Những giải pháp thiết thực đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên giai đoạn 2010-2015

NHỮNG GIẢI PHÁP THIẾT THỰC ĐẨY MẠNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN GIAI ĐOẠN 2010-2015 A. Lời mở đầu: 1. Đặt vấn đề, ý nghĩa của đề tài nghiên cứu: Ngay từ khi Việt Nam giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đói nghèo là một thứ "giặc", cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm, nên đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người dân có công ăn, việc làm, có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Do đó, xóa đói giảm nghèo không chỉ là một tro

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2177 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp thiết thực đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên giai đoạn 2010-2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng những chính sách xã hội cơ bản, được Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, mà còn là một bộ phận quan trọng của mục tiêu phát triển. Thực hiện đổi mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với tiến hành công tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội đã hạn chế sự phân cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong cải cách và phát triển kinh tế, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; nhờ thực hiện các cơ chế, chính sách có hiệu quả, công cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Theo Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam (tại Hà Nội ngày 2-3 tháng 12 năm 2003) thì tỷ lệ cũng như khoảng cách nghèo đói tại khu vực Tây Bắc luôn ở mức cao trong cả nước. Bởi một trong những đặc trưng mang tính quy luật rút ra từ thống kê về tình trạng đói nghèo là tập trung nhiều ở bộ phận nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số. Trong khi đó, Điện Biên là một tỉnh miền núi Tây Bắc tiêu biểu về sự cách trở địa hình - địa lý, giao thông khó khăn và có tới 21 dân tộc sinh sống trên địa bàn. Trong đó tỷ lệ người kinh chiếm 19,78%; người Thái chiếm 40,43%; người H'mông chiếm 30,86%; 0,9% dân số còn lại bao gồm dân cư của 18 dân tộc thiểu số khác nhau. Đại bộ phận đồng bào các dân tộc sống bằng nghề nông với phương thức sản xuất còn hết sức lạc hậu, thủ công, hoang sơ... Kinh tế của Tỉnh hiện vẫn phụ thuộc nặng nề vào sự trợ giúp từ Trung ương tới trên 90% ngân sách. Toàn tỉnh có có 7 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố, 106 xã-phường-thị trấn trong đó có 73 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn. Đến cuối năm 2009 toàn Tỉnh có 34.398 hộ thuộc diện nghèo, tỷ lệ hộ nghèo toàn Tỉnh là 33,72%; huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là huyện Mường Nhé: 58.53% Qua quá trình thực hiện công tác XĐGN theo nội dung chương trình Quốc gia XĐGN thời gian vừa qua, đời sống mọi mặt của đồng bào các dân tộc Điện Biên đã được nâng lên một bước với những cải thiện rõ rệt. Song cũng từ chính thực tế của quá trình thực hiện đó đã bộc lộ những hạn chế tồn tại đòi hỏi cần kịp thời khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác XĐGN trong thời gian tới, đảm bảo tính bền vững cho những kết quả đã đạt được, gắn liền tăng trưởng kinh tế với văn hóa xã hội, trật tự an ninh - chính trị - quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái, giữa gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc.. . Theo hướng gắn XĐGN với phát triển bền vững của Chính phù và các nhà tài trợ. 2. Kết cấu của chuyên đề: Chuyên đề gồm 4 phần chính: Cơ sở lý luận Thực trạng đói nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên Thực trạng thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên Giải pháp thiết thực đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên giai đoạn 2010-2015 B. Nội dung: Phần I: CƠ SỞ LÝ LUẬN: Quan niệm về nghèo đói: Khái niệm: Quan niệm chung về nghèo đói: Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu. Nó không chỉ là một thực tế đang diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại phổ biến trên toàn thế giới và trong khu vực. Ngay cả những nước phát triển vẫn còn có một bộ phận dân cư sống ở mức nghèo khổ. Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội mỗi quốc gia mà tính chất, mức độ nghèo đói của mỗi quốc gia có sự khác nhau. Nhìn chung mỗi quốc gia đều sử dụng một khái niệm về nghèo đói và đưa ra các chỉ tiêu đo lường nghèo. Tại Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng cốc tháng 9/1993 đã đưa ra khái niệm về nghèo đói: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Theo khái niệm này, khái niệm về nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau. Theo thống kê của World Bank, trên thế giới hiện nay có khoảng… người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Khái niệm về nghèo đói ở Việt Nam: Ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân dân, khái niệm nghèo đói được xác định như sau: Nghèo là tình trạng một bộ phân dân cư chỉ có những điều kiện thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, từng quốc gia. Phân loại nghèo: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối: Các nước đang phát triển và WB sử dụng 2 phạm trù sau: Nghèo tuyệt đối: là loại nghèo đói mà thu nhập thực tế của họ không đủ đảm bảo cho họ được thỏa mãn những nhu cầu vật chất tối thiểu để duy trì được tái sản xuất sức lao động. (Theo WB: nghèo tuyệt đối là những người mà 4/5 chi tiêu của họ là giành cho nhu cầu về ăn trong đó chủ yếu là lương thực thực phẩm, chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ, tuổi thọ trung bình là khoảng 40 năm). Nghèo tương đối: là loại nghèo đói so với mức sống trung bình của quốc gia thì họ có mức sống dưới mức sống trung bình. Sự chênh lệch về mức sống của các tầng lớp dân cư tạo nên nghèo đói tương đối. Nói cách khác, nghèo đói tương đối do sự bất bình đẳng về phân phối tạo ra. Hai phương pháp xác định nghèo đói ở Việt Nam: Ở Việt Nam: có 2 phương pháp xác định nghèo đói: + Phương pháp của Tổng cục Thống kê: xác định 2 ngưỡng nghèo: Ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm: là số tiền cần thiết để mua được một số lương thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng, tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần lương thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho một người là 2100 kcal/ngày đêm. Ngưỡng nghèo chung: bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương thực, tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, được xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho lương thực thực phẩm, 30% cho các khoản còn lại. + Phương pháp của Bộ Lao động – Thương binh Xã hội: hiện đang được áp dụng để xác định chuẩn nghèo của các chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia (chuẩn nghèo quốc gia). (Nghìn đồng/người/năm) Giai đoạn 2006-2010 Giai đoạn 2001-2005 Khu vực nông thôn 200 80-100 Khu vực thành thị 260 150 Phương pháp xác định chuẩn nghèo và thước đo đói nghèo: Phương pháp xác định chuẩn nghèo và đối tượng nghèo ở Việt Nam: Tại Việt nam ngưỡng nghèo được đánh giá thông qua chuẩn nghèo, dựa trên các tính toán của các cơ quan chức năng như Tổng cục Thống kê hay Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (MOLISA). Chuẩn nghèo theo Tổng cục Thống kê được xác định dựa trên cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới (WB), gồm hai mức: Nghèo lương thực thực phẩm: tổng chi dung chỉ tính riêng cho phần lương thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho 1 người là 2100kcal/ngày đêm. Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng hóa tối thiểu, được xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng cho lương thực thực phẩm, 30% cho các khoản chi còn lại. Chuẩn nghèo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội được xác định một cách tương đối bằng cách làm tròn số và áp dụng cho từng khu vực và vùng miền khác nhau (nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn đồng bằng, thành thị) Theo cách tính này thì mức thu nhập bình quân đầu người ở các hộ khu vực nông thôn nước ta được quy ra tiền để xác định ranh giới giữa những hộ giàu và hộ nghèo như sau: Loại hộ nghèo: có mức thu nhập bình quân dưới 50.000 đ/người/tháng. Hộ đói dưới 30.000 đ/người/tháng. Loại hộ dưới trung bình: có thu nhập bình quân từ 50.000-70.000đ/người/tháng. Loại hộ trung bình: có mức thu nhập bình quân đầu người từ 70.000-125.000đ/người/tháng. Loại hộ trên trung bình: có mức thu nhập bình quân đầu người từ 123.000-250.000đ/người/tháng. Loại hộ giàu: có thu nhập từ 250.000đ/người/tháng trở lên. Sau một thời gian, căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế, tại thông báo số 1751/LĐ-TB&XH của Bộ Lao động – Thương binh & xã hội ban hành ngày 20/05/1997 thì chuẩn mực về đói nghèo được quy định lại như sau: Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân theo đầu người dưới 13kg gạo/tháng, tương đương 45.000đ/tháng đối với tất cả các vùng. Hộ nghèo: là hộ có mức thu nhập bình quân theo đầu người dưới 15kg gạo/tháng, tương đương 55.000đ/tháng ở khu vực nông thôn, miền núi. + 20kg gạo/người/tháng đối với khu vực nông thôn đồng bằng và trung du. + 25kg gạo/người/tháng đối với khu vực thành thị. Tại quyết định số 1143/2000 QĐLĐTBXH ngày 1/11/2000 của bộ trường Bộ LĐ-TBXH đã phê duyệt, chuẩn mực đói nghèo giai đoạn 2001-2005 theo mức thu nhập bình quan đầu người cho từng vùng cụ thể như sau: Vùng nông thôn miền núi hải đảo: 80.000đ/người/tháng tương đương 960.000đ/năm Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đ/người/tháng tương đương 1.200.000đ/năm Vùng thành thị: 150.000đ/người/tháng tương đương 1.800.000đ/năm Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định ban hành. Theo đó, người có thu nhập bình quân từ 200.000 đến 260.000 đồng/tháng là người nghèo. Ở nông thôn: mức thu nhập bình quân dưới 200.000 đồng/người/tháng (2,4 triệu đồng/người/năm) được coi là hộ nghèo. Ở thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân dưới 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3,12 triệu đồng/người/năm) được coi là hộ nghèo. Thước đo đói nghèo: Nghèo đói có nhiều thước đo và phương pháp đo lường, tùy theo mục đích và tính chất nghiên cứu. Có 3 thước đo cơ bản để đo lường nghèo: Tỷ lệ nghèo (Tỷ lệ đếm đầu HCR): Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa số người sống dưới chuẩn nghèo so với tổng dân số. Việc sử dụng chỉ số này rất cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo và những thành công trong mục tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế giới. Khoảng cách nghèo (Khoảng nghèo): Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo. Hay nói cách khác thì khoảng nghèo được tính là tổng các mức thiếu hụt của tất cả người nghèo trong nền kinh tế, nó cho biết chi phí tối thiểu để đưa tất cả người nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng nghèo, trong điều kiện mọi khoản chuyển giao đều được chuyển đến đúng đối tượng. Khi so sánh các nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm. Công thức tính khoảng nghèo: Khoảng nghèo = Trong đó: C là ngường nghèo, yi là thu nhập của người nghèo, HC là số người nghèo. Chỉ số nghèo khổ tổng hợp (HPI): Nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo khổ đa chiều của con người – là sự thiệt thòi (khốn cùng) theo 3 khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con người. Chẳng hạn đối với các nước đang phát triển, sự thiệt thòi đó là: Thiệt thòi xét trên khía cạnh cuộc sống lâu dìa và khỏe mạnh (tỷ lệ ngừi dự kiến không thọ quá 40 tuổi) Thiệt thòi về trí thức (tỷ lệ người lớn mù chữ) Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế (tỷ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế, nước sạch; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng) HPI – Chỉ số nghèo khổ tổng hợp là chỉ số đánh giá “nghèo khổ của con người” được Liên hợp quốc sử dụng. Giá trị HPI của một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh hưởng lên bao nhiêu phần dân số của nước đó. Đối với các nước đang phát triển HPI = P 1 : Xác Suất khi sinh không còn sống sót đến tuổi 40 (100 lần) P 2 : tỷ lệ mù chữ cho người lớn. P 3 : trung bình của dân số không được tiếp cận với nguồn nước được cải thiện và trọng lượng cho trẻ em dưới độ tuổi. α: 3 Các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo: Có thể phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo thành 3 nhóm chính: Các nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên: Các nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến nghèo đói như: Đất đai: là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo. Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít màu mỡ, phân tán… (như địa hình canh tác trên đồi núi ở vùng cao) dẫn đến năng suất cây trồng, vật nuôi thấp, ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người dân, dễ dẫn đến tình trạng nghèo đói. Khí hậu: nếu thời tiết, khí hậu không thuận lợi, thiên tai, hạn hán, bão lũ… thường xuyên xảy ra sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống, vì thế có thể dẫn đến đói nghèo. Vị trí địa lý: những nơi xa xôi, hẻo lánh, địa hình hiểm trở, núi cao, vực sâu… rất khó khăn trong giao thông, vận tải, thông tin liên lạc…, những vùng này gặp khó khăn về nhiều mặt, dẫn đến tình trạng đói nghèo diễn ra phổ biến. Các nhân tố thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội: Những nhân tố về điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng rất lớn tới tình trạng đói nghèo và xóa đói giảm nghèo đó là: Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước (về đất đai, tín dụng, việc làm, chi tiêu công, dịch vụ công, trợ cấp…), mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, sự quan tâm của chính quyền địa phương, tình trạng kinh tế của quốc gia, địa phương, đầu tư ban đầu trong viêc xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu (như giao thông, thủy lợi, điện…) là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến đói nghèo. Tình hình kinh tế chính trị của quốc gia: nếu bất ổn, lạm phát, thất nghiệp ở mức cao khiến sản xuất đình trệ, người lao động không có việc làm, không có thu nhập hoặc thu nhập rất thấp dẫn đến tình trạng nghèo đói. Số lượng, chất lượng lao động cũng tác động đáng kể đến thu nhập bình quân, do đó cũng tác động mạnh đến đói nghèo. Các yếu tố về nhân khẩu, phong tục tập quán, tôn giáo … cũng có những tác động nhất định đến tình trạng nghèo đói. Các nhân tố về điều kiện nội tại của các hộ đói nghèo: Tiềm lực kinh tế (vốn, tư liệu sản xuất), khả năng sản xuất kinh doanh của bản thân các hộ đói nghèo thấp. Lao động có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề thấp sẽ có ít cơ hội tìm được việc làm, mang lại thu nhập cao hơn. Quy mô hộ gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Khả năng tiếp cận những dịch vụ hỗ trợ sản xuất và đời sống (tín dụng, khuyến nông, phòng dịch, tiếp cận nguồn nước sạch, giống cây trồng mới, thủy lơi, phân bón…) của người nghèo còn rất hạn chế Người nghèo dễ bị tổn thương, rủi ro cao trong sản xuất kinh doanh và đời sống. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi lại những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất việc làm, thiên tai, mất mùa, tai nạn, bệnh tật…) Đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam: Tác động của đói nghèo đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam: Ngay từ khi Việt Nam giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định, đói nghèo như là một thứ “giặc”, cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm, nên đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, hướng đến một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nghèo đói trên diện rộng thường đi kèm với tỷ lệ thất nghiệp cao, cầu thị trường thấp, thu nhập bình quân đầu người thấp, mất cân đối về cơ cấu lao động theo độ tuổi, theo giới, dẫn đến suy giảm khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Nghèo đói đi kèm với sự phân hóa giàu nghèo trong dân cư, phân phối thu nhập không đồng đều giữa các nhóm dân cư, giữa các địa phương, vùng; mức độ hưởng thụ các dịch vụ xã hội cũng không đồng đều trong dân cư, gây nên sự suy giảm tính công bằng xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo còn gây nên tình trạng nền kinh tế phát triển thiếu cân đối trong một số ngành, lĩnh vực và giữa các địa phương, vùng miền, do đó nền kinh tế xã hội phát triển thiếu đồng bộ, bền vững. Nghèo đói đi kèm với dân trí thấp, việc tiếp cận thông tin, tiến bộ khoa học kỹ thuật rất hạn chế, do đó nghèo đói gây nên sự trì trệ, lạc hậu trong sản xuất, chênh lệch mức sống giữa nông thôn, thành thị ngày càng cao, gây trở ngại cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đảm bảo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, nghèo đói có mối liên quan mật thiết với tình trạng suy thoái môi trường. Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp, càng làm cho nghèo đói trở nên trầm trọng hơn và làm suy giảm sự phát triển bền vững của đất nước (Sự phát triển bền vững bao gồm 3 khía cạnh: Con người, Kinh tế, Môi trường) Vì vậy, có thể thấy nghèo đói là một trở ngại đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vấn đề xóa đói giảm nghèo đã và đang là một vấn đề cấp thiết của mỗi quốc gia và đặc biệt là những nước mà mức độ nghèo đói còn trầm trọng như ở Việt Nam. Nguyên nhân của đói nghèo ở Việt Nam: Ở Việt Nam, nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể phân thành 3 nhóm chủ yếu sau: Nhóm nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên: Khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khí khăn… đã và đang kìm hãm sản xuất, gây ra tình trạng đói nghèo cho địa phương, vùng, khu vực. Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo: Nguồn lực hạn chế, nghèo nàn: Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất. Do vẫn theo phương pháp sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất của các loại cây trồng vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường. Và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó. Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; nhiều yếu tố đầu vào sản xuất như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón… đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập/1 đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, việc thiếu các thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp luật, chính sách và thị trường, đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định: Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, do vậy không có điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi tình trạng nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dướng con cái… Các thế hệ hiện tại và tương lai đều khó thoát khỏi tình trạng nghèo. Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Người nghèo, đồng bảo dân tộc thiểu số, các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vưỡng mắc có liên quan đến vấn đề pháp luật. Các nguyên nhân về nhân khẩu học: Quy mô hộ gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lap động của họ rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác. Nhóm các nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm… Chính sách trong giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư còn hạn chế. Nhóm nguyên nhân này có thể chỉ rõ qua một số khía cạnh như sau: Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý: tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn thấp. Chưa chú trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý, khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; nhiều chính sách trợ cấp (như lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước…) không đúng đối tường làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa. Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự do hóa thương mại tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích các doạnh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động lại chưa được chú trọng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tạo việc làm chưa được quan tâm và tạo cơ hội phát triền. Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, năng lực sản xuất hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp nhỏ bị phá sản, đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, khiến không ít trong số họ phải gia nhập đội ngũ những người nghèo. Tăng trưởng kinh tế giúp xóa đói giảm nghèo trên diện rộng, song lại làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo, phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc, mức độ nghèo đói trở nên trầm trọng hơn. Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn. Vốn đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của nhân dân còn hạn chế. Công tác xóa đói giảm nghèo và các nhân tố ảnh hưởng Sự cần thiết của công tác xóa đói giảm nghèo: Xét tình hình thực tế, cùng với việc nước ta đang chuyển mình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thì sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra ngày càng sâu sắc và trên diện rộng. Nếu không tích cực xóa đói giảm nghèo để giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được những yếu tố tiến bộ của thời đại Do đó, trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước ta đã xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình xóa đói giảm nghèo. XĐGN không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần mà là vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng. Thực hiện thành công chương trình XĐGN không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập chính đáng cho người dân, mà còn tạo nền tảng, cơ sở cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. XĐGN không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xóa hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xóa bỏ sự nghèo khổ, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn mình. Do đó, XĐGN là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Công tác XĐGN phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước đối với công tác XĐGN. Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, Nhà nước chủ động điều tiết hợp lý các nguồn lực của toàn xã hội vào mục tiêu và hoạt động XĐGN. Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu như đầu tư hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội… để giúp đỡ, bảo vệ người nghèo. Duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường, nhưng không lọai trừ người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về kinh tế. Tổng quan về chương trình xóa đói giảm nghèo: Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam, giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Đói nghèo là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là một vấn đề xã hội nhạy cảm. Chương trình xóa đói giảm nghèo là một hệ thống các giải pháp xác định rõ vai trò của Nhà nước, của các tổ chức trong xã hội, trong việc phân phối hợp lý các hành động của mình để nâng cao mức sống cho người nghèo, tạo cho họ những cơ hội phát triển trong đời sống cộng đồng bằng chính lao động của bản thân họ. Mục tiêu, phương hướng, phạm vi, đối tượng, nhiệm vụ của công tác XĐGN: Mục tiêu: Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, hạn chế tái nghèo. Củng cố thành quả giảm nghèo, tạo cơ hội cho hộ đã thoát nghèo vươn lên khá giả Cải thiện điều kiện sống và sản xuất ở các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm hộ nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo Phương hướng: Xóa đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế Phát huy nguồn lực tại chỗ để người nghèo, xã nghèo vươn lên, tự xóa đói giảm nghèo. XĐGN gắn với công bằng xã hội, ưu tiên giải quyết cho xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người, vùng căn cứ cách mạng. Thực hiện xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo. Phạm vi: Chương trình được thực hiện trong phạm vi cả nước, trong những năm đầu tập trung ưu tiên các xã nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Đối tượng: Bao gồm những người nghèo, xã nghèo, những hộ thuộc diện chính sách, hộ thuộc diện định canh định cư, đồng bào dân tộc ít người, các xã thuộc khu vực 3. Nhiệm vụ: Làm chuyển biến trong toàn Đảng, toàn dân về chủ trương XĐGN Phát triển tổng hợp nguồn nhân lực. Thực hiện những ưu tiên về xã hội cần thiết cho việc XĐGN ở những vùng đặc biệt khó khăn, với các đối tượng đặc biệt. Đi đôi với việc hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế khuyến khích người dân làm giàu hợp lý, coi 1 bộ phận dân cư giàu lên là cần thiết cho sự phát triển chung. Thực hiện lồng ghép chương trình XĐGN với các chương trình kinh tế xã hội khác. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác XĐGN: Công tác xóa đói giảm nghèo có phát huy được hiệu quả hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Có thể kể đến một số yếu tố cơ bản sau: Các nhân tố thuộc về mặt khách quan: Khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn… là những nguyên nhân gây trở ngại và làm giảm hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo. Người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, phong tục tập quán lạc hậu, khả năng tiếp cận những dịch vụ hỗ trợ sản xuất và đời sống (tín dụng, khuyến nông, phòng dịch, tiếp cận nguồn nước sạch, giống cây trồng mới, thủy lơi, phân bón…) còn rất hạn chế, do đó cũng làm giảm hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo, thành quả đạt được cũng khó có thể đạt được mức tối đa, triệt để. Các nhân tố thuộc về mặt chủ quan: Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước (về đất đai, tín dụng, việc làm, chi tiêu công, dịch vụ công, trợ cấp…), mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, sự quan tâm của chính quyền địa phương… là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến công tác XĐGN. Vốn đầu tư, cơ cấu đầu tư XĐGN là một yếu tố quan trọng trong công tác XĐGN. Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự do hóa thương mại tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế, xây dựng thị trường sản xuất và lưu thông hàng hóa đối với những vùng nghèo cũng có vai trò quan trọng nâng cao hiệu quả của công tác XĐGN. Sự đồng bộ giữa chính sách tăng trưởng kinh tế và XĐGN là một yếu tố rất quan trọng. Do tăng trưởng kinh tế và XĐGN có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc chặt chẽ và là động lực của nhau trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Do đó, những chính sách tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với công tác XĐGN và cần được chú trọng. Các hoạt động của công tác XĐGN và các chương trình lồng ghép với chương trình XĐGN: Các hoạt động của chương trình XĐGN: 1, Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo: Mục tiêu: cung cấp tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh với lãi suát thấp, không phải thế chấp cho ngân hàng. 2, Chính sách hỗ trợ người nghèo về ytế. Mục tiêu: trợ giúp người nghèo trong khám chữa bệnh bằng các hình thức nhu mua thẻ BHYT, cấp thẻ và giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí, khám chữa bệnh từ thiện nhân đạo... Chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người nghèo. Nội dung: Cung cấp trang thiết bị, cung ứng thuốc cho tuyến y tế cơ sở ở các huyện nghèo, khuyến khích và tăng cường cán bộ ytế cơ sở để nâng cao chất lượng phục vụ. Bảo đảm tài chính để hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua điều chỉnh, phân bố ngân sách y tế giữa các tỉnh, điều tiết và điều chỉnh các mức thu viện phí giữa người giàu, người có khả năng kinh tế ,người nghèo... Huy động cộng đồng trong việc xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo, quỹ bảo trợ người nghèo, bữa ăn nhân đạo, khám chữa bệnh nhân đạo, khuyến khích các đội y tế lưu động phục vụ vùng cao, vùng sâu, biên giới hải đảo, xác định trách nhiệm của người nghèo trong phòng bệnh, tự bảo vệ chăm lo sức khoẻ và chia sẻ một phần kinh phí trong khám chữa bệnh. 3, Chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục: Mục tiêu: Bảo đảm cho con em tất cả các hộ nghèo có các điều kiện cần thiết trong học tập. Giảm sự chênh lệch về môi trường trong học tập và sinh hoạt trong các nhà trường ở thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa vùng khó khăn với vùng có điều kiện phát triển. Nội dung: Miễn giảm học phí và các khoản đòng góp xây dựng trường, lớp, hỗ trợ vở viết sách giáo khoa, cấp học bổng cho học sinh tiểu học loại quá nghèo, khuyến khích học sinh nghèo học khá, học giỏi bằng các giải thưởng, học bổng và các chế độ ưu đãi khác. Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường dân tộc nội trú để đào tạo các cán bộ cho các xã đặc biệt khó khăn. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tình nguyện tham gia giúp người nghèo nâng cao trình độ học vấn, tổ chức các hình thức giáo dục phù hợp để xoá mù chữ và ngăn chặn tình trạng tái mù như các lớp bổ túc văn hoá, lớp học tình thương, lớp học chuyên biệt. 4, Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn. Mục tiêu: Hỗ trợ các gia đình đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn nhằm ổn định cuộc sống, hỗ trợ phát triển sản xuất, thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu, từng bước hướng dẫn đồng bào dân tộc tiếp cận phương thức sản xuất mới, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững. Nội dung: Hỗ trợ các đồng bào dân tộc đặc biệt ._.khó khăn ổn định cuộc sống, lương thực cứu đói, quần áo chống rét, chăn màn, dụng cụ gia đình, hỗ trợ làm giếng nước hoặc nước tự chảy cho 1 nhóm hộ gia đình. Hỗ Trợ các gia đình dân tộc đặc biệt khó khăn phát triển sản xuất để tự đảm bảo cuộc sống. Về nông nghiệp: Chọn và đưa giống cây mới có năng suất cao cho đồng bào, khuyến khích thâm canh tăng vụ lúa nước, lúa nương. Tăng cưòng và khuyến khích phát triển đàn gia súc, gia cầm, vật nuôi phù hợp với trình độ của các hộ gia đình. Hưóng dẫn kỹ thuật, khuyến khích khai hoang ruộng đồng, mở rộng diện tích canh tác. Về lâm nghiệp: Hỗ trợ khoanh nuôi, bảo vệ rừng, hỗ trợ công cụ sản xuất, thuốc bảo vệ thực vật, mở rộng diện tích trồng rừng, trồng cây công nghiệp, vườn đồi tập làm kinh tế VAC. 5, Chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo. Mục tiêu: Tạo điều kiện cho người nghèo nắm được những kiến thức phổ thông về pháp luật để