuất khẩu mà họ lựa chọn.
2.1.2.2. Thông qua khách hàng nước ngoài
Ðây là hình thức xuất khẩu thông qua các nhân viên của các công ty nhập khẩu nước ngoài. Họ là những người có hiểu biết về điều kiện cạnh tranh trên thị trường thế giới. Khi thực hiện hình thức này, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần phải tìm hiểu kỹ khách hàng để thiết lập quan hệ làm ăn bền vững với thị trường nước ngoài.
2.1.2.3. Qua ủy thác xuất khẩu
Những người hoặc tổ chức ủy thác thường là đại diện cho những người mua nước ngoài cư trú trong nước của nhà xuất khẩu. Nhà ủy thác xuất khẩu hành động vì lợi ích của người mua và người mua trả tiền ủy thác. Khi hàng hóa chuẩn bị được đặt mua, nhà ủy thác lập phiếu đặt hàng với nhà sản xuất được chọn và họ sẽ quan tâm đến mọi chi tiết có liên quan đến quá trình xuất khẩu.
Bán hàng cho các nhà ủy thác là một phương thức thuận lợi cho xuất khẩu. Việc thanh toán thường được bảo đảm nhanh chóng cho người sản xuất và những vấn đề về vận chuyển hàng hóa hoàn toàn do các nhà được ủy thác xuất khẩu chịu trách nhiệm.
2.1.2.4. Qua môi giới xuất khẩu
Môi giới xuất khẩu thực hiện chứng năng liên kết giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Người môi giới được nhà xuất khẩu ủy nhiệm và trả hoa hồng cho hoạt động của họ. Người môi giới thường chuyên sâu vào một số mặt hàng hay một nhóm hàng nhất định.
2.1.2.5. Qua hãng buôn xuất khẩu
Hãng buôn xuất khẩu thường đóng tại nước xuất khẩu và mua hàng của người chế biến hoặc nhà sản xuất và sau đó họ tiếp tục thực hiện các nghiệp vụ để xuất khẩu và chịu mọi rủi ro liên quan đến xuất khẩu. Như vậy, các nhà sản xuất thông qua các hãng buôn xuất khẩu để thâm nhập thị trường nước ngoài.
Phương thức thực hiện chiến lược thâm nhập thị trường thế giới từ sản xuất trong nước là một chiến lược được nhiều doanh nghiệp nước ta sử dụng.
2.2. Các hình thức tổ chức sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
Các doanh nghiệp xuất khẩu hiện tại sản xuất hàng hóa theo 3 phương thức:
Hình thức gia công xuất khẩu
Hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm
Hình thức sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước dành cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Hiện nay công ty may Tùng Phương đang hoạt động với 2 hình thức đầu. Hình thức thứ 3 do trở ngại lớn về sự chủ động nguồn nguyên liệu nên không được công ty đi theo hình thức này.
2.2.1. Hình thức gia công xuất khẩu
Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay đối với ngành dệt may xuất khẩu, 80% doanh nghiệp may xuất khẩu là gia công cho Mỹ, Nhật, EU…
Thực chất đây là hình thức nhập nguyên phụ liệu, thậm chí cả kỹ thuật của các nước hợp đồng gia công thực hiện sản xuất trong nước và sau đó tái bán thành phẩm. Công ty may Tùng Phương thường là gia công cho các công ty ở nước ngoài (Mỹ, Nhật, EU…) rồi xuất khẩu.
Điểm mạnh: Gia công xuất khẩu là huy động được đội ngũ lao động nhàn rỗi, sử dụng được ngành nghề truyền thống, không cần huy động vốn lớn, không đọng vốn, tiết kiệm được các chi phí đào tạo và thiết kế mẫu, quảng cáo, tiêu thụ hay tìm kiếm thị trường.
Điểm yếu: Giá gia công rẻ do vậy lợi nhuận thu được từ gia công là rất ít so với sức lực bỏ ra.
2.2.2. Hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm
Các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu như vải, sợi, phụ kiệu cho hàng may mặc từ nước ngoài, sau đó tự tổ chức sản xuất trên cơ sở nguyên liệu nhập khẩu về. Khi hoàn thành sản phẩm sẽ tìm thị trường tiêu thụ. Hàng sản xuất ra sẽ được mang nhãn hiệu sản xuất tại Việt Nam.
Điểm mạnh: Hình thức này khắc phục được một số nhược điểm chủ yếu của gia công sản xuất như: sản phẩm đưa ra thị trường, nếu gặp thuận lợi, giá cả hàng hóa cao sẽ thu lợi nhuận lớn, phát huy được năng lực sáng tạo của cán bộ, tạo được tên tuổi uy tín trên thị trường thế giới, góp phần phát triển mạnh mẽ ngành may mặc Việt Nam.
Việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng của một số thị trường khó tính như EU, Nhật, Mỹ.
Điểm yếu: việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài nên chi phí rất tốn kém vì nhà nước không khuyến khích nhập khẩu mặt hàng này nên phải chịu thuế nhập khẩu cao. Đồng thời giá cả của các loại nguyên phụ liệu này thường xuyên biến động không ổn định và so với những mặt hàng cùng loại mà Việt Nam có thể sản xuất ở trong nước tương đối đắt hơn (tuy nhiên trong nước chỉ sản xuất được một lượng không nhiều nên không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp). Ngoài ra còn phải tính đến việc không tìm được thị trường do Việt Nam có rất ít các doanh nghiệp đã tạo được uy tín trong ngành, vị thế kinh tế kém nên không thu được lợi nhuận tối đa khi đàm phán.