phát huy được vai trò của mình trong đời sống kinh tế -xã hội. Nhận thức được đầy đủ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong gia đình và xã hội. Nội dung: Ban hành pháp lệnh về trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật. Phát hành sổ tay trợ giúp pháp lý cho các chuyên viên và cộng tác viên, phát hành tờ gấp pháp lý để hỗ trợ cho các tỉnh để tuyên truyền, phổ biến và giải đáp pháp luật. Tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ trợ giúp pháp lý cấp TW, tỉnh, huyện, xã. Trợ giúp pháp lý ở 61 tỉnh thành, trợ giúp các vụ việctư vấn pháp lý. 6, Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế. Mục tiêu: Hỗ trợ trực tiếp cho những người bị rủi ro do thiên tai, bão lụt, để ổn định cuộc sống. Hỗ trợ nhóm người yếu thế (người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật...) ổn định cuộc sống, từng bước hoà nhập xã hội . Nội dung: Trợ giúp các đối tượng yếu thế (có khả năng làm việc) về học nghề, toạ việc làm, tự đảm bảo cuộc sống. Hỗ trợ các vùng thiên tai phải di chuyển nhà, hỗ trợ điều kiện sản xuất để sớm ổn định cuộc sống. Trợ giúp di dân kịp thời, hỗ trợ cứu đói, hỗ trợ sửa chữa nhà đổ, sập, trôi, hư hỏng nặng, hỗ trợ gia đình có người chết, bị thương. Trợ cáp xã hội thường xuyên cho các đối tượng thuộc diện trợ cấp xã hội có hoàn cảnh khó khăn, nuôi dưỡng các đối tượng đặc biệt khó khăn. 7, Dự án hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng: Mục tiêu: phát triển hạ tầng cơ sở cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, hải đảo, ven biển. Hoàn thiện dần các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu như: thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, điện, đường giao thông, chợ; xây dựng các trung tâm cụm xã thành các thị tứ và trở thành nơi giao lưu văn hoá của nhân dân trong vùng tạo điều kiện cho người nghèo trong vùng tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản trong vùng. 8, Hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông -lâm-ngư, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn. Mục tiêu: Đào tạo cán bộ khuyến nông tỉnh, tập huấn cho các hộ nghèo cách làm ăn. Xây dựng và chuyển giao các mô hình hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề, định canh, định cư,di dân và kinh tế mới, phòng ngừa và giảm nhẹ rủi ro, thiên tai cho người nghèo trên cơ sở ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phù hợp với từng vùng. Hỗ trợ phát triển, xây dựng mô hình chế biến, bảo quản nông- lâm sản và nghề phi nông nghiệp. 9, Dự án định canh, định cư, di dân, kinh tế mới: Mục tiêu: Tiếp tục thực hiện phân bố dân cư, giải quyết việc làm, di dân xây dựng kinh tế mới nhằm thực hiện phát triển kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới, chấm rứt tình trạng du canh, du cư, hoàn thành cơ bản định canh, định cư. Sắp xếp ổn định di dân tự do và tiến tới kiểm soát và chấm rứt tình trạng di dân tự do. 10, Dự án hỗ trợ người nghèo về văn hoá thông tin: Mục tiêu: Hỗ trợ người nghèo cải thiện đời sống tinh thần, giúp người nghèo có được thông tin về kinh tế -xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống của họ và từng bước tiếp cận với đời sống văn hoá mới và duy trì văn hoá truyền thống. 11, Dự án đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo : Mục tiêu: Trang bị kiến thức và chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nội dung chương trình xoá đói giảm nghèo , những kỹ năng cơ bản trong tổ chức thực hiện và quản lý chương trình , những kiến thức cơ bản đối với đội ngũ cán bộ xoá đói giảm nghèo ở cấp xã về xây dựng kế hoạch, dự án và tổ chức triển khai thực hiện trên địa bàn nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ này. Các chương trình lồng ghép với chương trình XĐGN: 1, Chương trình giáo dục đào tạo; Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, hỗ trợ giáo dục miền núi và dân tộc (cung cấp sách giáo khoa cho học sinh), nâng cao cơ sở vật chất cho các trường học. 2, Chương trình ytế: Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là chữa các bệnh như sốt rét, bướu cổ, phong, lao, sốt xuất huyết cho nhân dân nói chung, trong đó phần lớn cho người nghèo, nâng cấp các trang thiết bị của các cơ sở y tế, xoá các xã trắng về y tế. 3, Chương trình phòng chống HIV/AIDS : Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là điều trị bệnh nhân lây nhiễm HIV/AIDS nói chung trong đó có người nghèo và đặc biệt là trẻ em mồ côi do cha mẹ chết vì AIDS. 4, Chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là cung cấp các phương tiện, dụng cụ tránh thai cho nhân dân nói chung và trong đó có người nghèo, xây dựng các trạm y tế xã. 5, Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là đảm bảo cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nói chung và trong đó có người nghèo, xây dựng các chương trình cung cấp nước sạch cho các xã nghèo. 6, Chương trình quốc gia về việc làm: Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là: Tham gia giải quyết việc làm cho những người nghèo không có việc làm. Đào tạo nghề miễn phí cho con em các hộ nghèo tại các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc khu vực Nhà nước quản lý. 7, Chương trình bảo vệ và chăm sóc trẻ em: Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là: Chăm sóc sức khoẻ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em. 8, Chương trình văn hoá: Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là: phát triển văn hoá thông tin cơ sở ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, bố trí cán bộ hoạt động văn hoá, trang bị sách báo và các phương tiện thông tin cho các xã nghèo. 9, Chương trình phủ sóng phát thanh và truyền hình. Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo cung cấp Tivi, rađiô cho các xã vùng cao biên giới, hải đảo và các hộ nghèo thuộc hộ chính sách, nâng cao dân trí và đời sống tinh thần cho người nghèo, người ở vùng sâu, vùng xa. 10, Chương trình phòng chống ma tuý. Có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo là chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở các xã nghèo, xoá bỏ trồng cây thuốc phiện và cai nghiện cho người nghèo. Đánh giá công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam Kết quả thực hiện: Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế theo mô hình phát triển toàn diện, đi đôi với tăng trưởng kinh tế phải đẩy mạnh giảm nghèo, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội trong quá trình phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách giàu, nghèo. Thực hiện chủ trương đó, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác xóa đói, giảm nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo của nước ta liên tục giảm qua các năm: Năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn khoảng 11% (theo Báo cáo của Chính phủ), so với 28,9% năm 2002, và 58,1% năm 1993 (theo chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê). Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã giảm nghèo cho hơn 42% dân số, tương đương với 35 triệu người. So với mục tiêu giảm 1/2 tỷ lệ hộ đói nghèo giai đoạn 1990 – 2015 thì Việt Nam đã về trước mục tiêu này và được cộng đồng quốc tế đánh giá là nước giảm tỷ lệ hộ đói nghèo tốt nhất. Theo chuẩn đói nghèo của Bộ LĐ-TBXH là hộ có thu nhập bình quân một tháng ở vùng miền núi hải đảo, trung du, đồng bằng đô thị lần lượt dưới 80 – 100 – 150 nghìn đồng cho thời kỳ 2001 – 2005 và dưới 200 – 260 nghìn đồng cho thời kỳ 2006 – 2010 thì thực trạng nghèo đói được thể hiện qua bảng sau: Tỷ lệ hộ nghèo một số năm theo chuẩn nghèo của Bộ LĐTBXH. (Đơn vị: %) Các vùng 2001 2002 2004 2006 2007 2008 2009 Cả nước 17,2 11,7 8,3 15,47 14,75 ≈13 ≈11 Đông Bắc 22,3 14,5 10,4 10,12 9,62 Tây Bắc 33,9 21,8 14,9 22,22 21,13 Đồng bằng sông Hồng 9,7 8,6 6,1 39,4 37,45 Bắc Trung bộ 25,6 17,0 13,2 26,58 25,51 Duyên Hải Miền Trung 22,3 13,2 9,6 17,18 16,26 Tây Nguyên 24,9 19,4 11,0 24,01 22,95 Đông Nam Bộ 8,8 6,9 2,3 4,56 4,33 ĐB sông Cửu Long 14,2 10,3 7,4 13,0 12,42 ( Nguồn: Bộ LĐTBXH “ Chiến lược Xoá đói giảm nghèo 2001 – 2010”; Tổng cục Thống kê). Hệ thống chính sách, cơ chế, giải pháp xoá đói giảm nghèo bước đầu được hoàn thiện và đi vào cuộc sống như: Tín dụng ưu đãi, hướng dẫn cách làm ăn, hỗ trợ về giáo dục, y tế, hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, định canh định cư, di dân, kinh tế mới... tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho xoá đói giảm nghèo và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các xã nghèo để phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Nhiều mô hình hộ gia đình, thôn, bản, xã, huyện xoá đói giảm nghèo có hiệu quả được nhân rộng như: Mô hình tiết kiệm tín dụng của hội phụ nữ, mô hình xoá đói giảm nghèo theo hướng tự cứu của các tỉnh miền trung; mô hình xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc ở Lai Châu, Điện Biên; mô hình phát triển cộng đồng gắn với xoá đói giảm nghèo ở Tuyên Quang, Thái Nguyên,Thừa Thiên -Huế; mô hình gắn kết với các hoạt động của Tổng công ty Tổng công ty thuốc lá, Cao su) với huyện, cụm xã phát triển sản xuất xoá đói giảm nghèo ở Cao Bằng, Ninh Thuận, Gia Lai, Kon Tum... Với kết quả nêu trên, chương trình xoá đói giảm nghèo đã được đánh giá là một trong những chương trình kinh tế xã hội có hiệu quả trong những năm qua; đồng thời Việt nam còn được cộng đồng quốc tế công nhận là một trong những nước giảm nghèo đói nhanh nhất và là điểm sáng về xoá đói giảm nghèo. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân: Tốc độ giảm nghèo không đồng đều: Từ bảng số liệu trên ta thấy, tiến bộ đạt được trong công tác xoá đói, giảm nghèo là không đồng đều: Những vùng núi cao, vùng sâu vùng xa, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số hộ đói nghèo tập trung tại các miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây Nguyên và Duyên Hải Miền Trung. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng này cao gấp từ 2 – 3 lần so với cả nước. Nguyên nhân chủ yếu là do đây là những vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém phát triển và thiếu đồng bộ nhất là kết cấu hạ tầng thiết yếu như: Nước sạch, y tế, giáo dục và đường dân sinh đến trung tâm xã. Bên cạnh đó, tỷ lệ nghèo ở các nhóm dân tộc ít người vẫn cao hơn nhiều so với mức nghèo của các nhóm người Kinh và Hoa. Những người nghèo đều sống ở các vùng nông thôn, với tỷ lệ nghèo đang tiếp tục giảm. Điều này trái ngược với mức nghèo hầu như vẫn giữ nguyên ở thành thị. Về tỷ lệ người nghèo thành thị không giảm, có nhiều nguyên nhân có thể giải thích hiện tượng này. Đó là do giá cả ngày càng tăng cao ở khu vực thành thị. Sự bùng nổ giá bất động sản làm tăng chi phí bán lẻ và các dịch vụ khác trong thành phố. Giá cả leo thang ở khu vực thành thị có thể dẫn đến mức sống thấp hơn cho những người mà thu nhập của họ không tăng theo một cách tương ứng. Ngoài ra, giá cả tăng có thể khiến cho những người cận nghèo bị tái nghèo. Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa bền vững: Nghèo đói ở nước ta phổ biến là trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp với điều kiện rất hạn chế (đất đai, lao động…). Hơn 90% số người nghèo ở nước ta sinh ra ở nông thôn, trình độ tay nghề thấp, ít có khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất như vốn, kỹ thuật, công nghệ… không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin nên rất khó có khả năng chuyển đổi về việc làm sang các ngành nghề phi nông nghiệp để có thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó, nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi ro của cuộc sống (ốm đau, thiên tai, mất mùa, biến động thị trường, môi trường ô nhiễm, mất đi người trụ cột của gia đình, thất nghiệp...) cũng vẫn rất lớn. Hệ thống an sinh xã hội chưa phát huy tác dụng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Mặt khác, có không ít hộ tuy không thuộc diện nghèo đói nhưng mức thu nhập không ổn định nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái đói nghèo (chiếm 70 – 80%), tỷ lệ người nghèo thoát nghèo rồi lại tái nghèo khoảng 7% đến 10%. Ngoài ra, nghèo đói có mối liên quan mật thiết với tình trạng suy thoái môi trường. Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp và càng làm cho nghèo đói trở nên trầm trọng hơn. Tốc độ giảm nghèo của nhóm dân tộc thiểu số còn chậm: Mặc dù số lượng hộ nghèo là dân tộc thiểu số đã giảm nhưng tỷ lệ trong tổng số hộ nghèo của cả nước vẫn tăng lên. Trong những năm qua, tỷ lệ nghèo ở các nhóm dân tộc ít người vẫn cao hơn rất nhiều so với người Kinh và người Hoa. Mức độ nghèo cũng trầm trọng hơn, thiếu đói vẫn là một vấn đề nan giải đối với một số dân tộc. Với khoảng 14% dân số, dân tộc ít người hiện nay đang chiếm khoảng 44% tỷ lệ nghèo và khoảng 59% tỷ lệ đói. Năm 2007, 52% đồng bào dân tộc ít người vẫn thuộc diện nghèo, so với chỉ có 10% người Kinh và người Hoa. Chỉ số khoảng cách nghèo, tức khoảng cách chi tiêu của một hộ gia đình người nghèo trong các nhóm dân tộc ít người luôn duy trì ở mức cao hơn. Nhóm dân tộc có tỷ lệ nghèo cao là Vân Kiều ( 60,3%), PaKô (58,5%) và H’mông (35%) vào năm 2006. Nhận thức về trách nhiệm đối với công tác xoá đói giảm nghèo ở 1 số địa phương, cơ sở còn chậm và chưa rõ, thiếu nhất quán nên việc điều hành, phối hợp còn lúng túng; công tác cán bộ chưa được coi trong đúng mức, nhất là ở cơ sở nên nhiều địa phương vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về năng lực. Một bộ phận người nghèo chưa nhận thức đúng về trách nhiệm của mình, thiếu quyết tâm vươn lên vượt qua đói nghèo. Nguồn lực đầu tư trực tiếp từ trung ương cho chương trình hàng năm còn hạn chế, chưa cân đối với mục tiêu chung giữa các vùng và nội dung của từng dự án; cấp vốn chưa đảm bảo được tiến độ thực hiện, Một số địa phương chưa huy động được nguồn lực tại chỗ cho xoá đói giảm nghèo, còn tư tưởng trông chờ vào sự hỗ trợ của trung ương. Một số chính sách, cơ chế vận hành chưa rõ hoặc bất hợp lý như: chính sách hỗ trợ về y tế thực hiện chưa hiệu quả do thiếu nguồn tài chính bảo đảm; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo còn gặp nhiều khó khăn, triển khai chậm do còn thiếu cơ chế chính sách hợp lý về chọn thầu, thiết kế; cơ chế quản lý tài chính của chương trình còn thiếu thống nhất; cơ chế lồng ghép các chương trình, dự án với mục tiêu xoá đói giảm nghèo chưa khả thi. Tính bền vững của xoá đói giảm nghèo chưa cao, một bộ phận dân cư có nguy cơ tái nghèo do sinh sống ở vùng thường xuyên bị thiên tai mất mùa, do thhiếu việc làm và việc làm không ổn định, thu nhập thấp, không có tích luỹ, mức sống cao không hơn nhiều so với chuẩn nghèo, trong khi hệ thống quỹ an sinh xã hội chưa được thiết lập. Công Tác điều tra, quản lý đối tượng hộ nghèo, xã nghèo, xây dựng chương trình còn nhiều bất cập, chưa được đầu tư nguồn lực đúng mức để thực hiện. Việc thực hiện nguyên tắc làm gì và đầu tư vào đâu phải suất phát từ nhu cầu của người dân vẫn còn mang tính hình thức ở không ít địa phương, chưa tạo được cơ hội cho người dân tham gia xây dựng kế hoạch, thực hiện và quản lý nguồn lực. Công tác xoá đói giảm nghèo trong những năm qua chưa được quan tâm đúng mức, chưa tạo điều kiện tối cần thiết cho