2.3. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu
2.3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Có nhiều yếu tố bên trong doanh nghiệp tác động tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Theo cách tiếp cận truyền thống, các yếu tố bên trong của doanh nghiệp ảnh hưởng đến xuất khẩu gồm: năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp, trình độ công nghệ, năng lực tài chính, trình độ tay nghề của người lao động… Có thể phân bổ thành 4 nhóm yếu tố bên trong tác động đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp như sau:
Trình độ, năng lực và phương thức quản lý
Năng lực marketing
Khả năng nghiên cứu phát triển
Năng lực sản xuất
Dưới đây là một số yếu tố chủ yếu tác động tới xuất khẩu của doanh nghiệp:
2.3.1.1. Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở các mặt sau:
Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý
Trình độ của đội ngũ này không chỉ đơn thuần là trình độ học vấn mà còn thể hiện những kiến thức rộng lớn và phức tạp thuộc rất nhiều lĩnh vực liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ pháp luật trong nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng, … đến kiến thức về xã hội, nhân văn.
Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp:
Thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận. Việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh, gọn, nhẹ và hiệu quả cao có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý cao, ra quyết định nhanh chóng, chính xác, mà còn làm giảm tương đối chi phí quản lý của doanh nghiệp. Nhờ đó mà nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp.
Trình độ, năng lực quản lý của doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp… Điều này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn và do đó có tác động mạnh tới việc nâng cao xuất khẩu của doanh nghiệp.
2.3.1.2. Trình độ thiết bị, công nghệ
Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Công nghệ còn tác động đến tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh nghiệp.
2.3.1.3. Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào vừa là lực lượng trực tiếp sử dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Lao động còn là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa quá trình sản xuất và thậm chí góp sức vào những phát kiến và sáng chế… Do vậy, trình độ của lực lượng lao động tác động rất lớn đến chất lượng và độ tinh xảo của sản phẩm, ảnh hưởng lớn đến năng suất và chi phí của doanh nghiệp. Đây là một yếu tố tác động trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp. Để nâng cao hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp cần chú trọng bảo đảm cả chất lượng và số lượng lao động, nâng cao tay nghề của người lao động dưới nhiều hình thức, đầu tư kinh phí thỏa đáng, khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình quản lý, sáng chế, cải tiến…
2.3.1.4. Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính… trong doanh nghiệp. Trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn, là một yếu tố sản xuất cơ bản và là một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh… có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác.
Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân công, mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ chức hệ thống bán lẻ… Như vậy, năng lực tài chính phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc phải có nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao hoạt động xuất khẩu.
Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải củng cố và phát triển nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng thời, điều quan trọng là doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và những người cho vay vốn.
2.3.1.5. Năng lực marketing của doanh nghiệp và khả năng xác định lượng cầu
Năng lực marketing của doanh nghiệp là khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường, khả năng thực hiện chiến lược 5P (Product, Place, Price, Promotion, Person) trong hoạt động marketing. Khả năng marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần tiêu thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố rất quan trọng tác động tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Vì vậy, điều tra cầu thị trường và dựa trên khả năng sẵn có của doanh nghiệp để lựa chọn lĩnh vực kinh doanh phù hợp, tạo ra sản phẩm có thương hiệu được người sử dụng chấp nhận.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa phát triển, văn minh tiêu dùng ngày càng cao, thì người tiêu dùng càng hướng tới tiêu dùng những hàng hóa có thương hiệu uy tín. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là một tất yếu đối với những doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường.
Mặt khác, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều khâu như tiêu thụ, khuyến mãi, nghiên cứu thị trường… do đó dịch vụ bán hàng và sau bán hàng đóng vai trò quan trọng đến doanh số tiêu thụ, vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp.
2.3.1.6. Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp
Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp là yếu tố tổng hợp gồm nhiều yếu tố cấu thành như nhân lực nghiên cứu, thiết bị, tài chính cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), khả năng đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp. Năng lực nghiên cứu và phát triển có vai trò quan trọng trong cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất, hợp lý hóa sản xuất.
2.3.1.7. Vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh
Vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp cùng loại khẳng định mức độ cạnh tranh của nó trên thị trường. Doanh nghiệp nào lựa chọn lĩnh vực có mức độ cạnh tranh càng thấp thì càng thuận lợi. Vì vậy, hiểu biết thị trường để quyết định kinh doanh ở lĩnh vực có mức độ cạnh tranh thấp là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công và mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp nhiều hơn là môi trường độc quyền.
Vị thế của doanh nghiệp được thể hiện qua thị phần sản phẩm so với sản phẩm cùng loại, uy tín thương hiệu sản phẩm đối với người tiêu dùng, sự hoàn hảo của các dịch vụ và được đo bằng thị phần của các sản phẩm dịch vụ đó trên thị trường.
Ngoài ra, một số yếu tố khác nhau như lợi thế về vị trí địa lý, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp… có ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
2.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài đều chịu tác động bởi các yếu tố sau:
2.3.2.1. Luật thương mại quốc tế
Đây là yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ và tuân theo một cách vô điều kiện, bởi nó thể hiện ý chí của ban lãnh đạo mỗi nước, sự thông nhất chung của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung cúa các tầng lớp trong xã hội, lợi ích của các nước trên thương trường quốc tế. Hoạt động xuất khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, bởi vậy nó chịu sự tác động của chính sách chế độ, luật pháp ở các quốc gia đó. Đồng thời nó cũng phải tuân theo những quy định luật pháp quốc tế chung.
Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động xuất khẩu. Do đó, tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này.
2.3.2.2. Tỷ giá hối đoái
Nhân tố này quyết định việc xác lập mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh,quan hệ kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Sự biến động này sẽ gây ra những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu, chẳng hạn như khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền thuận lợi cho nhạp khẩu thì lại bất lợi cho xuất khẩu và ngược lại. Tương tự tỷ suất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàng cũng sẽ chuy._.ển hướng mặt hàng cũng như phương án kinh doanh của các doanh nghiệp.
2.3.2.3. Ảnh hưởng của hệ thống thông tin liên lạc và giao thông vận tải
Liên lạc với việc thực hiện xuất khẩu không thể tách rời với công việc vận chuyển và thông tin liện lạc, vì nhờ có thong tin liên lạc hiện đại mà cac bên có thể cách nhau tới nửa vòng trái đất vẫn thông tin được với nhau để cùng thỏa thuận tiến hành hoạt động một cách kịp thời, còn việc vận chuyển hàng hóa từ nước này sang nước khác đó chính là công việc của hoạt động xuất khẩu. Do đó sự kiện đặc hóa, sự nghiện cứu và áp dụng những công nghệ tiên tiến vào hệ thống thông tin liên lạc và giao thông vận tải là yếu tố quy định cho hoạt động xuất khẩu.
Hiện nay công nghệ thông tin phát triển rất hiện đại, nó là phương tiện hữu ích thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Các công cụ như: Fax, Telex, Telephone, Internet...đã đơn giản hóa công việc của hoạt động xuất khẩu rất nhiều, giảm đi hàng loạt các chi phí, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn. Và việc hiện đại hóa các phương tiện vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản...cũng góp phần làm nhanh chóng, an toàn quá trình thực hiện xuất khẩu, cho nên có thể nói sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc và giao thông vận tải là một trong những biểu hiện của hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, đây không phải là biểu hiện duy nhất mà còn nhiều biểu hiện khác nữa.
2.3.2.4. Ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, can thiệp tới tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ trong nền kinh tế, dù ở thành phần kinh tế nào bởi vai trò của nó rất to lớn trong việc quản lý, cung cấp vốn, đảm trách nhiệm thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng, chính xác cho các doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu sẽ không thực hiện được nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Dựa trên các quan hệ, uy tín nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận lợi, các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu sẽ đảm bảo về mặt lợi ích và cũng nhiều trường hợp do có lòng tin với ngân hàng mà doanh nghiệp xuất khẩu có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh vay hay cho vay với số lượng vốn lớn, kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp “chộp” được những cơ hội hấp dẫn.
2.3.2.5. Các nhân tố thuộc môi trường của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu
Sự biến động cúa môi trường chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế, công nghệ...đều buộc doanh nghiệp phải nắm vững và tuân thủ cho phù hợp.
Ví dụ: ảnh hưởng của lệnh cấm vận của Mỹ với Việt nam trước đây đã làm hạn chế hoạt động xuất khẩu của Việt nam, không chỉ với Mỹ mà còn các nước đồng minh với Mỹ.
- Ảnh hưởng của phong tục tập quán, văn hóa tiêu dùng, hoạt động kinh doanh của mỗi quốc gia sẽ quyết định đến loại hàng, số lượng hàng cũng như cách thức kinh doanh của doanh nghiệp.
- Ảnh hưởng của sự phát triển công nghệ trên thế giới làm đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, tạo ra nhiều hàng hóa mới cũng như hiện đại hóa hệ thống thông tin liên lạc, giao thông, tài chính ngân hàng...Do đó cũng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Trên đây là những nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu đi sâu vào phân tích ta có thể thấy còn các nhân tố khác, tuy nhiên chúng không ảnh hưởng trực tiếp mà tác động gián tiếp qua nhân tố khác. Vì vậy, nói đến hoạt động xuất khẩu là hết sức phức tạp và có mối quan hệ tác động tương hỗ tới nhiều nhân tố, nên cần phải xem xét cụ thể hình thức, nội dung của cách thức xuất khẩu cụ thể.
Chương II
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU
CỦA CÔNG TY MAY TÙNG PHƯƠNG
I. Giới thiệu khái quát về công ty may Tùng Phương
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty may Tùng Phương có trụ sở hoạt động tại: Lô G1 Khu Công nghiệp Tây Bắc Ga- Thành phố Thanh Hóa- tỉnh Thanh Hóa. Có tên giao dịch bằng tiếng Anh là: Tung Phuong Garment Company.
Được cấp phép hoạt động kinh doanh từ ngày 16/04/2003 với giấy đăng ký kinh doanh số: 2602000510. Do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hóa cấp. Với vốn chủ sở hữu gần 3 tỷ VND.
Trong những ngày đầu mới thành lập, nhà xưởng chưa có công ty phải đi thuê, công việc đang còn mới mẻ với mọi người. Công nhân sản xuất trực tiếp chỉ có 150 người, máy móc thiết bị chưa được trang bị đầy đủ.
Đến tháng 6 năm 2006 công ty đã có sự phát triển cả về quy mô và nhân lực. Tổng diện tích của công ty là 5000m2 trong đó có 2000m2 nhà xưởng sản xuất, hơn 300 cán bộ công nhân viên, các loại máy móc thiết bị được nhập khẩu từ Nhật, Mỹ…được tổ chức thành 1 xưởng sản xuất với 6 dây chuyền may hiện đại.
1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
Công ty may Tùng Phương là một công ty trách nhiệm hữu hạn thuộc loại vừa. Tổng số cán bộ công nhân viên của công ty hiện nay là 330 người, làm việc dưới sự quản lý của một giám đốc, một phó giám đốc kiêm trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Dưới đây là bảng cơ cấu lao động của công ty, phân theo trình độ tay nghề và trình độ học vấn:
Số lượng (người)
Tỷ lệ (%)
Tổng số CBCNV
- Lao động gián tiếp
- Lao động trực tiếp
330
30
300
9,9%
90,1%
Trình độ tay nghề
Bậc 1
Bậc 2
Bậc 3
Bậc 4
Bậc 5
Bậc 6
Bậc 7
33
99
132
33
17
16
0
10%
30%
40%
10%
5%
5%
0%
Trình độ văn hóa
Trên đại học
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Trung học phổ thông
3
15
7
5
300
0,9%
4,5%
2,1%
1,5%
90,9%
Nhìn chung lực lượng lao động của công ty có tay nghề trung bình, phần đông trình độ tay nghề của lao động nằm ở bậc 2 bậc 3, với trình độ văn hóa đã tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên, với tuổi đời trung bình là 25 tuổi.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty bao gồm:
- Ban giám đốc: một phó giám đốc.