xoá đói giảm nghèo ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng… ở những nơi này cơ sở hạ tầng còn yếu kém, háàu như chưa có, trình độ dân trí thấp nên chưa thể tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo có hiệu quả. Trong chỉ đạo thực hiện, chưa tạo lập được mô hình, một số mô hình đã có thì tổng kết, nhân rộng còn hạn chế. Đặc biệt là mô hình của chính người nghèo thì chưa được các địa phương chú ý xây dựng, rút kinh nghiệm nhằm giúp cho người nghèo có được các cơ hội tốt để tham gia vào nền kinh tế đang tăng trưởng. Một số bài học kinh nghiệm: - Cần có sự chuyển biến về nhận thức từ trong Đảng đến quần chúng, từ trung ương đến cơ sở về chủ trương xoá đói giảm nghèo. - Khi đã có chủ trương và nhận thức đúng đắn, cần phải có những giải pháp thích hợp, huy động được các nguồn lực một cách hợp lý và đồng bộ, tạo cơ chế chính sách cho công tác này. - Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến địa phương và lồng ghép các chương trình khác. - Phát huy vai trò của ngành lao động - thương binh và xã hội từ nghiên cứu đề xuất, tư vấn, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ và tạo nguồn hợp tác quốc tế. - Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, các hội nghề nghiệp vào hoạt động xoá đói giảm nghèo. - Phát huy nội lực là chính, song đồng thời không ngừng củng cố, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo. - Cần có sự quan tâm, đầu tư hợp lý một cách đồng đều, nhưng cũng cần chú trọng, ưu tiên những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Phần II: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN CỦA NGHÈO ĐÓI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN: Đặc điểm chung của tỉnh Điện Biên: Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội: Tiềm năng phát triển: Điện Biên là tỉnh miền núi cao, biên giới; là tỉnh duy nhất ở nước ta có đường biên giới với 2 quốc gia: Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và Trung Quốc. Tại đây có các cửa khẩu Tây Trang (đang được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế), cửa khẩu Pa Thơm, cửa khẩu Mường Lói, cửa khẩu A Pa Chải… Đây là những cửa khẩu quan trọng để tỉnh Điện Biên mở mang phát triển kinh tế và giao lưu với các nước. Điện Biên nằm cách thủ đô Hà Nội 500 km theo đường bộ, có cảng Hàng không Điện Biên Phủ đi Hà Nội và đã được Chính phủ cho phép mở đường bay tới một số nước trong khu vực như: Lào, Myanma, Cam Pu Chia. Điện Biên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng - an ninh, là đầu mối giao thông quan trọng giữa khu vực các tỉnh Tây Bắc, Việt Nam với các tỉnh Bắc Lào và Vân Nam Trung Quốc. Vị trí chiến lược của Điện Biên về quân sự và đầu mối giao thông đã được khẳng định trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, các tướng lĩnh Pháp đã xác định Điện Biên là cứ điểm quân sự có vị trí chiến lược quan trọng, và xây dựng Điện Biên thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Tỉnh Điện Biên gồm 1 thành phố (tỉnh lỵ), 1 thị xã và 7 huyện, được phân tách ra từ tỉnh Lai Châu (tỉnh có diện tích lớn nhất miền Bắc nước ta) từ năm 2005. Điện Biên có lợi thế lớn về tiềm năng đất đai, đặc biệt là diện tích đất chưa sử dụng còn rất lớn (trên 500.000 ha, chiếm 55% tổng diện tích tự nhiên). Đây chính là tiềm năng lợi thế lớn để tỉnh đầu tư phát triển lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc… Ngoài ra cánh đồng Điện Biên rộng lớn với đất đai màu mỡ, được coi là vựa lúa của vùng Tây Bắc, nếu được đầu tư thoả đáng và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật thì sẽ trở thành nơi sản xuất lúa gạo chất lượng cao của cả nước để xuất khẩu. Tại một số huyện của tỉnh có những thung lũng, đồng cỏ rộng lớn, khí hậu ôn hòa, rất thuận lợi để tập trung phát triển chăn nuôi các loại gia súc theo hướng kinh tế trang trại. Trên địa bàn tỉnh còn có rất nhiều di tích lịch sử có giá trị văn hoá, du lịch cao, trong đó đáng chú ý là di tích Điện Biên Phủ và nhiều danh lam thắng cảnh gắn với nền văn hoá truyền thống của các dân tộc anh em, đây là lợi thế lớn để tỉnh phát triển mạnh ngành du lịch, dịch vụ. Những khó khăn, trở ngại đối với tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên: Điện Biên gồm 1 thành phố (tỉnh lỵ), 1 thị xã và 7 huyện trong đó có 44 xã thuộc 4 huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50% (tính đến năm 2008). Trong những năm qua, công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Điện Biên đã được triển khai thực hiện một cách tích cực. Tuy nhiên, cho đến nay tỷ lệ nghèo đói của tỉnh vẫn còn rất cao vẫn rất cao so với tỷ lệ nghèo đói chung của cả nước (cao thứ 2 trong cả nước – theo số liệu Niên giám Thống kê 2008). Có rất nhiều khó khăn trở ngại đối với tỉnh Điện Biên trong việc phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, như: Vị trí địa lý, địa hình: Điện Biên là một tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Tây Bắc, miền Bắc Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội gần 500 km về phía Tây, có địa hình phức tạp, xen lẫn với các dãy núi cao là những thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc phân bổ khắp nơi trong địa bàn tỉnh. Từ thủ đô Hà Nội lên đến Điện Biên phải mất 10-12h đi ô tô, do đường núi hiểm trở, nhiều đèo dốc, sương mù, nhiều đoạn đường gập ghềnh, sạt lở… Thiên tai: Điện Biên có khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao, khí hậu có các đặc tính diễn biến bất thường, phân hoá đa dạng, lũ quét thường xảy ra bất ngờ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhiều bản làng vùng cao, mùa đông thường có sương muối, làm thiệt hại lớn đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi. Bên cạnh đó, còn xảy ra hiện tượng động đất, sạt lở núi… làm thiệt hại không nhỏ đến đời sống của người dân. Nhân khẩu: Tỉnh Điện Biên có 21 dân tộc sinh sống với tổng dân số khoảng 500.000 dân, chủ yếu là người Thái (~38%), tiếp đó là H'Mông (~30%) và Kinh (~20%), mỗi dân tộc lại có những phong tục, tập quán riêng, nên đôi khi rất khó khăn trong việc hài hòa về nhận thức và thực tiễn kinh tế xã hội. Các dân tộc thiểu số thường sống ở các thôn bản, xã huyện vùng cao, xa trung tâm thành phố, sản xuất và đời sống còn rất lạc hậu do nhận thức và năng lực của bản thân người dân tộc thiếu sự nhanh nhạy với những cái mới và sự phát triển, mặt khác, thông tin liên lạc, giao thông tới địa phương gặp rất nhiều khó khăn, bất cập. Điện Biên là một thành phố trực thuộc tỉnh còn rất non trẻ, đang bước đầu xây dựng và phát triển, với xuất phát điểm là một thị xã nhỏ miền núi cao, do đó, còn có rất nhiều khó khăn phải vượt qua trên chặng đường phía trước. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu đói nghèo và vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Điện Biên: Điện Biên là một tỉnh miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao thứ 2 trong cả nước. Việc nghiên cứu vấn đề nghèo đói và công tác xóa đói giảm nghèo đối với tỉnh Điện Biên là hết sức cần thiết, để các cơ quan chức năng có thể thấy rõ thực trạng, nguyên nhân của nghèo đói trên địa bàn tỉnh, từ đó có những hành động kịp thời nhằm hỗ trợ người nghèo, định hướng giải quyết vấn đề đói nghèo, tìm ra những biện pháp thiết thực xóa đói giảm nghèo, ngăn chặn tái nghèo; nâng cao ý thức của người dân và sự quan tâm của cộng đồng về vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo; đồng thời đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo bằng những chính sách, biện pháp thích hợp và hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế xã hội của tỉnh, xây dựng được kế hoạch xóa đói giảm nghèo với những mục tiêu hợp lý, những bước đi sát thực và hiệu quả để đạt được kết quả cao nhất, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước. Thực trạng đói nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên: Tỉnh Điện Biên có 44 xã thuộc 4 huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50%: Tủa Chùa, Mường Nhé, Mường Ảng, Điện Biên Đông. Ở các huyện này, trên 50% dân số chưa được sử dụng điện, nước sạch sinh hoạt; sản xuất nông nghiệp chậm phát triển, năng suất chỉ đạt trên 30 tạ/ha, thu nhập bình quân đạt 120 USD/năm. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách, dành nhiều nguồn lực để ưu tiên phát triển vùng này nhưng mức độ chuyển biến chậm, đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn. Có nhiều nguyên nhân, chủ yếu ở các huyện là do diện tích đất tự nhiên rộng, đất nông nghiệp chỉ chiếm 6%, trình độ sản xuất lạc hậu, kết cấu hạ tầng vừa thiếu, vừa yếu. Các nguồn hỗ trợ của Nhà nước đầu tư còn phân tán, thiếu đồng bộ, hiệu quả thấp; đội ngũ cán bộ cơ sở yếu, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó người dân ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước, cán bộ thiếu sự năng động, không phát huy nội lực và nỗ lực vươn lên, nhiều người không muốn vươn lên để thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo qua các năm: Bảng: Tỷ lệ hộ nghèo (Nghèo theo tiêu chuẩn của bộ LĐ.TB và XH) Năm Tỷ lệ hộ nghèo (%) Tỷ lệ hộ nghèo cả nước (%) 2005 44.06 22 2006 42.9 2007 40.77 2008 37.35 ≈ 13 2009 33.72 (Nguồn: Cục Thống kê Tỉnh Điện Biên) Tỷ lệ hộ nghèo có chiều hướng giảm dần qua các năm, tốc độ giảm tăng dần trong những năm gần đây. Đây là một kết quả đáng mừng. Tuy nhiên, theo Niên giám Thống kê 2008 của Tổng cục Thống kê, Điện Biên vẫn là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao thứ 2 trong cả nước (chỉ sau Lai châu). Năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của Điện Biên (44.06%) cao gấp đôi so với tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước (22%), đến cuối kỳ 2009, tỷ lệ này đã giảm đi hơn 10% (còn 33.72%), nhưng vẫn còn rất cao so với mức chung của cả nước, cao gấp hơn 2,5 lần tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước chung (≈ 13%), điều đó cho thấy tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn chậm hơn tốc độ giảm nghèo chung của cả nước. Kết cấu hạ tầng dịch vụ của các xã nghèo: Kết cấu hạ tằng, dịch vụ của xã, phường 2005 2006 2007 2008 2009 Bình quân 2006-2009 Dự báo 2010 Tổng số xã phường trên địa bàn 93 106 106 106 112 4.75 112 Trong đó: Số xã, phường thuộc diện nghèo đói(*) 68 68 73 73 77 3.15 77 Số xã, phường chưa có điện(*) 31 28 26 23 24 -6.20 16 Số xã, phường chưa có đường ôtô đến trung tâm(*) 3 3 0 0 4 7.45 3 Số UBND xã, phường chưa có điện thoại(*) 24 28 23 12 1 -35.00 0 Ghi chú: (*) Tăng do chia tách đ/vị hành chính Điện Biên có 44 xã thuộc 4 huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50%: Tủa Chùa, Mường Nhé, Mường Ảng, Điện Biên Đông. Ở các huyện này, trên 50% dân số chưa được sử dụng điện, nước sạch sinh hoạt; chưa được sử dụng điện thoại, vô tuyến. Giao thông tới các xã nghèo còn hết sức khó khăn, đường còn là đường đất, đá chưa được đầu tư làm đường hoặc bị sụt lở, xuống cấp nghiêm trọng do mưa lũ, thiên tai. Hệ thống thủy lợi chưa được đầu tư, xây dựng, việc tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp còn thủ công, nên hiệu quả sản xuất còn thấp, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, sông suối tự nhiên và sức người. Trường học, phòng khám đa khoa của xã chưa được xây dựng kiên cố, thiếu cơ sở vật chất phục vụ dạy, học, khám chữa bệnh. Một số trường lớp, cơ sở y tế được xây cấp 4, hoặc còn là nhà tranh tre, vách đất. Công tác XĐGN đang nỗ lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của các xã nghèo, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân nơi đây. Phân bố nghèo đói trên địa bàn tỉnh: Phân theo đơn vị hành chính (Thành phố, Thị xã, Huyện) Theo kết quả khảo sát hộ nghèo cuối kỳ năm 2009 trên địa bàn tỉnh Điện Biên, Sở Lao động – TB&XH tổng hợp được kết quả về sự phân bố đói nghèo trên địa bàn tỉnh như sau: (đồng thời so sánh với năm 2005) (Nguồn: Sở Lao động – TB&XH Tỉnh Điện Biên) STT Huyện, txã, tp Năm 2005 Năm 2009 Tăng, giảm (%) Tổng số hộ Hộ nghèo Tỷ lệ (%) Tổng số hộ Hộ nghèo Tỷ lệ (%) Chung toàn tỉnh 82.600 36.394 44.06 102.005 34.398 33.72 -10.34 1 TP Điên Biên Phủ 10.833 420 3.88 14.187 155 1.09 -2.78 2 Tx. Mường Lay 3.291 431 13.1 2.931 155 5.29 -7.81 3 H. Mường Nhé 6.129 4.624 75.44 9.591 5.614 58.53 -16.91 4 H. Mường Chà 7.477 3.425 45.81 9.539 5.336 55.94 10.13 5 Huyện Tủa Chùa 7.105 3.972 55.09 8.563 4.421 51.63 -4.28 6 Huyện Tuần Giáo 18.858 10.790 57.22 14.756 5.168 35.02 * 7 H. Mường Ảng 7.834 4.180 53.36 * 8 Huyện Điện Biên 21.435 8.467 39.5 24.961 4.565 18.29 -21.21 9 H.ĐiệnBiên Đông 7.472 4.265 57.08 9.643 4.804 49.82 -7.26 (* Huyện Mường Ảng chia tách từ huyện Tuần Giáo năm 2007) Hộ nghèo phân bố ở cả 9 đơn vị hành chính trên địa bàn tỉnh hiện nay. Khu vực thành phố, thị xã, hộ nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ (1.09% ở Tp. Điện Biên, 5.29% ở Tx. Mường Lay). Những huyện khác trong tỉnh tỷ lệ hộ nghèo khá cao và rất cao. Huyện Điện Biên và Tuần Giáo tỷ lệ này khá cao nhưng cũng có phần thấp hơn so với những huyện vùng sâu vùng xa khác. 4 huyện: Tủa Chùa, Mường Nhé, Mường Ảng, Điện Biên Đông có tỷ lệ hộ đói nghèo rất cao (trên 50%). Đây là những huyện xa, giao thông đến các huyện này còn rất khó khăn và là những huyện trọng tâm của đói nghèo, cần được đặc biệt quan tâm xóa đói giảm nghèo. Phân theo khu vực thành thị, nông thôn: Theo chuẩn nghèo mới, giai đoạn 2006-2010: khu vực nông thôn là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ 200.000đ/tháng trở xuống; khu vực thành thị 260.000đ/ tháng trở xuống thì Tỉnh Điện Biên có 36.394 hộ nghèo/ tổng số 82.600 hộ của toàn Tỉnh, tỷ lệ hộ nghèo 44,06%. Trong đó: + Khu vực thành thị có 1.065 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 6,33%/tổng số hộ dân thành thị và 1,29%/ tổng số hộ dân toàn Tỉnh. + Khu vực nông thôn có 35.911 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 54,59%/ tổng số hộ dân nông thôn và 43,48%/tổng số họ dân toàn Tỉnh. Phân theo thành phần dân tộc chủ yếu: Hộ nghèo là dân tộc Kinh có 2.152 hộ, chiếm 2,56%/ tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Hộ nghèo là dân tộc thiểu số có 34.242 hộ, chiếm tỷ lệ 41,45%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh. Trong đó: + Dân tộc Thái có 14.065 hộ nghèo, chiếm 41,07%/tổng số hộ nghèo là dân tộc thiểu số và chiếm 38,64%/tổng số hộ nghèo toàn Tỉnh; + Dân tộc H'mông có 11.980 hộ nghèo, chiếm 34,98%/ tổng số hộ nghèo là dân tộc thiểu số và chiếm 32,8\91%/ tổng số hộ nghèo toàn Tỉnh; + Các dân tộc thiểu số khác có 8.197 hộ nghèo, chiếm 23,93%/ tổng số hộ nghèo là dân tộc thiểu số và chiếm 22,52%/tổng số hộ nghèo toàn Tỉnh. Nguyên nhân của nghèo đói: Đói nghèo có nhiều nguyên nhân song ở tỉnh Điện Biên tập trung chủ yếu ở 1 số nguyên nhân sau: Nhóm nguyên nhân khách quan: Là một tỉnh miền núi có tỷ lệ đói nghèo cao thứ 2 trong cả nước, có 44 xã thuộc 4 huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50%, ở những xã này tuy đất đai rộng nhưng lại thiếu đất sản xuất cây lương thực (lúa nước, hoa màu...), lại thiếu nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất, do đó tưới tiêu rất khó khăn, hầu như phụ thuộc vào thiên nhiê._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25952.doc
Tài liệu liên quan