- Hệ thống phòng ban gồm: phòng tổ chức hành chính, phòng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu, phòng Marketing, phòng kỹ thuật, phòng kế toán, ban quản đốc phân xưởng.
Sơ đồ cơ cấu các phòng ban, bộ phận của công ty
Phó giám đốc
Phòng
kỹ
thuật
Phòng Marketing
Phòng
kế hoạch KD XNK
Giám đốc
Phòng
kế
toán
Phòng
tổ chức
Quản đốc xưởng sản xuất
May 7
Tổ CD
Tổ HT
Bảo vệ
May 6
May 5
May 4
May 2
May 1
Tổ cắt
1.3. Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của các bộ phận, phòng ban
1.3.1. Ban điều hành
1.3.1.1. Giám đốc:
Nhiệm vụ: Thực hiện chức năng quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như các hoạt động quản lý nhân sự thông qua việc phân công công việc, giao nhiệm vụ cho các phòng ban, các bộ phận tổ chức. Có quyền quyết định cuối cùng trong mọi hoạt động của công ty và cũng là người chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như các hoạt động quản lý con người.
1.3.1.2. Phó giám đốc
Nhiệm vụ: Có nhiệm vụ trợ giúp giám đốc trong việc quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các hoạt động nhân sự, trong nhiều trường hợp có thể thay mặt giám đốc trực tiếp điều hành, ra các quyết định trong phạm vi cho phép. Ngoài nhiệm vụ quản lý, điều hành còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất, cụ thể là người thực hiện công việc kinh doanh, thực hiện hợp đồng tìm kiếm dự án và là người thực hiện và chịu trách nhiệm chính của các hợp đồng đấy.
1.3.2. Nhiệm vụ cơ cấu các phòng ban:
1.3.2.1. Phòng tổ chức:
Nhiệm vụ:
Thực hiện công tác tổ chức lao động.
Công tác quản lý định mức lao động, tiền lương.
Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với người lao động.
Công tác quản trị hành chính.
Công tác bảo vệ trật tự trị an, chăm lo sức khoẻ ban đầu cho người lao động.
Công tác thông tin, báo chí, tuyên truyền.
1.3.2.2. Phòng kế hoạch kinh doanh và xuất nhập khẩu
Nhiệm vụ:
Xây dựng phương án và triển khai công tác kinh doanh của công ty trước mắt và lâu dài.
Tổ chức điều hành phòng kinh doanh, tập trung trọng điểm tiêu thu sản phẩm của công ty và thực hiện tốt kế hoạch doanh thu hàng tháng, hàng năm cho công ty.
Tìm hiểu, khai thác, thu thập và xử lý các thông tin thị trường, giá cả tại từng thời điểm để có quyết định đúng đắn hợp lý trong công tác kinh doanh của mình.
Thực hiện công tác xuất nhập khẩu của công ty.
Lập kế hoạch xuất nhập khẩu hàng năm trình giám đốc, hoặc phó giám đốc xem xét và báo cáo đề xuất biện pháp, nguồn lực đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra.
Ghi chép, lưu chứng từ các hợp đồng đã và đang thực hiện.
1.3.2.3. Phòng Kỹ thuật
Nhiệm vụ:
Thực hiện công tác kiểm tra về tình hình kỹ thuật, tình trạng hiện thời của các thiết bị.
Kiểm tra về xuất xứ, so sánh thiết bị vừa nhận với bản kê khai kỹ thuật của các thiết bị được đặt mua.
Thiết kế mẫu mã phù hợp với hợp đồng và thị hiếu người tiêu dùng.
1.3.2.4. Phòng Marketing:
Nhiệm vụ:
Lập ra các phương án mở rộng thị trường.
Tổ chức triển khai công tác quảng cáo, tiếp thị, xây dựng chiến lược và mục tiêu kinh doanh.
1.3.2.5. Phòng Tài chính kế toán:
Nhiệm vụ:
Ghi chép, phản ánh số liệu hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư tiền vốn, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng kinh phí của công ty.
Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu chi tài chính.
Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm tra và phân tích hoạt động kinh tế, tài chính.
Kiểm tra, kiểm soát toàn bộ mọi hoạt động tài chính của công ty.
Có quyền yêu cầu mọi bộ phận trong công ty cung cấp các số liệu liên quan đến việc thực hiện kế hoạch kinh doanh công ty.
Có quyền không ký chi tiêu hoặc xác nhận các chi phí hoặc các việc trái với pháp lệnh thống kê, kế toán.
Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, tài chính, kế toán, báo cáo định kỳ, báo các bất thường theo quy định của công ty, theo quy định của Nhà nước.
II. Đặc điểm về sản phẩm và thị truờng của công ty
2.1. Cơ cấu sản phẩm của công ty
Cơ cấu các sản phẩm may công nghiệp xuất khẩu đã có những thay đổi đáng kể. Công ty với công nghệ tiên tiến đã có những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của những nhà nhập khẩu “khó tính” như quần áo thể thao, quần áo Jean, áo Jacket.
Sản phẩm chính của doanh nghiệp bao gồm: Áo Jacket, quần áo lót, quần áo thể thao, sản phẩm Jean, áo thun, áo sơ mi cao cấp, veston nam nữ, áo khoác, phụ kiện quần áo.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đem lại lợi nhuận cao cho công ty là bộ đồ thể thao, jacket, áo zilê... Tuy nhiên, nếu so với các công ty trong nước và nước ngoài có trình độ tiên tiến về ngành dệt may, thì sản phẩm của họ rất nhiều, có đến hàng trăm loại, hơn thế còn phong phú về mẫu mã, màu sắc và thiết kế độc đáo.
Lý giải cho vấn đề này một phần do ảnh hưởng chung của ngành dệt may, còn thiếu đội ngũ thiết kế giỏi, sáng tạo, thiếu nguyên phụ liệu cho ngành dệt may khiến các doanh nghiệp phải tốn chi phí lớn để nhập nguyên liệu sản xuất, khiến cho công ty cắt giảm chi phí các khâu không cần thiết trong thời gian này để nâng cao sức cạnh tranh về giá.
2.2. Thị trường
Sản phẩm của công ty sản xuất ra trên cơ sở được khách hàng nước ngoài, trong nước đồng ý thỏa thuận, ký hợp đồng mua bán, đảm bảo nguyên tắc về giá cả, chất lượng sản phẩm, thời gian, mẫu mã, kích cỡ…
Thị trường nước ngoài tiêu thụ sản phẩm của công ty thường là EU, Mỹ, Nhật Bản,…với thị trường trong nước là các tập thể, cơ quan đặt gia công, đồng phục. Công ty luôn tổ chức thực hiện hợp đồng một cách kịp thời, đầy đủ, đúng hợp đồng. Nhìn chung thị trường sản phẩm của công ty có những đặc điểm sau:
Tính cạnh tranh của thị trường rất cao, rào cản thâm nhập thị trường lớn. Công ty phải cạnh tranh không những với các đối thủ trong nước mà còn cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài có tiềm lực về hàng dệt may như: Trung Quốc, Ấn độ,…
Sản phẩm của công ty chủ yếu là gia công hàng may mặc xuất khẩu, làm theo yêu cầu của hợp đồng gia công, nên cũng dễ trong việc thiết kế mẫu mã.
Với sản phẩm phục vụ nhu cầu nội địa, thì cần phải nghiên cứu, sáng chế mẫu mã đẹp, chất lượng, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng.
III. Kim ngạch xuất khẩu
3.1. Kim ngạch xuất khẩu của công ty
3.1.1. Phân tích chung
Hàng dệt may trong nước không đáp ứng được yêu cầu nguyên liệu cho nhu cầu may xuất khẩu của công ty, nên công ty chủ yếu phải nhập vải may, gia công xuất khẩu. Chỉ tính riêng giá trị vải nhập để sản xuất gia công hàng may mặc đã lên tới trên dưới 80% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty, chưa kể các loại phụ liệu may khác mà công ty cũng phải nhập khẩu phần lớn từ các nước thuê gia công.
Việc gia công cho nước ngoài không chỉ có giá trị gia tăng thấp mà còn không ổn định phụ thuộc vào giá gia công và bị động vào nguồn cung cấp nguyên liệu.
Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty may Tùng Phương đã đạt được rất nhiều thành công trong việc giải quyết việc làm cho người lao động địa phương, cũng như đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, từng bước góp phần đưa nước ta trở thành một trong 10 quốc gia có ngành dệt may phát triển nhất thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty không ngừng được gia tăng qua các năm. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu mới chỉ 370.000 USD, chỉ sau 3 năm tức đến năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty đạt trên 1,6 triệu USD, tăng hơn 4 lần và tăng trên 67% so với năm 2007.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng xuất khẩu
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Kim ngạch XK (USD)
370.000
560.000
966.800
1.618.800
Mức tăng tuyệt đối (USD)
60.000
190.000
406.800
652.000
Tốc độ tăng so với năm trước (%)
19,3
51,35
72,6
67,4
Trong những năm đầu, do công ty vừa mới thành lập với vốn ít, thiếu thốn về cơ sở vật chất, kinh nghiệm hạn chế, quan hệ ngoại thương còn kém nên công ty chưa mạnh dạn đầu tư lớn, làm cho kim ngạch xuất khẩu còn chưa cao, tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ xoay quanh 400.000 USD. Tuy kim ngạch năm sau có cao hơn năm trước nhưng mức tăng đó còn thấp.
Đến năm 2006 công ty có sự phát triển về quy mô nhà xưởng lẫn nguồn vốn, đồng thời ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu hơn làm cho kim ngạch năm này tăng một cách đột biến từ 370.000USD lên đến 560.000 USD tăng trên 50%.
Sau một năm gia nhập WTO, doanh nghiệp lại đối mặt với một thách thức còn gay gắt hơn, đó là Trung Quốc. Kể từ năm 2005, Trung Quốc đã được bãi bỏ chế độ hạn ngạch dưới Hiệp định Dệt May (ATC) và thuế nhập khẩu cũng được cắt giảm theo cam kết thành viên của WTO, ngay lập tức hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường thế giới. Trong khi đó, Việt Nam vào thời điểm đó chưa là thành viên của WTO nên phải chịu thuế nhập khẩu dệt may vào các thị trường từ 12-14%. Điều này gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp dệt may nói chung, công ty may Tùng Phương nói riêng. Tuy vậy, sau khi Việt Nam gia nhập WTO 1/2007 đã mở ra một cơ hội cho công ty. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của các doanh nghiệp này năm 2007 tăng khá cao so với năm 2006 (72% ). Điều này chứng tỏ công ty đã tận dụng tốt cơ hội Việt Nam gia nhập WTO để mở rộng thị trường xuất khẩu.
3.1.2. Đặc điểm thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là: Mỹ, EU, Nhật. Đó là 3 thị trường truyền thống của công ty, chiếm 95% kim ngạch xuất khẩu của công ty. Trong đó, thị phần tại Mỹ là nhiều nhất (chiếm 40-45%), sau đó đến thị trường EU (chiếm 30%), thị trường Nhật chiếm khoảng 20%, số còn lại ở các thị trường khác như các nước ASEAN, Mexico..
Bảng 2: Tỷ lệ giá trị xuất khẩu từng thị trường
Thị trường
Đơn vị
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Mỹ
%
45
37
40
43
EU
%
30
32
35
31
Nhật
%
20
23
20
20
T.tr. khác
%
5
8
5
6
3.1.2.1. Thị trường Mỹ
- Đặc điểm thị trường
Mỹ là nơi tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới cũng như của công ty chiếm khoảng 40- 45% kim ngạch xuất khẩu của công ty. Thị trường lại đa dạng, phong phú, có nhiều cấp độ. Điều này rất phù hợp với hoàn cảnh, trình độ sản xuất của công ty.
- Nhu cầu tiêu thụ
Một trong những mặt hàng nhập khẩu lớn là hàng dệt may. Hàng nhập khẩu có mẫu mã hết sức đa dạng phong phú. Đặc biệt, Mỹ có những hợp đồng rất lớn, do đặc trưng nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may ở thị trường này rất cao.
Theo điều kiện thương mại hiện hành của Mỹ, hàng dệt may không được ưu đãi về thuế quan. Mỹ áp dụng quota với một số nước. Việt Nam cũng bị Mỹ yêu cầu ký hiệp định dệt may để áp dụng hạn ngạch. Song đây vẫn là thị trường thu hút các doanh nghiệp.
- Tình hình xuất nhập khẩu
Đến nay, Việt nam đã được hưởng MFN và là thành viên của WTO, nên hàng của ta có thêm nhiều thuận lợi nhờ tỷ lệ thuế quan được giảm nhẹ đi rất nhiều. Mặt khác, với chính sách khuyến khích xuất khẩu như hiện nay của Nhà nước ta thì việc xuất khẩu sang Mỹ sẽ mang lại nguồn lợi lớn hơn. Nhất là sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam cũng sẽ mạnh hơn.
Nằm trong số đó, công ty may Tùng Phương cũng có những chính sách để đẩy nhanh xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu sang mỹ đạt gần 400 nghìn USD, con số này đã tăng lên hơn 700 nghìn USD vào năm 2008. Tuy nhiên, xuất khẩu sang thị trường này công ty gặp rất nhiều khó khăn do:
- Kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi suy thoái.
- Hàng dệt may của Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường Mỹ không cần hạn ngạch.
- Mức độ cạnh tranh với các thị trường khác sẽ gay gắt hơn, do hội nhập càng sâu và rộng.
- Xuất khẩu vào thị trường Mỹ vẫn còn những rào cản.
Vì vậy, mục tiêu xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong năm 2009 này chỉ ở mức 900 nghìn USD.
Bảng 3: Giá trị xuất khẩu từng thị trường
Thị trường
Đơn vị
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Mỹ
USD
166.500
207.200
386.720
695.244
EU
USD
111.000
179.200
338.380
501.208
Nhật
USD
74.000
128.800
193.360
323.360
T.tr. khác
USD
18.500
44.800
48.340
97.008
3.1.2.2. Thị trường EU
- Đặc điểm thị trường
Là khu vực phát triển kinh tế cao, EU với 27 nước thành viên có tổng diện tích khoảng 4 triệu km2, dân số khoảng 500 triệu người, GDP khoảng 13.000 tỷ USD, bình quân đầu người 29.000 USD/năm (số liệu năm 2006).
EU là một thị trường phát triển ở trình độ cao nên đòi hỏi của người tiêu dùng đối với hàng hóa nhập khẩu rất khắt khe. Tại đây, giá cả hàng hóa và dịch vụ không phải là yếu tố được quan tâm nhiều, mà yêu cầu trước hết là chất lượng, mẫu mã, những tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Giờ đây, trên thị trường tất cả các nước thành viên EU, mọi hàng hóa nhập khẩu thường phải được kiểm tra ngay từ khâu sản xuất tại nước xuất xứ nhằm bảo đảm cho sản phẩm làm ra đáp ứng được những tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu. Thông thường, người tiêu dùng thích tìm mua những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng thế giới, phần đông người tiêu dùng thích tìm mua những sản phẩm làm từ chất liệu tự nhiên, có kiểu dáng và mẫu mã thay đổi nhanh, có phương thức phục vụ tốt và đặc biệt là có dịch vụ hậu mãi chu đáo. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu vào EU cũng đang có sự chuyển dịch rõ nét theo hướng giảm dần các sản phẩm thô và gia tăng các sản phẩm có hàm lượng chế biến cao. Công ty may Tùng Phương đã chính thức đặt quan hệ với các EU từ tháng 6 năm 2004, các đối tác này chủ yếu đến từ Đức, Anh.
- Nhu cầu tiêu thụ
EU là thị trường rộng lớn, có nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất, sản phẩm đa dạng, phong phú và tinh tế. Mức tiêu thụ ở thị trường này vào loại cao trên thế giới: 17 kg vải/người/năm. Trong khi đó ở các nơi khác mức tiêu thụ thấp hơn: Thái Lan: 2,8 kg; Inđônêsia: 2,0 kg; Trung Quốc: 5,5 kg; Hồng Kông: 11,9 kg; Hàn Quốc: 14,3 kg; Việt Nam chỉ có 0,84 kg.
Người tiêu dùng ở EU được chia làm bốn nhóm: nhóm dẫn mốt, nhóm ăn mặc đứng đắn, nhóm sau mốt, nhóm thực dụng. Trong đó, tỷ lệ nhóm dẫn mốt cao nhất ở Tây Ban Nha, Bỉ, Italia, Đan Mạch và Đức. Tỷ lệ thấp nhất là ở Anh. Tuy nhiên, nhìn chung toàn EU, nhóm những người thực dụng và nhóm những người sau mốt chiếm khoảng 70-75% tổng số người tiêu dùng, nên sản phẩm dệt may của thị trường này đòi hỏi sự phong phú về mẫu mốt và có giá bán cao hơn các khu vực khác trên thế giới.
- Tình hình xuất nhập khẩu
EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn của công ty chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu của công ty. Sức tiêu thụ ngày một tăng cao. Có thể thấy qua vài con số về kim ngạch nhập khẩu:
Năm 2007 nhập khẩu khoảng 400 nghìn USD sản phẩm các loại. Các nước nhập khẩu lớn là Anh, Đức. Năm 2008 giá trị này lên tới trên 500 nghìn USD.
Nhu cầu về hàng dệt may EU ngày càng tăng được bù đắp bằng hàng nhập khẩu từ các nước có giá lao động thấp. Vì lý do đó, sản phẩm dệt may xuất khẩu của công ty cũng sẽ gia tăng với tốc độ cao.
Sau 5 năm hợp tác, EU là thị trường quen thuộc. Đây là thị trường đòi hỏi chất lượng cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt, mức bảo hộ đặc biệt cao. EU nổi tiếng là khách hàng khó tính về mẫu mã, chất lượng, thời gian giao hàng. Nhưng nếu xem xét kỹ, thì nó cũng mở ra một thị trường rộng lớn để công ty có cơ hội vươn lên thích ứng và phát triển. Qua đó sẽ cải thiện được năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, mẫu mã, chủng loại, phương thức kinh doanh, tiếp thị.
Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng đều, nhưng do nguyên phụ liệu sản xuất trong nước của ta còn hạn chế, mẫu mã chưa phù hợp thị hiếu và chưa có bạn hàng mua bán trực tiếp mà hầu hết vẫn phải thông qua gia công. Gia công đơn thuần khiến không tận dụng được ưu đãi qua chế độ quota.
Để có thể khác phục tình trạng trên, may Tùng Phương cần phát triển sản xuất đồng bộ, có định hướng, đầu tư mở rộng mặt hàng, tiếp thị mạnh mẽ, tăng dần xuất khẩu trực tiếp lẫn tăng giá trị xuất khẩu. Công ty may Tùng Phương đã đề ra mục tiêu xuất khẩu sang EU đến năm 2010 với kim ngạch 750.000 USD.
3.1.2.3. Thị trường Nhật Bản
- Đặc điểm thị trường
Nhật Bản là thị trường rất lớn, tiêu thụ nhiều nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Đây cũng là thị trường phi hạn ngạch. Giống EU, thị trường Nhật Bản cũng đòi hỏi quy định rất khắt khe, nghiêm ngặt về chất lượng, cũng như thời hạn giao hàng. Các thương gia Nhật Bản đều khẳng định rằng: “Người tiêu dùng Nhật không dùng sản phẩm có bất kỳ một khuyết tật nào, hàng may mặc sai quy cách, thủng, không vừa, ố phai màu… đều không bao giờ được chấp nhận”.
Đặc biệt, từ năm 2009, hàng dệt may của ta xuất khẩu sang Nhật được hưởng mức thuế 0% theo Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) được ký kết tháng 4 năm 2008, là cơ hội cho may Tùng Phương mở rộng thị trường Nhật.
- Nhu cầu tiêu thụ
Người Nhật chỉ mua những cái gì thích hợp với mình. Chất lượng là điều họ quan tâm trên hết. Họ luôn kiểm tra kỹ lưỡng trước khi mua. Do vậy, muốn xuất khẩu sang Nhật Bản, công ty cần phải cố gắng tìm ra mặt hàng nào mà khách hàng Nhật thực sự có nhu cầu. Có như vậy mới tìm ra hướng sản xuất và phải sản xuất hàng có chất lượng cao. Đối với sản phẩm dệt may thì hầu hết các trường hợp đều phải thay đổi, điều chỉnh hoặc nâng cấp chất lượng trước khi xuất sang Nhật Bản. Công ty cần chú ý đặc điểm này để sản phẩm thích ứng được với các đối tượng khách hàng khác nhau.
- Tình hình xuất nhập khẩu
Như đã nêu ở trên, Nhật Bản là thị trường có nhu cầu lớn về sản phẩm dệt may đứng thứ 3 của công ty chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu của công ty. Năm 2007, tiêu thụ hàng dệt may của công ty tới gần 200 nghìn USD. Năm 2008 con số này là trên 300 nghìn USD, chiếm trên 20 % tỷ trọng xuất khẩu của công ty. Thị trường này có sự cạnh tranh rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự cạnh tranh từ các nguồn hàng nhập khẩu.
Tuy nhiên, sản phẩm của công ty xuất sang Nhật Bản còn hạn chế về chủng loại, mẫu mã, chất lượng. Giá cả chỉ đạt mức trung bình, chưa có mặt hàng cao cấp. Nhưng nếu được đầu tư, chất lượng cao hơn, mẫu mã phù hợp, giá cạnh tranh… sẽ có khả năng thâm nhập sâu và phát triển được thị trường to lớn này. Hy vọng khi đó, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu sẽ ngày một tăng. Với tốc độ xuất khẩu tăng trưởng như hiện nay, triển vọng giá trị hàng dệt may Tùng Phương xuất đi Nhật có thể đạt 1,2 triệu USD vào năm 2010.
3.2. Đánh giá về hoạt động xuất khẩu
Khi chính thức trở thành thành viên WTO, Hoa Kỳ cũng đã bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam. Ngành dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội tốt để phát triển. Các thành viên dệt may có thể xuất khẩu theo khả năng mà không lo về hạn ngạch tại bất kỳ thị truờng nào, nhất là thị trường Hoa Kỳ vốn được coi là thị trường màu mỡ cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Là một doanh nghiệp trong ngành dệt may, Tùng Phương cũng được hưởng các lợi ích đó, nên trong những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng đáng kể.
Khi đã là thành viên WTO, thuế nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam nói chung, của Công ty may Tùng Phương vào các nước WTO sẽ được tính lại một cách bình đẳng và tạo điều kiện xuất khẩu tốt hơn. Công ty cũng có một lợi thế nữa về lao động. Với lực lượng lao động thu hút từ các vùng lân cận, dồi dào, năng động, nhạy bén. Rất dễ đào tạo, chỉ cần 3 tháng đào tạo là có thể làm việc thành thạo.
Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng công ty vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại:
Công ty hiện nay đang hoạt động chủ yếu theo hình thức gia công cho nước ngoài. Đối tác đặt gia công với công ty chủ yếu là từ Mỹ, EU, Nhật... Nguyên phụ liệu chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài nên giá trị gia tăng của công ty còn thấp (chỉ khoảng 15 - 20%). Vì vậy, công ty gần như phụ thuộc vào phía khách hàng cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu.
Xét trên quy mô, thì công ty may Tùng phương thuộc loại vừa và nhỏ (sử dụng trên dưới 300 lao động, vốn chủ sở hữu 5 tỷ đồng). Vì vậy, mà công ty gặp rất nhiều khó khăn trong cạnh tranh. Để khắc phục nhược điểm này công ty nên liên doanh, liên kết với các công ty khác trong ngành để tạo thế vững chắc trong cạnh tranh.
Công tác thiết kế mẫu còn yếu, chưa được chú trọng. Mặc dù công ty có một phòng kỹ thuật, chuyên lo việc thiết kế mẫu mã, thế nhưng mẫu thiết kế chưa được khả thi, ưa chuộng, mang nặng tính lý thuyết, khó có thể cạnh tranh với sản phẩm của các công ty khác.
Công ty chưa có kinh nghiệm và còn thụ động trong hoạt động tiếp thị, chưa có chiến lược tiếp thị. Công tác xúc tiến thương mại chưa kết hợp khai thác sử dụng triệt để 4 công cụ: quảng cáo, xúc tiến bán hàng, bán hàng trực tiếp và tuyên truyền. Công ty vẫn đang trong tình trạng thiếu các kỹ sư công nghệ, quản đốc, cán bộ quản lý chất lượng sản phẩm, công nhân…có tay nghề vì thế dẫn đến hầu hết năng suất lao động của công ty là thấp. Đội ngũ lao động của các doanh nghiệp này chỉ được đào tạo rất hạn chế, đặc biệt là đội ngũ quản lý. Hệ thống thiết bị đào tạo hiện tại vẫn chỉ mang tính lý thuyết.
Ngoài ra, chất lượng dịch vụ của công ty như hệ thống thông tin, giao dịch, khả năng giao hàng đúng tiến độ của công ty cũng có khoảng cách so với các doanh nghiệp khác, nước khác. Dù có ngày càng nhiều nhà máy được mở ra nhưng số lượng đơn hàng lại ít đi. Doanh nghiệp có khi xảy ra tình trạng không có hạn ngạch để sản xuất hàng xuất khẩu hoặc là không nhận được đơn hàng, ngay cả việc có đơn hàng lớn nhưng không dám ký kết vì sợ không được giao hạn ngạch và năng lực sản xuất không đáp ứng kịp thời để đảm bảo giao hàng đúng tiến độ.
Đồng thời, các rào cản thuế quan và phi thuế ở các thị trường lớn cũng là lý do khiến sản phẩm công ty vẫn chưa thể phát triển tương xứng với tiềm năng.
Các hàng rào phi thuế cũng gây rất nhiều khó khăn cho công ty việc tiếp cận thị trường. Tiêu chuẩn nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ đặt ra cũng tương đối khắt khe. Công ty cần phải đạt tiêu chuẩn ISO 9.000, ISO 14.000, SA 8000, WRPA… EU vốn là thị trường khó tính, yêu cầu chất lượng cao, sản phẩm phải có yếu tố chú trọng bảo vệ sức khỏe. Nhiều nhà nhập khẩu của EU thường đòi hỏi doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trường này phải sưu tập đủ bộ tiêu chuẩn chất lượng gồm các chứng chỉ chất lượng sản phẩm: HACCP; CE; ISO 9.000; SA 8000; và quan trọng nhất là hệ thống chứng chỉ môi trường ISO 14.000.
Chương III
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA
CÔNG TY MAY TÙNG PHƯƠNG
I. Sự cần thiết phải nâng cao hoạt động xuất khẩu
Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may, khi biết được tầm quan trọng của dệt may như vậy, công ty cần phải có giải pháp đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu của mình để góp phần làm phát triển nền kinh tế đất nước. Đồng thời phải tăng cường hoạt động xuất khẩu vì những lý do sau:
Thứ nhất: Do cạnh tranh trong ngành ngày càng gay gắt. Do lợi nhuận của ngành mà ngày càng xuất hiện nhiều đối thủ, năng lực cũng như kinh nghiệm của các đối thủ là càng ngày càng được nâng cao. Do vậy cần phải tăng cường khả năng tiêu thụ hàng hoá nhằm chiếm lĩnh thị phần trên thị trường.
Thứ hai: Do nhu cầu khách hàng ngày càng lớn, cần phải đáp ứng được đầy đủ, và cũng do yêu cầu cần nâng cao lợi nhuận, đưa công ty lớn mạnh hơn so với tiềm năng hiện có. Để thực hiện được thì trước tiên và công việc cơ bản đó là phải tăng cường được khả năng bán hàng của công ty.
Thứ ba: Nâng cao hoạt động xuất khẩu là yêu cầu của quy luật tiết kiệm (chi phí cố định, chi phí quản lý…), tiết kiệm để đẩy mạnh sản xuất và không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tiết kiệm tăng cường năng suất lao động xã hội là quy luật, nói khác đi nó là quy luật bắt buộc đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển.
Thứ tư: Tăng cường khả năng hoạt động xuất khẩu là con đường quan trọng để công ty có thể thắng lợi trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước mọi thành phần kinh tế đều bình đằng như nhau trước pháp luật. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động và nhạy bén hơn để chuyển kịp với cơ chế thị trường. Để đạt được điều đó các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải tìm ra các biện pháp mở rộng sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Sự cần thiết của tăng cường khả năng xuất khẩu còn được đặt ra bởi hiệu quả nhập khẩu hiện nay còn rất thấp so với tiềm năng có thể đạt được. Nhiều công ty nhập khẩu các mặt hàng chậm luân chuyển gây ứ đọng vốn, tăng lãi vay ngân hàng nên hiệu quả thấp.
Như vậy, tăng cường hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Nó có vai trò sống còn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để đạt được những kết quả kinh doanh tốt doanh nghiệp phải hoàn thành mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ phù hợp với công ty và bối cảnh đất nước.
II. Định hướng phát triển của công ty
Trong xu hướng kinh doanh trên thế giới hiện nay, cuộc cạnh tranh về chất lượng sản phẩm dần._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21903.doc